Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

vấn đề NHẬN THỨC LUẬN TRONG TRIẾT học tây âu cận đại (4)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.34 KB, 21 trang )

***

TIỂU LUẬN
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC- LÊ NIN
VẤN ĐỀ NHẬN THỨC LUẬN TRONG TRIẾT HỌC TÂY ÂU
CẬN ĐẠI

Học viên

:

Lớp

:

HÀ NỘI, THÁNG 12-2017

1


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU……………………………………………………………….

1

NỘI DUNG
I. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI
KỲ CẬN ĐẠI…………………………..............................................

3



1. 1. Ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản……………….......................

3

1.2. Liên minh giữa triết học và khoa học tự nhiên..............................

4

1.3. Hình thành hai khuynh hướng chủ đạo trong nhận thức.................

5

1.4. Tư tưởng nhân văn, khai sáng......................................................

7

II. NHẬN THỨC LUẬN TRONG TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI KỲ
CẬN ĐẠI.........................................................................................

8

2.1. Chủ thể nhận thức, và khách thể nhận thức………………….........

8

2.2. Vấn đề phương pháp nhận thức.……………………………….......

14


2.3. Đề cao nhận thức lý tính...............................................................

16

KẾT LUẬN ……………………………………………………………

20

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………

21

MỞ ĐẦU

Thời cận đại (thế kỷ XVII - XVIII) ở các nước Tây Âu là thời kỳ giai
cấp tư sản đã giành được thắng lợi chính trị (Cách mạng tư sản Hà Lan cuối thế
kỷ XVI; Cách mạng tư sản Anh thế kỷ XVII và Cách mạng tư sản Pháp thế kỷ
XVIII). Trong số các cuộc Cách mạng tư sản Tây Âu, thì Cách mạng tư sản
2


Pháp (1789 - 1794) là cuộc cách mạng triệt để nhất - nó xóa bỏ toàn bộ chế độ
phong kiến trung cổ, xác lập nền cộng hòa tư sản Pháp.
Phương thức sản xuất tư bản được xác lập và trở thành phương thức sản
xuất thống trị, công nghiệp và kỹ thuật rất phát triển. Đây là thời kỳ chuyển từ
nền “ văn minh nông nghiệp” sang “văn minh công nghiệp”, là thời kỳ phát triển
mạnh mẽ thị trường, tạo ra thị trường thống nhất toàn quốc và mở rộng thị
trường quốc tế.
Khác với thời kì Phục hưng, thời cận đại (thế kỷ XVII-XVIII) ở các nước
Tây Âu là thời kì giai cấp tư sản đã giành được thắng lợi về chính trị trước giai

cấp phong kiến. Ba cuộc cách mạng tư sản lớn đã nổ ra và thành công: Cách
mạng tư sản Hà Lan cuối thế kỷ XVI; Cách mạng tư sản Anh (1642-1648); Cách
mạng tư sản Pháp (1789-1794). Đây cũng là thời kì phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa được xác lập và trở thành phương thức sản xuất thống trị Tây Âu. Nó
tạo đã tạo ra những vận hội mới cho khoa học, kĩ thuật phát triển mà trước hết là
khoa học tự nhiên, trong đó cơ học đã đạt tới trình độ là cơ sở cổ điển. Đặc điểm
của khoa học tự nhiên thời kì này là khoa học tự nhiên - thực nghiệm. Đặc trưng
ấy tất yếu dẫn đến thói quen nhìn nhận đối tượng nhận thức trong sự trừu tượng
tách rời, cô lập, không vận động, không phát triển, nếu có nói đến vận động thì
chủ yếu là vận động cơ giới, máy móc. Đó là nguyên nhân chủ yếu làm cho triết
học duy vật thời kỳ này mang nặng tính máy móc siêu hình.
Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, tác giả lựa chọn đề tài: “Vấn đề nhận
thức luận trong triết học Tây Âu cận đại” làm tiểu luận kết thúc môn học.

NỘI DUNG
I. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI
KỲ CẬN ĐẠI
1. 1. Ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản
3


Được chuẩn bị từ phong trào văn hóa nhân văn Phục hưng (cuối thế kỷ
XIV – đầu thế kỷ XVII), triết học thế kỷ XVII-XVIII đã trở thành ngọn cờ lý
luận của giai cấp tư sản và các lực lượng xã hội tiến bộ khác trong cuộc đấu
tranh chống ý thức hệ phong kiến lỗi thời. Cuộc đấu tranh này diễn ra ở nhiều
bình diện: duy vật chống duy tâm thần bí, khoa học chống chủ nghĩa giáo điều
và uy quyền tư tưởng, cải cách chính trị chống bảo thủ chính trị…Tính chất tiến
bộ của triết học thời kỳ này được minh chứng bằng tinh thần hoài nghi và phê
phán khoa học, bằng ưu thế của chủ nghĩa duy vật trước chủ nghĩa duy tâm.
Nếu triết học thế kỷ XVII chú trọng đến phê phán tri thức, trước hết là tri

thức kinh viện trung cổ, thì triết học thế kỷ XVIII, điển hình là triết học Khai
sáng Pháp, kết hợp phê phán tri thức với phê phán xã hội, từ đó hình thành hai
xu hướng vận động song song với nhau – cải tổ hoạt động tinh thần và cải tổ
môi trường xã hội. So với thời Phục hưng, giai cấp tư sản thế kỷ XVII – XVII
đóng vai trò lực lượng chính trị độc lập cách mạng, tập hợp xung quanh mình
các nhân tố tích cực, tiến bộ, tấn công trực diện vào chế độ phong kiến và nền
tảng tinh thần của nó, xác lập những chuẩn mực, giá trị mới, đon giản hóa các
quan hệ xã hội, phù hợp với sự vận động lịch sử. Thời Phục hưng thể hiện quá
trình chuyển tiếp từ chế độ phong kiến sang chủ nghĩa tư bản, còn thời đại mới
đã là thời đại của các cuộc cách mạng tư sản và sự hình thành xã hội tư sản, với
những đặc trưng mà xã hội trước đó chưa thể có được.
Phục hưng về cơ bản gắn liền với sự trở về những giá trị bị lãng quên, để
từ đó thực hiện sự nhận thức lại quá khứ và mở hướng cho tương lai. Thế kỷ
XVII – XVIII tiếp thu tinh thần mở đó, và làm cho nó trở nên hiện thực thông
qua cuộc cách mạng cơ cấu, nghĩa là cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi quan hệ
và cơ cấu xã hội, thay đổi hình thức và cơ chế quyền lực chính trị, phá vỡ các
đặc quyền đẳng cấp, thay đổi quan hệ giữa nhà nước và nhà thờ v.v.. Cách mạng
trong lý trí đi trước cách mạng trong lĩnh vực thực tiễn, các học thuyết triết học
thực hiện quá trình phê phán cái cũ, cái lỗi thời, xác lập cái mới, cái tiến bộ, xem
cái đang tồn tại, tức chế độ phong kiến và hệ tư tưởng của nó là cái phi lý, cũng
4


đồng thời là phi nhân tính, đòi hỏi thay thế nó bằng cái hợp lý – hơp nhân tính,
theo quan điểm phổ biến về sự thống nhất lý trí – nhân tính. Bacon, Descartes,
Spinoza, Locke, Montesquieu, Voltaire, Rousseau, Diderot, Holbach …đều bắt
đầu học thuyết của mình bằng tinh thần hoài nghi và phê phán như thế.
1.2. Liên minh giữa triết học và khoa học tự nhiên
Sự phát triển của triết học gắn kết chặt chẽ, hữu cơ với sự phát triển của
khoa học tự nhiên, thể hiện trình độ nhận thức chung của thời đại. Nhiều nhà

triết học đồng thời là nhà khoa học (Descartes, Newton, Pascal , Leibniz …)
hoặc có những am hiểu sâu sắc về khoa học, trở thành bộ óc bách khoa của thời
đại (Diderot chẳng hạn). Nói khác đi, trong điều kiện khoa học phát triển như vũ
bão, các nhà triết học, để có thể đứng vững trong cuộc luận chiến tư tưởng,
không có nhu cầu nào khác hơn là phải am hiểu những thành quả của khoa học.
Mà để đạt được điều đó họ cần tự mình tìm hiểu, nghiên cứu các lĩnh cực khoa
học, cần mài sắc tư duy bằng sự hiểu biết về bức tranh khoa học tổng thể, hoặc
chí ít cũng làm quen với môi trường khoa học ở những nét căn bản nhất.
Nhờ biết bám sát vào những thành tựu của khoa học tự nhiên và trình độ
nhận thức chung của xã hội, các nhà triết học đã xác lập bức tranh vật lý mới về
thế giới, nắm bắt những tính quy luật khách quan của nó, đào sâu một số vấn đề
bản thể luận mà trước đây chưa từng biết đến. Song ảnh hưởng của khoa học tự
nhiên đến tư duy tríết học cũng làm nảy sinh những nan giải nhất định. Trước
hết, sự thống trị của cơ học đã để lại dấu ấn trong triết học bằng quan điểm máy
móc về thế giới, cả giới tự nhiên lẫn thế giới của chính con người. Tiếp theo, quá
trình toán học hóa tư duy bên cạnh mặt tích cực của nó đã góp phần vào việc
hình thành cách tiếp cận siêu hình đối với một số lĩnh vực tự nhiên, xã hội, chủ
trương đưa khoa học chính xác vào môi trường nhân văn. Chẳng hạn, theo
Hobbes, nếu chúng ta đã có vật lý học, nghiên cứu cụ thể về các vật thể tự nhiên,
thì cần thiết phải xác lập “vật lý xã hội”, tìm hiểu các vật thể nhân tạo.

5


Nếu trong tự nhiên có lực đẩy và lực hút, thì trong xã hội, hai lực ấy là
chiến tranh và hoà bình! Hobbes cũng xem logic tính toán là khoa học nhập môn
của các lĩnh vực khác. Rất nhiều nhà triết học không chỉ lệ thuộc vào các nguyên
lý cơ học trong nghiên cứu, mà còn từ đó hình thành phương pháp tư duy theo
kiểu tách rời và đem đối lập một cách tuyệt đối “đúng – sai”, “trắng – đen”,
“khoa học – không khoa học”… Phương pháp tư duy của Siêu hình học thế kỷ

XVII – XVIII có những mặt tích cực nhất định, nhất là trong điều kiện các nhà
khoa học cần đến “những chứng cứ của lý trí” để chống các hình thức nguỵ tạo
khoa học và triết học kinh viện. Song phương pháp ấy lại tỏ ra không thích hợp
trong việc giải thích bản chất của thế giới đang biến đổi. Vấn đề là ở chỗ, trong
khi tìm hiểu những mặt, những thuộc tính của sự vật, những lĩnh vực của đời
sống, các nhà triết học và khoa học chưa vạch ra một cách thỏa đáng mối liên hệ
và tác động lẫn nhau giữa chúng, hoặc tuyệt đối hóa mặt nào đó, đồng thời lý
giải thiếu thuyết phục nguyên nhân, động lực của vận động và phát triển. Hình
thức thứ hai của chủ nghĩa duy vật, tức chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII
cũng chịu sự quy định của tính chất máy móc, siêu hình ấy, và được gọi là chủ
nghĩa duy vật máy móc – siêu hình, hay đơn giản là chủ nghĩa duy vật siêu hình.
1.3. Hình thành hai khuynh hướng chủ đạo trong nhận thức
Sự quan tâm đến nhận thức đáp ứng đòi hỏi của con người trong điều kiện
bùng nổ các khám phá và phát minh khoa học, phát triển lực lượng sản xuất. Có
thể xác định một số đặc trưng của lý luận nhật thức thế kỷ XVII – XVIII. Một
là, cùng với việc các khoa học cụ thể về tự nhiên và xã hội tách dần khỏi triết
học, đã diễn ra sự thay đổi tất yếu của đối tượng triết học: các nhà triết học ngày
càng tập trung sự chú ý vào việc giải quyết cùng lúc hai mặt của một vấn đề lớn,
mà thiếu một trong số chúng, triết học sẽ mất đi vai trò xã hội của mình – mặt
bản thể luận và mặt nhận thức luận – lôgíc học.
Hai là, sự thay đổi căn bản trong quá trình phát triển của khoa học tự
nhiên, sự xuất hiện ngày càng nhiều các phương pháp chuyên biệt đối với các
lĩnh vực khoa học tự nhiên và lịch sử đặt ra trước triết học nhiệm vụ khái quát
6


các thành quả của chúng và xây dựng phương pháp triết học chung của nhận
thức, cũng như làm sáng tỏ mối quan hệ giữa triết học với các khoa học chuyên
biệt. Nhu cầu phân tích mang tính nhận thức luận đối với các kết quả nghiên cứu
khoa học trở nên cấp bách, bởi lẽ các chất liệu tiềm tàng và đa dạng do khoa học

đem đến cần được luận chứng và hệ thống hóa. Mặt khác, từ việc xử lý chất liệu
cần vạch ra con đường nhận thức tiếp theo về thế giới. Chính vì thế các nhà tư
tuởng đặt trọng tâm vào việc tìm kiếm phương pháp luận chung và làm sáng tỏ
bản chất của tư duy. Ba là, những thành tựu trong nghiên cứu khoa học và những
thay đổi trong phương pháp luận nghiên cứu cũng đặt ra nhiệm vụ tìm hiểu bản
chất của quá trình nhận thức và nguồn gốc tri thức.
Việc hình thành các phương pháp nhận thức khác nhau nhằm đạt đến mục
đích khẳng định quyền lực của con người trước tự nhiên, giúp con người làm
chủ tự nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân. Tuyên bố của Bacon “tri thức là
sức mạnh” đã trở thành tuyên ngôn của thời đại. Từ thế kỷ XVII trở đi vấn đề
phương pháp trở thành một ntrong những chủ đề chính của các cuộc tranh luận
triết học, góp phần xác định giá trị của mỗi học thuyết trong đời sống xã hội.
Thậm chí một số nhà triết học đã quy giản đối tượng của triết học về phương
pháp.
Trong quá trình tranh luận về phương pháp nhận thức đã hình thành nên
hai khuynh hướng chủ đạo là kinh nghiệm (empiricism), do Francis Bacon khởi
xướng, và duy lý (rationalism), do Réne Descartes đứng đầu. Khuynh hướng thứ
nhất chú trọng vai trò của khoa học thực nghiệm, khuynh hướng thứ hai nhấn
mạnh vai trò của toán học và xu thế toán học hóa tư duy. Sự khác nhau giữa hai
khuynh hướng đó đề cập đến vấn đề nguồn gốc của tri thức, bản chất của nhận
thức, phương pháp nhận thức cụ thể. Hạn chế của cả hai khuynh hướng trên thể
hiện ở tính phiến diện, không thấy được biện chứng của quá trình nhận thức từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, không biết kết hợp cả hai phương
pháp – quy nạp và diễn dịch – trong quá trình nhận thức và nghiên cứu khoa
học.
7


Nhìn chung, Triết học và khoa học thế kỷ XVII-XVIII chưa chấm dứt hẳn
những liên hệ với tôn giáo và thần học, thể hiện ở các phương án dung hòa giữa

các quan điểm, các cách tiếp cận dường như đối lập nhau, đó là quan niệm hai
chân lý (chân lý khoa học và chân lý thần học, đức tin đều có chỗ đứng trong
tâm hồn con người), phiếm thần, thần luận tự nhiên. Tuy nhiên so với thời đại
trước, những liên hệ này không tỏ ra nặng nề, thậm chí mang ý nghĩa tích cực
nhất định: 1) phù hợp với điều kiện lịch sử, xã hội hiện có; 2) các nhà triết học
đôi khi sử dụng phiếm thần và thần luận tự nhiên trong cuộc đấu tranh vì tự do
tín ngưỡng và tôn vinh những giá trị của con người. Điều này giải thích vì sao
trong chủ nghĩa duy vật hiện diện đầy đủ các phương án vừa nêu, từ Bacon,
Descartes đến Spinoza, Locke, phần lớn các nhà khai sáng Pháp thế kỷ XVIII.
Hình ảnh Thượng đế trong nhiều trường hợp trở thành biểu tượng cao nhất của
sự hoàn thiện lý trí. “Tự nhiên thần luận, ít ra là đối với nhà duy vật, chỉ là một
phương pháp thuận tiện và dễ dàng để thoát khỏi tôn giáo”1.
1.4. Tư tưởng nhân văn, khai sáng
Tư tưởng nhân văn, khai sáng làm nên một trong những nội dung cốt lõi
của triết học Cận đại. Quan điểm của Bacon về xã hội lý tưởng, được xây dựng
trên cơ sở “quyền lực của tri thức” cho đến nay vẫn còn ý nghĩa thời sự. Nếu
Bacon tuyên bố “tri thức là sức mạnh”, thì Hobbes nhấn mạnh rằng quyền lực
cần phải hàm chứa yếu tố tri thức, nghĩa là được xác lập trên sự hiểu biết bản
chất con người, hướng đến mục tiêu ổn định chính trị, chủ quyền quốc gia và
thống nhất ý chí toàn dân. Locke trở thành người đặt nền móng cho quan điểm
nhà nước pháp quyền, được các nhà khai sáng Pháp thế kỷ XVIII phát triển và
hoàn thiện ở đêm trước của cách mạng tư sản. Hình ảnh “con người lý trí” và
“nhà nước hợp lý tính”, quan niệm về tự do, bình đẳng, bác ái, dân chủ … không
chỉ gợi mở con đường đi tới một trật tự xã hội khác với chế độ phong kiến “phi
lý” và phi nhân tính, ngự trị suốt hàng ngàn năm, mà còn là mục tiêu phấn đấu
của nhiều dân tộc. Một số phác thảo của các nhà khai sáng về mô hình xã hội
1

C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t.2, CTQG, HN, 1995, tr. 197.


8


tương lai cho đến nay vẫn còn là mục tiêu phấn đấu của nhiều dân tộc. Với
những đặc trưng vừa nêu, có thể nói rằng, thế kỷ XVII – XVIII là một trong
những thời đại sôi động nhất trong lịch sử loài người
II. NHẬN THỨC LUẬN TRONG TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI KỲ
CẬN ĐẠI.
2.1. Chủ thể nhận thức, và khách thể nhận thức.
Sự phê phán triết học kinh viện và thế giới quan Trung cổ là nét đặc trưng
của các nhà triết học Tây Âu Cận đại có tư tưởng tiến bộ. Ph.Bêcơn và
R.Đêcáctơ đều coi lý tính là một lực lượng bản chất của con người; coi chủ thể
nhận thức vừa có lý tính, vừa có tự ý thức. Đối với các ông, chủ thể nhận thức là
con người sống và tư duy trong xã hội, nhưng đó không phải là cá nhân kinh
nghiệm mà là chủ thể trừu tượng. Phương pháp nhận thức mà các nhà triết học
Tây Âu Cận đại xây dựng yêu cầu những luận điểm xuất phát phải có tính chân
thực và được duy trì trong suốt quá trình nghiên cứu. Theo họ, trực giác trí tuệ là
năng lực nhận thức cao nhất của con người và phụ thuộc vào trình độ tư duy
lôgíc. Có thể nói, các nhà triết học Tây Âu Cận đại đã khẳng định tính tích cực
của chủ thể nhận thức, nhưng họ lại không chứng minh được trong khuôn khổ
của chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy tâm.
Sự phê phán triết học kinh viện và thế giới quan Trung cổ là nét đặc trưng
cho tất cả các nhà triết học Tây Âu Cận đại có tư tưởng tiến bộ. Ph.Bêcơn là
người mở đầu cho sự phê phán “thanh lọc” này. Ông tự xác định cho mình
nhiệm vụ “phục hồi sự giao tiếp dưới hình thức tốt nhất giữa trí tuệ và sự
vật”(1). Khả năng duy nhất để hoàn thành nhiệm vụ này, theo ông, là phải quay
về với sự vật bằng phương tiện tốt nhất, phương tiện đó là tự nhiên và việc
nghiên cứu tự nhiên là khuynh hướng cơ bản cho sự nghiệp cải cách khoa học.
Với quan niệm đó, Ph.Bêcơn công khai thừa nhận mối liên hệ trực tiếp của ông
với truyền thống triết học duy vật Cổ đại mà Anaxago và Đêmôcrit là hai đại

biểu lớn nhất. Tiến hành phê phán triết học kinh viện Trung cổ từ lập trường lý
9


luận của hai nhà triết học duy vật này, song, Ph.Bêcơn không phủ định thần học
một cách tuyệt đối. Ông để lại cho thần học một lĩnh vực nghiên cứu – đó là
Thượng đế và phương tiện tiếp xúc với Thượng đế là niềm tin và sự mặc khải.
Tuy nhiên, lý luận hai chân lý ở Ph.Bêcơn đã cho thấy thái độ phê phán
của ông đối với hệ tư tưởng phong kiến. Ông coi hệ tư tưởng phong kiến chính
là cái đã hạn chế quyền lực của lý tính con người. Đối tượng chủ yếu của triết
học, theo ông, là giới tự nhiên, còn các phương tiện để đạt đến sự nhận thức giới
tự nhiên là lý trí, lý tính, trí nhớ, ý nguyện của con người. Trong khi nghiên cứu
tự nhiên và con người, triết học cần dựa vào các phương tiện nhận thức khoa học
là kinh nghiệm và sự quan sát. Do vậy, có thể coi quan niệm về hai chân lý của
Ph.Bêcơn là sự luận chứng triết học cho quan hệ giữa con người và giới tự
nhiên, là ý định đầu tiên nhằm gạt bỏ mối quan hệ đó ra khỏi các mưu đồ của
thần học.
Thần luận là hình thức phê phán triết học phổ biến nhất đối với tôn giáo ở
thế kỷ XVII. Xu hướng cơ bản của nó là “giảm thiểu” vai trò của Thượng đế,
coi Thượng đế chỉ là nguyên nhân đầu tiên cho sự xuất hiện một thế giới phát
triển theo các quy luật riêng của nó. Giới tự nhiên (trừ thời điểm xuất hiện) tồn
tại khách quan, vận động theo các quy luật tự nhiên vốn có của nó. Về phương
diện nhận thức luận, giới tự nhiên được nhận thức là khách thể tự nhiên chung.
Con người là một thực thể tự nhiên; lý tính là đặc tính riêng, vốn có ở con
người. Lý tính, theo R.Đêcáctơ, là sức mạnh do tự nhiên gieo trồng vào trí tuệ
con người(2).
Điều đó cho thấy, trong quan niệm của R.Đêcáctơ về lý tính con người,
ngoài tư tưởng về bản chất tự nhiên của năng lực tư duy hợp lý, còn bao hàm tư
tưởng về sự bình đẳng của con người đối với năng lực tư duy ấy. Quan niệm như
vậy về lý tính con người cho phép xem xét cá nhân trừu tượng với tư cách chủ

thể nhận thức, chủ thể phổ biến, khác biệt với cá nhân cụ thể, kinh nghiệm. Con
người trừu tượng ấy là con người có “tâm hồn lý tính” (Bêcơn), có “sức mạnh trí
tuệ tự sinh” (Lốccơ), có cảm xúc và tình cảm cao nhất, được trung gian hóa bởi
10


một thực thể có tư duy đặc biệt (Đêcáctơ). Các phẩm chất này đem lại cho con
người năng lực tư duy tích cực, có khả năng sáng tạo và định hướng quan hệ tích
cực của nó với thế giới. Tuy nhiên, nguồn gốc của năng lực này lại không được
các nhà triết học thế kỷ XVII xem xét một cách chuyên sâu. Họ mới dừng lại ở
việc mô tả các chức năng tự giám sát của lý tính, cố gắng giải thoát nó khỏi sự
thần bí, khỏi quan niệm ảo tưởng của khoa học.
Ph.Bêcơn không phê phán văn hóa phong kiến một cách trừu tượng,
chung chung, mà phê phán chủ thể nhận thức của nó, phê phán đại diện của nền
văn hóa này (ý thức hệ phong kiến). Khách thể chủ yếu của sự phê phán này là
trí tuệ, là ý thức của chủ thể mà xét theo bản chất, chúng có đủ các khả năng để
nhận thức các sự vật tự nó, song lại bị nhiễm các ảo tưởng sai lầm của ý thức hệ
phong kiến, chịu sự chi phối của các thiên kiến nào đó. Ph.Bêcơn hướng mọi nỗ
lực của mình vào việc gạt bỏ quan hệ nhận thức khỏi sự chủ quan hóa, phân định
trong nhận thức những gì thuộc về con người và những gì thuộc về thế giới. Với
mục đích đó, ông tiến hành nghiên cứu quá trình khách quan hóa tri thức, tìm
kiếm điều kiện đồng nhất giữa nội dung của hoạt động nhận thức với quy luật
tác động khách quan. Không đi sâu vào nguồn gốc của các vấn đề này, Ph.Bêcơn
chỉ đơn giản xuất phát từ sự trùng hợp ban đầu giữa lý tính với tư cách một lực
lượng của tự nhiên và lý tính với tư cách một lực lượng cần phải “gột rửa” của
chủ thể nhận thức.
R.Đêcáctơ cũng chủ trương phủ định một cách triệt để những ảnh hưởng
sai lầm từ các tư tưởng và nền văn hóa của xã hội cũ. Ông tỏ thái độ phê phán
gay gắt đối với triết học kinh viện, đối với chủ nghĩa hoài nghi – thứ chủ nghĩa
đã khẳng định hoài nghi chỉ để hoài nghi chứ không phải để tìm kiếm các cơ sở

sâu xa và vững chắc của nhận thức và hành động. Bản thân tên gọi tác phẩm của
R.Đêcáctơ - “Mặc tưởng về phương pháp để điều khiển tốt lý tính của mình và
tìm kiếm chân lý trong khoa học” đã cho thấy rõ mục đích nghiên cứu của ông.
Nguyên tắc hoài nghi phổ biến đối với R.Đêcáctơ là phương tiện tìm kiếm
các cơ sở nền tảng của quan hệ nhận thức giữa con người và thế giới. Việc
11


nghiên cứu nguồn gốc của nhận thức và năng lực tư duy của chủ thể nhận thức
đã đưa R.Đêcáctơ đến tư tưởng khẳng định tính thiết yếu của sự hoài nghi trong
mọi lĩnh vực nghiên cứu. Phân tích một cách sâu sắc các vấn đề này, R.Đêcáctơ
đi đến kết luận về tính hạn chế của sự phản ánh bằng cảm tính, về tính ảo tưởng
của nó và đôi khi còn là tính vô căn cứ hoàn toàn của nó. Hạn chế của nhận thức
cảm tính, theo ông, không thể khắc phục được bằng việc hoàn thiện kỹ thuật.
Thí nghiệm có thể giúp đỡ cho con người phát hiện ra các quy luật của tự nhiên,
nhưng nó cũng là phương tiện không đầy đủ, vì sự tác động của các sự vật tự
nhiên bao giờ cũng phụ thuộc vào các giác quan nhất định. Theo R.Đêcáctơ,
nguyên nhân cơ bản sinh ra tính hạn chế của nhận thức cảm tính là ở chỗ, cảm
giác có quan hệ với “liên minh giữa thể xác con người và tâm hồn”, cảm giác
thực hiện vai trò của cái có thể chỉ ra giá trị của sự vật đối với con người và chỉ
“đôi khi và một cách ngẫu nhiên, nó mới cho thấy thể xác tự nó là gì”(3).
Tri thức về khách thể được hình thành bởi lý tính và bằng con đường phân
tích, theo R.Đêcáctơ, cũng là hạn chế và không hoàn toàn đáng tin cậy. Bởi
không có gì bảo đảm rằng giữa chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức không
được trung gian hóa bởi Đấng toàn năng (Thượng đế). Thượng đế đã đặt giữa
chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức một thế giới ảo thay cho các sự vật
hiện thực. Do sự trung gian hóa này, R.Đêcáctơ khẳng định, con người không
thể coi tri thức về bản chất đơn giản của sự vật là chân lý đáng tin cậy. Con
người chỉ có thể tin vào chính bản thân mình, vào lôgíc của lý tính của riêng
mình.

Cơ sở duy nhất và vững chắc để đạt tới chân lý, theo R.Đêcáctơ, là sự tin
tưởng vào thực tế tồn tại của bản thân tư duy. Sự hoài nghi chứng minh tính thực
tại của tư duy, còn việc xác định tính thực tại của tư duy lại chứng thực cho sự
tồn tại của “cái Tôi”. “Cái Tôi” tư duy được R.Đêcáctơ coi là tiền đề cơ bản, là
nền tảng của nhận thức khoa học.
Như vậy, có thể nói, nét đặc trưng cho cả Ph.Bêcơn và R.Đêcáctơ là tư
tưởng coi lý tính là một trong các lực lượng bản chất của con người. Với tư
12


tưởng này, các ông đã nghiên cứu và lý giải quan hệ hợp lý giữa con người và
thế giới, coi quan hệ này là cái được hình thành bởi sự thống nhất trong mâu
thuẫn giữa sự phản ánh và sự phản tư có giám sát của chủ thể. Chủ thể nhận
thức, một mặt, có lý tính với tư cách “ánh sáng tự nhiên”; mặt khác, có tự ý
thức với tư cách cái phản ánh quan hệ hợp lý đó và có thể giải phóng “ánh sáng
tự nhiên” của lý tính khỏi các ảo tưởng, hướng nó vào việc đạt tới chân lý.
Trong nền triết học Tây Âu Cận đại, vấn đề mối quan hệ giữa chủ thể
nhận thức và khách thể nhận thức được coi là đối tượng nghiên cứu đặc biệt. Cái
được luận chứng về mặt lý luận ở đây là quan niệm về sự khách quan hóa nhận
thức, về tính thích hợp của phương pháp, cấu trúc của nhận thức khoa học và
vấn đề các năng lực của chủ thể nhận thức. Các nhà triết học Tây Âu Cận đại
coi chủ thể nhận thức là con người sống và tư duy trong xã hội. Song, đó không
phải là cá nhân kinh nghiệm, mà là chủ thể trừu tượng. Đó cũng không phải là
Thượng đế của thần học, không phải là chủ thể theo quan niệm của các nhà triết
học thuộc trường phái Xtoíc – chủ thể hướng tới tính phổ biến và tìm kiếm sự
bảo vệ của mình ở đó, không phải là con người hoài nghi cổ đại. Đó là con
người tin vào sức mạnh của mình, vào sức mạnh của tư duy của mình. Chủ thể
nhận thức ấy luôn hướng tới tự nhiên để xây dựng quan điểm đúng đắn, xác thực
về sự vật, xây dựng phương pháp khoa học, dựa vào khoa học tự nhiên kinh
nghiệm. Trong nhận thức, chủ thể ấy không tin vào Thượng đế, mà tin vào bản

thân mình.
Xét về phương diện này thì việc phân tích luận điểm “Tôi tư duy, vậy tôi
tồn tại” của R.Đêcáctơ có một ý nghĩa đặc biệt. “Tôi tư duy…” ở R.Đêcáctơ cho
thấy, ông chủ trương chống lại thần học, “gột rửa” quan hệ nhận thức của con
người với giới tự nhiên và với chính bản thân mình khỏi mọi cái siêu nhiên, mọi
cái trung gian, thần bí. Theo nghĩa đó thì “Tôi tư duy…” của R.Đêcáctơ có thể
được hiểu là “Người tư duy là Tôi, chứ không phải là Thượng đế”. “Tôi tư
duy…” còn cho thấy có sự hiện diện của chủ thể có ý thức (Tôi tư duy về thế
giới) và sự hiện diện của tự ý thức (Tôi khẳng định rằng tôi đang tư duy). Luận
13


điểm này cho thấy, R.Đêcáctơ đề cao cả lý tính với tư cách “ánh sáng tự nhiên”
lẫn lý tính với tư cách tự ý thức và là cái có khả năng giám sát “ánh sáng tự
nhiên” đó, làm cho nó phù hợp với các quy luật của tự nhiên. Với quan niệm đó,
R.Đêcáctơ khẳng định chủ thể nhận thức là chủ thể có ý thức về đối tượng và ý
thức về chính bản thân mình. Rằng, sự tương tác giữa ý thức về đối tượng và ý
thức về bản thân mình thực hiện chức năng sáng tạo của nhận thức con người.
Luận điểm “Tôi tư duy…” của R.Đêcáctơ đã đi vào lịch sử triết học với tư
cách một câu phương ngôn, có nội dung và ý nghĩa sâu sắc. Luận điểm ấy biểu
thị xu hướng định hướng nhận thức về phía chủ thể hiện thực, tức là chuyển từ
Thượng đế sang con người. Nói cách khác, ông chuyển tính chủ động trong
nhận thức, các năng lực và khả năng nhận thức thế giới khách quan cho con
người. Trong quá trình nhận thức, con người quan sát giới tự nhiên, con người là
tác giả của các giả thuyết và là người tổ chức kiểm tra các giả thuyết, xây dựng
các học thuyết lý luận. Nghiên cứu những đặc điểm của quan hệ nhận thức, con
người có khả năng lựa chọn và xây dựng các phương tiện nhận thức, nghiên cứu
các điều kiện đảm bảo sự phù hợp của tư duy với các quy luật của bản thân giới
tự nhiên.
Các tác giả của học thuyết về phương pháp không dừng lại ở việc khẳng

định lý tính có thể đạt tới các bản chất đơn giản nhất của sự vật, họ còn đặt ra
vấn đề tổng hợp các tri thức đơn giản và rõ ràng thành hệ thống chỉnh thể. Xuất
phát từ việc thừa nhận mối liên hệ nội tại giữa cái chung và cái riêng, họ chỉ ra
con đường phát hiện cái chung trong cái riêng. Tuy nhiên, vấn đề này chỉ được
các nhà triết học Tây Âu thế kỷ XVII – XVIII giải quyết ở cấp độ cái chung trừu
tượng. Cái chung trừu tượng khác với cái chung cụ thể – cái mà theo Hêgen,
“bao hàm cả sự phong phú của cái đặc thù, cái cá thể, cái cá biệt”. Cái chung
trong quan niệm của các nhà triết học Tây Âu Cận đại là một tri thức cá biệt, tồn
tại bên cạnh những đối tượng và thực thể khác, chứ không phải là quy luật tồn
tại và phát triển của các hiện tượng đơn nhất.
2.2. Vấn đề phương pháp nhận thức.
14


Phương pháp nhận thức mà các nhà triết học Tây Âu Cận đại đã xây dựng
luôn cần đến sự giả định phải có các luận điểm xuất phát phù hợp với hiện thực;
cần đến sự giả định các luận điểm là phổ biến và do vậy, cần phải duy trì tính
chân thực của các luận điểm đã được thông qua. Các yêu cầu cơ bản mà chủ thể
nhận thức cần thực hiện trong học thuyết về phương pháp là: 1/ Thừa nhận tính
chân thực của luận điểm xuất phát; 2/ Phải duy trì tính chân thực đó trong suốt
quá trình nghiên cứu. Dấu hiệu cho thấy tính chân thực của tri thức, theo họ, là
tính hiển nhiên của luận điểm không cần đến bất cứ sự chứng minh đặc biệt nào.
Chủ thể nhận thức phải có năng lực xác định – năng lực trực giác trí tuệ mới có
thể hoàn thành chức năng xác lập tính chân thực của tri thức và giám sát việc
duy trì nó. Trực giác trí tuệ, theo họ, là năng lực nhận thức cao nhất của con
người; nó phụ thuộc nhiều vào trình độ phát triển của tư duy lôgíc. Việc xác
nhận bằng trực giác tính chân thực trong các nguyên lý lý luận là kết quả “lao
động nghiêm túc” trước đó của trí tuệ. Trong trực giác này không có gì là siêu
nhiên, thần bí. Theo R.Đêcáctơ, trực giác trí tuệ cần phải chịu trách nhiệm trước
chủ thể nhận thức về tính rõ ràng, chặt chẽ, hiển nhiên của các tiên đề xuất phát,

và cùng với phép diễn dịch, nó phải thực hiện nhiệm vụ duy trì nội dung khách
quan của các tiền đề lý luận trong quá trình nhận thức.
Các luận điểm cơ bản trong học thuyết về phương pháp nhận thức của
R.Đêcáctơ đã được ông cụ thể hóa bằng các quy tắc:
1/ Không thừa nhận bất kỳ cái gì là chân lý trước khi thừa nhận nó là một
chân lý hiển nhiên. Nghĩa là phải cố tránh sự vội vàng và định kiến, chỉ nên đưa
vào phán đoán của mình những gì mà đối với trí tuệ là rõ ràng và hiển nhiên.
2/ Chia mỗi sự vật phức tạp, trong chừng mực có thể làm được, thành các
bộ phận để có được sự tiện lợi nhất trong việc nghiên cứu chúng.
3/ Trong quá trình nhận thức, chủ thể nhận thức cần phải xuất phát từ
những đối tượng đơn giản nhất và dễ nhận thức nhất, đi dần theo các thang bậc
cho tới khi nhận thức được các đối tượng phức tạp nhất.
15


4/ Cần phải xem xét mọi dữ kiện, không được phép bỏ qua bất cứ một tư
liệu nào trong quá trình nhận thức sự vật.
Chủ thể nhận thức chỉ có thể hoàn thành các chức năng nhận thức trong
quá trình nhận thức sự vật trên cơ sở tự ý thức. Vai trò đó của tự ý thức được
R.Đêcáctơ thể hiện rõ trong luận điểm “Tôi tư duy…”. Luận điểm này vạch ra
cấu trúc nội tại của ý thức đang nhận thức – “Tôi tư duy” một cách đồng thời
trên hai bình diện: “Tôi tư duy về thế giới” và “Tôi khẳng định rằng tôi đang tư
duy”. Do vậy, ý thức của con người là sự thống nhất của hai phương diện: ý thức
về đối tượng và ý thức về bản thân mình.
Như vậy, có thể nói, tính tích cực của chủ thể nhận thức đã được các nhà
triết học Tây Âu Cận đại nêu ra, nhưng họ không thể chứng minh được trong
khuôn khổ của chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy tâm. Trong suy
luận của các nhà triết học này, nhận thức của chủ thể dường như chưa với tới
bản thân thế giới, chưa nắm bắt được phương thức giải quyết bằng vật chất đối
với các mâu thuẫn giữa chủ thể và khách thể, xã hội và tự nhiên, cá nhân và xã

hội. Từ lập trường siêu hình, các nhà triết học Tây Âu Cận đại không thể xác
định được tiêu chuẩn chân chính về sự phù hợp của trật tự ý niệm với trật tự sự
vật, bởi theo C.Mác, vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới
chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận, mà
là một vấn đề thực tiễn.
2.3. Đề cao nhận thức lý tính.
Lý tính - theo quan niệm hiện đại là tư duy khoa học và sức mạnh của nó
biểu hiện trong kỹ thuật, công nghệ, trong hoạt động của nhà nước, v.v. - đã từng
có một số phận lịch sử khá đặc biệt trong triết học Tây Âu Cận đại. Từng được
viện đến như một “sức mạnh mà tự nhiên gieo trồng ở con người” (R.Đêcáctơ),
một tiêu chuẩn, một nguyên tắc tối cao trong những nghị luận về chính trị, tôn
giáo, đạo đức, v.v., lý tính dường như đã đạt đến địa vị tột đỉnh trong triết học
Pháp và Đức Cận đại. Nhưng, ngay ở giai đoạn hoàng kim ấy, lý tính đã gặp
16


phải những địch thủ đáng gờm là chủ nghĩa hoài nghi, chủ nghĩa duy vật và nhị
nguyên luận. Điều đáng nói là, những địch thủ ấy lại xuất hiện ngay trong quá
trình phát triển của lý tính với tư cách hệ quả của lý tính cực đoan. Những địch
thủ này tưởng như đã làm cho quyền uy của lý tính bị hạ bệ nhưng rồi, cùng với
sự phục hồi của siêu hình học, lý tính lại một lần nữa tìm được vinh quang vốn
có trong chủ nghĩa duy tâm Đức. Vai trò thực sự của lý tính chỉ được chứng
minh mà không kèm theo bất cứ hào quang giả tạo nào khi siêu hình học nói
chung bị chủ nghĩa duy vật nhất trí với chủ nghĩa nhân đạo đánh gục vĩnh viễn.
Với tư cách thế giới quan của giai cấp tư sản đang lên, triết học Tây Âu
Cận đại thường viện đến những thành tựu của khoa học tự nhiên khi tiến hành
luận chứng cho cái yêu cầu phải xem xét lại - từ lập trường tư sản - toàn bộ điều
kiện tồn tại của đông đảo người lao động. Trên phương diện tư tưởng, với niềm
tin sâu sắc vào những tiến bộ mà khoa học mang lại, phần lớn các triết gia Cận
đại đã vận dụng không những tri thức, mà cả phương pháp tư duy khoa học để

phê phán mọi quyền uy tinh thần trong tất cả các lĩnh vực. Triết học Khai sáng
Pháp - sự chuẩn bị trưc tiếp về mặt lý luận cho cách mạng tư sản Pháp - là bước
phát triển cao độ của định hướng phê phán trên cơ sở khoa học. Bản thân vấn đề
“Khai sáng là gì” từng là chủ đề của cuộc tranh luận sôi nổi giữa các nhà Khai
sáng. Tuy câu trả lời là rất phong phú, song có một điểm chung thống nhất: tất
cả đều thừa nhận thời đại Khai sáng là “thời đại của lý tính”. Quả vậy, thời đại
Khai sáng đã đem lại cho lý tính quyền uy cao nhất, biến nó thành toà án xét xử
tối cao. Lý tính cung cấp tiêu chuẩn để phê phán mọi niềm tin, luật pháp, các tác
phẩm nghệ thuật, những kinh sách thiêng liêng. Trước toà án lý tính, không có gì
là không thể phê phán hay bất khả xâm phạm, không có gì là tuyệt đối thiêng
liêng hay không thể sụp đổ - ngoại trừ bản thân lý tính.
Vậy, lý tính thực chất là gì mà nó được gán cho những sức mạnh ghê gớm
như vậy? Trong suốt thời Cận đại, nhiều quan niệm về lý tính đã xuất hiện,
nhưng có hai quan niệm cơ bản:
17


Thứ nhất, lý tính được hiểu là một năng lực phê phán hay năng lực thẩm
định mọi niềm tin theo những bằng chứng hiển nhiên.
Thứ hai, lý tính là một năng lực lý giải các sự kiện như những trường hợp
riêng của các quy luật mà khoa học đã mang lại.
Nếu quan niệm thứ nhất gắn với khuynh hướng duy lý thì quan niệm thứ
hai gắn với khuynh hướng chủ nghĩa tự nhiên khoa học. Cả hai trường hợp này
vẫn nằm trong phạm trù lý tính. Song, với khuynh hướng thứ nhất, lý tính được
giả định là một năng lực tự trị mang sẵn trong mình những tiêu chuẩn hiển
nhiên; trong khi đó, ở khuynh hướng thứ hai, lý tính được đồng nhất với khoa
học tự nhiên. Chúng tôi muốn lưu ý rằng, không phải chỉ có các nhà duy lý mới
đề cao lý tính và biểu hiện của hai quan niệm trên ở mỗi triết gia là rất phức tạp.
Những vết rạn đầu tiên xuất hiện ngay trong bản thân mỗi quan niệm về
lý tính và do đó, ngay trong mỗi khuynh hướng triết học lấy chúng làm cơ sở.

Vấn đề là ở chỗ, lý tính luôn phải được cấp tiến hoá; bởi lẽ, giới hạn lý tính dưới
bất kỳ hình thức nào đều trái với bản chất của nó, biến nó thành hoặc một thứ
chính sách ngu dân, hoặc một thứ chủ nghĩa giáo điều. Bản chất của lý tính
không chấp nhận bất cứ hạn định và quyền uy nào.
Với tư cách một năng lực phê phán, lý tính dường như dẫn đến hoài nghi
luận. Hoài nghi luận Cận đại, như chúng ta biết, bắt nguồn không chỉ từ Lốccơ,
mà cả từ Đêcáctơ. Ở nước Anh, Hium và Béccơli đã khai thác triệt để sự dao
động của Lốccơ. Còn ở Pháp, Pierơ Bailơ đã bác bỏ siêu hình học của Đêcáctơ
và trở thành “nhà triết học đầu tiên của thế kỷ XVIII” (theo nghĩa là đối lập với
siêu hình học). Không chỉ có những nhà hoài nghi thế kỷ XVIII, mà ngay cả
những nhà hoài nghi thế kỷ XVII, như Sarông và Môntenhơ, đã tuyên bố hoài
nghi là hệ quả tất yếu của sự phê phán cực đoan. Tại sao lại như vậy? Lập luận
của nhà hoài nghi là: yêu cầu phê phán đòi hỏi phải có đủ bằng chứng cho mọi
niềm tin, song dường như - một kết cục không thể tránh - khi chúng ta càng cố
thẩm định những lý do cho niềm tin của mình thì lại càng phát hiện ra rằng,
18


những lý do ấy là không thoả đáng; rằng, những bằng chứng ấy đáng ngờ ở chỗ
chúng không hề hàm chứa cái kết quả được giả định. Kiểu lập luận này có vẻ
đặc biệt đúng với trường hợp niềm tin của con người vào tính thực tại của thế
giới và của những tinh thần khác. Hium đã đưa ra kết luận nổi tiếng mà theo đó,
con người không có lý do gì để tin vào các giác quan và ngay cả khi có thể tin
thì chúng cũng không đủ về “số lượng” và “chủng loại” để đem lại cho ta những
tri thức trọn vẹn về đối tượng tự nó.
Bước quá độ từ định hướng phê phán của lý tính đến hoài nghi luận được
chứng thực bởi sự phát triển của nhận thức luận thế kỷ XVII - XVIII. Nhu cầu
phê phán là một động lực nội tại thúc đẩy nhận thức luận phát triển; bởi lẽ, nếu
như việc thẩm định lý do của niềm tin phải được tiến hành một cách triệt để và
có phương pháp thì người ta buộc phải nghiên cứu những nguồn gốc, điều kiện

và giới hạn của tri thức nói chung. Lịch sử cho thấy sự phát triển của nhận thức
luận từ Lốccơ đến Hium và Béccơli ở Anh, từ Đêcáctơ đến Malơbrăngsơ và
Côngđilác ở Pháp, từ Lépnít đến I.Cantơ ở Đức đều nảy sinh từ yêu cầu phải
thiết lập sự phê phán chặt chẽ và có hệ thống.

19


KẾT LUẬN
Như trên đã nói, Thời kì cận đại là thời kì phát triển rực rỡ của Tây Âu
trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Đó là sự phát triển tiếp tục của chủ nghĩa
tư bản, của khoa học và tư tưởng, trong đó có chủ nghĩa duy vật triết học, nhưng
với những đặc điểm mới. Do vậy nó cũng quy định tính đặc thù riêng vốn có về
nhận thức luận ở thời kỳ này.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của tư tưởng duy vật, vô thần của thời cận
đại, chủ nghĩa duy tâm và thần học buộc phải có những bước cải cách nhất định.
Nhu cầu ấy đã được phản ánh đặc biệt rõ nét trong triết học duy tâm chủ quan
của nhà triết học thần học G.Béccli.

20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t.2, CTQG, HN, 1995, tr. 197.
2. Nguyễn Hữu Vui. Lịch sử triết học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998.
3. Ph. Bêcơn. Tác phẩm gồm 2 tập. Nxb Tư tưởng, Mátxcơva, 1971.
4. R.Đêcáctơ. Các quy tắc để chỉ đạo trí tuệ. Nxb Chính trị Quốc gia, Mátxcơva
1950.
5. R.Đêcáctơ. Tuyển tập. Nxb Chính trị Quốc gia. Mátxcơva 1964.


21



×