Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Sinh Hoạt Chi Bộ của Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.46 MB, 110 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chi bộ là “nền tảng”, “gốc rễ” của Đảng, là hạt nhân lãnh đạo HTCT
(hệ thống chính trị) ở cơ sở, chi bộ là cầu nối trực tiếp giữa Đảng với nhân
dân; chi bộ lãnh đạo đơn vị cơ sở thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thực hiện nhiệm vụ chính
trị của đơn vị cơ sở; xây dựng tổ chức đảng và phát triển đảng viên; làm
công tác vận động quần chúng. Chi bộ có mạnh thì nền tảng của Đảng mới
vững chắc, muốn chi bộ mạnh, trước hết cấp ủy, đảng viên phải nêu cao
trách nhiệm, tính tiên phong trong sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt Đảng. Sinh
hoạt chi bộ và chất lượng sinh hoạt chi bộ là nhân tố quyết định vai trò lãnh
đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, giúp đảng viên nâng cao nhận thức
chính trị, tư tưởng và thực hiện chức năng lãnh đạo, giáo dục của chi bộ.
Sinh hoạt chi bộ có vai trò, tác dụng to lớn đối với xây dựng nội bộ
Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện và sức
chiến đấu của TCCSĐ (tổ chức cơ sở đảng), là khâu cuối cùng bảo đảm thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị đề ra. Cho nên, nếu sinh hoạt của chi bộ bị
buông lỏng, rời rạc, thiếu nội dung chính trị, tư tưởng cụ thể, thiết thực, thì
vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng có nguy cơ suy yếu, vai trò tiên phong,
gương mẫu của cán bộ, đảng viên không được phát huy, kỷ luật lỏng lẻo, các
hiện tượng tiêu cực nảy sinh và phát triển, sự gắn bó giữa Đảng và quần
chúng giảm sút. Thực tế cho thấy, cấp ủy chi bộ, đảng viên nhận thức đúng
vị trí, vai trò, tầm quan trọng của sinh hoạt chi bộ thì ở chi bộ đó tính đảng
được phát huy, công tác xây dựng Đảng được chú trọng, vai trò của cấp ủy,
tính tiền phong gương mẫu của đảng viên và các nhiệm vụ chính trị của chi
bộ đạt kết quả tốt.


2


Nhận thức rõ điều này, trong những năm qua Đảng ta đã có nhiều chủ
trương, giải pháp về xây dựng củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của TCCSĐ, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thực hiện sự
chỉ đạo của Trung ương các cấp uỷ, các tổ chức đảng đã tập trung lãnh đạo,
tạo được chuyển biến tích cực về các mặt công tác xây dựng Đảng. Tuy
nhiên, vẫn còn không ít chi bộ và TCCSĐ bộc lộ những khuyết điểm, yếu
kém. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng đó là do chất
lượng sinh hoạt đảng ở các chi bộ, đảng bộ cơ sở chưa đạt yêu cầu. Do đó,
trong Báo cáo xây dựng Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng (12/1986) đã nhấn mạnh “Phải nâng cao chất lượng sinh hoạt của các
TCCSĐ từ trung ương đến chi bộ, nâng cao chất lượng sinh hoạt của các cấp
ủy là vấn đề quan trọng”. Sau đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
VIII và IX của Đảng đều nêu rõ sự lúng túng, nghèo nàn cả về nội dung và
hình thức trong sinh hoạt chi bộ. Báo cáo xây dựng Đảng tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X của Đảng (4/2006) tiếp tục khẳng định “Không ít cơ sở
đảng yếu kém, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu thấp, sinh hoạt đảng và
quản lý đảng viên lỏng lẻo, nội dung sinh hoạt nghèo nàn; tự phê bình và
phê bình yếu” [19, tr. 27].
Chỉ thị số 10 – CT/TW, ngày 30/3/2007 của Ban Bí thư Trung ương
đã chỉ rõ: Vẫn còn không ít TCCSĐ và chi bộ yếu kém; một bộ phận cán bộ,
đảng viên, trong đó có cả đảng viên lẫn lãnh đạo quản lý ở các cấp suy thoái
về phẩm chất chính trị và đạo đức, lối sống; nhiều cấp uỷ, chi bộ chưa thực
hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt đảng, buông lỏng công tác quản lý, giáo
dục đảng viên; nội dung sinh hoạt chi bộ còn nghèo nàn thiếu nội dung chính
trị, tư tưởng cụ thể; tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu, tinh thần tự
phê bình và phê bình, ý thức tổ chức, kỷ luật yếu kém; tinh thần đoàn kết và
tình đồng chí bị giảm sút; chi bộ chưa thực sự là nơi sinh hoạt tư tưởng để


3

cấp ủy nắm và hiểu tâm tư, nguyện vọng của đảng viên; chi bộ chưa thể hiện
tốt vai trò là nơi lãnh đạo, giáo dục, quản lý, giám sát và rèn luyện đội ngũ
đảng viên. Tình hình đó làm "Suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng,
giảm năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ngay từ chi bộ”[2, tr.3].
Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội, là đảng bộ đặc thù,
TCCSĐ là các cơ quan lãnh đạo và quản lý đầu não trong HTCT của Thành
phố, đảng viên của đảng bộ bao gồm nhiều đồng chí là lãnh đạo cán bộ chủ
chốt của Thành phố. Do vậy, hoạt động của các TCCSĐ, của đội ngũ cán bộ,
đảng viên trong Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội không chỉ có
tác động đến phạm vi trong các cơ quan, đơn vị mà vai trò ảnh hưởng của
chúng có sức lan tỏa đến toàn Thành phố.
Thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương và Thành ủy về
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ. Đảng bộ Khối các
cơ quan Thành phố đã có những chủ trương, biện pháp tích cực lãnh đạo và
chỉ đạo các TCCSĐ trực thuộc đẩy mạnh mọi hoạt động nhằm nâng cao chất
lượng sinh hoạt Đảng. Thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng của Đại hội đại
biểu Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội lần thứ XI, Đảng ủy Khối
đã xây dựng chương trình toàn khóa số 03 – CTr/ĐUK, với nội dung tiếp tục
nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ của Đảng bộ Khối,
trong đó đã thẳng thắn đánh giá: “Không ít nơi, năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của TCCSĐ chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ, vai trò lãnh
đạo còn mờ nhạt, chất lượng sinh hoạt tự phê bình và phê bình yếu, kỷ
cương, kỷ luật chưa nghiêm”.
Trên thực tế, chất lượng sinh hoạt chi bộ tại các TCCSĐ trực thuộc
Đảng bộ Khối đã đạt được nhiều kết quả tích cực; tuy nhiên, bên cạnh đó
vẫn còn một số mặt hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chính trị
mới đang đặt ra. Chính vì vậy, việc đánh giá đúng thực trạng, xác định rõ


4

nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục một cách có hiệu quả
những khuyết điểm, yếu kém, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, trên cơ
sở đó nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ là vấn đề
mang tính cấp bách. Với lý do đó, tác giả chọn đề tài: “Chất lượng sinh
hoạt chi bộ của Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội hiện nay”
làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài đã được các cơ
quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội các cơ
quan tham mưu, các cơ quan nghiên cứu khoa học và nhiều nhà khoa học
nước ta đã tập trung nghiên cứu, nhờ vậy các cơ quan lãnh đạo của Đảng đã
ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, các quy định; các cơ quan nghiên cứu,
các nhà khoa học đã có nhiều quan điểm thể hiện trên sách báo, tạp chí, các
phương tiện thông tin đại chúng. Cụ thể như:
- Các đề tài khoa học, sách:
+ Ngô Đức Tính, “Hướng dẫn nghiệp vụ công tác Đảng”, tập I, II,
Nxb Tư tưởng – Văn hóa, Hà Nội, 1992.
+ Ngô Đức Tính, “Công tác Đảng ở cơ sở”, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 1994.
+ Ngô Đức Tính, “Chất lượng sinh hoạt chi bộ thôn”, Đề tài nghiên
cứu cấp cơ sở trọng điểm năm 2006, Hà Nội, 2006.
+ TS. Trương Ngọc Nam, (chủ nhiệm đề tài) “Nâng cao chất lượng
sinh hoạt chi bộ trong các đơn vị hành chính, sự nghiệp của thành phố Hà
Nội”, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội, 2009.
+ PGS,TS Đỗ Ngọc Ninh, “Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi
bộ tổ dân phố của các quận ở thành phố Hà Nội trong điều kiện hiện
nay”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.


5

+ Đức Lượng (chủ biên), “Về đổi mới và nâng cao chất lượng
sinh hoạt Đảng”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
+ Ban Tổ chức Trung ương: “Nâng cao chất lượng tự phê bình và phê
bình trong sinh hoạt Đảng”, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986.
+ Ban Tổ chức Trung ương: “Nâng cao chất lượng TCCSĐ và đảng
viên”, tập 1, Tạp chí Xây dựng Đảng, Hà Nội 2004.
+ Ban Tổ chức Trung ương: “Nâng cao chất lượng TCCSĐ và đảng
viên”, tập 2, Tạp chí Xây dựng Đảng, Hà Nội, 2006.
Các đề tài khoa học và sách nêu trên đã đưa ra những căn cứ lý luận
và thực tiễn cho việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; đổi mới sinh hoạt
chi bộ cho phù hợp với đặc điểm từng loại hình chi bộ (chi bộ thôn, chi bộ tổ
dân phố, chi bộ trong các đơn vị hành chính, sự nghiệp); từ đó đánh giá thực
trạng, nguyên nhân, rút ra những kinh nghiệm để nâng cao chất lượng sinh
hoạt chi bộ; các đề tài cũng đã đưa ra những phương hướng và giải pháp cụ
thể để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ ở các loại hình khác nhau; đồng
thời, có những hướng dẫn và định hướng để nâng cao chất lượng sinh hoạt
chi bộ, nâng cao chất lượng TCCSĐ và đảng viên.
- Các luận văn thạc sỹ:
+ Cao Duy Tiến, “Nâng cao chất lượng sinh hoạt các chi bộ khối
nghiên cứu, giảng dạy ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh”, luận
văn thạc sỹ chuyên ngành xây dựng Đảng, 2001.
+ Huỳnh Ngọc Thanh, "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các chi bộ ở Huyện Hóc Môn Thành phố Hồ Chí Minh", Luận văn thạc
sỹ chuyên ngành xây dựng Đảng, 2005.
+ Lê Hồng Sơn, “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
chi bộ trong các trường phổ thông công lập tại thành phố Hồ Chí Minh trong
giai đoạn hiện nay”, luận văn thạc sỹ chuyên ngành xây dựng Đảng, 2005.


6

Các luận văn thạc sỹ nêu trên, mặc dù có những góc độ tiếp cận khác
nhau nhưng đều tập trung nghiên cứu nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ
và nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ, nêu ra những cơ
sở khoa học của việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, đánh giá thực
trạng, nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm, các vấn đề đặt ra; đồng
thời đã đưa ra các phương hướng và giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng
sinh hoạt chi bộ.
- Các bài viết trên báo, tạp chí:
+ Phạm Văn Thành, “Một số biện pháp nâng cao chất lượng sinh
hoạt chi bộ”, Tạp chí xây dựng Đảng, số 5/2002.
+ Bùi Trọng Vy, “Cải tiến nội dung sinh hoạt chi bộ”, Tạp chí xây
dựng Đảng, số 6/2002.
+ Phương Thảo, “Biện pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ ở
một số đảng bộ cơ quan”, Tạp chí xây dựng Đảng, số 7/2004.
+ Hoàng Định: “Sinh hoạt chi bộ nông thôn”, Tạp chí Xây dựng
Đảng, số 7/2004
+ Nguyễn Công Huyên: “Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trong
doanh nghiệp tư nhân”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 9/2004.
+ Minh Hiếu: “Phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng ở xã ngoại
thành Hà Nội”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 10/2004.
+ Hồng Phúc: “Sinh hoạt chi bộ ở Đảng bộ khối Công nghiệp Hà
Nội”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 8/2005.
+ Hà Văn Tài, “Từ một đại hội chi bộ ở khu dân cư”, Tạp chí Xây
dựng Đảng, số 8/2005.
+ Bạch Kim: “Chất lượng sinh hoạt chi bộ cơ quan - Thực trạng và
giải pháp”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 8/2005.


7
+ Phạm Thu Huyền: “Để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ cơ

quan khối đoàn thể”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 7/2006.
+ Trần Thu Thuỷ: “Biện pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ
bệnh viên”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 7/2006.
+ Phúc Sơn, “Giải pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ ở
Đảng bộ Ban cơ yếu Chính phủ”, Tạp chí xây dựng Đảng, số 9/2007.
+ Minh Hoàn: “Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trong doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 9/2007
+ Hà Triều, “Để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ ở cơ quan
hành chính”, Tạp chí xây dựng Đảng, số 1/2008.
Các bài viết trên xem xét chất lượng sinh hoạt chi bộ dưới các góc độ
khác nhau, đều đã đưa ra các căn cứ lý luận và thực tiễn, đánh giá những hạn
chế, yếu kém trong sinh hoạt chi bộ, từ đó khái quát thành những kinh
nghiệm để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ ở các loại hình chi bộ khác
nhau; đồng thời đã đưa ra cách thức, biện pháp tổ chức, điều hành buổi sinh
hoạt chi bộ có hiệu quả, và một số bài viết đã nêu ra được phương hướng,
giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, góp phần nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ, đảng bộ cơ sở.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên đều đã đề cập đến vấn
đề nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ ở các góc độ khác nhau, hoặc ở dạng
chung nhất hoặc đặt nó trong phạm vi nghiên cứu tổ chức hoạt động của những
đơn vị khác nhau; các công trình nghiên cứu trên đã có những đóng góp về mặt
lý luận và thực tiễn về sinh hoạt đảng hiện nay.
Tuy vậy, cho đến nay chưa có công trình, đề tài nghiên cứu nào đi sâu
nghiên cứu có hệ thống dưới góc độ luận văn khoa học về chất lượng sinh
hoạt chi bộ của Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội trong giai đoạn
hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


8

3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ những cơ sở lý luận và thực
tiễn của chất lượng sinh hoạt chi bộ tại các TCCSĐ trực thuộc Đảng bộ Khối
các cơ quan thành phố Hà Nội hiện nay, từ đó đề xuất những phương hướng
và giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ tại các TCCSĐ
trực thuộc Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về chi bộ và chất lượng sinh hoạt chi bộ.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá đúng thực trạng, chỉ ra những nguyên
nhân, rút ra một số kinh nghiệm về chất lượng sinh hoạt chi bộ tại các
TCCSĐ trực thuộc Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội hiện nay.
- Xác định phương hướng và đề xuất giải pháp chủ yếu để nâng cao
chất lượng sinh hoạt chi bộ tại các TCCSĐ trực thuộc Đảng bộ Khối các cơ
quan thành phố Hà Nội hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chất lượng sinh hoạt chi bộ tại các
TCCSĐ trực thuộc Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Các chi bộ ở các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Khối các cơ
quan thành phố Hà Nội (chi bộ cơ sở, chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở).
- Về phạm vi khảo sát: Khảo sát sinh hoạt chi bộ tại 45 chi bộ trực
thuộc Đảng uỷ cơ sở và 10 chi bộ cơ sở trực thuộc Đảng ủy Khối các cơ
quan thành phố Hà Nội (trong tổng số 543 chi bộ trực thuộc Đảng ủy cơ sở
và 18 chi bộ cơ sở trực thuộc Đảng ủy Khối các cơ quan Thành phố)
- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng chất lượng sinh hoạt chi bộ ở
các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội từ năm 2008
đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận và phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời trên cơ sở tư tưởng Hồ


9
Chí Minh và hệ thống các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chi bộ
và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Đề tài sử dụng các phương pháp cụ thể sau: Phương pháp lôgic - lịch
sử, phân tích – tổng hợp, khái quát hóa, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế,
điều tra xã hội học…
6. Những đóng góp mới và ý nghĩa lý luận và thực
tiễn của luận văn
6.1. Những đóng góp mới
- Hệ thống hoá một số lý lý luận về chất lượng sinh hoạt chi bộ của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
- Khái quát hoá thực trạng chất lượng sinh hoạt chi bộ tại các TCCSĐ
trực thuộc Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội hiện nay và nêu lên
một số kinh nghiệm.
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp cơ bản góp phần nâng
cao chất lượng sinh hoạt chi bộ tại các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Khối các cơ
quan thành phố Hà Nội, đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn hiện nay.
6.2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Luận văn có thể cung cấp thêm những luận cứ khoa học giúp các
TCCSĐ thuộc Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội thực hiện việc
nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho dạy và học bậc đại học
chuyên ngành xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước trong những vấn đề

có liên quan.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.


10

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG SINH HOẠT CHI BỘ
1.1. Sinh hoạt chi bộ - Khái niệm, vai trò, nội dung,
tính chất, hình thức
1.1.1. Khái niệm sinh hoạt chi bộ và chất lượng sinh hoạt chi bộ
1.1.1.1. Khái niệm sinh hoạt
Theo từ Điển Hán Việt, đây là khái niệm ghép lại từ hai từ đơn “sinh”
và “ hoạt”, theo đó, “sinh” có nghĩa là sinh trưởng, sinh tồn, sinh mệnh,
người có học, phát ra (sinh bệnh, sinh biến). Còn “ hoạt” có nghĩa là sinh
tồn, sống mãi, làm việc bằng thể lực. Vậy sinh hoạt là hoạt động của con
người để sinh tồn và phát triển.
Theo Đại từ điển tiếng Việt: “sinh hoạt” là những hoạt động tập thể
của một tổ chức; sinh hoạt câu lạc bộ, sinh hoạt chi đoàn, sinh hoạt tổ đảng;
tiến hành những hoạt động tập thể; sinh hoạt văn nghệ tại câu lạc bộ [55,
tr.1446]
Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh cho rằng: Sinh hoạt là “sống”,
“sinh kế”, là đời sống hoạt động của con người và tổ chức [1, tr.359].
Như vậy, sinh hoạt là một loại hoạt động, một phương thức hoạt động
của con người, hoạt động đó, phương thức đó được tiến hành bởi một tập
thể, một cá nhân nhằm thực hiện một công việc nhất định nào đó bằng cách
bàn bạc, thảo luận, quyết định các biện pháp để duy trì sự tồn tại của tổ
chức, cá nhân. Sinh hoạt là một điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của con

người trong cộng đồng xã hội.
1.1.1.2. Khái niệm chi bộ


11
Theo Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Đà Nẵng thì “chi bộ là tổ
chức cơ sở đảng thấp nhất của một đảng chính trị”
Cuốn sách “về đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng” do
đồng chí Đức Lượng chủ biên đã đưa ra khái niệm:
“chi bộ là một hình thức tổ chức của Đảng, được lập ra ở các đơn vị
cơ sở ( địa bàn dân cư, nơi sinh sống hoặc công tác của đảng viên). Chi bộ là
đơn vị chiến đấu của cơ bản của Đảng, là hạt nhân lãnh đạo của đảng ở cơ
sở” [39, tr.51].
Ngày từ thời C.Mac và Ăngghen, các ông đã đưa ra quan niệm của
mình về chi bộ. Hai ông chỉ ra rằng chi bộ được thành lập bí mật trong các
hiệp hội công nhân, là “trung tâm hạt nhân của các hiệp hội công nhân, là
mắt xích quan trọng, là chỗ dựa vững chắc của Đảng” [40, tr.348]. Nếu các
chi bộ này bị buông lỏng về mặt tổ chức thì sẽ dẫn tới cắt đứt liên lạc với
Ban chấp hành trung ương, làm cho Đảng mất chỗ dựa “ vững mạnh và duy
nhất”. V.I.Lênin người kế thừa và phát triển những quan điểm của C.Mac và
Ăngghen về Đảng và xây dựng đảng thì cho rằng: chi bộ là nơi rèn luyện,
phân công công tác, quản lý, sang lọc đảng viên để họ luôn là người chiến sĩ
tiên phong của giai cấp. Chi bộ còn là nền tảng của quần chúng, là hạt nhân
chính trị của các tập thể lao động. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “tổ chức gốc
rễ của Đảng là chi bộ. Chi bộ do chi ủy lãnh đạo, các đảng viên chịu sự lãnh
đạo của chi ủy” [42, tr.240]. Hiện nay trong hệ thống tổ chức của Đảng có
hai loại hình chi bộ:
Loại hình chi bộ là một bộ phận của đảng bộ cơ sở, trực thuộc đảng
ủy cơ sở, được tổ chức theo nơi làm việc hoặc nơi cư trú của đảng viên, mỗi
chi bộ có từ 3 đến 30 đảng viên.

Loại hình chi bộ cơ sở là TCCSĐ được tổ chức thành lập với những
đơn vị cơ sở có từ 3 đến 30 đảng viên, không đủ điều kiện thành lập đảng bộ
cơ sở ” [6, tr.47].
Từ các cách hiểu như trên về chi bộ, ta có thể hiểu chi bộ thực chất là
những tổ chức đảng tạo nên các đảng bộ cơ sở và toàn Đảng, đó là
những tế bào của Đảng, hạt nhân lãnh đạo chính trị ở các địa bàn dân
cư, trong các tổ chức và các lĩnh vực của đời sống xã hội.


12
1.1.1.3. Khái niệm sinh hoạt chi bộ
Trước khi đi vào tìm hiểu khái niệm sinh hoạt chi bộ ta tìm hiểu khái
niệm sinh hoạt Đảng.
Trong cuốn “Sách tra cứu các mục từ về tổ chức”, đưa ra định nghĩa
rõ hơn về “sinh hoạt đảng”:
“Sinh hoạt đảng là sự gắn kết về trách nhiệm chính trị và tình đồng chí
của người đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sinh hoạt đảng trực tiếp
và thường xuyên nhất là ở các chi bộ, ở hội nghị đảng viên và hội nghị đại
biểu đảng bộ các cấp giữa nhiệm kỳ, ở đại hội đảng viên và đại hội đại biểu
đảng bộ thường kỳ hay bất thường ở các cấp, ở hội nghị thường kỳ hay bất
thường của cấp ủy các cấp” [49, tr.590].
Định nghĩa này đề cập đến sinh hoạt đảng ở tất cả các tổ chức đảng
các cấp trong toàn Đảng, kể cả đại hội và hội nghị đảng các cấp và coi đại
hội và hội nghị đảng là một hình thức sinh hoạt đảng.
Cũng có nhiều cấp uỷ và đảng viên cho rằng, sinh hoạt chi bộ là các
hội nghị của chi bộ, gồm đại hội chi bộ thường kỳ, hội nghị chi bộ giữa
nhiệm kỳ, hội nghị chi bộ cuối năm, giữa năm, hội nghị chi bộ thường kỳ
hàng tháng... Cách hiểu này, thường gắn từng hội nghị chi bộ với nội dung
của hội nghị tạo thành tên gọi của hội nghị đó.
Ta nhận thấy, sinh hoạt chi bộ là hoạt động tập thể của một tổ chức

đảng của một đảng chính trị. Sinh hoạt đảng, sinh hoạt chi bộ được thực hiện
bằng các hình thức: sinh hoạt chính trị, sinh hoạt chuyên đề và sinh hoạt học
tập. Sinh hoạt chi bộ là nguyên tắc cơ bản của Đảng, đó là quy luật tồn tại và
phát triển bền vững của các TCCSĐ, nhằm tăng cường sự lãnh đạo và sức
chiến đấu của TCCSĐ.
Từ những phân tích ở trên, có thể hiểu: sinh hoạt chi bộ là các hoạt
động tập thể của đảng viên trong chi bộ để thảo luận và quyết định những
vấn đề cần thiết, gồm các cuộc họp chi bộ thường kỳ (có thể gọi là các cuộc
sinh hoạt chi bộ thường kỳ), các hội nghị chi bộ và đại hội chi bộ.
Như vậy sinh hoạt chi bộ là sự phản ảnh quá trình xây dựng đường
lối, chủ trương, chính sách thông qua hoạt động của tập thể, của đảng viên


13
và tổ chức đảng để thực hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng; là sự phản ảnh
quá trình hoạt động xây dựng đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, rèn
luyện đội ngũ đảng viên và tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh đủ sức gánh
vác trọng trách đối với giai cấp, đối với dân tộc; là sự phản ảnh mối quan hệ
mật thiết giữa Đảng với dân.
1.1.1.4. Quan niệm về chất lượng sinh hoạt chi bộ
Để đưa ra quan niệm về chất lượng sinh hoạt chi bộ cần làm rõ khái
niệm “chất lượng”. Thuật ngữ “ chất lượng” đã được sử dụng từ lâu để mô tả
các thuộc tính như: tốt, đẹp, đắt tươi và xa xỉ. Vì thế chất lượng dường như
là một khái niệm rất đa dạng và được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
Triết học Mác-Lênin định nghĩa: “chất là một phạm trù triết học dùng để
chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất
hữu cơ các thuộc tính làm cho nó là nó mà không phải là cái khác” [56, tr.307].
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt: “chất lượng: cái làm nên phẩm chất, giá
trị của con người, sự vật... Cái tạo nên bản chất sự vật, làm cho sự vật này
khác với sự vật kia; phân biệt với số lượng” [ 55, tr.331].

Từ điển Triết học chỉ rõ: “chất lượng (chất) là tính quy định bản chất của
sự vật, tính quy định những đặc điểm và tính cách vốn có của sự vật; do tính
quy định đó, sự vật là sự vật như nó đang tồn tại chứ không phải là sự vật nào
khác; tính quy định đó, phân biệt sự vật ấy với những sự vật khác” [ 54, tr.150].
Trong lĩnh vực kinh tế, “chất lượng” được quan niệm là tập hợp
những tính chất của sản phẩm thể hiện mức độ thoả mãn những yêu cầu định
trước cho nó, trong điều kiện xác định về kỹ thuật, kinh tế, xã hội.
Mỗi lĩnh vực khác nhau, có phương pháp khác nhau để đánh giá chất
lượng sự vật, sự việc, sản phẩm, song có điểm chung là: chất lượng của đối
tượng được đánh giá là tổng hợp các yếu tố tạo nên bản chất của đối tượng,
làm nên tác dụng, giá trị của đối tượng đó. Nói đến chất lượng là phải nói tới
2 phương diện: thứ nhất, chất lượng là tổng hợp những phẩm chất, tính chất
(thuộc tính) tạo nên giá trị của một con người, một sự vật; thứ hai, những
phẩm chất, tính chất đó đáp ứng đến đâu những yêu cầu đã đặt ra. Nói đến
chất lượng là nói đến tốt hay xấu, đạt hay không đạt một chuẩn mực nào đó.


14
Từ sự phân tích trên, có thể quan niệm: chất lượng sinh hoạt chi bộ
là tổng hợp của các yếu tố làm cho sinh hoạt chi bộ phát huy tác dụng đối
với mọi hoạt động của chi bộ, trước hết là đề ra các chủ trương, nghị quyết
đúng,, góp phần để chi bộ thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Hoạt động của chi bộ gồm: hoạt động xây dựng chi bộ về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; hoạt động lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, lãnh đạo
chính quyền, ban công tác Mặt trận Tổ quốc, các chi hội đoàn thể chính trịxã hội trên địa bàn; hoạt động lãnh đạo các lĩnh vực đời sống của xã hội.
Hoạt động lãnh đạo của chi bộ gồm: xác định đúng đắn nhiệm vụ
chính trị của mình cùng các giải pháp thực hiện và lãnh đạo thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ chính trị đó; xác định đúng đắn các chủ trương, giải pháp và
lãnh đạo thực hiện thắng lợi chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chất lượng sinh hoạt

chi bộ góp phần rất quan trọng để chi bộ thực hiện có kết quả những công
việc này.
Chất lượng sinh hoạt chi bộ được tạo nên bởi các nhân tố chủ yếu tố
như: nền nếp sinh hoạt chi bộ; nội dung sinh hoạt chi bộ; hình thức sinh hoạt
chi bộ; công tác chuẩn bị sinh hoạt chi bộ; số lượng, chất lượng đảng viên
tham gia sinh hoạt chi bộ; năng lực điều hành chủ trì sinh hoạt chi bộ của bí
thư hoặc phó bí thư chi bộ; việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt
đảng; điều kiện, cơ sở vật chất phục vụ sinh hoạt chi bộ; sự chỉ đạo, hỗ trợ,
kiểm tra của cấp ủy cấp trên.
1.1.2. Vai trò của sinh hoạt chi bộ
Sinh hoạt chi bộ là hoạt động thường xuyên của chi bộ; hình thức lãnh
đạo chủ yếu của chi bộ. Chi bộ là tế bào cấu tạo nên Đảng, năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng phụ thuộc và được quyết định chủ yếu bởi
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ. Các chi bộ là nền tảng
của Đảng, hạt nhân chính trị lãnh đạo ở cơ sở, là một nhân tố quyết định trên
thực tế đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
chỉ thị, nghị quyết của cấp trên được thực hiện ở cơ sở. Các chi bộ có vai trò
rất quan trọng để thực hiện thành công các nhiệm vụ của Đảng ở cơ sở. Vai
trò của sinh hoạt chi bộ thể hiện ở các khía cạnh sau:


15
Thứ nhất, đây là một hoạt động rất quan trọng đối với việc nâng cao
năng lực và sức chiến đấu của TCCSĐ. Nó bảo đảm cho chi bộ và mỗi đảng
viên thực hiện được chức năng nhiệm vụ của mình.
Hiện nay, trong Đảng ta đang tồn tại ba loại hình đảng bộ cơ sở: Một
là: Những đảng bộ cơ sở có các chi bộ, đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng uỷ
cơ sở và có các chi bộ trực thuộc đảng uỷ bộ phận. Hai là; Những đảng bộ
cơ sở có các chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở. Ba là: Chi bộ cơ sở có vai trò
đảng bộ cơ sở.

Phần lớn hoạt động của đảng bộ cơ sở được diễn ra ở chi bộ, vì vậy
chi bộ có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của đảng bộ cơ sở. Chi bộ
trong sạch, vững mạnh thì đảng bộ cơ sở mới vững mạnh và hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ.
Vì thế, củng cố, nâng cao chất lượng các chi bộ là vấn đề thường
xuyên, trọng yếu của các đảng bộ cơ sở, trong đó nâng cao chất lượng sinh
hoạt chi bộ là việc làm không thể thiếu.
Chi bộ là tế bào của đảng bộ trực tiếp tiến hành các hoạt động xây
dựng nội bộ TCCSĐ, giáo dục, rèn luyện đảng viên, phân công công việc,
quản lý đảng viên và tiến hành các thủ tục để kết nạp đảng viên, đưa người
không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng…Chi bộ trực tiếp tuyên truyền
đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng và nghị quyết của đảng uỷ cơ sở
tới nhân dân và lãnh đạo tổ chức thực hiện.
Vì thế, sinh hoạt chi bộ có vai trò, tác dụng to lớn đối với xây dựng
nội bộ Đảng, củng cố, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, khẳng
định và phát huy những mặt mạnh, chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm của
cán bộ đảng viên và của chi bộ.
Lênin coi chi bộ cơ sở là nơi rèn luyện phân công công tác đảng viên,
quản lý sàng lọc đảng viên để họ luôn là người chiến sĩ tiên phong của giai
cấp. Mỗi đảng viên phải liên hệ chặt chẽ với Đảng bằng việc tự mình tham
gia sinh hoạt và hoạt động ở một tổ chức của Đảng. Vì vậy mà ngay cả khi
xác định người được kết nạp vào Đảng, Lênin nêu:


16
“Tất cả những người nào thừa nhận cương lĩnh của Đảng và ủng hộ
Đảng bằng những phương tiện vật chất cũng như bằng cách tự mình tham
gia một trong những tổ chức của Đảng thì được coi là đảng viên”[38. tr.268].
Ở đây ông đã xác định rằng: Đảng không thể chỉ đạo những người
đứng ngoài tổ chức của Đảng và đảng viên phải tham gia trong một tổ chức

Đảng thì Đảng mới giáo dục và kiểm tra được họ. Chính vì vậy, mà thông
qua sinh hoạt chi bộ cũng có thể quản lý một cách hiệu quả nhất.
Thứ hai, Sinh hoạt chi bộ còn có một vai trò là diễn đàn dân chủ phát
huy tính tự giác, sáng tạo của đảng viên để tìm chủ trương, giải pháp thực
hiện nhiệm vụ chính trị. Qua sinh hoạt chi bộ, từng đảng viên trưởng thành.
Đảng được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung, dân chủ. Trong
sinh hoạt chi bộ, đảng viên tham gia sinh hoạt phải phát huy cao nhất tinh
thần tự giác, gương mẫu, dân chủ, mang hết trí tuệ đóng góp cho những
quyết định của chi bộ. Sinh hoạt chi bộ là nơi đảng viên thể hiện rõ vai trò
lãnh đạo của mình. Song, đảng viên phải thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc
tập trung dân chủ, khi ý kiến của cá nhân đảng viên thuộc về thiểu số, đảng
viên đó, phải chấp hành vô điều kiện quyết định của tập thể.
Do vậy, chất lượng sinh hoạt chi bộ là một trong những yếu tố quyết
định sức sống, sự tồn tại, phát triển của chi bộ. Không tổ chức sinh hoạt chi
bộ hoặc tổ chức sinh hoạt chi bộ nhưng chất lượng sinh hoạt thấp thì chi bộ
không thể hoàn thành nhiệm vụ. Thực tế đã chứng minh, những chi bộ trong
sạch, vững mạnh là những chi bộ duy trì thành nếp sinh hoạt chi bộ, có nội
dung sinh hoạt phong phú, thiết thực, hình thức sinh hoạt đa dạng, có chất
lượng tốt.
1.1.3. Nội dung, tính chất, hình thức sinh hoạt chi bộ
1.1.3.1. Nội dung sinh hoạt chi bộ
Nội dung sinh hoạt chi bộ là toàn bộ những công việc, nhiệm vụ mà
chi bộ phải giải quyết để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Nội dung
sinh hoạt chi bộ hiện nay theo Hướng dẫn số 09-HD/BTCTW ngày
02/3/2012 của Ban Tổ chức Trung ương về nội dung sinh hoạt chi bộ.
Những nội dung sinh hoạt cụ thể như sau :


17
Một là, học tập, quán triệt đường lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và

chính sách, pháp luật của nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của tổ chức đảng cấp
trên; thông tin những vấn đề tình hình thế giới, trong nước, địa phương có
liên quan đến tư tưởng của đảng viên trong chi bộ, quần chúng trong đơn vị.
Việc học tập nội dung này làm cho mọi đảng viên của chi bộ được quán triệt
đầy đủ, chính xác đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết, quy định, các chương trình, kế hoạch công
tác của cấp trên (tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể cấp trên), để từ đó bản
thân mỗi đảng viên nghiên cứu, nghiền ngẫm làm theo đường lối của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, cũng như tuyên truyền vận động gia đình, quần
chúng nhân dân biết và làm theo. Đồng thời, cung cấp kịp thời những thông
tin mới về tình hình thế giới, trong nước và địa phương, đơn vị để đảng viên
định hướng tư tưởng đúng đắn, chủ động và tự giác thực hiện nhiệm vụ, tiến
hành công tác tư tưởng tạo nên nhiệm vụ chính trị của chi bộ, đảng bộ.
Hai là, bàn bạc quyết nghị những vấn đề về sự lãnh đạo của chi bộ
đối với các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục, an ninh,
quốc phòng, công tác vận động quần chúng. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ
của chi bộ, theo quy định của Điều lệ Đảng, của Trung ương Đảng, xuất phát
từ những vấn đề đặt ra ở đơn vị, chi bộ tiến hành thảo luận, đề ra những chủ
trương, tiêu chí và biện pháp thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã
hội, văn hoá, giáo dục, an ninh, quốc phòng, cải thiện và nâng cao đời sống
nhân dân ở cơ quan, đơn vị.
Để thực hiện tốt nội dung này, chi bộ cần nắm vững những quan điểm,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chỉ thị, nghị
quyết, chủ trương, kế hoạch công tác của cấp trên và những đặc điểm, những
vấn đề nảy sinh ở đơn vị để bàn bạc thoả thuận và có những quyết nghị đúng
đắn, không trái với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chỉ thị,


18
nghị quyết của tổ chức đảng cấp trên, cơ quan chuyên môn cấp trên. Chi bộ

bàn bạc và quyết nghị những vấn đề thuộc phạm vi của các tổ chức khác
(quản lý, điều hành của chính quyền, chủ trương của đơn vị, các đoàn thể
nhân dân). Những vấn đề phức tạp chưa giải quyết được cần tăng cường bàn
bạc, thảo luận trong chi bộ và báo cáo đảng uỷ cơ sở, để đảng uỷ cơ sở xem
xét giúp đỡ.
Ba là, thảo luận, quyết nghị những vấn đề xây dựng nội bộ Đảng: chủ
trương, biện pháp xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh; thực hiện tự
phê bình và phê bình, công tác kiểm tra giữ gìn kỷ luật Đảng và tăng cường
đoàn kết thống nhất trong chi bộ; những nội dung của công tác đảng viên
như: kết nạp đảng viên, phân công việc cho đảng viên, quản lý đảng viên,
đánh giá chất lượng đảng viên. Sinh hoạt chi bộ bàn về những vấn đề xây
dựng nội bộ được tiến hành theo định kỳ hàng quý, hàng năm; hoặc khi đột
xuất có những vấn đề tư tưởng, tổ chức cần giải quyết. Dù sinh hoạt theo
định kỳ hay đột xuất đều phải được tiến hành nghiêm túc, đúng nguyên tắc.
Trong sinh hoạt chi bộ cần bảo đảm cho mỗi đảng viên có thể trình bày với
chi bộ tâm tư, nguyện vọng, những khó khăn, vướng mắc trong công tác,
trong cuộc sống đời thường mà đảng viên không khắc phục được để chi bộ
góp ý hoặc có biện pháp giúp đỡ, giúp đảng viên đó hoàn thành tốt nhiệm
vụ được chi bộ phân công và giải quyết tốt những khó khăn trong cuộc
sống gia đình.
Trên đây là ba loại vấn đề chủ yếu thuộc nội dung sinh hoạt chi bộ.
Tuy nhiên, do sự khác nhau về nhiệm vụ của các chi bộ nên nội dung sinh
hoạt của các chi bộ có sự khác nhau. Tuỳ theo đặc điểm, nhiệm vụ của chi
bộ và những vấn đề đặt ra trong thực tiễn, trên cơ sở ba nội dung chủ yếu
nêu trên, sinh hoạt chi bộ cần tập trung giải quyết những vấn đề cụ thể.


19
Trong một buổi sinh hoạt chi bộ có thể giải quyết một hoặc hai vấn đề thuộc
những nội dung nêu trên.

Trong giai đoạn hiện nay, việc chuẩn bị nội dung sinh hoạt chi bộ còn
phải gắn với việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Có gắn nội dung sinh hoạt chi bộ với việc học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh thì càng nâng cao được chất lượng các buổi sinh hoạt,
vừa đàm bảo thiết thực, vừa có tính giáo dục. Đặc biệt, là trong tình hình
hiện nay có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị,
tư tưởng, đạo đức lối sống. Việc gắn sinh hoạt chi bộ với “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” có hiệu quả nhất là ở các buổi sinh
hoạt chuyên đề. Vì vậy, trong hướng dẫn của Ban tổ chức Trung ương về nội
dung sinh hoạt chi bộ đưa ra yêu cầu là chi bộ ít nhất mỗi quý phải sinh hoạt
chuyên đề một lần.
Như vậy, để sinh hoạt chi bộ nghiêm túc, có kết quả cần đảm bảo ba
tính chất nêu trên. Ngoài ra, cần chú ý đến tình đồng chí, thương yêu, tôn
trọng lẫn nhau, hiểu rõ hoàn cảnh, thông cảm, giúp đỡ tận tình, tạo điều kiện
thuận lợi để mỗi đảng viên giải quyết những khó khăn, vươn lên trong công
việc và trong đời sống.
1.1.3.2. Tính chất của sinh hoạt chi bộ
Sinh hoạt chi bộ có 3 tính chất đó là: Tính lãnh đạo, tính chiến đấu và
tính giáo dục.
- Tính lãnh đạo: Tính lãnh đạo thể hiện ở chỗ, trong sinh hoạt chi bộ
đảng viên phải bàn bạc, thảo luận một cách dân chủ những vấn đề cần giải
quyết và ra được nghị quyết về hoạt động của chi bộ thể hiện ở các nội dung
sau:
Thứ nhất, định hướng được những hoạt động chủ yếu của địa phương,
đơn vị trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, bảo đảm cho đơn vị


20
phát triển đúng đắn trong một thời gian nhất định, cũng như giải quyết kịp
thời những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn.

Thứ hai, chỉ rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng tổ chức, từng cán bộ,
đảng viên.
Để đảm bảo tính lãnh đạo của sinh hoạt chi bộ cần thực hiện nghiêm
chỉnh nguyên tắc tập trung dân chủ, mở rộng dân chủ trong sinh hoạt Đảng
phải đi liền với tăng cường sự lãnh đạo tập trung thống nhất.
- Tính giáo dục: Tính giáo dục của sinh hoạt chi bộ thể hiện ở chỗ qua
mỗi kỳ sinh hoạt chi bộ, trình độ mọi mặt của đảng viên được nâng lên, ngày
càng nhận thức sâu sắc hơn đường lối, chính sách của Đảng, mỗi đảng viên
có thêm những kiến thức mới bổ ích, những kinh nghiệm thiết thực trong
hoạt động thực tiễn. Qua mỗi kỳ sinh hoạt chi bộ, đảng viên tự nhận thấy
vững vàng hơn trong công tác. Đó là điều kiện quan trọng để họ hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao.
Để đạt điều đó, trong sinh hoạt chi bộ cần chú trọng nghiên cứu, thảo
luận nghiêm túc các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, tránh lối sinh hoạt qua
loa, đại khái, hoặc chỉ giao nhiệm vụ nhưng không chú ý đến việc cung cấp
thông tin, hạn chế việc phát huy tính chủ động, sáng tạo của đảng viên.
Tính giáo dục của sinh hoạt chi bộ còn được thể hiện ở việc: Thông
qua sinh hoạt chi bộ để nêu gương điển hình tiên tiến, gương đảng viên tiên
phong gương mẫu và phê bình những sai lầm, khuyết điểm của chi bộ, tổ
chức đảng và của đảng viên.
- Tính chiến đấu: Tính chiến đấu của sinh hoạt chi bộ thể hiện ở chỗ
sinh hoạt chi bộ phải nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng ưu điểm thành
tựu, phê phán nghiêm khắc những sai lầm, khuyết điểm của chi uỷ, chi bộ và


21
từng cán bộ, đảng viên, từ đó đề ra được biện pháp phát huy ưu điểm, sửa
chữa khuyết điểm.
Để nâng cao tính chiến đấu trong sinh hoạt chi bộ cần phát tính huy

dân chủ nội bộ khi bàn bạc và quyết định mọi vấn đề thuộc phạm vi nhiệm
vụ của chi bộ, thực hiện nghiêm túc quyền của đảng viên, duy trì thành nền
nếp chế độ tự phê bình và phê bình trên tinh thần thẳng thắn, trung thực,
khách quan, công tâm và trên tình đồng chí, tôn trọng lẫn nhau giữa những
người cộng sản.
Cần tránh tình trạng né tránh, nể nang, lựa chiều khi phê bình và tình
trạng đoàn kết một chiều. Cần xử lý kịp thời và nghiêm minh những người
lợi dụng dân chủ tiến hành phê bình để đả kích, gây chia rẽ hoặc lợi dụng
phê bình để trả thù cá nhân.
Muốn sinh hoạt chi bộ đạt chất lượng tốt cần đảm bảo ba tính chất nêu
trên, ngoài ra cần chú ý đến tình đồng chí, thương yêu, tôn trọng lẫn nhau,
hiểu rõ hoàn cảnh, thông cảm, giúp đỡ tận tình, tạo điều kiện để mỗi đảng
viên giải quyết những khó khăn, vướng mắc, vươn lên trong công tác, trong
đời sống.
1.1.3.3. Hình thức sinh hoạt chi bộ
Hình thức là phương thức, cách thức thể hiện và thực hiện nội dung.
Hình thức sinh hoạt chi bộ rất đa dạng nhưng sinh hoạt chi bộ được thể hiện
dưới những hình thức chủ yếu sau:
Sinh hoạt chính trị: Đây là loại hình sinh hoạt để chi bộ thảo luận, đề
ra chủ trương, giải pháp lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của chi bộ.
Sinh hoạt chính trị là hình thức sinh hoạt có thể áp dụng cho cả một buổi
sinh hoạt nhưng cũng có thể chỉ áp dụng cho một phần của một buổi sinh
hoạt chi bộ. Trong thực tế, đây là hình thức sinh hoạt phổ biến nhất.


22
Sinh hoạt chuyên đề: Đây là hình thức sinh hoạt chỉ đi sâu thảo luận,
giải quyết một vấn đề nào đó, chi bộ thấy cần thiết tập trung thảo luận, tìm
giải pháp giải quyết, ví dụ: sinh hoạt chuyên đề về công tác phát triển đảng
viên, về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh... Cần chú ý

xem xét việc chọn đúng vấn đề để đưa ra thảo luận trong sinh hoạt chi bộ và
việc chuẩn bị để chi bộ thảo luận về vấn đề đó.
Sinh hoạt học tập: Đây là hình thức sinh hoạt chủ yếu để nghiên cứu,
quán triệt nghị quyết, chỉ thị của Đảng, của tổ chức đảng cấp trên, hoặc để
thông tin, thông báo tình hình thời sự, chính sách, pháp luật mới, những vấn
đề mới về quan điểm, lý luận và thực tiễn… Đây là hình thức sinh hoạt rất
cần thiết để nâng cao nhận thức, năng lực và cập nhật những thông tin, tri
thức mới cho đảng viên.
1.2. Quan điểm của Đảng ta về chi bộ và vấn đề sinh hoạt chi bộ
1.2.1. Quan điểm của Đảng ta về chi bộ
Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của
Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở (Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam, Điều
21, 2011). TCCSĐ trực tiếp gắn bó với quần chúng, hàng ngày được tiếp xúc
với nhân dân, tìm hiểu nắm bắt tâm tư tình cảm và nguyện vọng của nhân
dân. TCCSĐ vừa là nơi trực tiếp biến đường lối, chính sách của Đảng thành
hành động cách mạng của đảng viên và quần chúng; vừa là nơi tập hợp
những sáng kiến, trí tuệ của đảng viên và quần chúng để hình thành nên
đường lối, chính sách của Đảng. Thực tiễn phong phú sinh động ở cơ sở là
một trong những nguồn trí tuệ cách mạng to lớn của Đảng.
Đảng mạnh là do các chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở vững mạnh. Ngược
lại, nếu TCCSĐ yếu kém thì các cấp trên cơ sở không thể mạnh và sẽ hạn
chế thành tựu cách mạng.
Tổ chức cơ sở đảng là hạt nhân chính trị ở cơ sở, thể hiện vai trò đoàn
kết và lãnh đạo các tổ chức chính trị ở cơ sở và nhân dân ở cơ sở, giữ vững
mục tiêu độc lập và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới. TCCSĐ là
trung tâm quy tụ, tập hợp được mọi lực lượng ở cơ sở thành một khối thống


23
nhất về ý chí và hành động; phải định hướng phát triển đúng đắn cho cơ sở

cũng như trong mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị bằng những chủ trương,
nhiệm vụ cụ thể, có tính khả thi, đồng thời phải tạo được sức mạnh tổng hợp
của cơ sở bằng việc tổ chức và phối hợp chặt chẽ các lực lượng để thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chính trị của cơ sở.
Hoạt động của TCCSĐ diễn ra thường xuyên và chủ yếu ở các chi bộ.
Từng đảng viên phải gắn bó và chịu sự quản lý trực tiếp của chi bộ phân
công. Những quần chúng ưu tú, có đủ điều kiện trở thành đảng viên thì kết
nạp vào Đảng tại chi bộ.
Chi bộ là hạt nhân chính trị ở đơn vị mà mình phụ trách. Chi bộ phải
đoàn kết và lãnh đạo quần chúng trong đơn vị chấp hành nghiêm minh
đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; thực
hiện tốt nhiệm vụ của đảng ủy cơ sở và giải quyết kịp thời những vấn đề do
thực tiễn đơn vị đặt ra, làm cho đơn vị không ngừng đổi mới và phát triển,
góp phần xây dựng cơ sở ngày càng tiến bộ. Dù có những đặc điểm riêng
nhưng chi bộ ở đâu và lúc nào cũng phải thể hiện được vai trò hạt nhân
chính trị ở cơ sở đơn vị. Xem nhẹ, hạ thấp vai trò đó thì chi bộ không giữ
vững được vị trí của một tổ chức quần chúng tin cậy, giao phó cho nhiệm vụ
tổ chức và lãnh đạo các hoạt động của đơn vị.
1.2.2. Quan điểm của Đảng ta về sinh hoạt chi bộ
Đối với Đảng cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập cho đến
nay, không lúc nào xa rời nguyên tắc sinh hoạt Đảng. Trong qúa trình tồn tại
và phát triển của Đảng, Đảng không ngừng chăm lo, giáo dục rèn luyện,
nâng cao chất lượng đảng viên, xây dựng các tổ chức cơ sở đảng trong sạch,
vững mạnh. Trong điều kiện hoạt động bí mật, Đảng ta yêu cầu các chi bộ
“Phải sinh hoạt cho đều và không vì lẽ gì mà để cho nó rời rã, chệch choạc”
[48, tr.66]. Trong nhiệm kỳ Đại hội II của Đảng (1951-1960), Đảng ta đã ra
Nghị quyết chuyên đề về công tác củng cố nội bộ. Trong đó nhấn mạnh việc
tăng cường giáo dục tư tưởng và lãnh đạo tư tưởng gắn liền với chỉnh đốn
chi bộ.
Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng trình bày ở Đại hội Đại biểu

toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã nêu “Hễ nơi nào, lúc nào mà sinh hoạt chi
bộ buông lỏng, rời rạc không có nội dung chính trị, tư tưởng cụ thể, thiết


24
thực thì nơi đó, lúc đó bắt đầu có nguy cơ chệch đường lối, chính sách của
Đảng, hạ thấp vai trò tiên phong gương mẫu của đảng viên, làm cho kỷ luật
của Đảng bị lỏng lẻo”[14, tr.76].
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI ( 1986), đồng chí
Trường Chinh – Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VI phát
biểu rằng: “Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ của các cấp ủy là một yêu
cầu quan trọng” [15, tr.98].
Nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, sinh hoạt chi bộ nhằm tăng
cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, quản lý, giáo dục, rèn luyện nâng
cao phẩm chất năng lực trí tuệ, ý thức tổ chức kỷ luật cho đảng viên, thực
hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng, kịp thời đấu
tranh ngăn chặn mọi biểu hiện tiêu cực, làm trong sách đội ngũ đảng viên,
bảo đảm mỗi đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Quan điểm
này được thể hiện trong các nghị quyết của Đảng. NQ TW 3 khóa VII chỉ rõ
“Mỗi đảng viên, mỗi cán bộ trước hết là cán bộ cao cấp phải không ngừng
rèn luyện, nâng cao tính tổ chức kỷ luật, tự giác đặt mình vào trong sự quản
lý của tổ chức Đảng, thường xuyên tham gia sinh hoạt Đảng đầy đủ, tự giác
khép mình vào khuôn khổ kỷ luật của Đảng”, Báo cáo chính trị trình tại Đại
hội lần thứ IX của Đảng đề ra: “Giữ vững nề nếp, nâng cao chất lượng sinh
hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ, chế đọ tự phê bình và phê bình thường xuyên
định kỳ..” [18, tr.349], và đã nêu giải pháp “Tiếp tục đổi mới cách chuẩn bị
và tiến hành Đại hội Đảng, Hội nghị Đảng các cấp; phát huy dân chủ, tập
trung trí tuệ, thảo luận, trách nhiệm, dân chủ, thẳng thắn, có nguyên tắc, có
chất lượng cao”.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng Cộng sản Việt

Nam đánh giá: “Nhiều tổ chức cơ sở đảng bị tê liệt, mất sức chiến đấu,
không đủ năng lực lãnh đạo và chỉ đạo giải quyết những vấn đề phức tạp nảy
sinh [19, tr.48]. Vì thế, Đảng đã xác định:
“Thực hiện đồng bộ các biện pháp củng cố, tổ chức cơ sở đảng, chú
trọng những địa bàn xung yếu, vùng sâu vùng xa, ở các chi bộ, đảng bộ yếu
kém; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, đề cao tự phê bình và phê bình
trong sinh hoạt đảng, kiện toàn đội ngũ cấp ủy, bí thư chi bộ” [19, tr.299].


25
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa X tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã nêu: “Phát huy dân chủ, nâng cao chất
lượng tự phê bình và phê bình của cấp ủy, tổ chức đảng” [21, tr.58]. Sau Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Trung ương cũng đã ban hành các chỉ thị,
hướng dẫn về sinh hoạt chi bộ như: Chỉ thị số 10-CT/TW, ngày 30/3/2007
của Ban bí thư về "nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ"; Hướng dẫn số 09
-HD/BTCTW, ngày 02/3/2012 của Ban tổ chức trung ương về "Nội dung
sinh hoạt chi bộ".
Thực tế lãnh đạo của Đảng ta từ khi ra đời cho tới nay, đặc biệt là từ
khi Đảng thực hiện đổi mới cho thấy vị trí, vai trò, tầm quan trọng của sinh
hoạt chi bộ đối với việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, đối với tự đổi mới tự chỉnh đốn của Đảng. Điều này làm cho Đảng
không ngừng lớn mạnh và trưởng thành cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
đảm bảo cho Đảng ta đủ sức lãnh đạo cách mạng vượt qua mọi khó khăn thử
thách, từng bước đi đến thắng lợi. Do đó, trong tình hình mới có nhiều thay
đổi, Đảng ta cần có nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn, toàn diện hơn về tầm
quan trọng của sinh hoạt chi bộ, vị trí vai trò của sinh hoạt chi bộ đối với sự
trong sạch vững mạnh của Đảng. Chính vì vậy, nâng cao chất lượng sinh
hoạt chi bộ trong bối cảnh mới, thời kỳ mới là một tất yếu.
1.3. Tiêu chí đánh giá chất lượng sinh hoạt chi bộ

Theo Đại từ điển tiếng Việt, “tiêu chí” là đặc trưng, dấu hiệu làm cơ
sở, căn cứ để nhận biết, xếp loại các sự vật, các khái niệm. Tiêu chí được
hiểu là những chuẩn mực, thước đo đã được xác định; dùng những chuẩn
mực, thước đo đó để xem xét một người, một sự vật, một sự việc, một hiện
tượng xem chất lượng tốt hay chưa tốt, đã đảm bảo yêu cầu đặt ra hay chưa
đảm bảo yêu cầu đặt ra.
Từ định nghĩa trên, có thể hiểu Tiêu chí đánh giá chất lượng sinh hoạt
chi bộ của Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố Hà Nội là đặc trưng, dấu
hiệu làm cơ sở để nhận biết, đánh giá được chất lượng sinh hoạt chi bộ cao
hay thấp, tốt hay chưa tốt, đạt hay chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra. Các
tiêu chí chủ yếu để đánh giá chất lượng sinh hoạt chi bộ gồm:


×