1
PHẦN DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Tây du ký là tác phẩm nằm trong giai đoạn quan trọng của lịch sử phát triển văn
học Trung Quốc, cũng là giai đoạn cuối cùng của quá trình phát triển văn học cổ điển,
một giai đoạn dài nhất và có nội dung phong phú nhất. Nó đánh dấu sự chuyển mình
sang khuynh hướng hiện đại. Tác phẩm này không những mở ra lĩnh vực tiểu thuyết
thần ma với sự tưởng tượng phong phú, với những câu chuyện kì diệu, kết cấu đồ sộ,
mà còn khắc họa thành công hình tượng anh hùng lí tưởng mang đậm màu sắc nhân
sinh.
Không những thế, tầm ảnh hưởng của tác phẩm Tây du ký không chỉ lan rộng ở
Trung Quốc mà còn vượt biên tới các nước khác trong khu vực như Nhật Bản, Triều
Tiên… Tác phẩm còn được chuyển thể thành phim, cho nên, ở Việt Nam, từ lâu các
nhân vật trong tác phẩm Tây du ký đã ăn nhập sâu đậmvào tâm thức của mỗi người,
như Tôn Ngộ Không biến hóa thần thông; Trư Bát Giới háu ăn, hám sắc; Đường Tăng
một lòng son sắc bái Phật cầu kinh; Sa Tăng nhẫn nại, gánh vác hành lí cho cả đoàn
không oán than… Nhân vật trong Tây du ký đã thấm sâu vào tâm tưởng của nhiều tầng
lớp với mọi lứa tuổi, sức hút ấy chưa bao giờ ngưng mà còn tăng thêm độ hấp dẫn của
tác phẩm.Đọc Tây du ký, ta mới nhận thấy việc đi lấy kinh ở đây được xem là một sự
nghiệp cao cả, mà phải trải qua muôn vàn gian khổ, kiên trì bền bỉ mới đạt được mục
đích. Mục đích chính ở đây là tư tưởng hướng về những lí tưởng tốt đẹp, để hoàn
thành sự nghiệp vĩ đại, hoàn thành nhân cách con người.
Cũng như nhiều tác phẩm nổi tiếng khác của Trung Quốc như Tam quốc diễn
nghĩa, Thủy hử, Hồng lâu mộng..., Tây du ký từ lâu đã có ảnh hưởng sâu rộng đến đời
sống văn hóa các dân tộc Đông Nam Á. Tự thân tác phẩm Tây du ký phải có những
giá trị độc đáo mới có sức ảnh hưởng lớn đến vậy. Độ hấp dẫn của tác phẩm đã cuốn
hút biết bao nhiêu thế hệ người đọc và được xem như là đại diện cho nền văn học
trung đại Trung Hoa.Ngày nay, qua thực tế nghiên cứu cùng những hướng tiếp cận
mới đã mở ra nhiều khả năng trong việc đi sâu, phát hiện và lý giải những vấn đề mới
trong cùng một tác phẩm.Trên tinh thần đó, nghiên cứu những ảnh hưởng tới tác phẩm
Tây du ký, ta không thể nào phủ nhận sự ảnh hưởng sâu sắc của đạo Phật tới tác
phẩm.Tư tưởng Thích Ca xuất phát từ Ấn Độ khi du nhập vào Trung Quốc đã góp
phần đóng góp trào lưu tư tưởng mới hữu ích.Chính sự giao lưu tôn giáo đã dẫn tới
giao lưu văn học giữa Ấn Độ và Trung Quốc ngày càng rộng rãi và sâu sắc mang đậm
màu sắc nhân sinh.Để khám phá thêm giá trị của tác phẩm Tây du ký cũng rất cần việc
tìm hiểu nghiên cứuđến mặt nhân sinh của tác phẩm.
Tây du ký từ khi ra đời đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu khảo sát
tìm ra giá trị cho việc tiếp nhận và thưởng thức. Tìm hiểu giá trị nhân sinh, để khẳng
định giá trị nhân sinh trong tác phẩm là một đề tài mang tính chuyên biệt, số lượng tác
giả tìm hiểu vấn đề này mới chỉ có Ths Trịnh Văn Đồng bàn về Triết lí nhân sinh
trong Tây du ký. Đây là mảng đề tài khá mới mẻ và hấp dẫn đối với một sinh viên theo
ngành Ngữ Văn. Trong quá trình học tập và nghiên cứu về học phần Văn học Trung
Quốc, tìm hiểu các tác phẩm, tài liệu liên quan, chúng tôi đã quyết định chọn đề tài có
liên quan đến tác phẩm Tây du ký mà mình tâm đắc nhất. Xuất phát từ nhu cầu nghiên
2
cứu khoa học và điều kiện học tập, chúng tôi quyết định chọn và nghiên cứu đề tài tìm
hiểu về: “Giá trị nhân sinh trong tác phẩm Tây du ký của Ngô Thừa Ân”.
Việc chọn đề tài này, nhằm hướng đến khẳngđịnh vai trò, ý nghĩa của giá trị
nhân sinh trong việc thể hiện hệ thống các giá trị hình tượng nhân vật, giá trị của một
số tình tiết và đi đến khẳng định giá trị tư tưởng nghệ thuật ở tác phẩm. Hơn nữa, đây
cũng là dịp để chúng em có điều kiện tìm hiểu nắm vững đến việc khai thác sâu hơn
những giá trị to lớn mà nền văn hóa Trung Hoa, cái nôi của nền văn minh thế giới
mang lại cho nhân loại.
2. Lịch sử vấn đề
Tây du ký của Ngô Thừa Ân đã thu hút được nhiều sự chú ý, cũng như khẳng
định vị trí của mình trong nền văn học Trung Quốc. Là bộ tiểu thuyết thần ma, có
nhiều chi tiết huyền ảo mang tính lãng mạn nhưng các giá trị hiện thực, giá trị nhân
sinh cũng được Ngô Thừa Ân khéo léo gửi gắm đến độc giả, qua hình thức rất ý nhị,
kín đáo, sâu sắc và cũng rất thời sự. Không ít nhà nghiên cứu có tên tuổi đã bỏ ra
nhiều công sức để khai thác và tìm hiểu với nhiều thành tựu có giá trị. Ở Việt Nam có
các tác giả như Giáo sư Lương Duy Thứ, Giáo sư Trần Xuân Đề, Giáo sư Phan Ngọc,
Phó giáo sư Lưu Đức Trung… các nhà nghiên cứu có tên tuổi như Nguyễn Hiến Lê,
Nguyễn Huy Khánh, Nguyễn Quân… Từ đó chúng tôi tiếp thu, chọn lọc và tìm tòi để
hiểu rõ hơn giá trị nhân sinh trong tác phẩm này.
GS. Trần Xuân Đề trong cuốn Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, NXB Giáo Dục,
có nhận định về Tây du ký:“Tính khuynh hướng và tư tưởng chủ đề của tác phẩm
được biểu hiện rõ rệt, nội dung ý nghĩa của nó sâu sắc hơn so với truyền thuyết, thoại
bản, kịch” [7; tr95]. Đồng thời, cũng một phần phác họa tính nhân sinh của các hình
tượng nhân vật trong truyện.
Theo PGS. Nguyễn Khắc Phi trong Lịch sử văn học Trung Quốc, tập 2, NXB
Đại học sư phạm, phần viết về Tây Du Ký đã nêu lên những thành tựu to lớn của tác
phẩm trong việc thể hiên ước mơ của tầng lớp nhân dân lao động qua hình tượng kì vĩ
của nhân vật Ngộ Không, làm lộ ra phần nào giá trị nhân sinh của tác phẩm.
Lời tựa Tây Du Ký của Nhà xuất bản văn học, đã nhấn mạnh tới khả năng tinh
tế của Ngô Thừa Ân qua việc miêu tả các hành động và tính cách nhân vật làm bật lên
những giá trị tư tưởng của Tây Du Ký. Đặc biệt phải nói đến hình tượng Tôn Ngộ
Không trong tác phẩm, nhân vật trung tâm của truyện Tây duchủ yếuthể hiện những tư
tưởng anh hùng chính nghĩa của tác giả trong tác phẩm.
PGS. Lưu Đức Trung trong Giáo trình văn học thế giới, tập 1, NXB Đại học sư
phạm, viết về Tây du ký, cũng đã khái quát cả về giá trị nội dung lẫn giá trị nghệ thuật
của tác phẩm. Tác giả nhấn mạnh “nội dung tư tưởng của Tây du ký mang tính phức
điệu” [16;tr 309] và bắt tay vào việc phân tích tư tưởng hiện thực của tác phẩm.
GS. Lương Duy Thứ trong cuốn Bài giảng văn học Trung Quốc, Tủ sách Đại
học tổng hợp TP. Hồ Chí Minh khẳng định Tây du ký“mang tư tưởng nhân sinh quan
nhập thế” [15; tr206], nêu lên chất hiện thực đan xen tính lãng mạn mang màu sắc
thần thoại, làm bật giá trị nội dung của tác phẩm.
3
GS.Lương Duy Thứ trong Để hiểu tám bộ tiểu thuyết Trung Quốc đã đưa ra
nhận xét và đánh giá khá đầy đủ về các nhân vật trong Tây du ký.Ông đã đưa ra những
phân tích và đánh giá về các nhân vật trong truyện rất điển hình và sâu sắc.
Lỗ Tấn trong cuốn Lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc đã nêu lên những điểm đặc
sắc mới mẻ trong miêu tả nhân vật của Tây Du Ký so với những tiểu thuyết Thần ma
đời Minh. Ông nhấn mạnh trong Tây Du Ký “thần ma cũng có nhân tình, tình yêu
cũng rõ thế thái, và cái ý nghĩa khinh đời, không cung kính với ma quỷ cũng rõ hơn,
thấy rõ hơn” [11; tr 172], từ đó, mở ra hướng tìm về những giá trị sáng tạo văn học
trong tác phẩm này.
Các công trình nêu ở trên, chỉ là số ít nghiên cứu về tác phẩm Tây du ký, vấn đề
nghiên cứu chuyên biệt giá trị nhân sinh trong Tây du ký vẫn chưa có công trình
nghiên cứu nào. Tuy nhiên, các công trình đó cũng đã chỉ ra những gợi ý quan trọng
trong việc tìm hiểu giá trị nhân sinh, có thể xem là những gì tâm đắc nhất của các vị
học giả đi trước mà chúng em tiếp thu được. Vậy nên, chúng em mạnh dạn chọn và
tìm hiểu vấn đề “Giá trị nhân sinh trong tác phẩm Tây du ký của Ngô Thừa Ân”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Giá trị nhân sinh trong tác phẩm Tây du ký
của Ngô Thừa Ân.
3.2. Phạm vi nghiên cứu gồm có tác giả Ngô Thừa Ân và tác phẩm Tây du ký.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những nhiệm vụ sau:
4.1. Tìm hiểu về tác giả Ngô Thừa Ân và tác phẩm Tây du ký.
4.2. Khái quát giá trị nhân sinh trong tác phẩm Tây du ký.
4.3. Phân tích tính nhân sinh thể hiện trong tác phẩm Tây du ký.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng em sử dụng các phương pháp chính như:
5.1. Phương pháp cấu trúc, hệ thống.
5.2. Phương pháp phân loại, so sánh.
5.3. Phương pháp phân tích, tổng hợp.
6. Cấu trúc đề tài
Bài tiểu luận gồm ba phần: Dẫn nhập, Nội dung và Kết luận. Ngoài ra còn có
phần mục lục và danh mục tài liệu tham khảo.Trong đó trọng tâm là phần nội dung.
Phần nội dung bao gồm ba chương:
Chương 1: Tác giả Ngô Thừa Ân và tác phẩm Tây du ký.
Chương 2: Khái quát giá trị nhân sinh trong tác phẩm Tây du ký.
Chương 3: Giá trị nhân sinh thể hiện trong tác phẩm Tây du ký.
4
CHƯƠNG 1
TÁC GIẢ NGÔ THỪA ÂN VÀ TÁC PHẨM TÂY DU KÝ
1.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Ngô Thừa Ân
Ngô Thừa Ân (1500?-1581?), tự Nhữ Trung, hiệu Xạ Dương Sơn nhân, là
một nhà văn, nhà thơ Trung Quốc, sống trong thời nhà Minh.
Ông sinh tại Hoài An, tỉnh Giang Tô.Gia đình ông làm nghề buôn bán nhỏ,
chuyên bán chỉ và đồ thêu, nhưng lại có thú tàng trữ sách. Cả ông nội và cha Ngô
Thừa Ân đều xuất thân là quan lại qua đường khoa cử. Ông học tại Nam Kinh Thái
học (Đại học Nam Kinh cổ) trong hơn 10 năm.
Tương truyền từ nhỏ, Ngô Thừa Ân đã say mê những truyện thần tiên yêu quái.
Khi bị cha cấm, ông từng trốn cha mang những cuốn sách thể loại đó ra chợ ngồi đọc.
Lớn lên, ông tỏ ra là người có tính tình khẳng khái, những câu nói của ông lúc bấy giờ
thể hiện tính cách của ông, “không để người đời thương hại”, “trong lòng mài mãi
dao trừ tà, muốn dẹp sạch đi, buồn không đủ sức” [17; tr 450].
Hồi thiếu niên, Ngô Thừa Ân nổi tiếng văn hay chữ tốt và rất thích hài kịch.
Ông từng viết nhiều tạp kĩ, lừng danh một thời. Tuy là người đa tài nhưng Ngô Thừa
Ân lại lận đận trên đường thi cử. Ông không đắc chí trong cuộc thi khoa cử vì thi rất
nhiều lần nhưng không đỗ đạt.Mãi tới năm khoảng 43 tuổi, ông mới đỗ cử nhân.Sau
đó, ông còn đi thi hai lần nữa nhưng đều hỏng.Cho nên gia cảnh khó khăn, cuộc sống
hết sức nghèo túng. Chính vì vậy, năm 51 tuổi, ông quyết định chuyển đến Nam Kinh
tìm việc để mong thoát khỏi cảnh quẫn bách nhưng không được.
Sau mãi đến năm 67 tuổi, ông đến Bắc Kinh để được tuyển dụng làm quan, ông
nhận một chức quan nhỏ tại huyện Trường Hưng. Chẳng bao lâu sau, vì không chịu
được cảnh luồn cúi, ông từ chức ra về.
Ngô Thừa Ân còn được tiến cử vào giữ chức kỉ thiện trong Kinh Vương phủ,
chuyên coi việc lễ nhạc và văn thơ, nhưng được 3 năm thì bất đắc chí từ quan về nhà.
Lúc đó, Ngô Thừa Ân đã 70 tuổi. Từ đây, Ngô Thừa Ân sống bằng nghề viết văn thơ,
được hơn 10 năm thì mất.
Tương truyền, sáng tác của Ngô Thừa Ân khá phong phú. Ngoài phần văn ra,
ông được Trần Văn Chúc khen “Lời tinh mà hiểu được, ý rộng mà sâu” và ông còn là
“nhà thơ hàng đầu vùng Hoài quận trong cả thời gian triều Minh” [11; tr 168]. Do
hoàn cảnh gia đình bần hàn, lại chỉ có một người con gái nên rất nhiều tác phẩm của
ông đã bị mất mát gần hết. Chẳng hạn như Ngụ Đỉnh Ký đã bị thất truyền, các tập tiểu
thuyết Vũ Đỉnh Chí (cũng là tiểu thuyết thần tiên ma quái), hiện chỉ còn lại một số thơ
văn được tập hợp lại thành bộ Xạ Dương tiên sinh tồn cảo gồm 4 quyển do Chính
Cương thu thập. Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông là Tây du ký viết lúc đã ngoài
70 tuổi.Cuốn tiểu thuyết này được nhiều thế hệ người Trung Quốc yêu thích, là một
trong những cuốn tiểu thuyết cổ điển phổ biến nhất ở Trung Quốc và nhiều quốc gia
5
khác.Nó cũng đã được dịch ra bằng nhiều thứ tiếng, như bản dịch tiếng Anh
của Arthur Waley với tiêu đề Monkey (Con khỉ).
Có một số ý kiến cho rằng Tây du ký là câu chuyện ma quái, mua vui, không có
mục đích răn dạy. Thế nhưng, Ngô Thừa Ân đã khẳng định cách hành văn của mình
trong bài nói đầu của Vũ Đỉnh Chí (nay đã thất truyền): “Từ ngày còn nhỏ, tôi thích
những chuyện kỳ quái, khi còn học trường thường kiếm những truyện giả sử ở chợ
búa, nhưng sợ thầy cha mắng, tìm chỗ kín mà đọc. Đến lúc lớn càng thích đọc, thích
nghe... Sách của tôi mang tên chi quái, nhưng không phải ghi lại chuyện ma quỷ đời
Minh, ngày nay con người đã thay đổi nhiều, nên nó có tác dụng khuyên răn giáo
dục”[5; tr88]. Xem thế đủ biết, mục đích dùng tác phẩm văn học để giáo dục tư tưởng,
thay đổi tập tục.Điều đó cũng xem là động lực thúc đẩy Ngô Thừa Ân, người văn sĩ
già bảy mươi mốt tuổi, dốc hết bầu nhiệt huyết hoàn thành tác phẩm Tây du ký tám
mươi vạn chữ.
Đương thời khi ông còn sống, Tây du ký chưa được người đời biết đến, mãi tới
sau khi ông mất nhiều năm, một người cháu ngoại họ Dương mới mang công bố tiểu
thuyết này.
1.2. Tác phẩm Tây du ký
1.2.1. Lịch sử sáng tác
Vào khoảng những năm Gia Tĩnh, Vạn Lịch giữa đời Minh, Ngô Thừa Ân hoàn
thành bộ Tây du ký gồm một trăm hồi. Đây là một thành tựu to lớn trong sự phát triển
của tiểu thuyết Trung Quốc. Tác phẩm này không những mở ra lĩnh vực tiểu thuyết ảo
tưởng phong phú, với những câu chuyện kì diệu kết cấu thành một tác phẩm đồ sộ, mà
còn khắc họa nên những hình tượng anh hùng lí tưởng mang màu sắc đậm đà được
nhân dân yêu thích. Tây du ký là một bộ tiểu thuyết dài lãng mạn vĩ đại. Nó ra đời đã
đánh dấu mộtnền văn học lãng mạn đạt tới đỉnh cao mới.
Câu chuyện chủ yếu của Tây du ký nói về chuyện Tôn Ngộ Không phò tá
Đường Tăng sang Tây Thiên lấy kinh, dọc đường hàng phục yêu quái, quét sạch được
mọi trở ngại. Để dẫn dắt câu chuyện chính, tác phẩm thêm một số tình tiết thứ yếu,
như lấy chuyện “Đại náo thiên cung” để nói rõ lai lịch của Tôn Ngộ Không, lấy
chuyện “Giang Lưu nhi” để nói rõ xuất thân của Đường Tăng, dùng chuyện “Nằm
mộng chém rồng sông Kinh” để giải thích nguyên nhân đi lấy kinh. Những chuyện đó
đều bắt nguồn từ dân gian. Trong quá trình lưu truyền lâu dài đó, chuyện đi lấy kinh
được lấy làm cốt lõi, dần dần tập hợp những chuyện khác lại thành một chỉnh thể trọn
vẹn, đồng thời bản thân chuyện đi lấy kinh cũng không ngừng biến đổi, phong phú và
mở rộng thêm. Ở đây, sự cố gắng của những người kể chuyện dân gian đã có tác dụng
rất lớn. Trước khi Ngô Thừa Ân viết thành sách, truyện Tây du ký cơ bản đã hình
thành rồi.
Câu chuyện Đường Tăng đi lấy kinh vốn là câu chuyện có thực trong lịch sử.
Đời Đường Thái Tông, nhà sư trẻ tuổi Huyền Trang một mình sang Thiên Trúc lấy
kinh. Với con đường dài 5 vạn dặm, trải qua lãnh thổ 128 nước lớn nhỏ, đi về mất 4
năm, ở lại Ấn Độ tìm thầy học đạo 13 năm, đặc biệt lưu học những 6 năm ở chùa Na
Lan Đà vốn là trung tâm Phật học thời bấy giờ. Khi về nước, vị nhà sư phải dùng 24
6
ngựa tải theo 657 bộ kinh Phật, 150 xá lợi tử (tinh cốt Phật), 6 tượng Phật. Ông để ra
19 năm trời, dịch được 75 bộ kinh Phật, cho đến khi mất. Ông còn để lại một bộ Đại
Đường Tây vực kýgồm 12 quyển, ghi chép đầy đủ lịch sử, địa lý, phong tục tập quán
của 128 nước mà ông đã đi qua. Chính hành động táo bạo ấy, đã có tính huyền ảo rồi,
do đó, nảy sinh các loại truyền thuyết thần kì dân gian.
Những người làm nghề kể chuyện đời Tống lấy câu chuyện này làm đề tài. Nay
còn cuốn Đại Đường Tam Tạng thủ kinh thi thoại, là một thoại bản in từ thời Nam
Tống, có mười bảy tiết, kể rất sơ xài, xen lẫn văn ngôn và bạch thoại, tựa như đề
cương dùng để kể chuyện.
Đến đời Nguyên, chuyện Tây du ký đã phát triển lên nhiều.Qua sự sắp xếp, gia
công của bao nhiêu người kể chuyện ưu tú vô danh, tình tiết câu chuyện phong phú
thêm, nhân vật tăng lên, tính chất chuyện cũng mạnh mẽ hơn.Lúc này đã xuất hiện bộ
Tây du kýbình thoại mớimẻ hơn so với bộ truyện trước đây. Những tình tiết quan trọng
trong Tây du ký bản một trăm hồi đại thể đều có trong Tây du ký bình thoại. Đáng chú
ý là Tây du kýbình thoại không có tình tiết Đường Tăng xuất thế.
Truyện Tây du ký được đưa lên sân khấu khá sớm.Đời Kim viện có bản Đường
Tam Tạng và đời Nguyên có vở tạp kịch Đường Tam Tạng Tây thiên thủ kinh của Ngô
Xương Linh đều đã mất. Cuối Nguyên đầu Minh, có Tây du ký tạp kịch của Dương
Nột, gồm sáu phần, bắt đầu từ chuyện “Giang Lưu nhi” viết về Đường Tăng xuất
thế... Những điều đó chứng tỏ truyện Tây du ký trong khi lưu truyền, đã bằng nhiều
phương thức khác nhau mà thu gộp thêm những câu chuyện khác, làm cho nó không
ngừng phong phú và phát triển.
Ngô Thừa Ân là người tập hợp cuối cùng. Ông đã tiến hành sáng tác văn học
dựa trên cơ sở thần thoại và truyền thuyết lưu hành trong nhân dân; dựa trên cơ sở
bình thoại Tây du ký và tạp kịchTây du ký. Bộ Tây du ký xuất hiện với quy mô to lớn
một trăm hồi không phải là ngẫu nhiên, nó là tổng kết sự phát triển của chuyện Tây du
trước đây, đồng thời cũng là sự sáng tạo thiên tài của Ngô Thừa Ân. Trong tám mươi
mốt kiếp nạn, phần lớn dùng những tình tiết của truyện Tây du trước đây, nhưng cũng
có nhiều chỗ do ông cấu tứ.Ngay cả những tình tiết được chọn dùng, cũng không có
một tình tiết nào, ông không nhuận sắc công phu và sắp xếp lại.Tây du ký bình thoại
trước kia thiên về kể chuyện, thiếu tính miêu tả tính cách, hơn nữa, không chú ý đến
chi tiết tiểu tiết. Về mặt này, Tây du ký tiến bộ hơn hẳn. Dưới ngòi bút của Ngô Thừa
Ân, hình tượng nhân vật rất sinh động, mỗi trận chiến đấu kịch liệt đều được miêu tả
cụ thể, có âm thanh hình ảnh, làm cho người đọc như đang trải qua cảnh đó vậy. Tính
tư tưởng của cả bộ tiểu thuyết được nâng cao rất nhiều. Do vậy,Tây du kýđã trở thành
một tác phẩm văn học sống mãi với thời gian, ngày càng rộng rãi bạn đọc tìm hiểu
đến.
1.2.2. Nội dung tác phẩm
Tác phẩm Tây du ký của Ngô Thừa Ân bao gồm 100 hồi, có thể chia làm bốn
phần chính:
• Phần 1: Giới thiệu lai lịch Tôn Ngộ Không
7
Từ hồi 1 đến hồi 7, tác giả giới thiệu quá trình ra đời, học đạo, tu tiên và đại
náo thiên cung của Tôn Ngộ Không.Tương truyền lúc bàn cổ sơ khai, thế giới chia ra
làm bốn đại bộ châu.Ngoài biển Đông Thắng thần châu, có một nước tên là Ngạo Lai
quốc, có ngọn núi cao gọi là Hoa Quả sơn. Trên ngọn núi, có một viên tiên thạch, nhờ
lâu ngày thọ nhật nguyệt tinh hoa, linh thông nứt ra trứng đá, gặp gió hóa ra con khỉ
đá, đủ mặt, mũi, chân, tay. Từ nhỏ, y đã thông minh, lanh lợi, dũng cảm. Y tụ tập bầy
khỉ chiếm cứ Thủy Liêm động, Hoa Quả sơn và được đàn khỉ tôn làm vua, tự xưng là
Mỹ Hầu vương.
Mỹ Hầu vương làm vua khỉ hơn bốn trăm năm, nhận thấy kiếp sống có chừng,
không ai thoát khỏi kiếp sinh lão bệnh tử, y bèn quyết chí rời Hoa Quả sơn, tầm tiên,
học đạo trường sinh bất tử. Hầu vương một mình vượt bể lớn, trèo non lội suối, trải
qua muôn ngàn khó khăn, cuối cùng cũng tìm được một vị sư tổ nhận làm đệ tử, đặt
cho họ Tôn, pháp danh Ngộ Không. Tôn Ngộ Không theo thầy học đạo hơn mười
năm, tinh thông pháp thuật, võ nghệ cao cường, giỏi 72 phép biến hoa, biết cả “cân
đẩu vân”, nhảy một cái xa tới mười vạn tám ngàn dặm. Nhưng chỉ vì một lần khoe tài,
Ngộ Không đã bị sư phụ đuổi đi, cấm không được gọi thầy nữa.
Trở về Hoa Quả Sơn, uy phong của Hầu Vương trở nên lừng lẫy. Để có binh
khí, Hầu Vương thẳng xuống Đông Hải, mượn Long Vương cả cây cột đồng giữa biển
đông, chính là cây gậy như ý, nặng một vạn ba nghìn năm trăm cân, có thể lớn nhỏ tùy
ý. Một lần, Hầu Vương bị Ngưu đầu Mã diện bắt xuống Diêm Cung, khi say rượu ngủ
thiếp ở bóng cây bên cầu sắt. Tức giận, Ngộ Không tung gậy như ý quấy tung cả Sâm
La điện, xóa sổ sinh tử của toàn họ khỉ. Từ đây, uy danh Ngộ Không đã vượt qua khỏi
biên giới Thủy Liêm động, Hoa Quả sơn.
Ngọc Hoàng khi được Long Vương và Diêm Vương cấp báo, nổi giận sai thiên
binh, thiên tướng đánh bắt nhưng do có Thái Bạch Tràng Canh hiến kế, bèn theo kế
đó, phong cho Tôn Ngộ Không chức Bật Mã Ôn, cho nhậm chức tại thiên đình để giữ
chân y. Hầu Vương vốn tinh quái, nên không bao lâu hiểu được Bật Mã Ôn là chức
quan kém hèn, nổi giận đùng đùng, bỏ cõi trời trở về Hoa Quả sơn dựng cờ làm phản,
tự xưng “Tề Thiên Đại Thánh”. Ngọc Hoàng hàng không được, bất đắc dĩ phải nghe
theo y.
Tại thiên đình, hàng năm đều có Đại hội bàn Đào mời chư tiên, chư thánh các
nơi về phó hội. Nhưng năm ấy, Tề Thiên lại không được mời. Tề Thiên tức giận trộm
đào ăn gần sạch, phá cả tiệc rượu, qua cả cung Đâu Xuất trộm thuốc tiên, rồi trở về
Hoa Quả sơn nương náu. Ngọc Hoàng tức giận, sai thiên binh, thiên tướng xuống bắt,
nhưng đều thất bại. Thượng đế phải sai cháu mình là Nhị Lang thần đuổi bắt mới
được, đem xử trảm, nhưng dao chém không đứt, phải bỏ vào lò bát quái nung 49 ngày
đêm cũng không tan chảy. Thừa cơ hội Thái Thượng Lão Quân vô ý, mở cửa lò, Tề
Thiên nhảy phốc ra làm sập cả một góc lò, tung thiết bản, đại náo thiên cung. Trong
cơn tức giận, Đại Thánh đánh tới đâu, chư thiên binh thiên tướng nơi thượng giới đều
hoảng sợ, không thể chống cự nổi. Ngọc Hoàng phải nhờ Phật Tổ Như Lai đến dùng
mưu kế mới bắt được Tề Thiên đè dưới núi Ngũ Hành.
8
• Phần 2: Giới thiệu lai lịch của Huyền Trang cùng các đồ đệ và giải thích nguyên do
việc đi thỉnh kinh
Từ hồi 8 đến hồi 12, tác giả giới thiệu lai lịch Trần Huyền Trang và bước đầu
quá trình thỉnh kinh. Nguyên tại xứ Hải Châu, có một người học trò tên là Trần Quang
Nhị, thi đậu Trạng Nguyên, phụng chỉ xuống Giang Châu trấn nhậm. Chẳng ngờ đến
nơi vắng vẻ, Quang Nhị bị tên lái đò là Lưu Hồng, vì thấy Ân Kiều là vợ chàng, có
nhan sắc, đem lòng đen tối lập mưu hãm hại, giết chết quăng thây xuống sông mà đoạt
lấy Ân Kiều. Bấy giờ, Trần phu nhân đã có thai, nên đành ép lòng thuận theo bọn
cường đạo để chờ ngày báo oán cho chồng. Rồi đến ngày nở nhụy khai hoa, lo sợ tên
cường đạo giết đứa trẻ, Trần phu nhân phải cắt tay lấy máu viết một phong thư thuật
lại cặn kẽ, rồi lấy áo lót của mình quấn kỹ đứa hài nhi để lên trên một tấm ván thả trôi
theo dòng nước. Đứa bé trên tấm ván chính là Trần Huyền Trang, xuôi theo dòng nước
tới dưới chân chùa Kim Sơn thì dừng lại. Từ đó, cậu bé được nhà chùa nuôi dạy, tới
năm 18 tuổi thì quy y, lấy pháp danh là Huyền Trang. Cùng năm đó, Huyền Trang
được biết lí lịch của mình và sự tình ai oán trên, nên đã quyết trả thù báo ơn gia
đình.Kết quả là Huyền Trang trả được thù, Quang Nhị được cứu giúp, sống lại và cả
gia đình được vui vẻ đoàn tụ.
Cùng lúc ấy, tại triều đình, vua Đường Thái Tông vì chuyện nằm mơ chém
Long Vương ở sông Kinh Hà mà thác ba ngày mới được sống lại, nên quyết tìm vị đại
đức cao tăng, cử người qua Tây Phương thỉnh chân kinh về cầu siêu cho các oan hồn
uổng tử. Trần Huyền Trang chính là vị chân tu được nhà vua lựa tuyển, phong làm
ngự đệ, cải pháp danh là Tam tạng, đổi thành họ nhà Đường, phụng chỉ đi Thiên Trúc
thỉnh kinh.
Trước đó, ở hồi 8, Phật Tổ lại truyền chỉ cho Quan Âm đến Đông Thổ, nơi
thiên hạ ngu dại chê bai phép Phật, kiếm một người đi thỉnh kinh ở bên vùng Tây
Thiên cực lạc. Trên đường đến Đông Thổ, Quan Âm đã lần lượt gặp bốn yêu quái ở
những nơi là Lưu Sa hà, Phước Lăng sơn, khe Ưng Sầu, cuối cùng là núi Ngũ Hành,
nơi giam hãm Tề Thiên đã gần năm trăm năm. Khi đi qua những vùng này, các yêu
quái lần lượt thuật lại lý lịch của mình, được Bồ Tát cảm hóa, họ quyết sửa đổi tâm
tính, một lòng hướng về nhà Phật và nhận lời bảo vệ người thỉnh kinh đến Tây Thiên,
lập công chuộc tội.
• Phần 3: Thuật lại quá trình đi thỉnh kinh
Từ hồi 13 đến hết hồi 98, là phần chính của truyện Tây Du Ký, kể lại quá trình
gian khó của thầy trò Đường Tăng trên con đường ngàn dặm tới Thiên Trúc thỉnh
kinh.
Con đường thỉnh kinh mà Tam Tạng đi qua là con đường đầy tai ương nạn ải.
Vừa bước chân ra khỏi biên giới nước Đại Đường, hai người đưa Đường Tam Tạng đã
bị hổ dữ ăn thịt.Tam Tạng đến Ngũ Hành Sơn, gặp Hầu vương đang bị giam cầm, ngài
động lòng từ bi, trèo lên đỉnh núi gỡ đạo bùa thả cho Ngộ Không được tự do. Ngộ
Không xin làm đồ đệ Đường Tăng, nguyện đi theo làm người bảo hộ cho ngài và đã
9
được pháp sư đặt thêm tên thường là Hành Giả. Để chế ngự tính nóng nảy và ngang
ngược của Hành Giả, Quan thế Âm Bồ tát đã trao cho Đường Tăng một chiếc vòng
kim cô, dạy cách dụ Hành Giả đội lên đầu tự nhiên liền vào da thịt, mỗi khi Hành Giả
cãi lời, Đường Tăng chỉ cần niệm “Khẩn cô nhi chú” thì Hành Giả nhức đầu chịu
không nổi tức thì phải nghe lời.
Từ đó, Ngộ Không tuân theo khuôn phép giáo lý nhà Phật và giúp Đường Tăng
thu nhận thêm các đồ đệ trên con đường thỉnh kinh.Nhưng con đường đi thỉnh kinh
không những bị yêu ma ngăn cản mà còn có khi xảy ra bất đồng giữa thầy trò khiến
Ngộ Không mấy lần bị sư phụ đuổi đi. Chỉ vì Bát Giới hay xúc xiểm, Đường Tăng
không phân biệt được trắng đen rõ ràng làm cho nội bộ đoàn trở nên lục đục. Một lần,
Tôn Ngộ Không đánh chết Bạch Cốt tinh ba lần đội lốt người đánh lừa Tam Tạng,
giữa lúc Tam Tạng đang bất bình, Bát Giới nhỏ to khích bác làm sư phụ nổi giận, đuổi
Tôn Ngộ Không đi. Lại có lần, chỉ vì đánh chết bọn cướp mà bị Tam Tạng trách
mắng.Tuy nhiên, Ngộ Không là người đại nghĩa, mấy lần bỏ đi đều quay lại cứu Tam
Tạng khi người bị nạn.
Trên đường đi thỉnh kinh, thầy trò Đường Tăng không chỉ tiêu diệt bọn yêu ma
cản đường, mà còn cứu giúp bá tánh dọc đường. Như cứu công chúa Bách Hoa Tu
nước Bảo Trượng Quốc (hồi 28-31); cứu vua nước Ô Kê (hồi 37-39); đánh thắng “Bà
La sát” lấy được cái quạt thần để quạt tắt núi lửa ngăn trở đường đi... Cuối cùng, năm
thầy trò vượt qua tất cả chín lần chín là tám mươi mốt kiếp nạn, đến được Thiên Trúc
bái kiến Phật Tổ.
• Phần 4: Thầy trò Đường Tăng thỉnh được chân kinh trở về
Gồm hai hồi cuối, hồi 99 và 100. Trải qua 14 năm ròng rã, với bao vất vả gian
truân, cuối cùng thầy trò Tam Tạng cũng được đặt chân tới đất Phật, bái kiến Phật tổ
Như Lai Thích Ca Mâu Ni và nhận đủ 55 bộ kinh gồm 5048 quyển đem về truyền bá ở
Trung Quốc. Các thầy trò đều được ban chức tước, Đường Tăng được ban tước Chiên
Đàn Công Đức Phật, Tôn Ngộ Không được cởi mũ kim cô, được ban tước Đấu chiến
thắng Phật, Bát Giới làm Tịnh Đàn sứ giả, Sa Tăng làm La Hán mình vàng, ngựa bạch
làm Bát Bộ Thiên Long. Năm thầy trò xin được rất nhiều kinh Phật, lại được các vị
Kim Cương dùng phép cưỡi mây đưa vềĐông Thổ và trở lại lĩnh tước chỉ trong tám
ngày. Đường Thái Tông cùng tăng ni Phật tử và dân chúng đã đón tiếp rất trọng thể
thầy trò Tam Tạng. Họ bàn giao kinh Phật rồi theo lệnh Phật tổ, cưỡi mây trở lại xứ
Phật và ở lại hưởng phúc muôn đời.
1.2.3. Nghệ thuật trong tác phẩm
Tây du ký là một bộ tiểu thuyết dài lãng mạn vĩ đại. Nó kế thừa và phát huy
truyền thống tốt đẹp của thần thoại cổ đại Trung Quốc, thể hiện tính sáng tạo và sức
tưởng tượng phong phú của dân tộc Trung Hoa. Không những có một nội dung tư
tưởng tiến bộ, sâu sắc, giàu tính nhân sinh mà còn có một hình thức nghệ thuật đẹp đẽ,
hoàn chỉnh.
10
Mặc dù Tây du ký mang nhiều màu sắc thần kỳ, nhưng lại là những chất liệu
được lấy từ trong cuộc sống. Nhân vật trong Tây du ký không phải là con người trong
hiện thực, môi trường hoạt động của họ cũng không phải hoàn toàn ở trần gian, nhưng
nó mang đầy đủ đặc điểm tích cách của con người, cuộc sống. Cách xây dựng nhân
vật của tác giả cũng mang hàm ý sâu xa. Tôn Ngộ Không mang hình dáng khỉ nên
cũng có những nét đặc trưng nhanh nhạy, khôn khéo của khỉ, hay hình dạng của Trư
Bát Giới như con heo nên có những tính cuồng vọng, dâm dục của loài lợn. Nó vừa
mang tính cổ quái, vừa nhấn mạnh được tính cách của các nhân vật trong truyện, lại
còn hàm ý về giá trị nhân sinh sâu sắc.
Về mặt kết cấu,Tây du ký là bộ tiểu thuyết gồm nhiều truyện ngắn hợp lại.
Trong đó có truyện “Đại náo thiên cung”, “Nằm mộng chém rồng”,“Phò Đường Tam
Tạng sang Tây Thiên thỉnh kinh”...Truyện thỉnh kinh là trung tâm của tác phẩm,
nhưng bản thân nó gồm bốn mươi mốt truyện nhỏ.Mỗi truyện giữ tính độc lập về tư
tưởng, nhưng tất cả đều quy tụ lại nhằm làm nổi bật tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
Thầy trò Đường Tăng vượt qua tám mươi mốt kiếp nạn, mỗi tai nạn là một câu
chuyện. Ngô Thừa Ân gắn liền việc miêu tả mâu thuẫn giữa yêu ma quỷ quái xuất
hiện trong các tai nạn với đoàn thỉnh kinh và mâu thuẫn trong nội bộ thầy trò Đường
Tăng, nhằm làm nổi bật tính cách của nhân vật và ý nghĩa của việc thỉnh kinh.
Về mặt ngôn ngữ,Tây du ký đạt được những thành tựu rất lớn. Ngôn ngữ của
Tây du ký lưu loát, rõ ràng, sinh động, dí dỏm, lợi dụng hình thức cú pháp luôn biến
đổi của nó, luyện thành một ngôn ngữ văn học nhuần nhuyễn. Điều đáng chú ý là Ngô
Thừa Ân có tài vận dụng hình thức đối thoại để khắc họa cá tính nhân vật. Những
đoạn đối thoại chiếm tỷ lệ lớn trong toàn bộ tác phẩm.Nhiều đoạn thể hiện rõ nét đặc
trưng tính cách của nhân vật.Thậm chí qua vài lời ngắn ngủi, cũng thấy được tính tình.
Biểu hiện rõ nhất qua bốn tiếng “Chính lão Tôn đây!” của nhân vật Ngộ Không.
Châm biếm mỉa mai cũng là bút pháp nghệ thuật đặc sắc của Ngô Thừa
Ân.Ông châm biếm chua cay những hiện tượng xấu xa trong xã hội. Đối tượng châm
biếm chính trong truyện của ông là những kẻ có uy quyền thống trị tối cao trên thế
giới Trời, Phật. Cũng có khi là những thói xấu của Trư Bát Giới tiềm tàng ở mỗi
người.
Tây du ký đã có tầm ảnh hưởng quan trọng trong lịch sử phát triển của tiểu
thuyết cổ điển Trung Quốc. Sau khi ra đời, nhiều người bắt đầu chú ý thu thập, chỉnh
lý những câu chuyện thần thoại, quỷ quái trong dân gian. Lúc này, xuất hiện hàng loạt
bộ tiểu thuyết bắt chước Tây du ký như Bắc Tây du ký, Đông Tây du ký... Nhìn chung,
nội dung tư tưởng và thành tích nghệ thuật của những tác phẩm đó, khó có thể sánh
bằng với Tây du ký của Ngô Thừa Ân.
11
CHƯƠNG 2
KHÁI QUÁT GIÁ TRỊ NHÂN SINH TRONG TÁC PHẨM TÂY DU KÝ
2.1. Khái quát giá trị nhân sinh
Theo Từ điển tiếng Việt, nhân sinh có nghĩa là cuộc sống của con người. Vậy
nói về giá trị nhân sinh là nói vềnhững giá trị tồn tại trong cuộc sống của con người.
Theo nhà triết học Trung Quốc, Hồ Thích, cho rằng: “Nhân sinh chính là con người
biểu diễn, ca hát tuồng kịch trên sân khấu... Ý nghĩa của nhân sinh chính là chúng ta
có sự nhìn nhận như thế nào đối với nhân sinh. Ý nghĩa lớn nhỏ nông cạn đối với
nhân sinh, hoàn toàn là do đôi bàn tay và khối óc của chúng ta quyết định. Cuộc đời
con người rất ngắn ngủi, tuổi thọ thường không quá trăm tuổi, thời gian để làm việc
bằng đôi tay và khối óc chẳng qua chỉ mấy chục năm. Có người nói, nhân sinh là một
giấc mộng, đó là giấc mộng rất ngắn ngủi. Thực ra, đó là cách nói bi quan nhất, cũng
chứng thực cho điều nhân sinh có ý nghĩa hay không như tôi đã nói trên đây, hoàn
toàn dựa vào nhận xét của chúng ta đối với nhân sinh. Cứ cho là nằm mơ đi, thì cũng
phải mơ giấc mơ đẹp, náo nhiệt và rầm rộ, chứ đừng mơ giấc mơ bi quan.Đã đành
phải lên sân khấu biểu diễn vất vả rồi, thì nên diễn cho tốt, ca cho hay, biểu diễn cho
đâu ra đấy, chứ đừng có như bào long sáo (nhân vật cầm cờ chạy trên sân khấu).
Nhân sinh không đơn độc, con người chính là động vật của xã hội, con người có thể
trông thấy và tưởng tượng những gì mà mình không trông thấy. Bất kể là trước đây,
hiện nay hoặc sau này, con người cũng đều không thể thoát khỏi mối quan hệ giữa
người với người” [12; tr 2].
Điều chính mà Hồ Thích muốn nhắn nhủ là bạn đọc về nhân sinh như sau. Mỗi
người đều có một nhân sinh quan khác nhau, một cách nhìn khác nhau về cuộc đời.
Người có tư tưởng bi quan thì nhìn nhận cuộc sống toàn màu đen, không có điều gì tốt
đẹp nhưng người lạc quan thì ngược lại. Hay cùng một sự việc, có người coi đó là họa,
có người lại coi đó là phúc, là may mắn... Nói đi thì cũng phải nói lại, cho dù nhân
sinh chính là nằm mơ, thì cũng phải mơ một giấc mơ ra hồn. Nhà chính trị đời Tống
Vương An Thạch viết bài thơ nhan đề Mộng. Rằng: “Biết rằng sự đời như giấc mơ,
con người nên có tấm lòng không cầu gì cả. Sự đã như giấc mộng rồi thì, tu hành
công đức chẳng phải là những việc trong mơ hay sao”. Không nên buông bỏ giấc mơ
như vậy, mà phải mơ giấc mơ cho đẹp. Cho dù hát tuồng đóng kịch thì cũng phải biểu
diễn cho tốt.
Giá trị nhân sinh nhìn nhận con người là một hiện hữu và việc chấp nhận đời
sống của con người cũng là một thực tại sinh tồn. Triết lý nhân sinh tự hỏi con người
sống để làm gì? Đời sống con người có giá trị và có ý nghĩa gì không? Đời sống ấy có
đáng sống hay không? Tự giải thoát ra khỏi cuộc đời hay lại dấn thân vào cuộc đời?
Đó là hai thái độ căn bản của con người trước đời sống. Dù muốn hay không, con
người đều phải sống trong xã hội quần chúng, không thể sống tách biệt khỏi cộng
đồng mà vốn dĩ nó đã có mối liên hệ mật thiết với nhau.
12
Chắc hẳn sẽ có người nhầm lẫn giữa giá trị nhân sinh với các giá trị văn học
kháccũng liên quan đến con người, nhưgiá trị nhân văn và giá trị nhân đạo.Nhắc đến
giá trị nhân văn là nhắc đến thước đo giá trị về cái đẹp, về văn hóa của loài người.
Nhắc tới giá trị nhân đạo là nhắc đến thước đo của lòng người, vềnhững mặt đạo đức
tốt đẹp của con người. Còn khi nhắc đến giá trị nhân sinh thì nó thể hiện ở một phạm
trù rộng lớn hơn, đó là thước đo giá trị của cuộc sống con người.Nó bao trùm cả tính
nhân văn và nhân đạo. Nói chung, giá trị nhân sinh là tất cả những giá trị có liên quan
đến con người và đời sống con người.
Giá trị nhân sinh biểu hiện sự tồn tại cuộc sống của con người.Nó được rất
nhiều thế hệ nhà văn từ cổ chí kim gửi gắm vào câu chuyện, các chi tiết hành động và
nhân vật của mình để phản ánh rõ hiện thực cuộc sống. Đồng thời răn dạy con người
ta những điều hay, lẽ phải để tồn tại trong cuộc sống con người và nhắc nhở họ phải
luôn sống đúng với những giá trị ấy. Để làm rõ vấn đề này, người viết xin lấy một số
tác phẩm tiêu biểu, qua đó nêu một số biểu hiện của giá trị nhân sinh được thể hiện
trong đó. Tác phẩmHồng lâu mộng qua ngòi bút của Tào Tuyết Cần đã làmnổi bật lên
hình tượng nhân vật thiếu nữ trẻ trung bị chà đạp, bị hãm hại, mỗi người mỗi
cách.Nhân văn Tử Quyên làm ta có thể thấu được nỗi bất hạnh của người khác mà
cảm thấy đau khổ, thương cảm khôn nguôi, hay nhân vật Tình Văn khiến ta cảm nhận
được sự nhiệt tình nồng nàn, bỏng cháy nhưng lại bị dập tắt phũ phàng bởi giới quý
tộc… Những nhân vật này đều làm cho người đọc cảm động đến rơi lệ. Thông qua đó,
Tào Tuyết Cần rất khéo léo làm cho Hồng lâu mộng trở thành bản cáo trạng phản đối
xã hội thời bấy giờ một cách sâu sắc. Đến tác phẩm Thủy Hử của Thi Nại Am, giá trị
nhân sinh được thể hiện qua câu chuyệncủa các anh hùng Lương Sơn sống vì lý tưởng
trung nghĩa, với lá cờ lớn đề chữ “Thế thiên hành đạo” (Thay trời làm những việc đạo
nghĩa) ở Trung Nghĩa Đường. Sống trong một xã hội thối nát, nhà vua thì ngu tối,
quan lại thì gian ác, tham lam khởi sinh ra những anh hùng Lương Sơn lấy tinh thần
“Kiếp phú tế bần, bảo cảnh an dân” (cướp của nhà giàu chia cho nhà nghèo, bảo đảm
biên giới, giữ an nhân dân) làm lẽ sống. Họ chuyên đánh bọn nhà giàu như Chúc Gia
trang, Tăng Đầu thị... để cướp lấy của cải, tiền bạc chia cho người nghèo. Chữ
“Trung” ở đây tuy là trung với vua nhưng với bọn tham quan ô lại thì cần phải tiêu
diệt hết, mới phù hợp với tư tưởng của nhân dân.
Qua việc khái quát giá trị nhân sinh và một số biểu hiện của nó trong một số tác
phẩm đã phần nào làm rõ hơn về vấn đề giá trị nhân sinh.Vậy giá trị nhân sinh trong
tác phẩm Tây du ký là gì? Những biểu hiện của giá trị đóthể hiện thông qua những
nhân vật nào, chi tiết nào và yếu tố nào đã ảnh hưởng đến việc tiếp thu giá trị nhân
sinh trong Tây du ký sẽ được người viết thể hiện rõ hơn ở những đề mục sau.
2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo trong việc tiếp thu giá trị nhân
sinh ở tác phẩm Tây du ký
Đề tài của Tây du ký là chuyện đi lấy kinh, bắt nguồn từ câu chuyện đi Tây
Trúc thỉnh kinh của Đường Tam Tạng. Giáo sư Trần Xuân Đề đã nhận xét: “Cốt
truyện Tây du ký có thay đổi, từ chuyện đi lấy kinh của một tôn giáo, trở thành một
pho truyền kì của một anh hùng thần thoại nhưng tác phẩm vẫn không thoát khỏi
13
những quan niệm của Phật giáo. Rải rác trong một trăm hồi, lúc chỗ này khi chỗ khác
đều có những khía cạnh tư tưởng định mệnh, nhân quả báo ứng, Phật pháp vô
biên...”[6; tr 115]. Bản thân câu chuyện này được phát triển với tiền đề định sẵn là
khẳng định Phật giáo, nên ít nhiều mang màu sắc tôn giáo.Thật vậy, có thể nói rằng,
Phật giáo đã ảnh hưởng trên nhiều bình diện của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, chứ
không riêng gì tác phẩm Tây du ký.Riêng trường hợp Tây du ký, có thể nói rằng, tác
phẩm có thể không tồn tại được nếu không có sự truyền nhập của Phật giáo.Vì vậy, tác
phẩm cũng đề cao tính triết lý đậm vị nhân sinh của Phật giáo.
Trải qua quá trình lưu truyền lâu dài, được bổ sung, sửa chữa trau chuốt của
bao người, ngoài việc phản ánh tư tưởng, tình cảm của quần chúng nhân dân, nó còn
mang theo những tư tưởng riêng của Ngô Thừa Ân. Trong xã hội lúc bấy giờ, tư tưởng
Phật giáo đượclan tỏa khắp nơi, Ngô Thừa Ân không tránh được ảnh hưởng của
những quan niệm tôn giáo đó. Bởi thế,Tây du kýtồn tại những tư tưởng định mệnh, tư
tưởng nhân quả báo ứng và Phật pháp vô biên. Thí dụ, “chín lần chín tám mươi mốt”
kiếp nạn, không thể thiếu nạn nào và thường lúc tai qua, nạn khỏi sẽ có một vị Thần
Phật nào đó đến thuyết giáo, nào là “cái ăn, cái uống đều do tiền định”, nào là “ma
chướng chưa hết, cho nên bách linh hạ giới, phải chịu tai nạn”. Những chi tiết ấy thể
hiện tư tưởng định mệnh trong triết lý nhà Phật. Hay chuyện tuyên truyền nhân quả
báo ứng cũng không ít, thể hiện rõ nhất là câu chuyện hạn hán ở quận Phượng Tiên và
câu chuyện vua nước Ô Kê không nhận ra Bồ tát nên bị ác giả ác báo, chuyện giữa thỏ
ngọc của Thái Âm tinh quân với công chúa Tố Nga ở nước Thiên Trúc...“Nguyên xưa
vua nước Ô Kê thích việc thiện, thiết cơm chay các nhà sư, Phật sai ta đến độ y về tây,
được chứng kim thân la hán. Vì chứng không thể để nguyên thân gặp y được, mới
biến ra một nhà sư thường, đến hỏi xin một ít cơm chay, bị ta vặn hỏi mấy câu, y
không biết ta là người tốt, lấy một cái dây thừng trói ta lại, bỏ xuống sông Ngự thủy
ngâm ta ba ngày đêm. Nhờ được lục giáp Kim thần cứu ta về đây, tâu với Như Lai,
Như Lai mới cho quái vật này đẩy y xuống giếng, ngâm ba năm, để báo cái giận ba
ngày thủy tai cho ta”[2; tr 186].
Cuộc tỉ thí giữa Tề Thiên và Như Lai Phật Tổ đã thể hiện rõ tư tưởng Phật pháp
vô biên. Phật Tổ thách thức “ta đánh cuộc với nhà ngươi, nếu nhà ngươi có bản lĩnh
dùng phép cân đẩu vân mà ra khỏi lòng bàn tay phải của ta, thì ta cho ngươi được
cuộc, không phải binh đao chiến tranh gì nữa” [1; tr163]. Dù Tề Thiên có lý trí, thông
minh sáng suốt đến đâu chăng nữa thì cũng vẫn còn nằm trong chướng ngại. Bởi bàn
tay Đức Phật bao trùm vạn dặm, Tề Thiên dù có phép cân đẩu vân, nhảy một cái là
vượt mười vạn tám ngàn dặm, có cố gắng tới đâu cũng không thể lọt qua khỏi lòng
bàn tay Phật Tổ. Những điểm này có mâu thuẫn ít nhiều với tư tưởng của toàn tác
phẩm, đồng thời cũng phản ánh mâu thuẫn trong thế giới quan của tác giả. Rõ ràng,
nếu bỏ qua yếu tố hoang đường thì đó chính là một triết lý của nhà Phật, bởi Ngộ
Không chỉ mới là một pháp trong vạn pháp vô biên, làm sao vượt qua Phật Tổ được.
Cũng như chuyện thu phục Hồng Hài Nhi ở ba hồi 40, 41, 42. Hồng Hài Nhi có một
thứ vũ khí đặc biệt là lửa mà nước bình thường không thể nào dập tắt được. Truyện
kể: “Nước mưa sình sịch rỏ xuống, không thể dập tắt được lửa của yêu tinh… Chẳng
khác lửa cháy đổ dầu thêm, càng tưới càng bốc to” [2; tr 217]. Lửa của Hồng Hài Nhi
14
là thứ gì mà mà nước mưa bốn biển cũng không thể dập tắt được, chỉ có Quan Âm Bồ
Tát dùng bình tịnh thủy mới trị được?Phật bảo trên đời có ba thứ độc (tham, sân, si),
trong đó, sân có nghĩa là giận, mà giận thì đi kèm với nóng nảy, nên Đức Phật ví giận
như lửa. Đó chính là lý do vì sao Tây du ký dựng chuyện Hồng Hài Nhi sở trường chơi
lửa. Lửa gặp nước thì tắt nhưng lửa giận một khi đã bốc lên thì khó mà kiềm chế
được.Chỉ có bình tịnh thủy, tức nước thanh tịnh mới dập tắt được thôi.Quả vậy, chỉ có
lòng thanh tịnh mới chế ngự được lửa giận.
Phật giáo vốn có nhiều tông phái, nhưng Phật giáo trong Tây du ký là Phật giáo
Đại thừa, được bộc lộ chính thức, rõ ràng và có tính mấu chốt trong tác phẩm. Đọc
Tây du ký, ở hồi thứ 12, Vua Đường Thái Tôn có lòng thành mở đại hội.Bấy giờ
Huyền Trang là Pháp sư lên đàn giảng kinh. Phật Quan Âm Bồ tát hiện thành một vị
sư già nói rằng: “Pháp sư người giảng giáo lý “tiểu thừa”, không siêu độ vong linh
trên trời được. Ta có pho “Đại thừa phật pháp Tam Tạng” có thể độ vong thoát khổ,
tràng thọ không chết” [1; tr 256]. Được Quan Âm chỉ bảo giảng kinh Đại thừa mới
siêu thoát và chỉ nơi có kinh Đại thừa tại chùa Đại Lôi âm nước Thiên Trúc bên Tây
thiên.Sau đó, Huyền Trang mới vâng mệnh vua Đường, đi thỉnh kinh ở Tây
Thiên.Chính vì lẽ đó, xuyên suốt toàn tác phẩm là những tư tưởng giải thoát chúng
sinh của nhà Phật.
Cùng với Phật giáo, phải nói đến ảnh hưởng của Nho giáo và Đạo giáo trong tác
phẩm Tây du ký. Đất nước Trung Hoa, vốn coi những quy tắc về tôn ti trật tự, kỷ
cương của Nho giáo như những tiêu chuẩn đạo đức, cho nên, sự ảnh hưởng của những
quan niệm ấyđược đưa vào văn học là điều dễ hiểu. Trong Tây du kývừa có tư tưởng
“trung quân ái quốc”, phẩm hạnh của một con người, đạo đức của một người quân tử
trong Nho giáo, vừa chịu ảnh hưởng từ học thuyết “vô vi” của Lão tử, Ngô Thừa Ân
luôn để các vị đạo sĩ tài ba sống ẩn dật nơi sơn cốc như vị Tổ sư Bồ Đề. Đó là lối sống
hòa hợp với thiên nhiên để giữ thân tâm thanh tịnh.
Thực ra, sự ảnh hưởng này khá phức tạp.Phức tạp vì mỗi học thuyết, mỗi đạo
như vậy đều có quá trình phát triển và biến sinh khác nhau.Điều đáng lưu ý là giữa
chúng đã có sự đan xen, hòa trộn vào nhau làm một. Giá trị nhân sinh của Ngô Thừa
Ân trong Tây du ký vừa mang dấu ấn của thuyết âm dương ngũ hành, lại phảng phất tư
tưởng trung quân của Khổng Tử, có khi lại tuân theo kinh dịch nhà Phật. Ví dụ như
chuyện Tề Thiên sau khi thua trận, thiên binh áp giải về trời trị tội nhưng không cách
nào giết chết Ngộ Không được. Thái Thượng Lão Quân phải hiến kế: “mang nó về, bỏ
vào trong lò Bát quái, dùnglửa văn vũ luyện đan mà đốt, tự khắc nó biến thành tro
than cả” [1; tr 158]. Truyện kể Tề Thiên bị ném vào lò Bát quái, “Nguyên cái lò ấy là
Kiền, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài tám quẻ. Đại thánh liền chui vào nằm ở
dưới cung Tốn. Tốn là gió, có gió thì không có lửa, nên Đại thánh chỉ bị gió hút vào
làm hai mắt đỏ lên... Quang âm vùn vụt, thấm thoát lão quân đun lò Bát Quái đã
được bảy bảy bốn mươi chín ngày, đủ độ lửa rồi” [1; tr 159]. Tại sao phải đợi đến bốn
mươi chín ngày mới gọi là “đủ lửa”? Bốn mươi chín ám chỉ một quá trình tụ tập thiền
định theo đạo Lão. Những con số trong truyện đều có một ý nghĩa triết lý sâu sắc, tuân
theo thuyết âm dương ngũ hành. Và cái lò bát quái ấy vốn là lò để Thái Thượng Lão
Quân tu luyện kim đan, mà theođạo Lão thì có thuật luyện đan để trường sinh bất tử,
tức là bỏ xác phàm làm tiên.
15
Sự ảnh hưởng của đạo Lão cũng lý giải cho việc tại sao Tổ Sư Bồ Đề chỉ
truyền đạo cho Tôn Ngộ Không chứ không phải những đồ đệ khác và tại sao ngài lại
đặt cho Mỹ Hầu Vương họ Tôn? Nhiều người trong chúng ta khi đọc đoạn này thường
lý giải rằng vì Thạch Hầu tinh nghịch, bản tính như trẻ thơ nên Tổ Sư mới đặt họ là
Tôn (Tôn [猻], chữ Tôn bỏ khuyển [猻], còn chữ Tử [猻] và chữ Hệ [猻], tức là còn trẻ,
còn lớn, còn khôn). Nhưng thực ra cái tên này ám chỉ quá trình tu luyện, con người ta
nên xả bỏ hết thảy các quan niệm ràng buộc mình như hồi mới sinh thì mới có thể đắc
đạo. Tất nhiên, không phải ý nói con người trở thành ngốc nghếch, mà là thực sự thiện
lương như một đứa trẻ.
Trong đạo Lão cũng nói rằng, muốn tu hành đạt đạo, con người phải có được
cái tâm hồn nhiên của trẻ mới sanh (xích tử chi tâm). Phật gia xưa nay vẫn giảng phổ
độ chúng sinh, Phật pháp được truyền ra cho tất cả chúng sinh cùng nghe, ai tu được,
tu đến đâu là việc của bản thân người ấy. Nhưng Đạo giáo thì không vậy, Đạo giáo
xưa nay là thanh tu độc tu, vì không còn ở trong luân hồi sinh tử, nên họ tự do tự tại,
ngao du sơn thủy khắp nơi, gặp được người có duyên mới độ cho. Ngoài ra, bên Đạo
giáo đặt trọng điểm về tu mệnh, yêu cầu tâm tính người học rất cao, những người tâm
tính thấp khi tu luyện tư tưởng hỗn loạn sẽ làm hỏng. Việc tu luyện rất gian khổ, người
bình thường không thể chịu đựng nổi.Bởi tu luyện quan trọng nhất là tu tâm, không tu
tâm tính thì không thể lên được, điều này hết sức quan trọng. Đó cũng là lí do vì sao
Tổ sư Bồ Đề chỉ truyền đạo cho một mình Tôn Ngộ Không.
Có thể nói, Tây du ký của Ngô Thừa Ân mang rõ màu sắc tôn giáo và tín
ngưỡng đặc sắc. Đối với Phật giáo, đó là Phật giáo Đại thừa, có thỉnh kinh, tụng niệm,
tu hành để giải thoát cho bản thân và có thể phổ độ cho nhiều người khác, vì ai cũng
có “Phật tính”. Do đó, tác phẩm cũng mang tinh thần tích cực trong việc thâm nhập
vào đời sống xã hộinhân gian. Tuy nhiên, từ trong ý thức, tư tưởng chủ đạo chiếm hữu
Ngô Thừa Ân là tư tưởng Nho giáo, đó hình ảnh của triều đình Phong kiến thật đồ sộ
mà bốn phương tám hướng đều quy thuận, trong Tây du ký là nước Đại Đường với
quy mô cực kỳ đồ sộ, uy nghi với những quy tắc tôn ti chặt chẽ. Từ hồi 8 đến hồi 12
giải thích chuyện đi lấy kinh Phật và nguồn gốc ra đời của Tam Tạng, đã mô tả rất sát
với những quy củ của Nho giáo. Đó là những chi tiết Quan Âm vâng lời Phật tổ tìm
người thỉnh kinh; Huyền Trang trả thù báo công ơn cha mẹ; Ngụy Trưng chém rồng;
Thúc Bảo, Kính Đức, Ngụy Trưng canh cửa cho Thái Tôn yên ổn giấc ngủ; Lưu Toàn
dâng bí… Tuy theo chuẩn mực của đạo Nho, nhưng vẫn có sự giao thoa giữa đạo
Phật, đạo Lão và sự tận tụy vì dân vì nước của tác giả. Cho nên, tác phẩm vẫn có thiên
hướng vì dân, gần gũi với dân, tạo nét tiến bộ trong tư tưởng của tác giả. Cũng không
thể phủ định những mặt hạn chế của tác phẩm xuất phát do sự ảnh hưởng của Nho
giáo quá lớn.
Cái tài của nhà văn là bằng cảm quan nghệ thuật riêng, nhà văn đã phản ánh
một tinh thần dung hợp mang màu sắc phương Đông được gọi là “Tam giáo đồng
nguyên”. Trong tinh thần dung hợp này, đối với tác giả, Phật giáo đã chiếm một vị trí
ưu trội hơn. Tuy nhiên, nói cho cùng thì không có một tôn giáo nào được thể hiện một
cách đầy đủ trong Tây du ký.Đọc truyện Tây du ký như là đi từ ta để tìm về cái tôi. Sự
có mặt của tam giáo ở đây có tính cách như một cái nền, một điểm tựa, để Ngô Thừa
Ân giải mã mật ngữ siêu thoát, đồng thời phản ánh rõ sự ảnh hưởng của Phật giáo,
Đạo giáo và Lão giáo trong việc tiếp thu những giá trị nhân sinh được biểu hiện ở Tây
du ký.
16
17
CHƯƠNG 3
GIÁ TRỊ NHÂN SINH THỂ HIỆN TRONG TÁC PHẨM TÂY DU KÍ
3.1. Giá trị nhân sinh thể hiện qua nội dung tác phẩm
Hồ Thích cho rằng Tây du ký chẳng qua chỉ để cho người ta giải trí mua vui,
tức là tác phẩm này không hề thể hiện thông điệp nào hết. Khi việc nghiên cứu tác
phẩm được mở rộng ra, vấn đề trong tác phẩm được giải phóng đãthu được nhiều ý
nghĩa to lớn. Cũng chính bản thân Ngô Thừa Ân đã khẳng định tác phẩm của ông,
phần lớn mang tính giáo dục, răn đời. Tác giả vô cùng khéo léo thêm thắt nhiều yếu tố
li kì vào câu chuyện làm cho truyện hấp dẫn hơn, lại vừa có ý nghĩa riêng của nó.Vậy
nên, chúng ta cần khẳng định luônTây du ký không phải tác phẩm mua vui.Nội dung
tư tưởng của Tây du không rõ ràng dễ nhận thấy như Thủy hử, mà được gói gém tinh
tế, thể hiện ý nhị, chứ không trực tiếp nói thẳng ra vấn đề.
Hình tượng Tôn Ngộ Không là nhân vật ẩn dấu nhiều tư tưởng chủ đạo nên
được tác giả quan tâm hơn cả. Câu chuyện Tây du dài một trăm hồi thì riêng phần gốc
gác, tầm sư học đạo, đại náo thiên cung đã chiếm mất bảy hồi và phần lớn hành động
của Tôn Ngộ Không đã quán xuyến cả câu chuyện, kéo dài đến tám mươi ba hồi còn
lại. Qua đó, nhân vật Tôn Ngộ Không thể hiện tư tưởng nội dung mà tác giả muốn
nhắn nhủ bạn đọc hơn bao giờ hết. Nói như vậy, không có nghĩa chúng ta bỏ qua tất cả
các yếu tố còn lại. Đường Tăng, Bát Giới, Sa Tăng… đều là những nhân vật giàu tính
nhân sinh, gần gũi với đời thực và góp phần tạo nên nội dung Tây du ký thêm phong
phú, giàu màu sắc nhân sinh.
Phái đoàn Tây du biểu hiện cho cấu trúc của nhân tính, thể hiện sự đồng điệu
giữa tình cảm và lí trí, giữa tiềm thức, siêu ý thức và ý thức, giữa cá nhân và xã hội.
Tác giả xây dựng nhân vật Tôn Ngộ Không có đủ cả lí trí, tính ý thức và tính xã hội
nhằm tạo ra hình tượng anh hùng hoàn hảo, cũng là bản tính nhân sinh mà con người
luôn muốn hướng tới. Những tình tiết, Ngộ Không sinh ra từ một tảng đá tiên, tìm
thầy học đạo, tu luyện bản thân, xuống long cung tìm vũ khí, xuống âm ti xóa sổ sinh
tử… đã phần nào khắc họa được tình cảnh xã hội bất công thời bấy giờ, đồng thời làm
bật lên tinh thần phản kháng đấu tranh của tác giả, giành lại quyền tự do cơ bản và dân
chủ đối với bọn quyền thế. Giống như Thủy hử của Thi Nại Am, Tây du cũng thể hiện
sự bất mãn và hiện thực đen tối thời Minh.Hai tác phẩm cùng thời này đều mượn
chuyện lịch sử để phản ánh hiện thực xã hội. Thủy hử lấy chuyện bạo động của nông
dân Tống làm đề tài, Tây du mượn chuyện nhà sư đời Đường đi tìm lý tưởng ở một xứ
sở khác.Ở đây, Ngô Thừa Ân không đả động trực tiếp đến triều đình của trần gian,
không phải do vua ở trần gian giỏi hơn Ngọc Hoàng, Long Vương và Diêm Vương,
mà với dụng ý để dành một khoảng trống, bắt mọi người tự trả lời. Cũng có thể do
cuộc sống thời đại không cho phép có tư tưởng như vậy nên tác giả chỉ mượn hoàn
cảnh nơi tiên ảo để làm bật hoàn cảnh hiện thực.
Tác giả dành riêng bảy hồi đầu để ca ngợi hành vi nổi loạn của Tôn Ngộ
Không, dẫn mọi người đến kết luận chỉ có đấu tranh mới giải quyết được những ngang
trái bất công. Từ thái độ ngang tàng “Chính lão Tôn đây!”, tự xưng“Tề Thiên đại
thánh”, đến việc gặp Ngọc Hoàng cũng không hành lễ chỉ cúi mình trả lời… của Tôn
Ngộ Không đã thể hiện tinh thần phản kháng rất tiến bộ, rất dân chủ của Ngô Thừa Ân
18
lúc bấy giờ. Trên thực tế đó là tiếng vang của phong trào nông dân đời Minh nổ ra
không biết bao nhiêu lần. Mới đầu đọc Tây du kýcứ tưởng hành động của Tôn Ngộ
Không chỉ mang tính chất quấy phá bừa bãi, không lí do. Đọc ngẫm lại, thật ra tất cả
mọi chuyện xảy ra đều có nguyên do, ngọn ngành của nó. Bằng hình thức quanh co,
“tác giả cho chúng ta thấy nguyên do nổi loạn là hiện thực đen tối, vui quan thối nát”
[15; tr 209]. Đỉnh điểm là chi tiết Tôn Ngộ Không nêu ra khẩu hiệu: “Làm vua phải
luân chuyển, sang năm đến nhà ta” [1; tr 163].
Tác giả tuy là con người của xã hội phong kiến, bởi những điều kiện chủ quan
từ chính bản thân ông, vốn không ưa cái ác hoành hành, cũng không ưa mượn cái
danh, quyền hào ức hiệp, chèn ép kẻ tháp hèn, cho nên, kết tinh trong ông vẫn là tính
công bằng, cái gì phân bua cũng công minh, rõ ràng. Trong xã hội phong kiến, những
người đi trước ông cũng khá đông, có thể kể đến những tên tuổi lớn như Khuất
Nguyên, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị… Họ đều có chí giúp sức cho đất nước phồn
thịnh, vẫn một mực lo toan đến cảnh khốn cùng của người dân. Họ làm quan đều được
dân tin yêu, coi trọng. Có khi, vì cứ phải sống bon chen trong triều đình nhung nhúc
gian tà, thối nát, mà đa số đều rời xa chốn xa hoa mang tiếng thị phi ấy, tự giải phóng
bản thân như Lý Bạch, xả thân vì lý tưởng như Khuất Nguyên, Đào Tiềm luôn giữ
thân mình trong sạch, Đỗ Phủ luôn mong mỏi mọi người được hưởng cảnh thái bình
và tốt đẹp. Văn chương là nơi thể hiện quan niệm nhân sinh của mỗi nhà thơ, nhà văn.
Những người đi trước Ngô Thừa Ân nhiều như vậy, nhưng đến ông, người ta cảm
nhận được nhân sinh quan của ông đi trước thời đại, tiến bộ và đầy thách thức. Mọi
giác quan cảm nhận và những điều giác ngộ về hũ tục phong kiến nhàm chán ấy đã
được Ngô Thừa Ân chạm tới và vạch ra chân lí “làm vua phải luân chuyển”.Chân lí
đó vô cùng mới mẻ, sáng tạo và thách thức đối với cả bản thân tác giả, bởi dẫu sao,
ông cũng không thoát được xã hội phong kiến và phụ thuộc rất lớn vào những tư
tưởng Nho gia, khó có thể phủi bỏ hết được, sinh ra những hạn chế trong tư tưởng
cũng như tác phẩm của ông.Tuy vậy, chúng ta cũng phải công nhận việc đòi lại quyền
công bằng, dân chủ, biết đấu tranh chống lại chế độ áp bức như vậy, không chỉ mang
giá trị nhân sinh mà còn là một triết lí nhân sinh cao cả.
Câu chuyện phò tá Đường Tam Tạng sang Tây Thiên thỉnh kinh, trước và sau
đều nhấn mạnh cái vương triều thối nát của những kẻ cầm quyền thùng rỗng kêu to.
Ngô Thừa Ân từ việc tả cảnh Nam Thiên môn “Cửa lưu ly quắc bóng, màn bảo ngọc
sáng choang. Đôi bên mấy chục nguyên soái trấn thiên… chạm đục long ly quấn
quýt…”[1; tr 108] đến triều đình thì “kẻ áo sa tươi, như sao lấp lánh. Người mũ vàng
nuột, tựa tuyết long lanh…” tiếp đến Linh Tiêu bảo điện “then vàng cài cổng ngọc,
chim phượng múa cửa son…” [1; tr 109] đối nghịch với những cảnh “gió tây đứt hẳn
làn mây mỏng… quang cảnh thê lương… khách đi cô quạnh, áo vá rét đăm đăm” [2;
tr 550] hay cảnh “ruộng dân hoang, ruộng quân bỏ hóa, lòng sông cạn, ngòi lạch nỏ
khô… Nhà giàu còn sống vật vờ, kẻ nghèo khó giữ toàn mạng,… cướp của giết người
liều mạng sống” [2; tr 449]. Làm chúng ta phải nhận xét giữa cảnh tiên giới so với
cảnh phàm trần thật là một trời một vực. Tiên giới uy nghi, sang trọng chừng nào thì
hạ giới loạn lạc, nghèo hèn đến chừng đó. Thế mới thấycảnh hiện thực xã hội tăm tối
của nhà Minh, vua quan chỉ biết hưởng lợi lộc không màng đến cảnh khốn khó của
những người dân nghèo, đến mức đẩy người ta vào cảnh cướp bóc, lừa lọc nhau mà
sống.Đây cũng là nội dung phản ánh giá trị nhân sinh của Ngô Thừa Ân. Giá trị nhân
19
sinhở chỗ ấy, khi con người ta bị đẩy vào thế bức bách, cùng quẫn sẽ tạo ra những
phản ứng trái ngược như trên.
Sau những hồi Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung, tình tiết câu chuyện cũng
thay đổitheo, hoàn cảnh, tính cách Ngộ Không mang sắc điệu mới. Từ một Mỹ Hầu
Vương tự do tự tại, một kẻ phản nghịch không biết khuất phục, giờ đây, Tôn trở thành
một đấu sĩ tiên phong cho việc lấy kinh, “trở thành một tín đồ thành tâm quy y đạo
Phật” [16; tr 311]. Điều này, có phải Tôn Ngộ Không đã quy hàng hoàn toàn.Việc
thỉnh kinh của Đường Tăng mang màu sắc truyền kì, thể hiện tinh thần mạo hiểm. Tuy
trong truyện, trưởng đoàn là Đường Tam Tạng, nhưng nhân vật Tôn Ngộ Không lại
hoàn toàn vượt trội hơn hẳn so với Đường Tăng, trưởng đoàn thỉnh kinh. Đối với Tôn,
mục đích lấy kinh không phải là sự đòi hỏi tự giác của cuộc sống. Thế mới có việc
trên đất Phật “cũng còn ma dữ làm hại” [3; tr 642]. Ngay cả chiếc bát vàng khất thực
do vua Đường tặng cũng phải đem đút lót mới được kinh thật. Phật Tổ Như Lai cũng
biện hộ cho hành vi xấu của A Nan, Ca Diếp: “kinh không phải ai cũng cho… ta vẫn
còn bảo bọn họ bán rẻ quá, con cháu đời sau lấy tiền đâu mà dùng…”[3; tr 643]. Việc
này, một phần là phê phán sự sùng bái của thế tục đối với thần thánh, cho nên, việc đi
thỉnh kinh không quan trọng tới tính chất tôn giáo, mà quan trọng ở quá trình lâu dài,
gian khổ và bền bỉ của việc thỉnh kinh. Nếu trong thần thoại Hy Lạp, chàng Oóc phê
dùng tiếng đàn lia vượt qua con chó Xécbe ba đầu, tìm gặp thần Hađét xin cho vợ về
với dương thế. Hay chàng Izanagi trong thần thoại Nhật Bản của phương Đông cũng
tìm đường xuống âm phủ đem người vợ yêu Izanami của mình trở về dương thế. Tuy
nhiên, vì là điều cấm kị nên cả hai không ai mang được vợ của mình trở về.Hai việc
này đều thể hiện khát vọng chinh phục cái chết, thể hiện sự đấu tranh sinh tồn mãnh
liệt.Vậy thì, quá trình đi thỉnh kinh cũng là tiến trình đấu tranh sinh tồn của loài người,
mọi chi tiết, hành động đều nói đến sự sống. Tất cả, từ Thần Thánh, Yêu ma, con
người trong Tây du đều hướng đến sự vĩnh cữu của nguồn sống. Tác phẩm kể chuyện
thỉnh kinh với tinh thần nhân sinh nhập thế sâu sắc, đoàn thỉnh kinh không những tôi
luyện về sức khỏe, mà còn rèn luyện tinh thần đấu tranh bền bỉ.
Tây du ký, ngoài việc phơi bày hiện thực, thể hiện tư tưởng đấu tranh giành
quyền tự do, tinh thần khắc phục khó khăn, chiến thắng thiên tai, cao hơn là vạch trần,
phá hủy bộ mặt xã hội thối nát ấy. Tác phẩm còn phản ánh lý tưởng về xã hội tự do,
dân chủ, bình đẳng. Xã hội Hoa Quả sơn ở động Thủy Liêm ngay hồi thứ nhất hiện
diện lên rất sinh động. Một xã hội tốt đẹp, an lạc, hạnh phúc, theo tác giả phải là một
xã hội thái bình không chiến tranh, độc lập với các sức mạnh thống trị như xã hội khỉ
ở động Thủy Liêm. Xã hội ấy cần được tổ chức tốt về an ninh kinh tế, như xã hội ở
núi Hoa Quả ở trong vị thế an toàn và phong phú thực phẩm “xuân hái trăm hoa về
ăn uống, hè tìm mọi quả để sinh nhai, thu đào rau củ qua ngày tháng, đông bới hoàng
tinh đợi tết xài” [1; tr 57]. Xã hội ấy phải được lãnh đạo bởi người có đủ tài, đức do
dân chọn lựa như Mỹ Hầu Vương, mà không phải do tuổi tác hay dòng dõi. Cho nên,
tác giả mới nói “thế gian tuy có mùi ngon ngọt, khôn ví Hầu vương hưởng thái bình”
[1; tr 59].Ngay cả khi Tôn Ngộ Không đi thỉnh kinh, phò tá Đường Tăng thì tư tưởng
này cũng không hề thay đổi. Cuộc hành trình lấy kinh Phật vẫn là tìm ra nguyên căn
của những việc xấu xa làm dân phải lầm than, khốn khó. Người trước sau giải quyết
vấn đề trực tiếp vẫn là nhân vật trung tâm câu chuyện, Tôn Ngộ Không. Tuy không
được hùng tráng như bảy hồi đầu nhưng vẫn thể hiện được tư tưởng mới mẻ của tác
20
giả. Có điều, do ảnh hưởng mạnh mẽ từ hoàn cảnh xuất thân và thời đại nên Ngô Thừa
Ân đôi lúc tỏ ra lúng túng, mơ hồ. Tác giả không thừa nhận giải pháp của đạo Phật
bằng việc các bộ kinh mang về không trọn vẹn (không có trang cuối cùng) nhưng lại
có tư tưởng nhân quả báo ứng, Tôn Ngộ Không không vượt qua được bàn tay của Phật
tổ, hay việc đi thỉnh kinh là do Phật tổ chủ động phái Quan Âm Bồ Tát, Đường Tăng
lại chấp hành ý muốn của vua Đường Huyền Tông.Về mặt này,Thủy hử lại rõ ràng và
dứt khoát hơn Tây du. Trong Thủy hử do tư tưởng thuần nhất của tác giả, động cơ và
mục đích của cuộc khởi nghĩa được diễn đạt rất sáng sủa. Trong Tây du có nhiều chỗ
uẩn khúc, làm cho người đọc, không rõ tác giả tán thành cái gì, phản đối cái gì. Mơ hồ
nhất, khi đến hồi kết thúc câu chuyện, bốn thầy trò đã đưa được kinh Phật về nước,
nhờ công lao đó mà được công nhận tu thành chính quả, được gọi sang đất Phật hưởng
phúc muôn đời. Tác giả bất mãn với hiện thực nhưng lại không có phương hướng giải
quyết triệt để.Đấy là điểm hạn chế của tác phẩm.Nhưng nhìn chung, tác phẩm vẫn
hướng về tính nhân sinh, không xa rời thực tế một chút nào.
Tây du là tác phẩm đánh dấu bước chuyển biến từ khuynh hướng “tiểu thuyết
anh hùng”(mà Tam quốc, Thủy hử là tiêu biểu) sang khuynh hướng “tiểu thuyết sinh
hoạt”(mà Hồng lâu mộng là tiêu biểu), còn là bộ tiểu thuyết mang màu sắc thần thoại
có dung lượng đồ sộ và cơ cấu chặt chẽ.Tuy vậy, nội dung của Tây du không dễ nhìn
ra, mà được thể hiện quanh co kín đáo dưới hình thức ảo tưởng, lãng mạn. Nội dung
tác phẩm chất chứa những ngụ ý của tác giả về tinh thần đấu tranh giành tự do, vượt
gian khó, khát vọng chinh phục tự nhiên và xã hội, đồng thời, phản ánh về xã hội thực
tại, đầy rẫy sự bất công của thời Minh, nêu lên một xã hội lý tưởng công bằng, văn
minh, mang giá trị nhân sinh cao cả. Ngô Thừa Ân phải có một nhân sinh quan lạc
quan, dí dỏm nhưng sâu cay mới có thể ngộ ra được những tư tưởng tiến bộ vượt bậc,
giàu tính nhân sinh như vậy. Có thể đúc rút ra, phương châm chính của câu chuyện
vẫn là tự giải thoát bản thân để nắm lấy tự do, hạnh phúc và đề cao giá trị bên trong
mỗi con người.
3.2. Giá trị nhân sinh thể hiện qua các nhân vật
3.2.1. Tôn Ngộ Không
Ngay từ đầu, người viết luôn khẳng định, nhân vật Tôn Ngộ Không là nhân vật
trung tâm của câu chuyện.Giáo sư Lương Duy Thứ có viết “Nhân vật Huyền Trang từ
chỗ nhân vật chủ yếu biến thành thứ yếu; ngược lại Tôn Ngộ Không từ địa vị nhân vật
hộ tống biến thành nhân vật quyết định thành bại cuộc Tây du” [15; tr 206]. Đến giáo
sư Trần Xuân Đề cũng nhận định:“Trong Tây du ký, Ngô Thừa Ân xây dựng khá nhiều
nhân vật, nhưng nổi bật nhất, rạng rỡ nhất là Tôn Ngộ Không. Mọi người theo dõi
việc đại náo thiên cung của Tôn Ngộ Không cũng say sưa như theo dõi chiến thắng
của Gia Cát Lượng trong trận Xích Bích. Nếu xem Tam quốc chí diễn nghĩa là nơi
sánh mưu của Gia Cát Lượng thì Tây du ký quả là nơi trổ tài của Tôn Ngộ Không” [5;
tr 85].Thật vậy, nhân vật Tôn Ngộ Không trổ tài xuyên suốt toàn bộ câu
chuyện.Chúng ta có thể tự đặt ra những câu hỏi: Nếu không có Tôn Ngộ Không, liệu
cả đoàn có thỉnh được kinh hay không?Câu chuyện Tây du có kết thúc viên mãn như
vậy không? Tôn Ngộ Không là nhân vật mà ngay từ khi sinh ra đã được mọi người
thích thú, chăm chú dõi theo y.
21
Nhân vật Tôn Ngộ Không là hình tượng anh hùng của truyện,thấm đậm những
giá trị nhân sinh sâu sắc. Sinh ra từ một trứng đá nứt ra từ khối đá “cao ba trượng sáu
thước năm tấc, hợp với vòng giời 365 độ, vây tròn hai trượng bốn thước, hợp với lịch
chính 24 khí. Trên có 9 khiếu 8 lỗ, hợp với 9 cung 8 quẻ.Bốn mặt không có cây cối che
bóng, hai bên tả hữu, chi lan quấn lấy nhau” [1; tr 52]. Lý lịch xuất thân của Tôn Ngộ
Không rất đơn giản, do cảm thụ tinh hoa của đất trời nên sinh ra từ tự nhiên, không có
lai lịch dòng dõi, hậu thế đặc biệt nào cả, đến Ngọc Hoàng cũng phải nói: “Đó là một
vật ở hạ giới, do tinh hoa trời đất sinh ra, không lấy gì làm lạ” [1; tr 53], nhưng hàm
chứa trong nó có ý nghĩa nhân sinh rất lớn. Mới vừa mới sinh ra đã “liền học cào, học
chạy, vái lạy bốn phương, hai mắt có hào quang sáng rực lên tận trời, kinh động đến
Ngọc hoàng thượng đế” [1; tr 52], sau lại nhờ sự dũng cảm và trí tuệ phi thường mà
được tôn làm Mỹ Hầu Vương. Dưới xã hội phong kiến, tư tưởng dân chủ này hoàn
toàn mới mẻ và tiến bộ. Không có chuyện “con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa thì
quét lá đa” được, mà để thành đạt và được công nhận đều phải dựa nào tài năng, trí
tuệ của chính mình.Trước và sau cuộc hành trình, chẳng phải Tôn đều dựa vào sức
mạnh và trí tuệ của chính bản thân mình hay sao.Cho dù về sau có được sự yểm trợ
của những vị thần tiên trong cuộc hành trình, nhưng bản thân Tôn luôn tự thân vận
động để đạt được mục đích của mình.
Ở núi Hoa Quả, Ngộ Không đã hình thành tư tưởng tự do tự tại, luôn muốn
nắm lấy vận mệnh của chính mình. Thể hiện khi than phiền với bầy khỉ: “ngày nay
dẫu không theo luật lệ của ma chúa, không sợ oai quyền của chim muông, nhưng sau
này tuổi già sức yếu, trong đó có lão Diêm vương cai trị. Một ngày kia chết đi, chẳng
hóa uổng công sinh ở trong thế gian, không được mãi hưởng phúc trời ư?” [1; tr
57,58]. Không những vậy tư tưởng ấy còn thể hiện trong xã hội bầy khỉ mà Tôn Ngộ
Không xưng vương. Dòng họ nhà khỉ “sớm chơi núi Hoa Quả, đêm ngủ động Thủy
Liêm, cùng nhau một lòng, không chịu lấn vào rừng chim bay, không đi theo muôn
loài muông chạy, độc lập xưng vương, rất là vui thích” [1; tr 57].
Không dừng lại ở đó, Tôn Ngộ Không với chí tiến thủ không ngừng và tư
tưởng muốn tránh khỏi luân hồi, không sinh không diệt, thọ ngang với trời đất, núi
sông, đã thúc giục Hầu Vương lên đường tìm thầy học đạo. Với tiến trình hai mươi
năm tầm sư và học đạo thành công, Tôn Ngộ Không đã thi triển được bảy mươi hai
phép thần thông biến hóa và phép cân đẩu vân. Ngộ Không rẽ nước xuống tận Long
cung đòi cho được cây thiết bổng nặng một vạn ba nghìn năm trăm cân làm vũ khí tùy
thân. Được cây thiết bổng, y đánh đến Sâm La bảo Diêm Vương cho xem sổ sinh tử.
Không cần biết Diêm Vương cho sống tới bao lâu, Ngộ Không cầm bút xóa tên mình
cùng với tên cả loài khỉ, rồi ném sổ xuống đất. Vậy là từ nay, Ngộ Không và cả loài
khỉđều không chịu quyền cai quản của mười vua Minh Vương ở âm phủ, có thể tự bảo
vệ bản thân trước các yếu tố thù địch. Thật là, một ý chí quyết liệt, dám chống đối với
mọi thế lực thống trị, khiêu chiến với những kẻ muốn giam giữ vận mệnh của người
khác.
Đỉnh cao của sự phản kháng là cuộc chống đối với cả Thiên đình, người nắm
giữ quyền lực cao nhất trời đất, Thượng Đế. Tinh thần chống đối của y không hề suy
giảm mà có phần thêm quyết liệt hơn, táo bạo hơn. Càng quyết liệt, càng hung hăng
hơn thì Thiên đình càng tỏ rõ sự bất lực và hủ bại hơn. Đoạn phân tích diễn biến của
chi tiết Tôn Ngộ Không đại náo Thiên cung sẽ được làm rõ hơn ở phần sau.
22
Rõ ràng, Tôn Ngộ Không đã dũng cảm làm theo lý tưởng của mình, đạp đổ mọi
sự áp bức thống trị, đặc biệt là rất tự tin vào sức mình. Tôn dùng sức mạnh thần kỳ
của mình làm náo động ba giới trời, bể, đất.Thiên đình, cái nơi được coi là Thần
Thánh, bất khả xâm phạm, đứng trước sự tấn công dũng mãnh của Tôn Ngộ Không đã
hoàn toàn bộc lộ sự mục rã ở bên trong. Tác phẩm chứa đựng giá trị triết lý nhân sinh
thâm sâu, con người muốn tồn tại phải biết vượt lên tự khẳng định chính mình, vạch
trần bản chất của các triều đại phong kiến lúc bấy giờ, một con hổ già bằng giấy, ngoài
thì ra vẻ oai nghiêm mà trong thì mềm yếu. Đó còn là bóng dáng của các cuộc khởi
nghĩa nông dân, những anh hùng vùng vẫy một thời. Cuộc khởi nghĩa của một trăm
linh tám anh hùng Lương Sơn Bạc là một minh chứng cụ thể.
Tuy cuối cùng, Ngộ Không cũng thất bại, bị đè dưới Ngũ Hành Sơn, nhưng
trước sau, Tôn Ngộ Không cũng không phải là kẻ chịu đầu hàng, vẫn là người chiến
thắng. Ngộ Không không chịu nằm yên dưới Ngũ Hành Sơn, y giẫy giụa khiến núi
non nứt nẻ. Đến khi được Đường Tam Tạng cứu khỏi, Ngộ Không quy y, tác giả đã
tạo cho nhân vật một ý nghĩa mới. Nếu ở hồi đầu, tác giả làm nổi bật lòng dũng cảm
của Tôn, thì trên con đường thỉnh kinh lại tập trung miêu tả sự mưu trí của y. Dù vậy,
ý chí quật cường và tinh thần đấu tranh của y vẫn luôn tồn tại bên trong bản thân y.
Ngộ Không không ngoan ngoãn đội cái mũ “Khẩn cô nhi” của Quan Thế Âm Bồ Tát,
mà y luôn tìm mọi cách đập nát nó đi. Tôn Ngộ Không là thế,luôn đấu tranh đến cùng
để giải phóng cho chính mình. Thật là một tâm tính đáng khen, đáng để học theo.
Hoàn cảnh thay đổi dẫn đến tính cách cũng có những chuyển biến mới.Nhưng
trước sau vẫn vậy, ở Tôn luôn là thái độ kiêu hãnh của người anh hùng, không bao giờ
cúi đầu xu nịnh. Mỗi lần gặp Ngọc Hoàng, Tôn chỉ chào to: “Chào lão quan, phiền
ngài quá, phiền ngài quá!”. Đối với các vị thánh thần, Tôn vẫn luôn luôn thẳng thắn,
có lần, Tôn vạch trần sự kìm thúc bất minh của Lão Quân để hai đứa đồng tử coi lò
vàng lò bạc lấy trộm bảo bối xuống hạ giới làm điều bậy bạ. Cũng có lần, Ngộ Không
mắng cả Bồ Tát rất nặng nề: “Cái bà Bồ Tát này thực chẳng ra sao! Khi xưa giải nạn
cho Lão Tôn, bảo phải đưa Đường Tăng sang Tây lấy kinh, ta đã nói đường lối gian
nguy khó đi, người đã từng hứa với ta nếu gặp nạn gấp, sẽ thân hành đến cứu. Bây
giờ lại cho tinh ma hại ngầm, ăn nói không thực như thế đáng kiếp cả đời không có
chồng!” [2; tr 105].
Nói chung, tính cách của nhân vật Tôn Ngộ Không trên đường đi lấy kinh
không hề thay đổi mà chỉ kế thừa tính cách của người anh hùng ở hồi Đại náo Thiên
cung, phạm vi đấu tranh có hẹp hơn, chỉ có phương pháp và phương thức đấu tranh
khác trước mà thôi. Bởi việc đi thỉnh kinh, phần nào tượng trưng ý chí của nhân dân,
mong thoát khỏi hiện thực đen tối.Vì vậy, trên đường đi Ngộ Không luôn nổ lực tiêu
diệt yêu ma cản đường, quấy nhiễu dân lành. Những hành động dũng cảm kiên cường
của Tề Thiên đưa Đường Tăng vượt qua tám mươi mốt tai nạn, đạt mục đích cuối
cùng cũng vì thế. Ý nghĩa hiện thực của tác phẩm cũng thể hiện ở đó. Bởi những yêu
ma quỷ quái trên đường đi là những chướng ngại vật của thầy trò Đường Tăng, đồng
thời, cũng là tai nạn cho nhân dân. Ví dụ: Linh cảm đại vương ở Thông Thiên Hà là
một con yêu chuyên ăn thịt trai gái đương tơ hoặc đạo sĩ được vua ban phong Quốc
trượng TỳKheo định giết một nghìn một trăm mười một em bé, để lấy một nghìn một
trăm mười một bộ tim gan, nấu làm thuốc trường sinh; Chuyện xóm Đà La gặp nạn
rắn tinh, mỗi khi có cơn gió thổi qua, “bao nhiêu trâu ngựa thả ngoài đồng, dê lợn ở
23
trong chuồng cùng gà vịt” bị yêu quái ngốn sạch, gặp con trai, con gái “nó nuốt tươi
ngay” [3; trg 74]; Phủ Kim Bình có ba con yêu Trừ rét, Trừ nắng, Trừ bụi giả Phật, lừa
dối các quan phủ, ăn trộm dầu thơm... Tôn Ngộ Không lần nào cũng ra sức tiêu diệt
những loại yêu ma quỷ quái này, mà còn phải tìm cho ra ngọn ngành để diệt cái ác cho
tiệt ngòi.Đây cũng là hành động cụ thể nhằm cứu nhân dân khỏi tai nạn.
Những thần quái yêu ma trong Tây du ký đó không những thể hiện một số lực
lượng xã hội, mà cũng thể hiện một số lực lượng thiên nhiên đã được nhân cách hóa.
Việc Tôn Ngộ Không tiêu diệt chúng thể hiện lý tưởng nhân dân lao động trong việc
chinh phục nhiên nhiên và đấu tranh sản xuất. Không những vậy, yêu ma quỷ quái còn
cấu kết với giai cấp thống trị tối cao làm mọi điều tàn ác. Ví như Kim giác đại vương,
Ngân giác đại vương ở núi Bình Đính là hai đồng tử coi lò luyện thuốc của Thái
Thượng lão quân; Độc giác tỷ đại vương ở động Kim Đâu là con trâu xanh mà Thái
Thượng lão quân thường cưỡi hoặc Hoàng Bào yêu là Khuê Mộc Lang tinh ở trên trời.
Rõ ràng đó là hoá thân của lũ quần thần gian nịnh trong cuộc sống hiện thực. Sức
mạnh phi thường với trí tuệ vô cùng tận, tinh thần dũng cảm hiếm có, Tôn Ngộ Không
chiến đấu ngoan cường chống lại những thế lực hung ác ấy. Ngộ Không không những
tiêu diệt chúng, mà còn tìm mọi cách vạch trần nguồn gốc của chúng để chặt đứt mọi
dây mơ rễ má của hệ thống quan liêu phong kiến. Khi được tin ba con yêu tinh độc ác
ở núi Sư Đà có quen với Đức Phật Tổ Như Lai, Ngộ Không lập tức đến gặp Như Lai
và nói: “Bạch Như Lai, tôi nghe thấy người ta nói yêu tinh có họ hàng thân tích với
ngài ...Họ về đằng bố hay đằng mẹ?” [3; tr 279].Sau khi nghe Như Lai kể lại lai lịch
của con yêu tinh, Ngộ Không cười nói: “BạchNhư Lai, nếu đem so sánh ra, người vẫn
là cháu ngoại của yêu tinh.” [3; tr 280].
Chính tính cách anh hùng xuất chúng của Tôn, từ đầu đến cuối truyện đã bật
lên giá trị nhân sinh của tác phẩm. Trước sau Tôn vẫn không sợ trời, không sợ đất, là
biểu tượng cho sự lí trí, khôn ngoan.Gặp nhiều khó khăn, nguy nan tới tính mạng, Tôn
vẫn bền bỉ, dẻo dai, lạc quan hăng hái, không nhu nhược như Đường Tăng, không dao
động, bi quan như Trư Bát Giới. Đây cũng là phẩm chất cao đẹp vốn có của nhân dân
lao động. Vì vậy, Tôn Ngộ Không chính là hình tượng lý tưởng hóa cho nguyện vọng
của nhân dân lao động trong xã hội phong kiến.
3.2.2. Trần Huyền Trang
Nếu Tôn Ngộ Không là nhân vật thể hiện sự tự do tự tại nhất, thì đến Trần
Huyền Trang là nhân vật mang đậm tư tưởng đạo đức, lễ giáo phong kiến nhất. Con
người Đường Tăng, từ diện mạo tới tính cách, đạo đức đều là chuẩn mực theo quan
điểm Nho giáo.
Huyền Trang có một diện mạo thật oai nghi lẫm liệt, tư thế hiên ngang, cử chỉ
nghiêm chỉnh, da trắng hồng, cặp mắt tinh anh, không hổ danh là vị chân tu đắc đạo.
Truyện Tây Du miêu tả Đường Tăng khi người thử áo cà sa:
“Mặt hoa lẫm liệt rất uy nghi;
Áo Phật vừa người in như vẽ.
Tưng bừng trời đất vẻ tươi vui.
Rạng rỡ kiền khôn thêm đẹp đẽ.
24
Minh châu trên dưới thẳng đường ken,
Kim tuyến trước sau đều lối kẻ.
Bốn bề viển gấm sắc hồng tươi,
Muôn sợi chỉ thùa màu đỏ khé.
Áo đơm cúc báu khoe chiều thanh,
Lưng thắt đai nhung phô vẻ lệ.
Phật trời lớn nhỏ thấp cao bày,
Tinh tú dưới trên sau trước đệ,
Huyền Trang sư trưởng lắm duyên may,
Vật bấu ngày nay được thừa kế.
Khác nào La Hán hiện chân thân,
Tựa thế thần tiên xuồng trần thế,
Gậy tích chín vòng sang sảng kêu,
Mũ tỳ lư đội coi bệ vệ.
Đúng là con Phật chẳng đồn ngoa,
Hơn cả Bồ đề bao xiết kể!”[1; tr 252]
Ngay khi còn nhỏ, Đường Tăng luôn làm việc thiện và tôn trọng những điều
cao thượng như: tố một hòa thượng phạm giới luật, biết lễ nghĩa phép tắc, trả oan thù
cho cha mẹ…Với tấm lòng đầy cao thượng, đầy lòng từ thiện, luôn giữ gìn nghiêm
ngặt giới luật, Đường Tăng trở thành vị tu hành đáng quý.Việc giữ gìn giới luật của
Đường Tăng được thể hiện hầu như trong suốt cuộc thỉnh kinh.Nó mang giá trị nhân
sinh rất lớn, hướng người đọc về một cõi diệt dục.Đường Tăng vẫn thường dạy đệ tử:
“Nghìn ngày làm việc thiện, thiện vẫn chưa đủ, một ngày làm ác, ác đã có thừa” [1; tr
542]. Điều đáng quý nhất ở Đường Tăng chính là một nghị lực sắt đá.Bác Hồ cũng
từng nói Huyền Trang là một con người có lập trường vô cùng kiên định. Cũng có
sách nhận định: “Việc Đường Tăng chẳng quản ngại trăm cay nghìn đắng sang tận
Tây Trúc lấy kinh trở về vẫn là điều đáng khẳng định”[10; tr 88].
Do hạn chế của tư tưởng phong kiến và đạo Phật, Đường Tăng luôn có quan
niệm về cao quý, bần tiện, sang hèn, giàu nghèo. Đấy là những điều đã được định đặt
trong xã hội phong kiến, buộc mọi người phải răm rắp phục tùng, không thể thoát khỏi
khuôn khổ đó. Vì vậy, dù là lãnh đạo đoàn thỉnh kinh, nhưng hình tượng nhân vật
Đường Tăng không để lại cho độc giả những ấn tượng sâu sắc bằng Tôn Ngộ Không,
Trư Bát Giới. Khiến ta cảm giác Đường Tăng là con người nhu nhược, yêu đuối, vô
tài, bất lực, quan liêu với người dưới, khuất phục kẻ trên, mang nặng quan niệm đẳng
cấp truyền thống của tư tưởng phong kiến. Đường Tăng cũng là tuyên truyền viên tích
cực của tôn ti trật tự, lễ giáo phong kiến. Bất cứ nơi nào, chốn nào, gặp thần Phật nào,
đường Tăng cũng cúi đầu lạy tạ, gặp ông vua nước nào, Đường Tăng cũng cung kính
chắp tay, tung hô vạn tuế. Đường Tăng quả là người ủng hộ tích cực cho chế độ đẳng
cấp phong kiến nhất. Trước khó khăn, Đường Tăng chỉ biết cúi đầu khóc lóc thở than
25
“nhăn mày, ròng ròng sa đôi hàng lệ”, hễ thấy yêu ma là hết hồn hết vía, đến nỗi “từ
trên ngựa ngã lộn xuống đất, không gượng dậy được phải nằm dưới bãi cỏ rên rỉ” [3;
tr 205], hễ rời Tôn Ngộ Không ra thì không đi được nửa bước, thậm chí cả cơm ăn
cũng không nuốt nổi.
Khi qua núi Rắn Cuốn, khe Ưng Sầu, một con rồng nuốt chửng con ngựa bạch
còn đóng nguyên yên cương, Đường Tăng liền than: “nó ăn thịt mất ngựa rồi thì làm
sao được! Khổ chưa, thiên sơn vạn thủy làm thế nào mà đi được!”[1; tr 301], nói xong
nước mắt giàn giụa. Khiến Hành Giả phải quát lên: “Sư phụ đừng làm cái trò bịn rịn
như thế! Hãy cứ ngồi yên, ngồi yên, để lão Tôn này đi tìm con vật kia bắt nó phải đền
lại ngựa” [1; tr 302].
So sánh giữa Ngộ Không và Đường Tăng, dễ thấy giữa họ khác nhau hoàn toàn
từ giai cấp cho đến tính cách, đặc điểm. Cuộc hành trình mà thiếu đi Ngộ Không thì
dù cho Đường Tăng có sắt đá bao nhiêu đi nữa, cũng không đặt được chân lên đất
Phật. Trong truyện, Đường Tăng đã nhiều lần đuổi Ngộ Không đi không mảy may
luyến tiếc nhớ thương. Có lần,Ngộ Không ra tay trừ yêu giết cướp, không ngoài mục
đích bảo vệ an toàn tính mạng cho Đường Tăng. Đường Tăng vẫn tưởng Ngộ Không
làm điều thất đức, không kìm được bản tính hiếu chiến của mình. Lần đoàn thỉnh kinh
đi qua núi cao, gặp ba mươi tên cướp ở hai bên đường nhảy ra chắn lối, đòi tiền mãi
lộ. Đường Tăng sợ run lập cập, ngồi không vững, ngã từ trên ngựa xuống, đứng lom
khom trên đám cỏ bên đường, kêu lên “Đại vương tha tội! đại vương tha tội” [2; tr
499]. Tam Tạng còn định đem ngựa bạch cho họ để mong tha mạng, dẫu biết rằng đó
cũng chính là một đệ tử không quản khó nhọc biến thành ngựa bạch cho mình cưỡi.
Bởi vậy, Hành Giả mới nổi giận mắng: “Sư phụ không được việc gì, thiên hạ tuy cũng
có hòa thượng nhưng nhút nhát như thầy thì rất ít. Vua Đường Thái Tôn sai thầy sang
Tây Thiên bái Phật, ai bảo thầy đem Long mã tống cho kẻ cướp”[2; tr 502]. Hành Giả
vung gậy như ý đánh chết hai tên cướp. Tam Tạng thấy xác chứng máu me lênh láng,
không nỡ lòng nhìn bèn bảo Bát Giới đào lỗ chôn, sai Ngộ Không đốt hương nến, đọc
“Đảo Đầu kinh” độ cho họ. Tam Tạng quả là giàu lòng từ bi, nhưng hãy nghe lời
khấn của Đường Tăng: “Kính duy, hảo hán nghe thấu nguyên nhân; tôi là đệ tử,
người Đường thường dân, vâng chiếu chỉ Thái Tôn hoàng đế, sang Tây phương cầu
lấy kinh văn. Đất này vừa tới, gặp lũ ác nhân, ở phủ nào, huyện nào, châu nào không
biết, đều đến tại núi này kết đảng thành quần. Ta lấy lời lẽ van vỉ ân cần. Không nghe
thì chớ, lại còn hung hăng. Gặp phải Hành Giả, gậy đánh hoại thân.Nghĩ nỗi thi hài
bộc lộ, ta cho đắp điếm mộ phần. Bẻ tre tươi làm hương nến, không vẻ sáng. Có lòng
nhân, lấy đá cuội làm bố thí, không mùi vị.Có thành nhân, các người đến điện Sâm La
kiện cáo, cây bới rễ lần.Y họ Tôn, ta họ Trần. Mỗi người một họ, oán có nơi, trái có
chủ, chớ bảo nhà sư đi lấy kinh văn” [2; tr 508]. Nghĩ mà ngán ngẩm cho kẻ có nghĩa
tình, có nguyên tắc như Đường Tăng. Ngô Thừa Ân dùng sự thực đó để phê phán
quan niệm trốn tránh đấu tranh, thỏa mãn hiện trạng của Đường Tăng, đồng thời
khẳng định tinh thần đấu tranh tích cực, yêu ghét rõ ràng của Ngộ Không. Vì vậy mà
Ngộ Không phải thốt lên: “Sư phụ, bố già nhà mình không một chút tình nghĩa. Vì
thầy đi lấy kinh, con phải phí bao nhiêu công sức, ngày nay đánh chết vài tên giặc cỏ
kia, thầy đã nỡ lòng bảo chúng đi kiện cáo lão Tôn. Tuy nhiên là tay con đánh, nhưng
cũng chỉ là vì thầy. Nếu thầy không sang Tây Thiên lấy kinh, con không làm đồ đệ,
làm gì mà biết chốn này, biết đánh chết người” [2; tr 508].