Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Triết học và vai trò của triết học đối với sự phát triển của kính tế xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.43 KB, 15 trang )

MỤC LỤC

Trang 1


LỜI MỞ ĐẦU
Có thể nói triết học là một môn khoa học, là hạt nhân lý luận thế giới quan của con
người. Kể từ khi ra đời trãi qua nhiều giai đoạn phát triển của thế giới, bộ môn khoa học này
đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ, luôn phản ánh được sự phát triển trí tuệ và thúc đẩy tư
duy của loài người. Đôi khi nó trở thành vũ khí sắc bén cho những tiến bộ khoa học phát
triển đó. Ngày nay triết học đã thật sự trở thành khoa học, đã hoàn chỉnh hơn. Triết học khoa
học , đúng đắn có vai trò hết sức to lớn là động lực cho sự phát triển của kinh tế - xã hội
mạnh mẽ và càng rõ nét hơn, con người càng được hoàn thiện hơn về tư duy lý luận.
Mặc dù sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, sự phát triển về mặt vật chất
trong đời sống xã hội… cũng không hề làm giảm đi tính chất kì bí và vai trò đối với thực
tiễn của triết học, mà vấn đề là phải có tư duy lý luận đúng đắn, để không bị “mất phương
hướng” của sự phát triển đó…
Nhận thức rõ vai trò to lớn của triết học với sự phát triển của kinh tế xã hội, trong
tiểu luận này chỉ mong tổng hợp lại một số vai trò được thừa nhận của triết học trong sự
phát triển của kinh tế - xã hội.
Tiểu luận “Triết học và vai trò của triết học đối với sự phát triển của kính tế - xã hội”
Phần 1: Lời mở đầu
Phần 2: Nội dung:
Chương I: Triết học - Một môn khoa học
Chương II: Vai trò của triết học đối với sự phát triển của kinh tế - xã hội
I. Vai trò của triêt học đối với sự phát triển của kinh tế
II. Vai trò của triết học đối với sự phát triển của đời sống xã hội
Phần 3: Kết luận

Trang 2



CHƯƠNG I: TRIẾT HỌC – MỘT MÔN KHOA HỌC
I. SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC VÀ ĐỊNH NGHĨA TRIẾT HỌC
1.1 Sự ra đời của triết học
Triết học ra đời từ rất sớm vào (khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ VII trước công
nguyên ) ở phương Đông và phương Tây tại một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại
như Ấn Độ, Hi lạp, Trung Quốc.
Theo người Ấn Độ, triết học được coi như là Danshana, có nghĩa là chiêm ngưỡng
nhưng mang hàm ý là trí thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm dẫn dắt con người đến
với lẽ phải.
Theo người Trung Quốc cho răng, thuật ngữ triết học có nguồn gốc ngôn ngữ là chữ
viết và khoa học này hiểu theo nghĩa là sự truy tìm bản chất của đối tượng, triết học chính là
trí, là sự hiêu biết sâu sắc của con người.
Còn ở phương tây thuật ngữ triết học suất hiện ở Hi Lạp, triết học được gọi là
Philosophia, có nghĩa là yêu mến sự thông thái, nó vừa là khoa học ,vừa mang tính định
hướng vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người.
Như vậy cho dù triết học ra đời ở phương Đông hay phương tây, thì triết học được
biểu hiện là tri thức, khả năng nhận thức, đánh giá của con người, nó tồn tại với tư cách là
một hình thái ý thức xã hội
1.2. Định nghĩa về triêt học
Có rất nhiều những định nghĩa khác nhau về triết học được các nhà nghiên cứu đưa
ra, nhưng phần lớn đều tập trung bao hàm những nội dung giống nhau:
Triết học nghiên cứu thế giới với tư cách là một chỉnh thể, tìm ra những quy luật
chung nhất chi phối sự vật động của chỉnh thể nói chung, của xã hội loại người, của con
người trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó một cách có hệ thống dưới dạng
duy lý
Vậy nên: triết học là hệ thống trí thức lý luận chung nhất của con người về thế giới,
về vị trí vài trò của con người trong thế giới ấy.
II. TRIẾT HỌC VỚI TƯ CÁCH LÀ MỘT KHOA HỌC
Kể từ khi ra đời triết học mang trong mình yếu tố trí thức, mang trong mình tính khoa

học độc lập. Là một môn khoa học của các khoa học khác, triết học đã trở thành một môn
khoa học độc lập. Chính vì vậy triết học phải có Đối tượng riêng của nó phải có phương
pháp nghiên cứu, có các vấn đề cơ bản, có các khái niệm và phạm trù, các quy luật
Trang 3


2.1. Đối tượng nghiên cứu của Triết học
Có thể nói rằng Triết học bộ môn nghiên cứu về các quy luật chung nhất của sự vận
động và phát triển của thế giới bao gồm: tự nhiên, xã hội và cả tư duy của con người. Chính
vì vậy đối tượng nghiên cứu của triết học chứa nội hàm rất rộng lớn không phải là ngành
khoa học tự nhiên, cũng không phải ngành khoa học xã hội, hay khoa học tư duy logic mà
Triết học là khoa học chung nhất nó coi thế giới như “một chỉnh thế thống nhất” của các
yếu tố trên
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Để có thể phân biệt được các trường phái triết học (siêu hình hay biện chứng) thì ta
có thể căn cứ vào sự khác nhau về phương pháp luật, ở sự khác nhau này có thể biểu hiện
bởi tính khoa học hay phản động của một hệ thống triết học. Nguyên nhân này xuất phát từ
đối tượng nghiên cứu của triết học: xuất phát từ yếu tố coi thế như là một chỉnh thế thống
nhất và bao trùm tất cả lĩnh vực về tự nhiên, xã hội và tư duy của con người.
- Triết học nghiên cứu thế giới bằng phương pháp của riêng mình khác với mọi khoa
học cụ thể khác: Nó xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm cách đưa ra một hệ thống các
quan niệm về chỉnh thể đó. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách tổng kết toàn bộ
lịch sử của khoa học và lịch sử của bản thân triết học.
2.3. Vấn đề cơ bản của Triết học
Theo Ph. Ăngghen: “Vấn đề cơ bản lớn nhất của mọi Triết học, đặc biệt là triết học
hiện đại là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”. Cũng như những khoa học khác Triết học
phải giải quyết rất nhiều vấn đề liên quan mật thiết với nhau. Những vấn đề cơ bản này
không chỉ xác định nền tảng và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của Triết học
mà nó còn là tiêu chuẩn để xác định lập trường, thế giới quan của các triết gia và học thuyết
của họ nghiên cứu

Vấn đề cơ bản của triết học xoay quanh hai vấn đề chính đó là:
Một là: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau và cái nào quyết
định cái nào?
Hai là: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không.
Hai vấn đề chính này có liên quan mật thiết với nhau và thông qua hai vấn đề cơ bản
này sẽ dấn đến việc hình thành các trường phải riêng của triết học và các học thuyết
nhận thức của triết học
2.4. Hệ thống các phạm trù và các quy luật
Mỗi một môn khoa học đều có một hệ thống phạm trù riêng của mình phản ánh
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến thuộc phạm vi khoa
học đó nghiên cứu. Khác với khoa học ngành khác các phạm trù của phép biện chứng duy
Trang 4


vật như : “vật chất, ý thức, vận động, đứng im, mâu thuẫn” đây là những khái niệm chung
nhất phản ảnh những mặt, những thuộc tính cơ bản và phổ biến nhất của toàn bộ thế giới
hiện thưc bao gôm: tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Mọi sự vật hiện tượng đều có
nguyên nhân xuất hiện và quá trình vận động của nó…Đây chính là những mặt, những
thuộc tính, những mối liên hệ phản ánh trong các phạm trù của triết học.
Trong Triết học có thể coi các quy luật của triết học duy vật biện chứng là quy luật cơ
bản của khoa học Triết học. Triết học duy vật biện chứng gồm ba quy luật cơ bản sau:
+ Quy luật mâu thuân: Nói lên nguồn gốc và động lực vận động và phát triển của thế
giới , cả về các mặt: tự nhiên, xã hội và tư duy logic
+ Quy luật về mối quan hệ giữa lượng và chất
+ Quy luật phủ định của phủ định: nói lên con đường tất yêu của sự phát triển
III. ĐẶC ĐIỂM CỦA KHOA HỌC TRIẾT HỌC
3.1. Triết học tồn tại như một hình thái ý thức xã hội.
Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác thì triết học cũng tồn tại là một hình thái ý
thức xã hội, tức là nó có đặc tính biến đổi phụ tuộc vào sự biến đổi của tồn tại xã hội và tác
động trở lại những điều kiện nhất định. Tuy nhiên, khác với các hình thái ý thức xã hội khác

là: Nó không phải là một bộ phận trong hình thái ý thức xã hội khoa học vì bản chất nó cũng
là hình thái ý thức xã hội. Triết học chỉ ra đời khi con người có một vốn hiểu biết nhất định
và đạt tới khả năng đúc kết ra được cái chung trong muôn vàn sự kiện, hiện tượng riêng lẻ
và khi xã hội đã phát triển đến thời kỳ hình thành các tầng lớp lao động trí óc.
3.2. Triết học là hệ thống tri thức chung nhất
Điều này thể hiện rõ nhất qua định nghĩa về triết học và đối tượng mà triết học
nghiên cứu
3.3. Triết học mang tính giai cấp
Mỗi một tư tưởng triết học ra đời nó đều phục vụ cho lợi ích của các giai cấp người
trong xã hội, nó phản ánh về một trình độ nhận thức về một thế giới của mỗi thời đại nhất
định
Không có thứ triết học phi giai cấp, Mỗi một hệ thống triết học đều có Chính Đảng
của nó và nó trở thành vũ khí lý luận sắc bén cho giai cấp nhất định. Chính vì có vũ khí lý
luận sắc bén đó mà trong mỗi thời đại đặt ra những sứ mệnh và vai trò hoàn thành nó cho
giai cấp xã hội. Cứ như vây “Triết học vẫn có tính đảng của nó trong suốt hơn 2000 năm
nay”

Trang 5


CHƯƠNG II: VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA KINH TẾ - XÃ HỘI
I. VAI TRÒ TRIẾT HỌC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Triết học là sản phẩm tinh hoa của thời đại, là hạt nhân lý luận thế giới quan của con
người. Thế giới quan triết học như thế nào sẽ quy định quan điểm kinh tế, chính trị, văn hóa,
nghệ thuật, đạo đức.v.v. như thế ấy. Do vậy triết học có vai trò hết sức to lớn đối với sự phát
triển của xã hội nói chung và của kinh tế nói riêng. Điều này thể hiện ở một điểm cơ bản
sau:
1.1. Thế giới quan triết học với tư cách là cơ sở lý luận cho tư duy đúng đắn về
kinh tế.

Triết học có đối tượng nghiên cứu của mình là mối quan hệ con người với tự nhiên
và quan hệ con người với con người trong xã hội, đặc biệt là quan hệ của con người với con
người trong sản xuất vật chất. Quan hệ của con người với tự nhiên được biểu thị cô đọng
nhất thông qua lực lượng sản xuất. Quan hệ của con người với nhau trong xã hội được biểu
thị cô đọng, cơ bản nhất thông qua quan hệ sản xuất. Do vậy để phát triển kinh tế thì phải có
tư duy về kinh tế đúng đắn. Tư duy về kinh tế muốn đúng đắn thì phải dựa trên thế giới
quan của triết học.
Như chúng ta đã biết, phương thức sản xuất là sự thống nhất hữu cơ giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong đó, lực lượng sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản
xuất là hình thức xã hội của nó. Theo triết học Mác – Lênin muốn phát triển một phương
thức sản xuất thì cần tập trung phát triển lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất theo quan
điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, là sự kết hợp hữu cơ giữa người lao động với tư liệu sản
xuất. Từ đây cho ta thấy muốn phát triển kinh tế trước hết phải phát triển nhân tố lao động
sau đó là công cụ lao động. kinh tế muôn phát triển được phải có những chính sách phù hợp
để giải phòng người lao động, đồng thời phải đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, kỹ năng, kinh nghiệm lao động cho họ.
Không những thế phải đầu tư có được những chính sách “lên men” được sự hăng say
tích cực, lòng nhiệt tình, sự cần cù, chịu khó, sự sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và biết phát
huy có hiệu quả công cụ lao động hiện có của người lao động, biết đầu tư giáo dục – đào
tạo, khoa học công nghệ góp phần nâng cao hiệu quả, tính khoa học của quản lý kinh tế, góp
phần phát triển kinh tế một cách hiệu quả.

Trang 6


1.2. Thế giới quan triết học khoa học - cơ sở phương pháp luận để nhận thức và
vận dụng sáng tạo, đúng đắn các quy luật kinh tế.
Có thể nói triết học Mác – Lênin trang bị cho con người phương pháp tư duy biện
chứng duy vật có thể giúp con người nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế một cách
khách quan và khoa học hơn. Nhờ đó mà con người chúng ta mới hiểu được quy luật kinh tế

cũng giống như những quy luật khác, quy luật kinh tế tồn tại một cách khách quan không
phụ thuộc vào mong muốn chủ quan của con người. Nó tồn tại vận động và phát triển trên
cơ sở các hoạt động kinh tế của con người. Do đó con người không thể sáng tạo ra được các
quy luật kinh tế mà con người chỉ có thể tác động để các quy luật kinh tế diễn da nhanh hay
chậm. Điều này có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng trong việc lý giải tại sao một số
nước có thể thực hiện chiến lược "đi tắt, đón đầu" trong phát triển kinh tế, cũng như thực
hiện quá độ lên một phương thức sản xuất nào đó trên cơ sở bỏ qua một giai đoạn phát triển
nhất định dưới góc độ kinh tế. Đương nhiên, để thực hiện được “đi tắt, đón đầu”, hay “rút
ngắn” trong quá trình phát triển thì đòi hỏi phải có nhiều điều kiện khách quan và chủ quan
khác nhau.
Nhưng vai trò của triết học Mác - Lênin là ở chỗ, nó trang bị cho chúng ta phương
pháp tư duy biện chứng duy vật - công cụ quan trọng để giúp nhận thức và vận dụng sáng
tạo các quy luật kinh tế. Phương pháp tư duy biện chứng duy vật cũng cho phép chúng ta cắt
nghĩa sự phát triển của phương thức sản xuất là do những mâu thuẫn bên trong phương thức
sản xuất ấy quy định. Đặc biệt là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Mâu thuẫn này được giải quyết sẽ thúc đẩy phương thức sản xuất phát triển tiến bộ hơn. Sự
phát triển từ phương thức sản xuất này lên phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn là quá
trình lịch sử - tự nhiên. Đặc trưng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi, phát triển
và bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi, phát triển của lực lượng sản xuất. Chính sự phát
triển của lực lượng sản xuất dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện tồn. Khi lực l
ượng sản xuất mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất hiện tồn thì quan hệ sản xuất hiện tồn
này sẽ trở thành lực cản đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng và kinh tế nói
chung. Nghĩa là quan hệ sản xuất hiện tồn không còn phù hợp với lực lượng sản xuất đó
nữa. Phương pháp tư duy biện chứng duy vật cũng chỉ ra rằng, theo quy luật kinh tế khách
quan, quan hệ sản xuất luôn phải ph ù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ
sản xuất không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, nó sẽ kìm hãm lực lượng sản
xuất phát triển, nghĩa là kìm hãm kinh tế phát triển.
Quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất cả trong trường
hợp nó lạc hậu hoặc vượt quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất. Dấu hiệu phù hợp
của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất được biểu hiện ở năng suất lao

động tăng; người lao động được đào tạo và đào tạo lại; đời sống người lao động được đảm
bảo; môi trường sản xuất được cải thiện; công cụ, máy móc, dây chuyền sản xuất được đầu
tư cải tiến v.v.. Phương pháp tư duy biện chứng duy vật cũng chỉ ra rằng, mâu thuẫn giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là tất yếu khách quan; sự phù hợp của quan hệ sản
Trang 7


xuất với trình độ của lực lượng sản xuất bao giờ cũng hàm chứa những yếu tố phá vỡ sự phù
hợp; khi có dấu hiệu của sự không phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng
sản xuất thì phải giải quyết kịp thời. Nếu quan hệ sản xuất thuộc về giai cấp thống trị đã lỗi
thời trong xã hội và lợi ích của giai cấp này không còn phù hợp với lợi ích của sự phát triển
xã hội, thì mâu thuẫn này phải được giải quyết thông qua cách mạng x ã hội. Nếu quan hệ
sản xuất thuộc về giai cấp tiến bộ, đại diện cho sự phát triển xã hội thì giai cấp đó cần phải
chủ động thay đổi, hoàn thiện quan hệ sở hữu đối với t ư liệu sản xuất; đổi mới quan hệ tổ
chức, quản lý sản xuất cũng như quan hệ phân phối sản phẩm.
Chỉ có như vậy mới đảm bảo sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực
lượng sản xuất, nghĩa là thúc đẩy cả lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất phát triển; và
trên cơ sở đó, thúc đẩy kinh tế phát triển. Nhưng phương pháp tư duy biện chứng duy vật
cũng chỉ ra rằng, không thể nóng vội xây dựng quan hệ sản xuất mới khi chưa tạo ra được
lực lượng sản xuất mới, cũng không thể tuỳ tiện xoá bỏ quan hệ sản xuất hiện tồn khi nó còn
hậu thuẫn cho lực lượng sản xuất phát triển. Trước đổi mới (1986), do chưa nhận thức và
vận dụng đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất cùng với việc mắc “những khuyết điểm và sai lầm chủ quan” không thừa nhận kinh tế
nhiều thành phần cũng như “sai lầm lớn về tổ chức thực hiện”, nên chúng ta đã không giải
phóng được sức sản xuất. Điều này đã được Đại hội VI của Đảng chỉ rõ: “Trong nhận thức
cũng như trong hành động, chúng ta chưa thực sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng
quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất”. Những sai lầm chủ quan do không nhận thức đúng và vận dụng đúng quan hệ biện
chứng giữa lực l ượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở nước ta trước đổi mới đã gây ra những

hậu quả đáng tiếc cho sự phát triển kinh tế, đồng thời cũng l à những minh chứng thực tiễn
sinh động cho thấy vai trò của triết học đối với kinh tế. Những sai lầm thực tiễn ấy cũng đã
chỉ cho chúng ta rõ, “lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ
sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi
quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Phương pháp tư duy biện chứng
duy vật xuất phát từ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất
cũng chỉ ra rằng, sự phát triển kinh tế nhiều thành phần ở những nước có điều kiện như Việt
Nam là hoàn toàn đúng quy luật, là tất yếu khách quan.
Tính tất yếu này được quy định bởi nhiều nguyên nhân. Nhưng nguyên nhân quan
trọng nhất là trình độ lực lượng sản xuất của những nước này vừa chưa phát triển, còn yếu
kém, lại vừa không đồng đều. Chính sự không đồng đều của trình độ lực lượng sản xuất đã
quy định tính không thuần nhất của quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất; quan hệ tổ
chức, quản lý sản xuất cũng như quan hệ phân phối sản phẩm, nói khác đi là quan hệ sản
xuất. Chỉ có phát triển nhiều loại hình quan hệ sản xuất tương ứng với các trình độ khác
nhau của lực lượng sản xuất thì mới giải phóng triệt để sức sản xuất, thúc đẩy kinh tế phát
triển. Như vậy, để mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không diễn ra gay
gắt, chủ thể hoạt động kin h tế luôn phải chủ động điều chỉnh, hoàn thiện quan hệ sản xuất
sao cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Để làm tốt điều này, chủ thể hoạt động
kinh tế phải được trang bị phương pháp tư duy biện chứng duy vật. Phương pháp tư duy
biện chứng duy vật còn giúp cho chủ thể hoạt động kinh tế trong khi giải quyết mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất sẽ không hy sinh cái này cho cái kia và ngược
Trang 8


lại, mà cùng với phát triển lực lượng sản xuất phải thường xuyên đổi mới, hoàn thiện quan
hệ sản xuất. Đương nhiên, có phương pháp tư duy biện chứng duy vật chưa đủ mà quan
trọng hơn là, các chủ thể còn phải biết vận dụng đúng nó trong phát triển kinh tế. Thực tiễn
phát triển kinh tế của một số quốc gia đã cho thấy, nếu chính sách phát triển chỉ vì kinh tế
đơn thuần, hay vì mục tiêu lợi nhuận đơn thuần, con người trong quá trình phát triển kinh tế
nhất định sẽ phải trả giá. Để điều này không xảy ra thì các chính sách kinh tế phải được hậu

thuẫn bởi một thế giới quan triết học khoa học đúng đắn
1.3. Thế giới quan triết học khoa học – cở sở lý luận cho việc hoạch định đúng
đắn các chính sách kinh tế.
Việc hoạch định đúng đắn các chính sách kinh tế là dựa trên nền tảng cở sở của thế
giới quan triết học khoa học, thông qua thế giới quan triết học khoa học mà chủ thể lãnh
đạo, quản lý kinh tế mới có thể đưa ra được những chính sách kinh tế đúng đắn. Triết học
Mác - Lênin trang bị cho chúng ta thế giới quan, phương pháp luận khoa học để giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội; giữa giải quyết lợi ích
trước mắt với mục tiêu lâu dài của sự phát triển; giữa nội lực và ngoại lực trong phát triển
kinh tế - xã hội; giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế,
v.v…
Bởi lẽ, để giải quyết tốt những vấn đề đó, bản thân các chủ thể lãnh đạo, nhà quản lý
phải có cái nhìn khách quan, toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể và gắn với yêu cầu thực
tiễn của đất nước cũng như của thời đại. Hơn nữa, như chúng ta đã rõ, tư duy về kinh tế một
cách đơn thuần luôn đặt hiệu quả kinh tế lên hàng đầu; tư duy về chính trị một cách đơn
thuần vì mục đích chính trị có thể "hy sinh" cả kinh tế, cả xã hội, v.v.. Chỉ có tư duy triết
học với phương pháp tư duy biện chứng duy vật làm nền tảng mới giúp các chủ thể hoạt
động kinh tế có cái nhìn khách quan, toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể, thực tiễn. Từ đó
mới có cơ sở để hoạch định các chính sách kinh tế quốc dân và quốc tế đúng đắn. Đảng
Cộng sản Việt Nam, do nắm vững xu hướng vận động tất yếu của khu vực hoá cũng như
toàn cầu hoá kinh tế, đã đề ra chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế trên
cơ sở xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của
sự phát triển; đảm bảo an ninh quốc gia; giữ vững lợi ích dân tộc; bảo vệ được bản sắc văn
hoá dân tộc cũng như môi trường. Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ: "Chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là
bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình
hợp tác quốc tế và khu vực"; “thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn
lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển
đất nước nhanh và bền vững, trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Đây là chủ trương đúng đắn thể hiện tinh thần tư duy biện chứng sắc bén của Đảng

Cộng sản Việt Nam trong việc hoạch định các chính sách kinh tế quốc tế. Rõ ràng, chính
sách kinh tế này đã gắn kinh tế trong nước với kinh tế quốc tế; phát triển kinh tế với định
hướng xã hội chủ nghĩa; kinh tế với quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia; kinh tế với
văn hoá; kinh tế với bảo vệ môi trường. Đường lối kinh tế này thể hiện tính mục đích đúng
đắn của sự phát triển kinh tế. Nó chỉ có được trên cơ sở nắm vững thế giới quan và phương
pháp luận đúng đắn của triết học Mác - Lênin. Triết học Mác - Lênin còn là cơ sở giúp chủ
thể hoạt động kinh tế giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế với chính sách kinh tế.
Rõ ràng là, chính sách kinh tế thuộc về hoạt động chủ quan của con người, còn bản thân
Trang 9


kinh tế là cái khách quan. Do đó, khi kinh tế thay đổi thì các chính sách kinh tế nhất định
phải thay đổi theo. Vì vậy, việc sửa đổi, hoàn thiện chính sách kinh tế sau khi đã ban hành là
hiện tượng bình thường trong hoạt động quản lý kinh tế. Các chính sách kinh tế luôn phải
được xuất phát từ những điều kiện kinh tế khách quan; phải được hoàn thiện, bổ sung và
phát triển bằng con đường tổng kết kinh nghiệm phát triển kinh tế của đất nước và khu vực.
Những chính sách kinh tế đúng đắn luôn tác động tích cực trở lại tới các điều kiện kinh tế,
góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển
1.4. Thế giới quan triết học khoa học – cơ sở phương pháp luận cho việc hình
thành văn hóa kinh doanh đúng đắn
Văn hóa kinh doanh đóng vai trò trò quan trọng trong sự phát triển của doanh nghiệp
nói riêng, của kinh tế nói chung. Chỉ có kinh doanh có văn hóa mới kết hợp được giữa tăng
trưởng với phát triển bền vững. Nhưng để có được văn hóa kinh doanh thì cần phải có một
yếu tốt quan trọng là thế giới quan triết – nền tảng để tạo nên triết lý kinh doanh cũng như
đạo đức kinh doanh.
Thực tiễn đã chỉ rõ để phát triển kinh tế bền vững thì không được coi trọng yếu tố lợi
nhuận tối đa mà phải có sự phù hợp về yếu tố lợi nhuận thì mới có thể giải quyết được các
vấn đề phát sinh trong kinh doanh, trong phát tiển kinh tế, vấn đề môi trường và xã hội. Hơn
nữa, triết lý kinh doanh còn là hệ các giá trị có tính pháp lý và đạo đức, thể hiện các nguyên
tắc cơ bản chỉ đạo hành vi, cách ứng xử trong nội bộ doanh nghiệp và giữa các doanh

nghiệp với nhau cũng như giữa các thể chế kinh tế, giữa các nền kinh tế. Trên cơ sở đó góp
phần hình thành nên văn hoá kinh doanh và phát triển kinh tế.
Triết học không chỉ là một cơ sở quan trọng để hình thành nên triết lý kinh doanh nói
riêng, văn hoá kinh doanh nói chung, mà còn là một thành tố thẩm thấu trong triết lý kinh
doanh và đạo đức kinh doanh. Qua đó, triết học tác động, phát triển môi trường thuận lợi
cho kinh doanh nói riêng, kinh tế nói chung phát triển. Những điều trình bày trên cho thấy,
thế giới quan triết học khoa học, đúng đắn nói chung, thế giới quan triết học Mác - Lênin
nói riêng là cơ sở lý luận cho tư duy về kinh tế một cách đúng đắn. Nó trang bị phương pháp
tư duy khoa học - công cụ sắc bén để nhận thức các quy luật kinh tế và là cơ sở lý luận cho
việc hoạch định đúng đắn các chính sách kinh tế và hình thành văn hoá kinh doanh, triết lý
kinh doanh đúng đắn.
Trên cơ sở đó, triết học Mác - Lênin nói riêng, thế giới quan triết học khoa học, đúng
đắn nói chung góp phần phát triển kinh tế, đồng thời cung cấp cơ sở khoa học để nhận thức
sâu sắc các chính sách kinh tế, đường lối phát triển kinh tế cũng như tư duy về kinh tế của
các quốc gia dân tộc và các thời đại. Đương nhiên, sự phát triển của kinh tế, đến lượt nó, lại
tác động trở lại tới sự phát triển của thế giới quan triết học. Nó đặt ra những vấn đề mới đòi
hỏi triết học phải giải quyết. Qua đó, thúc đẩy triết học phát triển. Không những thế, nó còn
tạo ra những điều kiện vật chất, mà thiếu nó thì triết học không thể tiến lên được. Tuy nhiên,
cũng cần lưu ý rằng, vai trò của triết học đối với kinh tế được thể hiện đến đâu còn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, mà trước hết là tính đúng đắn, khoa học của triết học; mức độ thâm
nhập của triết học đó vào quảng đại quần chúng nhân dân; sự nhận thức và vận dụng triết
học có sáng tạo, phù hợp thực tiễn vào phát triển kinh tế hay không bởi chủ thể lãnh đạo,
quản lý.
Trang 10


II. VAI TRÒ TRIẾT HỌC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
1. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
Như chúng ta đã biết, triết học là một hình thái ý thức xã hội, nó mang đặc tính
chung của các hình thái ý thức xã hội khi tác động trở lại đời sống thực tiễn, thể hiện rõ

nhất ở các mặt: ý thức xã hội có thể “lệch pha” với tồn tại của xã hội (nó có thể đi trước cả
thực trạng xã hội, có thể lạc hậu hơn tồn tại xã hội); ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã
hội.
1.1. Ý thức xã hội triết học có thể vượt trước hoặc lạc hậu hơn tồn tại xã hội
1.1.1. Tư tưởng triết học có thể lạc hậu hơn đời sống kìm hãm sự phát triển của xã
hội:
Trong từng giai đoạn phát triển của loài người ý thức xã hội luôn bị chi phối bởi lợi
ích của những tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy các lực lượng
xã hội phản tiến bộ luôn luôn lưu giữ trong mình những tư tưởng cũ, lạc hậu để truyền bá
nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
Những tư tưởng cũ, lạc hậu này không dễ dàng mất đi được mà nó luôn lưu giữ và
kìm hãm sự phát triển phát triển của xã hội. Vì vậy trong sự nghiệp xây dựng xã hội tiến bộ
mới cần phải tăng cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống lại những âm mưu và hành
động phá hoại những lực lượng thù địch về mặt tư tưởng cũ, lạc hậu không chấp nhận
những tư tưởng tiến bộ.
1.1.2. Triết học có thể vượt trước trình độ hiện tại của tồn tại xã hội
Tư tưởng con người luôn thay đổi và tiến bộ theo từng giai đoạn, từng thời kỳ cụ thể.
Chính vì vậy ở những điều kiện nhất định, những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt
trước sự phát triển của tồn tại xã hội, vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội. Bên cạnh
đó nó chi phối và điều chỉnh hoạt động thực tiễn của con người hướng hoạt động đó vào
việc giải quyết những nhiệm vụ mới do thời cơ chín muồi của đời sống vật chất đặt ra.
Có thể nói Triết học Mác – Lênin là hệ tư tưởng giai cấp cạch mạng nhất của thời đại
mang bản chất của giai cấp công nhân, nó trang bị cho giai cấp công nhân và chính đảng
cộng sản vũ khí lý luận sắc bén đê giải phòng mình, giải phóng nhân dân lao độc, các dân
tộc bị áp bức bóc lột trên toàn thế giới thoát khỏi ách nô dịch bóc lột, để xây dựng một xã
hội văn minh tốt đẹp hơn. Vì vậy xã hội loài người muốn phát triển được phải dựa trên nền
tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, đây chính là con đường, là sách lược đúng đắn để dẫn dắt
loài người ngày càng hoàn thiện hơn.
1.2. Tư tưởng triết học tác động trở lại đời sống xã hội
Căn cứ vào từng điều kiện lịch sử cụ thể, vào từng tính chất của các mối quan hệ

kinh tế khác nhau mà mức độ ảnh hưởng của tư tưởng triết học đến sự phát triển xã hội là
khác nhau. Như PH.Awngghen viết :”Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, tôn giáo, văn
Trang 11


học, nghệ thuật… đều dựa vào sự phát triển của kinh tế. Nhưng tất cả chúng đều có tác động
lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”. Chính vì vậy điều kiện lịch sử cụ thể và tính chất
của các mối quan hệ kinh tế là yếu tố quyết định đến vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn
cờ tư tưởng, mức độ phản ảnh đúng đắn của tư tưởng với nhu cầu phát triển của xã hội. vào
mức độ mở rộng của tư tưởng quần chúng. Do đó nên cũng cần phải phân biệt vai trò của ý
thức tư tưởng tiến bộ và ý thức của tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển của xã hội.
Cũng như C.Mác khẳng định: “Lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực
lượng vật chất” và để một hệ tư tưởng tác động tới quần chúng hay khi chúng có những điều
kiện cần thiết để biến thành lực lượng vật chất thì nó mới trở thành động lực thúc đẩy sự
phát triển của xã hội.
2. Vai trò của triết học trong đời sống của xã hội
Vai trò của triết học đối với đời sống của xã hội được thể hiện qua từng chức năng
của triết học, mỗi chức năng là một đánh giá một khía cạnh riêng của đời sống. Triết học
cũng có nhiều chức năng như: Chức năng nhận thức, chức năng đánh giá, chức năng giáo
dục… Nhưng đặt biệt và quan trọng nhất đó là chức năng thế giới quan và phương pháp
luận.
2.1. Chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận của triết học
- Các vấn đề được triết học đặt ra và tìm lời giải đáp trước hết đó là vấn đề thuộc thế
giới quan. Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của con người và
xã hội của loài người. Trong thế giới quan xuất phát từ tồn tại khách quan để điều chỉnh
nhận thức thế giới, nhận thức bản thân của con người. Như vậy có thể nói thế giới quan dần
dần được hình thành thông qua những tri thức này và mang tính định hướng cho quá trình
con người tiếp tục nhận thức thế giới.
Thực tiễn cho thấy từ thế giới khách quan đến tư duy trừu tượng, chính vì thế thế giới
quan luôn đóng vai trò quyết định, là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực và trình độ

phát triển của thế giới quan. Đó cũng là tiêu chí để đánh giá sự trưởng thành của mỗi một cá
nhân cũng như của mỗi cộng đồng mạng xã hội nhất định.
- Triết học ra đời không những giải quyết được các vấn đề đặt ra về thế giới quan mà
triết học còn là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan trở nên sinh động
và phát triển như một quá trình tự giác dưa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức
các khoa học đưa lại.
Tuy triết học không phải là một ngành khoa học độc lập nhưng phương pháp luận là
một bộ phận không thể thiếu trong bất kỳ ngành khoa học nào. Phương pháp luận là hệ
thống các quan điểm chỉ đạo việc tìm tòi, nghiên cứu, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các
phương pháp. Xét phạm vi tác dụng của nó gồm: phương pháp luận ngành; phương pháp
luận chung và phương pháp luận chung nhất.

Trang 12


Với tư cách là một hệ thống tri thức chung nhất của con người về tế giới và vai trò
của con người trong thế giới đó, với việc nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự
nhiên, xã hội và tư duy triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất khẳng
đinh: Khi phê phán những nhà khoa học tự nhiên siêu hình không thấy được mqh biện
chứng của các ngành khoa học, không thấy được sự khác nhau giữa tư duy lý luận với dư
duy thực nghiệm
2.2. Chức năng phản ảnh hiện thực của đời sống xã hội và chức năng động lực
cho sự phát triển xã hội.
- Trong sự phát triển của xã hội nhân loại, ở mỗi giai đoạn thời kỳ khác nhau đều có
những hoàn cảnh xã hội nhất định khác nhau, chúng tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời
của các hệ thống triết học trên thế giới. Triết học ra đời đó là những tinh hoa của thời đại, nó
phản ánh tư tưởng, địa vị, mong muốn của giai cấp mà nó phục vụ.
Như C.Mác viết rằng: “Các triết gia không mục lên như nấm từ trái đất, họ là sản
phẩm của thời đại đại, của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất quý giá và vô hình được
tập trung lại trong những tư tưởng của Triết học”.

Hay như G.V.Hegel, ông cho rằng sự ra đời của các học thuyết Triết học đó là “sự tất
yếu” coi “triết học là tinh hoa của thời đại mình, và do đó nó thực hiện chức năng được xã
hội phó thác trong phạm vi của thời đại và chỉ khi đó tính tích cực tuy duy triết học mới
được phát huy”.
C.Mác và Hegel đã đưa ra đúng vấn đề mấu chốt về sự ra đời của triết học, bản thân
triết học không chỉ là hệ thống tư tưởng đơn thuận mà thông qua hệ tư tưởng đó mà con
người có thể nhận diện ra cục diện của thời đại, những gì mong muốn của giai cấp, mong
muốn của thời đại. Có như vậy ở trong phạm vi của thời đại, chức năng được xã hội phó
thác mới thật sự được coi là “tất yếu” cho sự phát triển của xã hội.
- Với tư cách là hình thái ý thức xã hội đặc biệt và chúng nhất, Triết học nếu phản
ánh đúng xu thế của thời đại thì nó sẽ là tiền đề, là cơ sở lý luận cho giai cấp xã hội tiến bộ
thực hiện sứ mệnh của mình, nó chi phối hoạt động thực tiễn ở tất cả các lĩnh vực về đời
sống xã hội. Từ đó nó trở thành động lực về mặt tinh thần thúc đẩy cho sự phát triển của xã
hội.

Trang 13


KẾT LUẬN
Qua sự khảo sát sơ lược về vai trò của triết học trong sự phát triển của kinh tế - xã
hội có thể rút ra một số nhận xét như sau:
- Có thể nói triết học là một môn khoa học chân chính, là hệ thống các quy luật
chung nhất chứ không phải tập hợp những tư tưởng giải thích thế giới của những Triết gia,
hay của những nhà tư tưởng. Phạm vi nghiên cứu của triết học bao gồm: từ tự nhiên, xã hội
đến cả tư duy logic của con người. Bên cạnh đó triết học cũng là một hình thái ý thức xã
hội, xét về tính chất này thì triết học nó phủ định tính chất của một khoa học chuyên ngành,
vì là môn khoa học đặc biệt nên triết học mới có thể coi thế giới như “một chỉnh thể thống
nhất”
- Sự tác động của tư tưởng triết học và vai trò của nó đối với sự phát triển của kinh tế
- xã hội là cơ sở thúc đẩy cho kinh tế - xã hội phát triển một cách đúng đắn, bền vững. Triết

học đem lại cho người cách nhìn trực quan, cụ thể, toàn diện đối với hiện thực khách quan.
Để từ đó con người mới có thể đề ra hướng đi của mình một cách đúng đắn, hiệu quả góp
phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội.

Trang 14


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác – Lênin
Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà nội - 2003
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
NXb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.8.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.23.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.57.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
NXb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.112.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.71.

Trang 15



×