Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Bài tiểu luận triết học và vai trò của triết học đối với sự phát triển của khoa học kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.65 KB, 16 trang )

Đề tài: Triết học và vai trò của triết học đối với sự phát triển của khoa học kinh
tế.
Lời mở đầu
Triết học là khoa học của mọi thời đại. Kể từ khi ra đời, trải qua nhiều giai đoạn
lịch sử và đạt được những thành tựu rực rỡ, hệ thống tư tưởng triết học đã đạt được
hoàn thiện và phát triển. Triết học phản ánh sự phát triển của trí tuệ loài người,
thúc đẩy tư duy loài người, là vũ khí lý luận sắc bén cho sự phát triển đó. Ngày
nay, triết học thực sự trở thành khoa học, vì vậy ý nghĩa là sự phát triển cho đời
sống kinh tế xã hội ngày càng rõ nét hơn và được con người hoàn thiện hơn về tư
duy lý luận.
Trong điều kiện phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, sự phát triển về mặt
vật chất của đời sống xã hội, sự phát triển về kính tế.... cũng không làm giảm đi vai
trò thực tế của triết học, mà triết học luôn là ngọn đèn tư tưởng sáng suốt dẫn dắt
sự phát triển đó. Đồng thời sự phát triển kinh tế- xã hội cũng tác động trở lại khoa
học. Trải qua các hình thái phát triển kinh tế khác nhau trong lịch sử loài người,
triết học càng chứng minh được vai trò của mình trong việc của mình trong nền
kinh tế.
Với vai trò to lớn của triết học trong sự phát triển của đời sống kinh tế xã hội nói
chúng, và nền khoa học kinh tế nói riêng, tiều luận này đưa ra cơ sở lý luận và vai
trò của triết học đối với khoa học kinh tế.
Nội dung của bài tiểu luận gồm 3 phần:
I.
II.

Lời mở đầu
Nội dung

Chương 1: Triết học- một khoa học
1.1. Sự ra đời của triết học và định nghĩa triết học
1.1.1. Sự ra đời của triết học
1.1.2. Định nghĩa triết học


1.2. Triết học là một môn khoa học
1


1.2.1. Đối tượng của triết học
1.2.2. Phương pháp nghiên cứu
1.2.3. Các vấn đề cơ bản của triết học
1.2.4. Hệ thống phạm trù và các quy luật của triết học
Chương 2: Vai trò của triết học đối với sự phát triển của khoa học kinh tế
2.1. Cơ sở lý luận: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tình độ phát triển của
các lực lượng sản xuất
2.1.1. Lực lượng sản xuất
2.1.2. Quan hệ sản xuất
2.1.3. Quy luật về sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
2.2. Vai trò của triết học đối với khoa học kinh tế
III.

Kết luận

Chương 1: Triết học- một khoa học
1.1. Sự ra đời của triết học và định nghĩa triết học
2


1.1.1. Sự ra đời của triết học
Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn, nó có nguồn gốc nhận thức
và nguồn gốc xã hội.
Về nguồn gốc nhận thức, theo quan điểm của C.mác và Ph.Ăng ghen, lịch sử loài
người bắt đầu từ đâu thì tư duy con người bắt nguồn từ đó. Song, với tư cách là tri
thức lý luận chung nhất, triết học đồng loạt xuất hiện ở cả phương đông và phương

Tây vào khoảng thế kỷ VIII-VI trước Công Nguyên, khi chế độ chiếm hữu nô lệ ra
đời, trong xã hội hình thành chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, đã có giai
cấp và nhà nước. Hệ quả tất yếu của các yếu tố trên là lao động trí óc tách khỏi lao
động chân tay, tầng lớp trí thức ra đời. Họ có điều kiện nghiên cứu, hệ thống hóa
các quan điểm, quan niệm thành học thuyết, lý luận. Vào thời kỳ này, triết gia đã
xuất hiện và triết học được hình thành. Có thể kể đến một số các nhà triết học tiêu
biểu như Thales ở Hy Lạp, Khổng Tử ở Trung Quốc, Thích Ca Mâu Ni ở Ấn Độ.
Nói cách khác, triết học chỉ ra đời khi con người đạt đến trình độ trừu tượng hóa,
khái quát hóa, hệ thống hóa để xây dựng nên các học thuyết lý luận.
Sự ra đời của triết học gắn liền với nguồn gốc xã hội, tức là sự xuất hiện chế độ
chiếm hữu nô lệ - xã hội có giai cấp đầu tiên của nhân loại. Vào thời kỳ ấy, lao
động đã phát triển đến mức phải phân chia thành lao động trí óc và lao động chân
tay, chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, giai cấp và nhà nước lần lượt ra đời,
làm cho triết học tự nó mang cho mình tính giai cấp sâu sắc, nó công khai “tính
đảng” là phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những lực lượng xã hội nhất định.
Nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Sự
phân chia thành hai nguồn gốc như trên chỉ mang tính tương đối.
1.1.2. Định nghĩa triết học
Đã có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về triết học, nhưng đều bao hàm những
nội dung sau: “ Triết học nghiên cứu thế giới với tư cách là một chỉnh thể, tìm ra
những quy luật chung nhất chi phối sự vận động của một chỉnh thể nói chung, của
xã hội loài người của con người trong đời sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nói
riêng và thể hiện một cách có hệ thống dưới dạng duy lý.
Vậy triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về
vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
3


1.2. Triết học là một môn khoa học
1.2.1. Đối tượng của triết học

Khi mới xuất hiện, Triết học Cổ đại còn được gọi là Triết học tự nhiên - bao hàm
trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực, không có đối tượng riêng. Đây là nguyên
nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm sau này cho rằng Triết học là khoa học của
mọi khoa học.
Thời kỳ Trung cổ, ở Tây Âu khi quyền lực của giáo hội Thiên chúa bao trùm mọi
lĩnh vực đời sống xã hội thì Triết học trở thành một bộ phận của thần học. Triết học
chỉ có nhiệm vụ lý giải và chứng minh cho sự đúng đắn của nội dung trong kinh
thánh. Triết học tự nhiên bị thay thế bởi nền Triết học kinh viện.
Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIII, để đáp ứng yêu cầu của sản xuất công nghiệp, các
bộ môn khoa học chuyên ngành có tính chất là khoa học thực nghiệm đã ra đời với
tính cách là các khoa học độc lập. Triết học lúc này có tên gọi là Siêu hình học Khoa học hậu vật lý. Đối tượng của Triết học thời kỳ này là nghiên cứu cái ẩn dấu,
cái bản chất đằng sau các sự vật, hiện tượng “vật thể” có thể thực nghiệm được.
Triết học duy vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa học thực nghiệm đã phát triển
nhanh chóng, đạt tới đỉnh cao mới với các đại biểu như Ph. Bây cơn, T.Hốpxơ
(Anh), Diđrô, Hen Vêtiúyt (Pháp), Xpinôda (Hà Lan)...
Mặt khác, tư duy Triết học cũng được phát triển trong các học thuyết duy tâm mà
đỉnh cao là Triết học Hêghen. Song, cũng chính sự phát triển của các bộ môn khoa
học độc lập chuyên ngành cũng từng bước làm phá sản tham vọng của Triết học
muốn đóng vai trò “Khoa học của mọi khoa học”, mà Triết học Heghen là Triết học
cuối cùng mang tham vọng đó. Heghen xem Triết học của mình là một hệ thống
phổ biến của nhận thức, trong đó những ngành khoa học riêng biệt chỉ là những
mắt khâu phụ thuộc vào Triết học.
Đầu thế kỷ XIX, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, cùng với sự chuyển biến
tính chất từ khoa học thực nghiệm sang khoa học lý thuyết là cơ sở khách quan cho
triết học đoạn tuyệt triệt để với quan niệm “khoa học của mọi khoa học”. Triết học
Mác - Triết học duy vật biện chứng ra đời thể hiện sự đoạn tuyệt đó. Triết học Mác
xít xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện chứng và nghiên cứu những qui luật
chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
4



Do tính đặc thù của Triết học là xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm cách
đưa ra một hệ thống lý luận về chỉnh thể đó.Và điều đó chỉ thực hiện được bằng
cách tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học, lịch sử của bản thân tư tưởng Triết học.
Cho nên, vấn đề tư cách khoa học của Triết học và đối tượng của nó đã gây ra cuộc
tranh luận kéo dài cho đến hiện nay.
Tóm lại, cái chung trong các học thuyết Triết học từ cổ tới kim là nghiên cứu
những vấn đề chung nhất của giới tự nhiên, của xã hội và con người, mối quan hệ
của con người nói chung, của tư duy con người nói riêng với thế giới xung quanh.
1.2.2. Phương pháp nghiên cứu
Có một điều đặc biệt của Triết học đó là: đối với khoa học này, sự khác nhau về
phương pháp luận là cơ sở để phân biệt các trường phái triết học ( siêu hình hay
biện chứng), thể hiện tính khoa học hay phản động của hệ thống triết học. Nguyên
nhân của sự việc này xuất phát từ đối tượng của triết học, coi thế giới là một chỉnh
thể, nghiên cứu bao trùm thế giới: tự nhiên, xã hội và tư duy.
Triết học nghiên cứu thế giới bằng phương pháp của riêng mình, khác với các nền
khoa học khác. Nó xem xét thế giới như một chỉnh thể, và tìm cách đưa ra một hệ
thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Điều đó chỉ có thể thực hiện bằng cách tổng
kế toàn bộ lịch sử khoa học và lịch sử của bản thân Triết học.
1.2.3. Vấn đề cơ bản của triết học
Tất cả các hiện tượng trong vũ trụ chỉ có thể hoặc là hiện tượng vật chất, tồn tại
bên ngoài ý thức chúng ta, hoặc là hiện tượng tinh thần tồn tại bên trong ý thức
chúng ta. Có thể nói, bất cứ trường phái triết học nào cũng có cái chung đó là đề
cập đến và giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Vấn đề quan hệ giữa vật chất, và y thức, giữa tồn tại và tư duy hay giữa tự nhiên và
tinh thần là những vấn đề cơ bản của triết học. Đây là vấn đề cơ sở, nền tảng xuyên
suốt mọi học thuyết trong lịch sử triết học, quyết định sự tồn tại của triết học.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt. Mặt thứ nhất trả lời cho câu hỏi : giữa vật
chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Mặt

thứ hai trả lời cho câu hỏi: con người có khả năng nhận thức đc thế giới hay
không?
5


Tùy thuộc vào lời giải đáp cho câu hỏi thứ nhất, các nhà triết học hình thành hai
trường phái đối lập là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy tâm
cho rằng ý thức , tinh thần là cái có trước, là cơ sở tồn tại của thế giới tự nhiên, vật
chất. Chủ nghĩa duy vật khẳng định rằng: vật chất có trước, ý thức có sau; thế giới
vật chất tồn tại một cách khách quan, độc lập với ý thức con người và không do ai
sáng tạo ra;còn ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người.
Lịch sử triết học luôn luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng là chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, điều đó tạo nên động lực bên trong của sự
phát triển lịch sử triết học.
Đối việc giải quyết mặt thứ hai, đa số các nhà triết học của hai trường phái đều
khẳng định rằng con người có khả năng nhận thức thế giới. Các nhà triết học duy
vật tìm cơ sở của sự đồng nhất đó ở vật chất, còn các nhà triết học duy tâm tìm cơ
sở đó ở ý thức, tinh thần.
1.2.4. Hệ thống phạm trù và các quy luật của triết học
Mỗi bộ môn khoa học đều có những phạm trù của riêng mình, phản ảnh những
mặt, nhưng thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản, và phổ biến thuộc phạm vi khoa
học đó nghiên cứu.
Với các khoa học chuyên ngành, các phạm trù chỉ phản ánh mối liên hệ chung trên
một lĩnh vực nhất định của hiện thực thuộc phạm vi nghiên cứu của môn khoa học
đó. Khác với các khoa học chuyên ngành khác, trong khoa hóc Triết học, cụ thể là
phạm trù của phép duy vật biện chứng như vật chất, ý thức, vận động, đứng im,
mâu thuấn... là những khái niệm chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc
tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến không phải chỉ ở một lĩnh vực nào đó
của hiện thực, mà là toàn bộ thế giới bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Mọi sự
vật hiện tượng đều có nguyên nhân xuất hiện, đều quá trình vận động, biến đổi...

đều có những mặt, những thuộc tính những mỗi liên hệ được phản ánh trong các
phạm trù Triết học.
Triết học duy vật biện chứng ra đời, nó trở thành vũ khí lý luận sắc bén cho giai
cấp tiến bộ, nó là kết tinh mọi tinh hoa của tư tưởng nhân loại. Vì vậy, có thể coi
các quy luật cơ bản của triết học duy vật biện chứng là quy luật của khoa học Triết
học. Triết học duy vật biện chứng bao gồm 3 quy luật cơ bản sau:
6


- Quy luật mâu thuẫn: nói lên nguồn gốc của sự vận động, phát triển thế giới
- Quy luật phủ định của phủ định: nói lên con đường tất yếu của sự phát triển
Chương 2: Vai trò của triết học đối với sự phát triển của khoa học kinh tế
1.1.

Cơ sở lý luận: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tình độ phát
triển của các lực lượng sản xuất

1.1.1. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa người với giới tự nhiên . Trình độ
của lực lượng sản xuất , thể hiện trình độ trinh phục tự nhiên của loài người trong
quá trình tác động vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất đảm bảo cho sự tồn tại và
phát triển của loài người
Lực lượng sản xuất bao gồm :
- Tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra , trước hết là công cụ lao động.
-Người lao động với những kinh nghiệm sản xuất thói quen lao động , biết sử dụng
tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất.
-Tư liệu sản xuất bao gồm : - Đối tượng lao động và Tư liệu lao động :
Đối tượng lao động không phải là toàn bộ giới tự nhiên , mà chỉ có một bộ phận
của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất . Con người không chỉ tìm trong giới tự
nhiên những đối tượng lao động có sẵn , mà còn sáng tạo ra bản thân đối tượng lao

động.
Tư liệu lao động là vật thể hay phức hợp vật thể mà con người đặt giữa mình với
đối tượng lao động , chúng dẫn chuyền sự tác động của con người vào đối tượng
lao động. Đối tượng lao động và tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của quá
trình lao động sản xuất hợp thành tư liệu sản xuất . Đối với mỗi thế hệ mới những
tư liệu lao động do thế hệ trước để lại trở thành điểm xuất phát cho thế hệ tương lai
. Vì vậy những tư liệu lao động đó là cơ sở sự kế tục của lịch sử . Tư liệu lao động
chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biến đối tượng lao động , khi chúng kết hợp với
đời sống . Tư liệu lao động dù có ý nghĩa lớn lao đến đâu , nhưng nếu tách khỏi
người lao động thì cũng không thể phát huy được tác dụng , khồg thể trở thành lực
lượng sản xuất của xã hội.
7


Các yếu tố hợp thành lực lượng sản xuất thường xuyên có quan hệ chặt chẽ với
nhau . Trong sự phát triển của hệ thống công cụ lao động và trình độ khoa học-kĩ
thuật , kĩ năng lao động của con người đóng vai trò quyết định . Con người là nhân
tố trung tâm và là mục đích của nền sản xuất xã hội . Lênin viết : “Lực lượng sản
xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân , là người lao động “.
Do khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp mà thành phần con người cấu
thành lực lượng sản xuất cũng thay đổi . Người lao động trong lực lượng sản xuất
không chỉ gồm người lao động chân tay mà còn cả kĩ thuật viên , kĩ sư và cán bộ
khoa học phục vụ trực tiếp quá trình sản xuất.
1.1.2. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất xã hội là quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình
sản xuất và tái sản xuất xã hội : Sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng . Quan
hệ sản xuất bao gồm quan hệ kinh tế - xã hội và quan hệ kinh tế tổ chức . Quan hệ
sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật chất của xã hội , nó tồn tại khách quan , độc
lập với ý thức của con người . Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản của một
hình thái kinh tế xã hội . Một kiểu quan hệ sản xuất tiêu biểu cho bản chất kinh tế

xã hội nhất định.
Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt cơ bản sau :
- Quan hệ giữa người với người đổi việc về tư liệusản xuất.
- Quan hệ giữa người với người đổi việc tổ chức quản lý
- Quan hệ giữa người với người đổi việc phân phối sản phẩm lao động
Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau , trong đó quan hệ thứ nhất có ý nghĩa
quyết định đối với tất cả những mối quan hệ khác . Bản chất của bất kỳ quan hệ
sản xuất nào cũng đều phụ thuộc vào vấn đề những tư liệu sản xuất chủ yếu trong
xã hội được giải quyết như thế nào.
Có hai hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất :
+ Sở hữu tư nhân
+ Sở hữu xã hội
8


Những hình thức sở hữu đó là những quan hệ kinh tế hiện thực giữa người với
người trong xã hội . Đương nhiên để cho tư liệu sản xuất không trở thành “vô chủ”
phải có chính sách và cơ chế rõ ràng để xác định chủ thể sở hữu và sử dụng đối với
những tư liệu sản xuất nhất định.
Trong sự tác động lẫn nhau của các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất, quan hệ tổ
chức quản lý và quan hệ phân phối có vai trò quan trọng. Những quan này có thể
góp phần củng cố quan hệ sở hữu và cũng có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu.
Các hệ thống quan hệ sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử đều tồn tại trong một
phương thức sản xuất nhất định . Hệ thống quan hệ sản xuất thống trị mỗi hình thái
kinh tế xã hội ấy. Vì vậy khi nghiên cứu , xem xét tính chất của một hình thái xã
hội thì không thể nào nhìn ở trình độ của lực lượng sản xuất mà còn phải xem xét
đến tính chất của các quan hệ sản xuất .
Quan hệ kinh tế tổ chức xuất hiện trong quá trình tổ chức sản xuất . Nó vừa biểu
hiện quan hệ giữa người với người , vừa biểu hiện trạng thái tự nhiên kĩ thuật của
nền sản xuất . Quan hệ kinh tế tổ chức phản ánh trình độ phân công lao động xã hội

, chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất . Nó do tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất qui định.
1.1.3. Quy luật về sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất ,
chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau hình thành quy
luật phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người , quy luật về sự phù hợp quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất . Quy luật này vạch rõ tính
chất phụ thuộc khách quan của quan hệ sản xuất và phát triển của lực lượng sản
xuất . Đến lượt mình , quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất .
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất là quy luật cơ bản của sự phát triển xã hội loài người . Sự tác động
của nó trong lịch sử làm cho xã hội chuyển từ hình thái kinh tế xã hội thấp lên hình
thái kinh tế xã hội cao hơn.
- Những tác động của lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi và phát triển đều do lực lượng sản xuất
quyết định.
9


Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn, con
người luôn luôn tìm cách cải tiến, hoàn thiện công cụ lao động mới tinh xảo hơn.
Cùng với sự phát triển của công cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất, thói quen
lao động, kĩ năng sản xuất, kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ. Lực
lượng sản xuất trở thành yếu tố cách mạng nhất. Còn quan hệ sản xuất là yếu tố
tương đối ổn định, có khuynh hướng lạc hậu hơn là sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung của phương thức sản xuất, còn quan hệ sản
xuất là hình thái xã hội của nó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì
hình thức phụ thuộc nội dung, nội dung quyết định hình thức, nội dung thay đổi
trước, sau đó hình thức mới biến đổi theo.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình thành và

biến đổi phù hợp với tính chất và trình độ của của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp
đó là động lực sản xuất phát triển mạnh mẽ. Khi lực lượng sản xuất phát triển lên
một trình độ mới , quan hệ sản xuất cũ không còn phù hợp nũa nên buộc phải thay
thế bằng mối quan hệ mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất,
mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
- Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
Sự hình thành , biến đổi , phát triển của quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất . Nhưng quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà
lực lượng sản xuất dựa vào đó để phát triển , nó tác động trở lại đối với lực lượng
sản xuất:Có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất .
Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó
trở thành động lực cơ bản thúc đẩy mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển .
Ngược lại quan hệ sản xuất lỗi thời không còn phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất , bộc lộ mâu thuẫn gay gắt với lực lượng sản xuất thì trở
thành chướng ngại kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất . Song sự tác dụng
kìm hãm đó chỉ là tạm thời , theo tính chất tất yếu khách quan thì nó sẽ bị thay thế
bằng kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất . Sở dĩ quan hệ sản xuất có tác động mạnh mẽ đối với lực lượng sản xuất vì nó
quy định mục đích của sản xuất , quy định hệ thống của tổ chức , quản lý xã hội ,
quy định phương thức phân phối của cải ít hay nhiều mà người lao động được
hưởng . Do đó nó ảnh hưởng đến thái độ của lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội
10


( con người ) , nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến
công cụ lao động , áp dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật vào sản xuất , hợp
tác và phân công lao động . Mỗi kiểu quan hệ sản xuất là một hệ thống , một chỉnh
thể hữu cơ gồm ba mặt : Quan hệ sở hữu , quan hệ quản lý và quan hệ phân phối .
Chỉ trong chỉnh thể đó quan hệ sản xuất mới trở thành động lực thúc đẩy hành
động nhằm phát triển sản xuất.

- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất qua sự tác
động lẫn nhau.
Sự thống nhất và tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã
hội hợp thành phương thức sản xuất . Trong sự thống nhất biện chứng này , sự phát
triển của lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định đối với quan hệ sản xuất .
Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất . Lực lượng sản xuất thường xuyên vận động , phát triển nên quan hệ sản
xuất cũng luôn luôn thay đổi nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của lực lượng sản
xuất . Từ mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất làm
hình thành quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất . Đây là quy luật kinh tế chung của mọi phương thức
sản xuất .
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất là quy luật cơ bản của sự phát triển loài người . Sự tác động của nó
trong lịch sử làm cho xã hội chuyển từ hình thái kinh tế xã hội thấp lên hình thái xã
hội cao hơn.
1.2. Vai trò của triết học đối với sự phát triển của khoa học kinh tế
1.2.1. Triết học là cơ sở lý luận cho tư duy đúng đắn về kinh tế
Một trong những đối tượng nghiên cứu của triết học đó chính là mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên, giữa con người với nhau trong xã hội, trong sản xuất vật
chất. Quan hệ giữa con người với tự nhiên được biểu hiện trong lực lượng sản xuất.
Quan hệ giữa con người với nhau trong xã hội được biểu thị thông quan quan hệ
sản xuất. Đây là hai mối quan hệ cơ bản nhất của con người. Do đó, để phát triển
kinh tế, phải có tư duy đúng đắn về kinh tế. Tư duy về kinh tế muốn đúng đắn phải
dựa trên một thế giới quan khoa triết học.
11


Vấn đề kinh tế được Mác- Lê nin nghiên cứu thông qua dưới góc độ lịch sử, dưới
những phương thức sản xuất lịch sử. Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa

lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Tỏng đó, lực lượng sản xuất là hình thức
xã hội của nó. Như vậy, theo triết học Mác- Lê nin thì muốn phát triển một phương
thức sản xuất trước hết phải phát triển lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất theo
quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử là sự kết hợp hữu cơ giữa người lao động
với tư liệu sản xuất, mà trước hết là công cụ lao động để tạo ra sức sản xuất nhất
định. Từ đây cho thấy, để phát triển kinh tế, trước hết phải tập trung vào phát triển
nhân tố người lao động và sau đó là công cụ lao động. Nếu người lao động không
được giải phóng, không có sức khoẻ, không có trình độ học vấn, không có kinh
nghiệm, kỹ năng lao động, v.v. thì dù công cụ lao động có hiện đại chăng nữa, lực
lượng sản xuất cũng không thể phát triển được. Ngược lại, nếu người lao động có
sức khoẻ, có trình độ, có tay nghề, có kinh nghiệm, kỹ năng lao động, nhưng công
cụ lao động thô sơ, lạc hậu thì lực lượng sản xuất cũng không thể phát triển. Như
vậy, kinh tế cũng không thể phát triển. Do đó, muốn phát triển kinh tế phải có được
những chính sách phù hợp để giải phóng người lao động nhằm giải phóng sức sản
xuất. Đồng thời, phải đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng,
kinh nghiệm lao động cho họ. Không những thế mà còn phải có được những chính
sách khích lệ được sự hăng say, tính tích cực, lòng nhiệt tình, sự cần cù, chịu khó,
sự sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và biết phát huy có hiệu quả công cụ lao động hiện
có của người lao động. Nghĩa là phải tạo được sự kết hợp tối ưu giữa người lao
động có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động với công cụ lao động. Chỉ có như
vậy mới có thể phát huy tối đa vai trò của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh
tế. Đồng thời phải có chiến lược phát triển giáo dục đào tạo, khoa học, công nghệ
hợp lý. Phát triển giáo dục,đào tạo, trực tiếp bồi dưỡng, phát triển nguồn lực con
người, là đào tạo người lao động, trực tiếp góp phần phát triển lực lượng sản xuất.
Phát triển khoa học, công nghệ là tr ực tiếp góp phần phát triển công cụ lao động,
cải tiến, nâng cao, hoàn thiện và chuyển giao công nghệ sản xuất,v.v..Phát triển
khoa học công nghệ còn góp phần phát triển tư liệu sản xuất, như tạora các nguồn
nguyên, nhiên, vật liệu mới, nhân tạo không có sẵn trong tự nhiên cho sản xuất.
Trên cơ sở đó góp phần làm cho tri thức khoa học ngày càng tr ởthành lực lượng
sản xuất trực tiếp. Phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ còn góp phần

nâng cao hiệu quả, tính khoa học của quá trình quản lý sản xuất; trên cơ sở đó, góp
phần phát triển kinh tế. Đương nhiên, những điều này chỉ mới là những điều kiện
cần cho sự phát triển kinh tế. Để những điều này hậu thuẫn tốt cho sự phát triển
12


kinh tế trên thực tế cònđòi hỏi phải biết tổ chức, quản lý sản xuất một cách hợp lý;
giải quyết tốt mối quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất và quan hệ phân phối sản
phẩm được sản xuất ra. Rõ ràng là, triết học không trực tiếp tạo ra của cải vật chất,
nhưng triết học khoa học, đúng đắn sẽ cung cấp cơ sở lý luận, phương pháp luận
khoa học cho cho sự phát triển tư duy về kinh tế một cách đúng đắn, khoa học; trên
cơ sở đó góp phần phát triển lực lượng sản xuất nói riêng, kinh tế nói chung.
Đương nhiên, cơ sở lý luận, phương pháp luận triết học đúng đắn còn phải được
nhận thức đúng và vận dụng vào thực tiễn phát triển kinh tế sáng tạo, phù hợp thực
tiễn thì mới mang lạihiệu quả thiết thực.Thực tế lịch sử đã chứng minh những điều
này. Chẳng hạn, chính cuộc "cách mạng" trong quản lý kinh tế do các chủ nô dân
chủ, tiến bộ khởi xướng ở Hy Lạp, La Mã vào thế kỷ II, III, nhằm giải phóng người
nô lệ với tư cách người sản xuất chính trong xã hội khi ấy đã hậu thuẫn cho
phương thức sản xuất phong kiến ra đời. Bởi lẽ, sự đánh đập nô lệ một cách dã
man, sự đối xử hà khắc với họ chỉ như đối với công cụ lao động biết nói đã làm
cho nô lệ đốt, phá hoại mùa màng, công cụ sản xuất, bỏ trốn, v.v. dẫn tới sức sản
xuất bị kìm hãm, kinh tế không phát triển. Để giải phóng sức sản xuất, một số chủ
nô dân chủ, tiến bộ đã thay đổi tư duy về kinh tế, trước hết là thay đổi cách quản lý
nô lệ, không đánh đập mà "khoán" sản phẩm trên đơn vị đất canh tác. Do được "tự
do" canh tác, không bị giám sát, đánh đập nên người nô lệ đã “phấn khởi” làm
việc. Hơn nữa, nếu chăm chỉ làm việc, sản phẩm vượt mức khoán thì nô lệ được
hưởng. Đây chính là mầm mống của địa tô và đồng thời là chất “men” giải phóng
sức sản xuất, hậu thuẫn cho phương thức sản xuất phong kiến ra đời. Thời kỳ Phục
hưng ở châu Âu cũng cho thấy, không phải ngẫu nhiên mà chủ nghĩa nhân đạo lại
ra đời vào thời kỳ này. Đó là do nhu cầu giải phóng con người nhằm giải phóng

sức sản xuất đòi hỏi. Nếu con người không được tự do đi lại, tự do làm giàu, tự do
bán sức lao động, v.v. thì nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa không thể ra đời
và phát triển. Cũng không phải ngẫu nhiên mà thuyết Nhật tâm lại ra đời vào thời
kỳ này và sau Côpécníc, Brunô, Galilê lại xuất hiện Lêôna đơ Vanhxi nhà cơ học,
kỹ thuật, có thể nói như vậy, đầu tiên của nhân loại. Chính sự ra đời của cơ học đã
hậu thuẫn cho sự phát triển của nền sản xuất cơ khí tư bản chủ nghĩa. Hơn nữa,
thuyết Nhật tâm ra đời là nhằm đánh đổ thuyết Địa tâm- một học thuyết không
khoa học cản trở sự phát triển của khoa học và kinh tế. Không phải ngẫu nhiên mà
trong Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Những ai phỉ báng
triết học nhiều nhất lại chính là những kẻ nô lệ của những tàn tích thông tục hoá,
tồi tệ nhất của những học thuyết triết học tồi tệ nhất”
13


1.2.2. Thế giới quan triết học khoa học là cơ sở phương pháp luận để nhận
thức và vận dụng sáng tạo, đúng đắn các quy luật kinh tế.
Mỗi hệ thống triết học đều nhằm trang bị cho chủ thể một cơ sở phương pháp luận
cho việc nhận thức và trên cơ sở đó, vận dụng các quy luật kinh tế. Chẳng hạn, đối
với triết học Mác- Lênin, trang bị phương pháp tư duy biện chứng duy vật để giúp
con người nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế một cách khách quan, khoa
học hơn. Nhờ phương pháp tư duy biện chứng duy vật mà chúng ta hiểu được rằng,
các quy luật kinh tế cũng giống như các quy luật khác, chẳng hạn quy luật của tự
nhiên là ở tính khách quan của chúng. Nghĩa là các quy luật kinh tế tồn tại, vận
động, phát triển một cách khách quan, tuân theo những quy luật vốn có của nó,
không phụ thuộc vào mong muốn chủ quan của con người. Nhưng, khác với các
quy luật tự nhiên, các quy luật kinh tế còn mang tính xã hội. Chúng chỉ tồn tại, vận
động và phát triển trên cơ sở các hoạt động kinh tế của con người. Do đó, con
người không thể "sáng tạo" ra các quy luật kinh tế cũng như tuỳ tiện xoá bỏ chúng.
Nhưng, con người là chủ thể hoạt động kinh tế có ý thức, có lợi ích, v.v.. Vì vậy,
thông qua các hoạt động kinh tế của mình, con người có thể tác động để các quy

luật kinh tế có thể nhanh diễn ra, hoặc chậm diễn ra. Điều này có ý nghĩa phương
pháp luận rất quan trọng trong việc lý giải tại sao một số nước có thể thực hiện
chiến lược "đi tắt, đón đầu" trong phát triển kinh tế, cũng như thực hiện quá độ lên
một phương thức sản xuất nào đó trên cơ sở bỏ qua một giai đoạn phát triển nhất
định dưới góc độ kinh tế. Đương nhiên, để thực hiện được “đi tắt, đón đầu”, hay
“rút ngắn” trong quá trình phát triển thì đòi hỏi phải có nhiều điều kiện khách
quan và chủ quan khác nhau. Nhưng, vai trò của triết học Mác- Lênin là ở chỗ, nó
trang bị cho chúng ta phương pháp tư duy biện chứng duy vật - công cụ quan
trọng để giúp nhận thức và vận dụng sáng tạo các quy luật kinh tế.Phương pháp tư
duy biện chứng duy vật cũng cho phép chúng ta cắt nghĩa sự phát triển của phương
thức sản xuất là do những mâu thuẫn bên trong phương thức sản xuất ấy quy định.
Đặc biệt là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Mâu thuẫn này
được giải quyết sẽ thúc đẩy phương thức sản xuất phát triển tiến bộ hơn. Sự phát
triển từ phương thức sản xuất này lên phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn là quá
trình lịch sử tự nhiên. Đặc trưng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi,
phát triển và bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi, phát triển của lực lượng sản xuất.
Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản xuất
hiện tồn. Khi lực lượng sản xuất mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất hiện tồn
14


thì quan hệ sản xuất hiện tồn này sẽ trở thành lực cản đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất nói riêng và kinh tế nói chung. Nghĩa là quan hệ sản xuất hiện tồn
không còn phù hợp với lực lượng sản xuất đó nữa. Phương pháp tư duy biện chứng
duy vật cũng chỉ ra rằng, theo quy luật kinh tế khách quan, quan hệ sản xuất luôn
phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất không phù
hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, nó sẽ kìm hãm lực lượng sản xuất phát
triển, nghĩa là kìm hãm kinh tế phát triển. Quan hệ sản xuất không phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất cả trong trường hợp nó lạc hậu hoặc vượt quá xa so
với trình độ của lực lượng sản xuất. Dấu hiệu phù hợp của quan hệ sản xuất với

trìnhđộ của lực lượng sản xuất được biểu hiện ở năng suất lao động tăng; người lao
động được đào tạo và đào tạo lại; đời sống người lao động được đảm bảo; môi
trường sản xuất được cải thiện; công cụ, máy móc, dây chuyền sản xuất được đầu
tư cải tiến v.v.. Phương pháp tư duy biện chứng duy vật cũng chỉ ra rằng, mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là tất yếu khách quan; sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất bao giờ cũng hàm
chứa những yếu tố phá vỡ sự phù hợp; khi có dấu hiệu của sự không phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất thì phải giải quyết kịp thời.
Nếu quan hệ sản xuất thuộc về giai cấp thống trị đã lỗi thời trong xã hội và lợi ích
của giai cấp này không còn phù hợp với lợi ích của sự phát triển xã hội, thì mâu
thuẫn này phải được giải quyết thông qua cách mạng xã hội. Nếu quan hệ sản xuất
thuộc về giai cấp tiến bộ, đại diện cho sự phát triển xã hội thì giai cấp đócần phải
chủ động thay đổi, hoàn thiện quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất; đổi mới
quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất cũng như quan hệ phân phối sản phẩm
1.2.3. Thế giới quan triết học là cơ sở cho việc hoạch định đúng đắn các chính
sách kinh tế
Từ việc áp dụng khoa học triết học để nhận thức và vận dụng sáng tạo các quy luật
kinh tế, con người đưa ra những hoạch định chính sách kinh tế phù hợp. Minh
chứng sáng tỏ nhất trong việc vận dụng khoa học triết học vào khoa học kinh tế đó
chính là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta, công cuộc công nghiệp
hoa, hiện đại hóa đất nước gắn với nền kinh tế hàng hoa nhiều thành phần.
Kết luận:

15


Triết học là hạt nhân lý luận thế giới quan của con người. Thế giới quan triết học
như thế nào sẽ quy định các quan điểm kinh tế, xã hội như thế ấy. Do vậy, triết học
khoa học, đúng đắn có vai trò quan trọng trọng trong việc phát triển xã hội nói
chung, và sự phát triển của khoa học kinh tế nói riêng. Vận dụng thế giới quan triết

học làm cơ sở lý luận cho khoa học kinh tế là kim chỉ nam cho định hướng phát
triển kinh tế của từng thời kỳ. Việc vận dụng thế giới quan triết học làm cơ sở đúng
đắn cho kinh tế, để vận dụng sáng tạo các quy luật kinh tế cần phải vận dụng các
quy luật cơ quản của triết học. Tuy nhiên, trong bài viết ngắn gọn này, không đề đề
cập hết tất cả các quy luật và sự vận dụng của nó đối với phát triển kinh tế.
Kính mong nhận được sự góp ý của thầy cô để bài viết được hàn thiện hơn!

16



×