Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Triết học và vai trò của triết học đối với sự phát triển của khoa học kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.49 KB, 17 trang )

Họ và tên: Phạm Thị Phương Dung
Lớp: CH26P cuối tuần.
Mã sinh viên: CH 260352
Môn: Triết học
Giáo viên hướng dẫn: TS. Lê Ngọc Thông

1


Đề bài: Triết học và vai trò của triết học đối với sự phát triển của khoa học kinh tế?
Bài làm
1. Triết học là gì?
Triết học là hệ thống những tri thức chung nhất của con người về thế giới (tự nhiên,
xã hội, tư duy); về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, về vị trí và vai trò của con người
trong thế giới.
Triết học là khoa học về các quy luật chung nhất trong sự tồn tại và vận động của tự
nhiên, xã hội, tư duy; hạt nhân lý luận thế giới quan của con người. Thế giới quan triết
học như thế nào sẽ quy định quan điểm kinh tế, chính trị, văn hóa, nghệ thuật, đạo đức
như thế. Vì vậy, triết học khoa học có vai trò hết sức to lớn với sự phát triển của xã hội
nói chung và kinh tế nói riêng.
2.
-

Đặc điểm của triết học:
Triết học mang tính hệ thống
Tính lý luận cao
Có sự phân biệt giữa triết học và tôn giáo
Chức năng của triết học: 2 chức năng chính là thế giới quan và phương pháp luận.
+ Chức năng thế giới quan là chức năng nhận thức và giải thích thế giới hình thành

nên hệ thống quan điểm, tri thức về thế giới về: Nguồn gốc, bản chất, sự tồn tại, xu


hướng vận động của thế giới khi nâng thành lý luận tạo ra lý luận về bản thể hay bản
thể luận; Nguồn gốc bản chất, quá trình, kết quả của sự nhận thức khi nâng thành lý
luạn sẽ tạo nên nhận thức luận; Nguồn gốc bản chất, quá trình, xu hướng xã hội, nâng
thành lí luận sẽ tạo nên xã hội luận; Nguồn gốc, bản chất, mục đích, ý nghĩa, phương
châm, lý tưởng sống của con người, khi nâng thành lý luận sẽ tạo nên nhân sinh luận.
+ Chức năng phương pháp luận: Triết học là lý luận về phương pháp, từ những nội
dung của triết học mà chỉ ra những con đường, biện pháp, giải pháp là quan trọng hơn cả

2


chỉ ra các nguyên tắc để chỉ đạo có tính bắt buộc đối với hoạt động thực tiễn và hoạt động
nhận thức của con người.
3. Vai trò của triết học đối với sự phát triển của khoa học kinh tế?
Khi nói đến vai trò của triết học chúng ta thường nói đến vai trò thế giới quan và
phương pháp luận của nó. Vai trò thế giới quan của triết học được thể hiện ở chỗ nó cung
cấp cho chúng ta cách lí giải về thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó. Như
vậy, triết học sẽ cung cấp cho chúng ta cách nhìn tổng quát về thế giới nói chung và về xã
hội loài người nói riêng. Triết học không chỉ làm nhiệm vụ lý giải những vấn đề của thế
giới nói chung và của xã hội loài người nói riêng, mà còn trên cơ sở của sự lí giải ấy, nó
trở thành cái định hướng cho con người trong hành động. Vì vậy, một triết học khoa học
sẽ giúp con người có sự định hướng đúng đắn trong hành động. Lịch sử phát triển của
khoa học đã chỉ ra rằng mỗi nhà khoa học, dù có tuyên bố hay không tuyên bố, đều chịu
chi phối bởi một loại thế giới quan hay một hệ thống các quan điểm triết học nhất định.
Nhờ đứng trên quan điểm triết học đúng đắn, nhiều nhà khoa học đã đưa ra những phỏng
đoán thiên tài mà sau nhiều năm đã được khoa học xác nhận. Chẳng hạn, nhờ có quan
điểm duy vật biện chứng, F.Engen đã đưa ra nhiều phỏng đoán có giá trị trong tác phẩm
"Biện chứng của tự nhiên" và cho đến nay hầu hết các phỏng đoán đó đã được khoa học
tự nhiên xác nhận. Hoặc vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX những thành tựu nổi bật
của vật lý học đã dẫn đến cái gọi là cuộc khủng hoảng trong khoa học tự nhiên và là

nguồn gốc nhận thức luận của chủ nghĩa duy tâm vật lý học. Nhờ có thế giới quan duy
vật biện chứng mà Lênin đã vạch ra thực chất của cuộc khủng hoảng trong khoa học tự
nhiên, đồng thời vạch ra cho các nhà khoa học tự nhiên con đường thoát khỏi cuộc khủng
hoảng đó.
Trong thực tiễn xã hội, chúng ta khó có thể kể hết vai trò thế giới quan và phương
pháp luận to lớn của triết học đối với xã hội. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng nhiều
hệ thống triết học đã từng đóng vai trò thế giới quan và phương pháp luận cho những

3


cuộc cách mạng vĩ đại. Vai trò của triết học được thể hiện ở chức năng thế giới quan và
phương pháp luận của nó:
- Thế giới quan triết học với tư cách cơ sở lý luận cho tư duy đúng đắn về kinh tế;
- Thế giới quan triết học với tư cách cơ sở phương pháp luận để nhận thức và vận
dụng sáng tạo, đúng đắn các quy luật kinh tế;
- Thế giới quan triết học khoa học với tư cách cơ sở lý luận cho việc hoạch định đúng
đắn các chính sách kinh tế;
- Thế giới quan triết học khoa học với tư cách cơ sở phương pháp luận cho việc hình
thành văn hóa kinh doanh đúng đắn để trên cơ sở đó góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển;
a. Thế giới quan triết học khoa học - cơ sở lý luận cho tư duy đúng đắn về kinh tế
Triết học có đối tượng nghiên cứu của mình là mối quan hệ của con người với tự
nhiên và quan hệ của con người với nhau trong xã hội, đặc biệt là quan hệ của con người
với con người trong sản xuất vật chất. Quan hệ của con người với tự nhiên được biểu thị
cô đọng nhất thông qua lực lượng sản xuất. Quan hệ của con người với nhau trong xã
hội được biểu thị cô đọng, cơ bản nhất thông qua quan hệ sản xuất. Có thể nói, đây là
hai mối quan hệ cơ bản nhất của con người.
Lực lượng sản xuất là khái niệm dung để chỉ mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên trong quá trình sản xuất vật chất. Lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực tế của
con người trong quá trình sản xuất vật chất xã hôi, nó cũng nói lên trình độ chinh phục tự

nhiên của con người.
Quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản của xã hội, là cơ sở của các quan hệ xã hội
khác. Tính lặp lại hợp quy luật trong sự phát triển đa dạng của các nước khác nhau – tiêu
chuẩn thật sự khách quan để phân biệt xã hội này với xã hội khác. Quan hệ sản xuất phù
hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Toàn bộ quan hệ sản
xuất tạo thành một kết cấu kinh tế của xã hội là cơ sở thực tại – cơ sở hạ tầng.

4


Do vậy, để phát triển kinh tế thì phải có tư duy về kinh tế một cách đúng đắn. Tư
duy về kinh tế muốn đúng đắn phải dựa trên một thế giới quan triết học khoa học.
Phương thức sản xuất lại là sự thống nhất hữu cơ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất. Trong đó, lực lượng sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội
của nó. Phương thức sản xuất là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dung để chỉ cách
thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất trong những giai đoạn lịch sử nhất
định của xã hội loài người. Mỗi một hình thái kinh tế xã hội có một phương thức sản xuất
đặc trưng của nó. Như vậy, theo triết học Mác - Lênin, muốn phát triển một phương thức
sản xuất thì trước hết phải tập trung vào phát triển lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất
là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong quá trình sản
xuất, bao gồm người lao động và tư liệu sản xuất, khoa học đã phát triển đến mức trở
thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất và đời sống, khoa
học trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp” . Từ đây cho thấy, để phát triển kinh tế, trước
hết phải tập trung vào phát triển nhân tố người lao động và sau đó là công cụ lao động.
Nếu người lao động không được giải phóng, không có sức khoẻ, không có trình độ học
vấn, không có kinh nghiệm, kỹ năng lao động, … thì dù công cụ lao động có hiện đại
chăng nữa, lực lượng sản xuất cũng không thể phát triển được. Ngược lại, nếu người lao
động có sức khoẻ, có trình độ, có tay nghề, có kinh nghiệm, kỹ năng lao động, nhưng
công cụ lao động thô sơ, lạc hậu thì lực lượng sản xuất cũng không thể phát triển khiến
kinh tế cũng không thể phát triển. Do đó, muốn phát triển kinh tế phải có được những

chính sách phù hợp để giải phóng người lao động nhằm giải phóng sức sản xuất. Đồng
thời, phải đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng, kinh nghiệm lao
động cho họ. Không những thế mà còn phải có được những chính sách tạo sự hăng say,
tính tích cực, lòng nhiệt tình, sự cần cù, chịu khó, sự sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và biết
phát huy có hiệu quả công cụ lao động hiện có của người lao động. Nghĩa là phải tạo
được sự kết hợp tối ưu giữa người lao động có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động
với công cụ lao động. Chỉ có vậy mới có thể phát huy tối đa vai trò của lực lượng sản
xuất trong phát triển kinh tế. Đồng thời phải có chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo,
khoa học - công nghệ hợp lý. Phát triển giáo dục - đào tạo là trực tiếp bồi dưỡng, phát

5


triển nguồn lực con người, là đào tạo người lao động, là trực tiếp góp phần phát triển lực
lượng sản xuất. Phát triển khoa học, công nghệ là trực tiếp góp phần phát triển công cụ
lao động, cải tiến, nâng cao, hoàn thiện và chuyển giao công nghệ sản xuất... Phát triển
khoa học - công nghệ còn góp phần phát triển tư liệu sản xuất, như tạo ra các nguồn
nguyên, nhiên, vật liệu mới, nhân tạo không có sẵn trong tự nhiên cho sản xuất. Trên cơ
sở đó góp phần làm cho tri thức khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp. Phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ còn góp phần nâng cao hiệu quả,
tính khoa học của quá trình quản lý sản xuất; trên cơ sở đó, góp phần phát triển kinh tế.
Đương nhiên, những điều này chỉ mới là những điều kiện cần cho sự phát triển kinh tế.
Để những điều này hậu thuẫn tốt cho sự phát triển kinh tế trên thực tế còn đòi hỏi phải
biết tổ chức, quản lý sản xuất một cách hợp lý; giải quyết tốt mối quan hệ sở hữu đối với
tư liệu sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm được sản xuất ra. Rõ ràng là, triết học
không trực tiếp tạo ra của cải vật chất, nhưng triết học khoa học, đúng đắn sẽ cung cấp cơ
sở lý luận, phương pháp luận khoa học cho cho sự phát triển tư duy về kinh tế một cách
đúng đắn, khoa học; trên cơ sở đó góp phần phát triển lực lượng sản xuất nói riêng, kinh
tế nói chung. Đương nhiên, cơ sở lý luận, phương pháp luận triết học đúng đắn còn phải
được nhận thức đúng và vận dụng vào thực tiễn phát triển kinh tế sáng tạo, phù hợp thực

tiễn thì mới mang lại hiệu quả thiết thực. Đối với người lao động, nếu người quản sự đối
xử hà khắc với họ chỉ như đối với công cụ lao động biết nói đã làm chohọ không có trách
nhiệm, ko có mong muốn làm tốt công việc,... dẫn tới sức sản xuất bị kìm hãm, kinh tế
không phát triển. Để giải phóng sức sản xuất, một số công ty đã tiến bộ thay đổi tư duy
về kinh tế, trước hết là thay đổi cách quản lý, khoán sản phẩm trên đơn vị. Do được tự do,
không bị giám sát, được tôn trọng nên người lao động đã phấn khởi và có trách nghiệm
hơn trong công việc. Hơn nữa, nếu chăm chỉ làm việc, sản phẩm vượt mức khoán thì
người lao động được hưởng. Đây chính là mầm mống và đồng thời là giải phóng sức sản
xuất, hậu thuẫn cho phương thức sản xuất ra đời. Thời kỳ Phục hưng ở châu Âu cũng cho
thấy, không phải ngẫu nhiên mà chủ nghĩa nhân đạo lại ra đời vào thời kỳ này. Đó là do
nhu cầu giải phóng con người nhằm giải phóng sức sản xuất đòi hỏi. Nếu con người
không được tự do đi lại, tự do làm giầu, tự do bán sức lao động, …thì nền kinh tế hàng

6


hóa tư bản chủ nghĩa không thể ra đời và phát triển. Không phải ngẫu nhiên mà trong
Biện chứng của tự nhiên Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Những ai phỉ báng triết học nhiều
nhất lại chính là những kẻ nô lệ của những tàn tích thông tục hoá, tồi tệ nhất của những
học thuyết triết học tồi tệ nhất”
b. Thế giới quan triết học khoa học - cơ sở phương pháp luận để nhận thức và
vận dụng sáng tạo, đúng đắn các quy luật kinh tế
Mỗi hệ thống triết học đều nhằm trang bị cho chủ thể một cơ sở phương pháp luận
cho việc nhận thức và trên cơ sở đó, vận dụng các quy luật kinh tế. Chẳng hạn, đối với
triết học Mác - Lênin, trang bị phương pháp tư duy biện chứng duy vật để giúp con người
nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế một cách khách quan, khoa học hơn. Nhờ
phương pháp tư duy biện chứng duy vật mà chúng ta hiểu được rằng, các quy luật kinh
tế cũng giống như các quy luật khác, chẳng hạn quy luật của tự nhiên là ở tính khách
quan của chúng. Phép biện chứng duy vật là hệ thống các nguyên lý, phạm trù, quy luật
cơ bản của phép biện chứng và lý luận nhận thức duy vật biện chứng. Quy luật chuyển

hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại; quy luật thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập; quy luật phủ định của phủ định; Nghĩa là các quy
luật kinh tế tồn tại, vận động, phát triển một cách khách quan, tuân theo những quy luật
vốn có của nó, không phụ thuộc vào mong muốn chủ quan của con người. Nhưng, khác
với các quy luật tự nhiên, các quy luật kinh tế còn mang tính xã hội. Chúng chỉ tồn tại,
vận động và phát triển trên cơ sở các hoạt động kinh tế của con người. Do đó, con người
không thể "sáng tạo" ra các quy luật kinh tế cũng như tuỳ tiện xoá bỏ chúng. Nhưng, con
người là chủ thể hoạt động kinh tế có ý thức, có lợi ích, ... Vì vậy, thông qua các hoạt
động kinh tế của mình, con người có thể tác động để các quy luật kinh tế có thể nhanh
diễn ra, hoặc chậm diễn ra. Điều này có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng trong
việc lý giải tại sao một số nước có thể thực hiện chiến lược đi tắt, đón đầu trong phát triển
kinh tế, cũng như thực hiện quá độ lên một phương thức sản xuất nào đó trên cơ sở bỏ
qua một giai đoạn phát triển nhất định dưới góc độ kinh tế. Đương nhiên, để thực hiện
được “đi tắt, đón đầu”, hay “rút ngắn” trong quá trình phát triển thì đòi hỏi phải có nhiều

7


điều kiện khách quan và chủ quan khác nhau. Nhưng vai trò của triết học Mác - Lênin là
ở chỗ, nó trang bị cho chúng ta phương pháp tư duy biện chứng duy vật - công cụ quan
trọng để giúp nhận thức và vận dụng sáng tạo các quy luật kinh tế. Phương pháp tư duy
biện chứng duy vật cũng cho phép chúng ta cắt nghĩa sự phát triển của phương thức sản
xuất là do những mâu thuẫn bên trong phương thức sản xuất ấy quy định. Đặc biệt là mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Mâu thuẫn này được giải quyết sẽ
thúc đẩy phương thức sản xuất phát triển tiến bộ hơn. Sự phát triển từ phương thức sản
xuất này lên phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn là quá trình lịch sử - tự nhiên. Đặc
trưng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi, phát triển và bao giờ cũng bắt đầu từ
sự biến đổi, phát triển của lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất
dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện tồn. Khi lực lượng sản xuất mâu thuẫn gay
gắt với quan hệ sản xuất hiện tồn thì quan hệ sản xuất hiện tồn này sẽ trở thành lực cản

đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng và kinh tế nói chung. Nghĩa là quan
hệ sản xuất hiện tồn không còn phù hợp với lực lượng sản xuất đó nữa. Phương pháp tư
duy biện chứng duy vật cũng chỉ ra rằng, theo quy luật kinh tế khách quan, quan hệ sản
xuất luôn phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Sự vận động, phát triển của
các hệ thống kinh tế xã hội là do sự tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng giữa:
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ
của lực lượng sản xuất, nó sẽ kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển, nghĩa là kìm hãm
kinh tế phát triển. Quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất cả
trong trường hợp nó lạc hậu hoặc vượt quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất. Dấu
hiệu phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất được biểu hiện ở
năng suất lao động tăng; người lao động được đào tạo và đào tạo lại; đời sống người lao
động được đảm bảo; môi trường sản xuất được cải thiện; công cụ, máy móc, dây chuyền
sản xuất được đầu tư cải tiến ... Phương pháp tư duy biện chứng duy vật cũng chỉ ra rằng,
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là tất yếu khách quan; sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất bao giờ cũng hàm chứa những
yếu tố phá vỡ sự phù hợp; khi có dấu hiệu của sự không phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ của lực lượng sản xuất thì phải giải quyết kịp thời. Nếu quan hệ sản xuất

8


thuộc về giai cấp thống trị đã lỗi thời trong xã hội và lợi ích của giai cấp này không còn
phù hợp với lợi ích của sự phát triển xã hội, thì mâu thuẫn này phải được giải quyết thông
qua cách mạng xã hội. Nếu quan hệ sản xuất thuộc về giai cấp tiến bộ, đại diện cho sự
phát triển xã hội thì giai cấp đó cần phải chủ động thay đổi, hoàn thiện quan hệ sở hữu
đối với tư liệu sản xuất; đổi mới quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất cũng như quan hệ
phân phối sản phẩm. Chỉ có như vậy mới đảm bảo sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ của lực lượng sản xuất, nghĩa là thúc đẩy cả lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản
xuất phát triển; và trên cơ sở đó, thúc đẩy kinh tế phát triển. Nhưng phương pháp tư duy
biện chứng duy vật cũng chỉ ra rằng, không thể nóng vội xây dựng quan hệ sản xuất mới

khi chưa tạo ra được lực lượng sản xuất mới, cũng không thể tuỳ tiện xoá bỏ quan hệ sản
xuất hiện tồn khi nó còn hậu thuẫn cho lực lượng sản xuất phát triển. Trước đổi mới
(1986), do chưa nhận thức và vận dụng đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất cùng với việc mắc “những khuyết điểm và sai lầm
chủ quan” không thừa nhận kinh tế nhiều thành phần cũng như “sai lầm lớn về tổ chức
thực hiện”, nên chúng ta đã không giải phóng được sức sản xuất. Điều này đã được Đại
hội VI của Đảng chỉ rõ: “Trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thực
sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian
tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”. Những sai lầm chủ quan do không
nhận thức đúng và vận dụng đúng quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất ở nước ta trước đổi mới đã gây ra những hậu quả đáng tiếc cho sự phát triển kinh
tế, đồng thời cũng là những minh chứng thực tiễn sinh động cho thấy vai trò của triết học
đối với kinh tế. Những sai lầm thực tiễn ấy cũng đã chỉ cho chúng ta rõ, lực lượng sản
xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ
sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Phương pháp tư duy biện chứng duy vật xuất phát từ quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất cũng chỉ ra rằng, sự phát
triển kinh tế nhiều thành phần ở những nước có điều kiện như Việt Nam là hoàn toàn
đúng quy luật, là tất yếu khách quan. Tính tất yếu này được quy định bởi nhiều nguyên

9


nhân. Nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là trình độ lực lượng sản xuất của những nước
này vừa chưa phát triển, còn yếu kém, lại vừa không đồng đều. Chính sự không đồng đều
của trình độ lực lượng sản xuất đã quy định tính không thuần nhất của quan hệ sở hữu đối
với tư liệu sản xuất; quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất cũng như quan hệ phân phối sản
phẩm, nói khác đi là quan hệ sản xuất. Chỉ có phát triển nhiều loại hình quan hệ sản xuất
tương ứng với các trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất thì mới giải phóng triệt để

sức sản xuất, thúc đẩy kinh tế phát triển. Như vậy, để mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất không diễn ra gay gắt, chủ thể hoạt động kinh tế luôn phải chủ động
điều chỉnh, hoàn thiện quan hệ sản xuất sao cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản
xuất. Để làm tốt điều này, chủ thể hoạt động kinh tế phải được trang bị phương pháp tư
duy biện chứng duy vật. Phương pháp tư duy biện chứng duy vật còn giúp cho chủ thể
hoạt động kinh tế trong khi giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất sẽ không hy sinh cái này cho cái kia và ngược lại, mà cùng với phát triển lực lượng
sản xuất phải thường xuyên đổi mới, hoàn thiện quan hệ sản xuất. Đương nhiên, có
phương pháp tư duy biện chứng duy vật chưa đủ mà quan trọng hơn là, các chủ thể còn
phải biết vận dụng đúng nó trong phát triển kinh tế. Thực tiễn phát triển kinh tế của một
số quốc gia đã cho thấy, nếu chính sách phát triển chỉ vì kinh tế đơn thuần, hay vì mục
tiêu lợi nhuận đơn thuần, con người trong quá trình phát triển kinh tế nhất định sẽ phải trả
giá. Để điều này không xảy ra thì các chính sách kinh tế phải được hậu thuẫn bởi một thế
giới quan triết học khoa học đúng đắn.
c. Thế giới quan triết học khoa học - cơ sở lý luận cho việc hoạch định đúng
đắn các chính sách kinh tế
Bản thân các chính sách kinh tế, nếu vì mục đích tự thân, nhất định sẽ dẫn tới kết
cục phản kinh tế, làm cho kinh tế không thể phát triển bền vững. Để tăng trưởng kinh tế
gắn với việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội nhằm tạo ra môi trường phát triển bền vững
cần phải có hệ chính sách tổng hợp, mang tính chất kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô. Dựa trên
nền tảng cơ sở của thế giới quan triết học khoa học, chủ thể lãnh đạo, quản lý kinh tế có
thể đưa ra được những chính sách kinh tế đúng đắn. Chính triết học Mác - Lênin là một

10


cơ sở lý luận khoa học cho việc hoạch định đúng đắn các chính sách kinh tế như vậy.
Triết học Mác - Lênin trang bị cho chúng ta thế giới quan, phương pháp luận khoa học để
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội; giữa giải
quyết lợi ích trước mắt với mục tiêu lâu dài của sự phát triển; giữa nội lực và ngoại lực

trong phát triển kinh tế - xã hội; giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập
kinh tế quốc tế, ... Bởi lẽ, để giải quyết tốt những vấn đề trên, phải có cái nhìn khách
quan, toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể và gắn với yêu cầu thực tiễn của đất nước cũng
như của thời đại. Chính triết học Mác - Lênin sẽ trang bị cho chúng ta những nguyên tắc
này trong hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội. Nguyên tắc khách quan giúp chúng
ta khi hoạch định các chính sách kinh tế phải biết căn cứ vào các điều kiện kinh tế khách
quan, không được áp đặt mong muốn chủ quan thay cho các điều kiện kinh tế khách
quan; phải tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan và hoạt động theo các quy luật kinh
tế khách quan. Nguyên tắc toàn diện cho phép chúng ta trong hoạch định chính sách kinh
tế biết tính tới các mặt, các yếu tố, các quá trình của bản thân kinh tế cũng như mối quan
hệ giữa kinh tế với văn hoá, môi trường, an ninh, quốc phòng, v.v.. Nguyên tắc phát triển
đảm bảo cho việc hoạch định chính sách kinh tế có cái nhìn phát triển, có tính tới xu
hướng phát triển của kinh tế cũng như xã hội. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể đòi hỏi các
chính sách kinh tế phải được xem xét trong những điều kiện lịch sử - cụ thể của đất nước,
khu vực và quốc tế. Điều này giúp cho chính sách kinh tế không xa vào giáo điều, sách
vở. Nguyên tắc thực tiễn đòi hỏi chính sách kinh tế luôn phải được gắn với nhu cầu thực
tiễn của đất nước, khu vực và quốc tế. Như vậy, tính khả thi, tính thực tiễn của các chính
sách kinh tế sẽ cao. Hơn nữa, như chúng ta đã rõ, tư duy về kinh tế một cách đơn thuần
luôn đặt hiệu quả kinh tế lên hàng đầu; tư duy về chính trị một cách đơn thuần vì mục
đích chính trị có thể hy sinh cả kinh tế, cả xã hội, ... Chỉ có tư duy triết học với phương
pháp tư duy biện chứng duy vật làm nền tảng mới giúp các chủ thể hoạt động kinh tế có
cái nhìn khách quan, toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể, thực tiễn. Chính cách tiếp cận
này mới có cơ sở vững chắc để đề ra được các chính sách kinh tế đúng đắn, không tổn hại
tới chính trị - xã hội cũng như bản thân kinh tế để trên cơ sở đó, tạo môi trường phát triển
bền vững cho cả kinh tế lẫn chính trị - xã hội. Không những thế, triết học Mác - Lênin với

11


các nguyên tắc khách quan, toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể, thực tiễn giúp cho chủ

thể hoạt động kinh tế nhận thức đúng quy luật vận động, phát triển kinh tế của đất nước,
khu vực và thế giới. Trên cơ sở đó, các chủ thể hoạt động kinh tế có thể chủ động nắm bắt
được xu thế phát triển của kinh tế quốc tế. Từ đó mới có cơ sở để hoạch định các chính
sách kinh tế quốc dân và quốc tế đúng đắn. Đảng Cộng sản Việt Nam, do nắm vững xu
hướng vận động tất yếu của khu vực hoá cũng như toàn cầu hoá kinh tế, đã đề ra chủ
trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế trên cơ sở xây dựng một nền kinh tế
độc lập tự chủ; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển; đảm bảo an ninh
quốc gia; giữ vững lợi ích dân tộc; bảo vệ được bản sắc văn hoá dân tộc cũng như môi
trường. Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ: "Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,
đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin
cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc
tế và khu vực"; “thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên
ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất
nước nhanh và bền vững, trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Đây là chủ trương đúng đắn thể hiện tinh thần tư duy biện chứng sắc bén của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc hoạch định các chính sách kinh tế quốc tế. R õ ràng,
chính sách kinh tế này đã gắn kinh tế trong nước với kinh tế quốc tế; phát triển kinh tế
với định hướng xã hội chủ nghĩa; kinh tế với quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia;
kinh tế với văn hoá; kinh tế với bảo vệ môi trường. Đường lối kinh tế này thể hiện tính
mục đích đúng đắn của sự phát triển kinh tế. Nó chỉ có được trên cơ sở nắm vững thế giới
quan và phương pháp luận đúng đắn của triết học Mác - Lênin. Triết học Mác - Lênin còn
là cơ sở giúp chủ thể hoạt động kinh tế giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế với
chính sách kinh tế. Rõ ràng là, chính sách kinh tế thuộc về hoạt động chủ quan của con
người, còn bản thân kinh tế là cái khách quan. Do đó, khi kinh tế thay đổi thì các chính
sách kinh tế nhất định phải thay đổi theo. Vì vậy, việc sửa đổi, hoàn thiện chính sách kinh
tế sau khi đã ban hành là hiện tượng bình thường trong hoạt động quản lý kinh tế. Các
chính sách kinh tế luôn phải được xuất phát từ những điều kiện kinh tế khách quan; phải
được hoàn thiện, bổ sung và phát triển bằng con đường tổng kết kinh nghiệm phát triển

12



kinh tế của đất nước và khu vực. Những chính sách kinh tế đúng đắn luôn tác động tích
cực trở lại tới các điều kiện kinh tế, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
d. Thế giới quan triết học khoa học - cơ sở phương pháp luận cho việc hình
thành văn hoá kinh doanh đúng đắn; trên cơ sở đó, góp phần thúc đẩy kinh tế phát
triển
Văn hoá kinh doanh là một phương diện của văn hoá trong xã hội, là văn hoá
trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh. Nó bao gồm triết lý kinh doanh, đạo đức kinh
doanh,... Văn hoá kinh doanh đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của doanh
nghiệp nói riêng, của kinh tế nói chung. Hơn nữa, chỉ có kinh doanh có văn hoá mới kết
hợp được giữa tăng trưởng với phát triển bền vững. Chỉ có kinh doanh có văn hoá mới
gắn kết được cái lợi với cái đúng, cái thiện, cái đẹp. Nhưng để có được văn hoá kinh
doanh thì cần phải có một yếu tố quan trọng là thế giới quan triết học - nền tảng để tạo
nên triết lý kinh doanh cũng như đạo đức kinh doanh. Triết lý kinh doanh như thế nào sẽ
là cơ sở để hình thành nên quan niệm, mục tiêu kinh doanh như thế đó. Thực tiễn đã chỉ
rõ, nếu kinh doanh, kinh tế đặt mục tiêu lợi nhuận tối đa lên trên thì nhất định trong quá
trình kinh doanh, phát triển kinh tế, vấn đề môi trường, vấn đề xã hội sẽ nảy sinh và
không thể giải quyết triệt để. Chỉ có đặt mục tiêu lợi nhuận phải phù hợp với giải quyết
vấn đề môi trường, vấn đề xã hội thì kinh doanh, kinh tế mới có cơ sở phát triển bền
vững. Hơn nữa, triết lý kinh doanh còn là hệ các giá trị có tính pháp lý và đạo đức, thể
hiện các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo hành vi, cách ứng xử trong nội bộ doanh nghiệp và
giữa các doanh nghiệp với nhau cũng như giữa các thể chế kinh tế, giữa các nền kinh tế.
Trên cơ sở đó góp phần hình thành nên văn hoá kinh doanh và phát triển kinh tế. Triết
học không chỉ là một cơ sở quan trọng để hình thành nên triết lý kinh doanh nói riêng,
văn hoá kinh doanh nói chung, mà còn là một thành tố thẩm thấu trong triết lý kinh doanh
và đạo đức kinh doanh. Qua đó, triết học tác động, phát triển môi trường thuận lợi cho
kinh doanh nói riêng, kinh tế nói chung phát triển. Những điều trình bày trên cho thấy,
thế giới quan triết học khoa học, đúng đắn nói chung, thế giới quan triết học Mác - Lênin
nói riêng là cơ sở lý luận cho tư duy về kinh tế một cách đúng đắn. Nó trang bị phương


13


pháp tư duy khoa học - công cụ sắc bén để nhận thức các quy luật kinh tế và là cơ sở lý
luận cho việc hoạch định đúng đắn các chính sách kinh tế và hình thành văn hoá kinh
doanh, triết lý kinh doanh đúng đắn. Trên cơ sở đó, triết học Mác - Lênin nói riêng, thế
giới quan triết học khoa học, đúng đắn nói chung góp phần phát triển kinh tế, đồng thời
cung cấp cơ sở khoa học để nhận thức sâu sắc các chính sách kinh tế, đường lối phát triển
kinh tế cũng như tư duy về kinh tế của các quốc gia dân tộc và các thời đại. Đương nhiên,
sự phát triển của kinh tế, đến lượt nó, lại tác động trở lại tới sự phát triển của thế giới
quan triết học. Nó đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi triết học phải giải quyết. Qua đó, thúc
đẩy triết học phát triển. Không những thế, nó còn tạo ra những điều kiện vật chất, mà
thiếu nó thì triết học không thể tiến lên được. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, vai trò của
triết học đối với kinh tế được thể hiện đến đâu còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, mà trước
hết là tính đúng đắn, khoa học của triết học; mức độ thâm nhập của triết học đó vào
quảng đại quần chúng nhân dân; sự nhận thức và vận dụng triết học có sáng tạo, phù hợp
thực tiễn vào phát triển kinh tế hay không bởi chủ thể lãnh đạo, quản lý.
4. Ví dụ cụ thể:
Vai trò của triết học trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa của nước ta.
Vai trò của triết học được thể hiện ở chức năng thế giới quan và phương pháp luận của
nó. Nhưng bản thân chức năng thế giới quan và phương pháp luận của triết học không
được biểu hiện một cách chung chung thông qua quần chúng nhân dân lao động mà được
thể hiện một cách tập trung nhất thông qua những người làm nhiệm vụ hạch định chính
sách và những người chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Bởi vì công cuộc công nghiệp hóa và
hiện đại hoá đất nước được tiến hành như thế nào, cách thức và những bước đi của nó ra
sao trước hết là do những người làm công tác hoạch định chính sách và những người chỉ
đạo hoạt động thực tiễn quyết định. Mặt khác, bản thân triết học lại là loại lí luận tổng
quát nhất, cho nên vai trò của nó cũng chủ yếu được thể hiện ở tầm đường lối, quan điểm
khi hoạch định chính sách. Do vậy, nếu có tư duy triết học đúng đắn thì những người làm

nhiệm vụ hoạch định chính sách và chỉ đạo hoạt động thực tiễn mới có thể đưa ra được

14


những quan điểm, những bước đi và những biện pháp phù hợp trong quá trình công
nghiệp hóa và hiện đại hoá, đồng thời chỉ đạo việc thực hiện các chủ trương đó một cách
có hiệu quả.
Một chính sách nào đem áp dụng trong thực tế đều có hai mặt: mặt tích cực và mặt
tiêu cực: vấn đề là ở chỗ phải biết sử dụng tốt mặt tích cực đồng thời phải hạn chế mọt
cách tối đa để chấp nhận những hậu quả tiêu cực ở mức thấp nhất. Để làm được điều đó
cần có một loạt các chính sách đi kèm. Vì vậy, muốn đưa ra được những chính sách hữu
hiệu đòi hỏi những người làm nhiệm vụ hoạch định chính sách phải có cách nhìn toàn
diện và lịch sử cụ thể mà muốn cách nhìn toàn diện và lịch sử cụ thể thì cần có tư duy
triết học đúng đắn.
Từ kinh nghiệm lịch sử và thực tế cuộc sống hiện tại chúng ta có thể khẳng định
rằng nếu có một hệ thống các quan điểm triết học đúng đắn làm cơ sở thì bản thân sự
nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa sẽ được tiến hành một cách vững chắc hơn và ổn
định hơn, Thực ra, nghiên cứu những kinh nghiệm của các nước để rút ra những bài học
bổ ích cho nước ta là nhiệm vụ của nhiều ngành khoa học khác nhau. Nhưng những bài
học mà triết học rút ra sẽ là những bài học mang tính khái quát cao. Khác vời các khoa
học khác, xuất phát từ việc nghiên cứu kinh nghiệm của các nước, triết học có nhiệm vụ
phải rút ra được cái gì là cái chung và tất yếu đối với tất cả các nước hoặc đối với một
nhóm nước khu vực trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Việc tìm ra được
cái chung và cái tất yếu trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa sẽ giúp
cho chúng ta khỏi mò mẫm, tránh được nhưng vấp váp không cần thiết khi giải quyết
những nhiệm vụ của bản thân chúng ta. V.I.Lê nin đã từng chỉ ra rằng: Người nào bắt tay
vào những vấn đề riêng trước khi giải quyết các vấn đề chung, thì kẻ đó, trên mỗi bước
đi, sẽ không sao tránh khỏi "vấp phải" những vấn đề chung đó một cách không tự giác.
Mà mù quáng vấp phải những vấn đề đó trong những trường hợp riêng, thì có nghĩa là

đưa chính sách của mình đến chỗ có những sự dao động tồi tệ nhất và mất hẳn tính
nguyên tắc"

15


Như vậy, vai trò trực tiếp của triết học được thể hiện ở nhiệm vụ nghiên cứu
những kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới đã tiến hành công nghiệp
hóa và hiện đại hoá nhằm rút ra những cái chung và tất yếu, đồng thời xem xem những
cái chung và tất yếu đó được áp dụng vào những điều chỉnh cụ thể của Việt Nam như thế
nào. Song mục đích của các nghiên cứu triết học không phải chỉ để nghiên cứu mà nhằm
phục vụ thực tiễn. Vì vậy, vai trò trực tiếp của triết học còn được thể hiện ở nhiệm vụ
phản biện cho các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Điều đó có nghĩa là từ
các nghiên cứu của mình các nhà triết học có nhiệm vụ góp tiếng nói phản biện cho các
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, để trên cơ sở đó Đảng và Nhà nước có
điều kiện đưa ra các chủ trương và chính sách hợp lý nhất.
Thực ra, phản biện là một nhiệm vụ, một chức năng của bất kỳ các ngành khoa
học nào trên con đường tìm ra chân lỹ. Trong thời gian trước Đại hội VI, do nhiều nguyên
nhân khác nhau, triết học chú yếu tập trung làm nhiệm vụ thuyết minh các chú trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước mà bỏ quên nhiệm vụ phản biện. Kể từ Đại hội VI đến
nay, cùng với xu hướng đổi mới triết học đã bắt đầu không chỉ làm nhiệm vụ thuyết minh
mà còn góp những tiếng nói phản biện cho các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Tuy nhiên, trong điều kiện ngày nay, để thực hiện thành công sự nghiệp công
nghiệp hóa - hiện đại hóa, triết học đã có nhiều tiếng nói phản biện có hiệu quả hơn nữa.
Điều đó, theo chúng tối, phụ thuộc vào cả hai phía, phía các nhà triết học lẫn phía Đảng
và Nhà nước. Một mặt, để có những tiếng nói phản biện nhờ giá trị, các nhà triết học phải
có những công trình nghiêm túc có giá trị khoa học. Mặt khác, Đảng và Nhà nước phải có
những cơ chế cho phép các nhà triết học được phát biểu thẳng thắn những ý kiến, những
suy nghĩ của mình mà không hề lo ngại về bất cứ vấn đề gì.
Tóm lại, trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta, triết học cũng

có vai trò nhất định của mình. Sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta được
tiến hành như thế nào, quy mô và nhịp độ của nó ra sao điều đó một phần tuỳ thuộc vào
đóng góp của triết học.

16


17



×