Tải bản đầy đủ (.docx) (77 trang)

Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo sự nghiệp giáo dục (1997 - 2010)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.79 KB, 77 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiếu học là một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Tiếp nối truyền thống đó, Đảng ta đã coi giáo dục là một bộ phận, một nhiệm
vụ kinh tế - xã hội quan trọng.
Cách mạng tháng Tám thành công là tiền đề tiên quyết để Đảng ta xây
dựng, phát triển nền giáo dục mới. Khẩu hiệu “diệt giặc dốt” và sắc lệnh
thành lập Nha bình dân học vụ của Chính phủ đã mở đầu cho việc xây dựng
nền giáo dục của nhân dân. Tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh đã đi vào
cuộc sống và mang lại hiệu quả lớn lao. Đảng và nhân dân ta ý thức được sâu
sắc lời dạy của Hồ Chí Minh: “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích
trăm năm phải trồng người”.
Từ tháng 12/1986, với đường lối đổi mới của Đảng, một luồng gió đầy
sinh khí đã đưa đất nước chuyển mình sang một thời kỳ mới. Hoàn cảnh
khách quan và chủ quan đã đặt ra nhiều thời cơ và thách thức đòi hỏi nền giáo
dục Việt Nam phải phát triển với tốc độ cao, đạt tới trình độ phù hợp, đáp ứng
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đại hội VII (1991), Đại hội VIII (1999) và trong chiến lược phát triển
giáo dục 2000 - 2010, Đảng ta đã khẳng định: Khoa học và công nghệ cùng
với giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu để phát triển nguồn lực nhằm
đưa đất nước ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến thế
giới. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 của Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII
đã khẳng định: “Nhận thức sâu sắc giáo dục đào tạo cùng với khoa học công
nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho
giáo dục là đầu tư phát triển”.
Nằm trong chiến lược phát triển con người của Đảng, giáo dục là một bộ
phận của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì vậy, việc đảm



bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp giáo dục là một tất yếu khách
quan, đảm bảo cho giáo dục phát triển theo đúng hướng “Nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, vì sự nghiệp phồn vinh của đất nước”.
Cùng với truyền thống hiếu học, coi trọng việc học chung của cả nước,
ngay từ xa xưa, Hải Dương đã nổi tiếng là “Lò tiến sĩ xứ Đông” với “Làng
tiến sĩ Mộ Trạch”. Nối tiếp truyền thống đó, trong quá trình xây dựng và phát
triển kinh tế - xã hội từ ngày tỉnh Hải Dương được tái lập (1997) đến nay,
thực hiện những chủ trương chung của Đảng và Nhà nước, dưới sự chỉ đạo
trực tiếp của Đảng bộ tỉnh Hải Dương, sự nghiệp giáo dục trong tỉnh đã có
những bước tiến đáng kể.
Những cố gắng của Đảng bộ Tỉnh, của các cấp chính quyền, đoàn thể ở
địa phương và của toàn dân trong tỉnh, trong 10 năm kể từ sau đổi mới (1986
- 1996) đã đưa lại cho tỉnh một nền giáo dục có nội dung đúng đắn và nhiều
loại hình phong phú, vừa mang tính khoa học cao, vừa phù hợp với địa
phương và mang tính nhân dân. Sự nghiệp giáo dục Hải Dương đã phát triển
gắn liền với công cuộc phát triển kinh tế xã hội, với công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong tỉnh, đồng thời cũng là một nhân tố quan trọng thúc
đẩy đổi mới mọi mặt trong hoạt động xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước
của nhân dân trong tỉnh… Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn
còn tồn tại những khó khăn, yếu kém cần phải giải quyết như cơ sơ vật chất
hạ tầng còn thiếu thốn; chất lượng giáo dục nói chung chưa cao; đội ngũ giáo
viên còn thiếu nhiều; việc dạy và học thêm còn tràn lan…
Việc nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng trong phát triển sự nghiệp giáo
dục ở tỉnh Hải Dương vì thế mang tầm quan trọng rất lớn. Qua quá trình
nghiên cứu, chúng ta vừa có thể hiểu rõ hơn về đường lối, chính sách của
Đảng đối với giáo dục nói chung, với sự nghiệp giáo dục trong tỉnh nói riêng
đồng thời vừa có thể nêu lên những kiến giải để góp phần xây dựng một nền


giáo dục mới, phù hợp với sự phát triển chung hiện nay của tỉnh và đất nước.

Với ý nghĩa đó, đồng thời là một người con của tỉnh Hải Dương, tôi đã chọn
đề tài “Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo sự nghiệp giáo dục (1997 2010)” cho khóa luận tốt nghiệp cử nhân chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Là một tỉnh nằm trong địa bàn kinh tế trọng điểm phía Bắc, giáp thành
phố biển Hải Phòng, lại gần với thủ đô Hà Nội nên các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, xã hội của Hải Dương rất được quan tâm, trong đó có giáo dục. Trong
những năm gần đây, một số khoá luận của sinh viên cũng đã đề cập đến giáo
dục của Hải Dương trong giai đoạn trước đổi mới, giai đoạn sau 10 năm đổi
mới như: Đảng bộ Hải Hưng với sự nghiệp giáo dục và đào tạo thời kỳ 1986 1996 (Khoá luận tốt nghiệp của Nguyễn Văn Hạnh, K45, Đại học Khoa học
xã hội và Nhân văn), Bước đầu tìm hiểu sự phát triển giáo dục đào tạo ở Hải
Dương trong những năm đổi mới từ 1986 - 2002 (Khoá luận tốt nghiệp của
Nguyễn Thị Hồng Vân, K45, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn)…
Những khóa luận trên đây mặc dù có đề cập đến vấn đề giáo dục của tỉnh Hải
Dương nhưng đó là trong giai đoạn mà Hải Dương vẫn còn là một đơn vị
hành chính của Hải Hưng cũ. Tuy nhiên, từ khi tách tỉnh (1997) đến nay vẫn
chưa có một công trình nào đề cập đến vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải
Dương đối với sự nghiệp giáo dục.
Kế thừa các kết quả nghiên cứu của các công trình đó, dựa vào sự tìm
tòi về các chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước, trên cơ sở lãnh đạo
của Đảng bộ tỉnh trong thời gian qua, bản khoá luận này có nhiệm vụ trình
bày quá trình lãnh đạo sự nghiệp giáo dục của Đảng bộ tỉnh Hải Dương thời
kỳ 1997 - 2010, đồng thời nêu lên một số kinh nghiệm để xây dựng và phát


triển nền giáo dục Hải Dương trong thời kỳ tới, với hy vọng khoá luận sẽ góp
phần nhỏ vào công cuộc xây dựng và phát triển ngành giáo dục của tỉnh
Hải Dương.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu khoá luận là góp phần tìm hiểu sự chỉ đạo, lãnh

đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương về phát triển sự nghiệp giáo dục trong thời
kỳ 1997 - 2010. Tiếp đó, nêu lên những thành tựu đạt được cũng như những
mặt hạn chế, rút ra một số kinh nghiệm góp phần phục vụ cho sự nghiệp phát
triển giáo dục ở giai đoạn sau.
Giáo dục Hải Dương từ khi đổi mới đến nay có rất nhiều vấn đề cần phải
quan tâm nghiên cứu. Nhưng do thời gian và phạm vi của một khoá luận tốt
nghiệp, với khả năng có hạn của bản thân, khoá luận chỉ đề cập đến quá trình
lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương đối với sự nghiệp giáo dục từ ngày tỉnh
Hải Dương được tái lập (1997) đến năm 2010, phạm vi nghiên cứu chỉ nằm
trong địa bàn tỉnh Hải Dương. Khoá luận cũng nêu lên một số vấn đề về tự
nhiên, con người, kinh tế - xã hội trong tỉnh, những vấn đề giáo dục trước
năm 1997; cũng như những Chỉ thị, Nghị quyết, văn kiện… của Đảng và Nhà
nước nói chung nhưng chỉ là để bổ sung làm rõ nội dung chính của khoá luận.
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
Trong khi thực hiện đề tài, khoá luận sử dụng chủ yếu các nguồn tài liệu
thành văn như các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các báo cáo tổng kết, các
số liệu thống kê của Sở Giáo dục, Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Hải
Dương cũng như của các Đảng bộ cơ sở lưu ở Tỉnh uỷ Hải Dương, Ủy ban
nhân dân tỉnh Hải Dương. Ngoài ra còn tham khảo một số tài liệu có liên quan
được lưu trữ tại Thư viện tỉnh Hải Dương và các sách của Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia…


Khoá luận được thực hiện trên cơ sở lý luận là quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng ta về phát
triển giáo dục trong thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Phương pháp nghiên cứu đề tài là kết hợp sử dụng các phương pháp lịch
sử và phương pháp lôgic, phương pháp điều tra, so sánh, đối chiếu, tổng hợp
để làm rõ vấn đề.
5. Đóng góp của đề tài

Đóng góp mới của khóa luận này là tập hợp, sắp xếp một cách có hệ
thống những tư liệu, sự kiện về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hải
Dương trong quá trình phát triển sự nghiệp giáo dục giai đoạn 1997 - 2010,
đồng thời rút ra những kinh nghiệm, tổng kết những thành tựu và hạn chế.
Bên cạnh đó, khóa luận có thể làm tư liệu tham khảo trong việc nghiên
cứu về lịch sử địa phương.
6. Bố cục của đề tài
Bố cục của khoá luận ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và
phụ lục thì còn có ba chương:
Chương 1: Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo sự nghiệp giáo dục trong
những năm 1997 - 2005.
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo sự nghiệp giáo dục trong
những năm 2006 - 2010.
Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm.


NỘI DUNG
Chƣơng 1
ĐẢNG BỘ TỈNH HẢI DƢƠNG LÃNH ĐẠO SỰ
NGHIỆP GIÁO DỤC TRONG NHỮNG NĂM 1997 - 2005
1.1. MỘT SỐ NÉT VỀ TỈNH HẢI DƢƠNG
1.1.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội
Hải Dương là một tỉnh ở trung tâm Đồng bằng Bắc Bộ, nơi xưa kia là
vịnh biển nông được phù sa của các sông lớn bồi đắp. Tổ tiên cư dân vùng
này là người Việt cổ từ núi rừng phía Bắc vượt gò đồi trung du về cư trú từ
thời các vua Hùng dựng nước. Cũng có một số ít dân bản địa đã có mặt ở đây
từ trước sống trong các hang động vùng núi cao thuộc Chí Linh, Kinh Môn
ngày nay. Những di chỉ khảo cổ mới phát hiện gần đây có di cốt vượn người
Pongo, xương động vật và một vài công cụ thô sơ ở hang Thánh Hoá, núi
Nhẫm Dương, Kinh Môn đã chứng minh điều đó. Tên gọi Hải Dương chính

thức có từ năm 1469. “Hải Dương” có nghĩa là “ánh sáng từ miền duyên hải
chiếu về”.
Năm 1947, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, để
tiện cho việc chỉ đạo, chỉ huy tác chiến, các huyện Đông Triều, Chí Linh,
Nam Sách, Kinh Môn chuyển về tỉnh Hồng Quảng. Năm 1954, các huyện trên
lại chuyển về tỉnh Hải Dương. Năm 1960, huyện Đông Triều được cắt hẳn về
Hồng Quảng và huyện Vĩnh Bảo cũng cắt về tỉnh Kiến An.
Từ 1960 trở đi, tỉnh Hải Dương có các huyện: Ninh Giang, Tứ Kỳ, Gia
Lộc, Thanh Miện, Bình Giang, Cẩm Giàng, Nam Sách, Kinh Môn, Kim
Thành, Thanh Hà, Chí Linh và thị xã Hải Dương.


Tháng 8/ 1997, Chính phủ ban hành Nghị định số 88/NĐ-CP nâng cấp
thị xã Hải Dương thành thành phố Hải Dương. Như vậy, từ năm 1997 đến
nay, tỉnh Hải Dương được chia ra 12 đơn vị hành chính gồm thành phố Hải
Dương và 11 huyện: Chí Linh, Nam Sách, Thanh Hà, Kinh Môn, Kim Thành,
Cẩm Giàng, Bình Giang, Gia Lộc, Tứ Kỳ, Thanh Miện, Ninh Giang.
Về vị trí địa lý, Hải Dương tiếp giáp với 6 tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang,
Quảng Ninh, Thái Bình, Hưng Yên và Hải Phòng. Hải Dương nằm trong địa
bàn kinh tế trọng điểm phía Bắc (Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh) có các
tuyến đường bộ, đường sắt quan trọng của Quốc gia chạy qua như đường 5,
18, 183 lại gần cảng biển Hải Phòng và Cái Lân. Hải Dương có nhiều di tích
lịch sử như Côn Sơn - Kiếp Bạc, Yên Phụ - Kính Chủ thờ các vị anh hùng dân
tộc, là cơ sở để phát triển các điểm du lịch.
Hải Dương là điểm trung chuyển giữa hai thành phố cảng là Hải Phòng
và Thủ đô Hà Nội. Theo dọc 102 km quốc lộ 5, Thành phố Hải Dương (trung
tâm của tỉnh) cách Hải Phòng 45 km về phía đông và cách Hà Nội 57 km về
phía tây. Phía Bắc của tỉnh có hơn 20 km quốc lộ 18 chạy qua, nối sân bay
quốc tế Nội Bài ra biển và qua cảng Cái Lân, tạo điều kiện giao lưu hàng hoá
từ nội địa (vùng Bắc Bộ), từ tam giác phát triển kinh tế phía Bắc ra biển và

giao lưu với các nước trong khu vực và trên thế giới, đồng thời tạo cơ sở hạ
tầng cho việc phát triển hành lang công nghiệp.
2

Diện tích tự nhiên của tỉnh Hải Dương là 1.661,9 km . Toàn bộ đất đai
của tỉnh bao gồm một phần đất vùng núi (huyện Chí Linh và một số xã thuộc
huyện Kinh Môn), còn đại bộ phận là đồng bằng. Cảnh quan Hải Dương hùng
vĩ, nên thơ, với những dòng sông uốn khúc như dải lụa, ôm lấy những cánh
đồng thẳng cánh cò bay của miền Tây Nam và những dải núi non trùng điệp
miền Đông Bắc với những thắng cảnh ngoạn mục.


Khí hậu nóng ẩm, nguồn nước dồi dào của Hải Dương rất thuận lợi cho
trồng cây lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp. Vùng đồng bằng giữa
châu thổ sông Hồng đất phù sa màu mỡ rất tốt cho trồng trọt và chăn nuôi.
Về kinh tế, Hải Dương là một địa phương có nền kinh tế phát triển tương
đối tốt. Sản xuất nông nghiệp chủ yếu là cấy lúa, ngoài ra nhân dân trong tỉnh
còn trồng các loại cây hoa màu khác như: ngô, khoai, sắn, lạc, đậu tương và
các loại rau. Hiện nay, Hải Dương đang tích cực chuyển dịch cơ cấu giống
mới có năng suất cao và áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Bên cạnh trồng trọt, Hải Dương cũng là tỉnh mạnh về chăn nuôi. Các con
vật được nuôi chủ yếu ở Hải Dương là trâu, bò, lợn, gà, vịt... Chăn nuôi trong
những năm gần đây ở tỉnh Hải Dương cũng khá phát triển. Nhiều gia đình đầu
tư vào chăn nuôi trâu bò, thả cá. Kinh tế hộ gia đình, trang trại cũng phát triển
góp phần tăng số lượng gia súc, gia cầm trong chăn nuôi ở tỉnh…
Hiện nay tỉnh Hải Dương tiếp tục phát triển những cơ sở công nghiệp lớn
như nhiệt điện Phả Lại, xi măng Hoàng Thạch, xi măng Phúc Sơn… cùng với
nhiều nhà máy xí nghiệp và các cơ sở công nghiệp khác tạo cơ sở vững chắc
để Hải Dương thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá sớm trở thành một tỉnh
công nghiệp giàu mạnh. Trong giai đoạn hiện nay, ngành công nghiệp Hải

Dương hình thành theo bốn hướng chính sau:
- Công nghiệp mũi nhọn của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Các ngành công nghiệp dựa vào thế mạnh tài nguyên.
- Công nghiệp dựa vào nguồn nguyên liệu sẵn có của tỉnh.
- Các ngành công nghiệp dựa vào thế mạnh nguồn nhân lực.
Năm 2006, tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng 2,3 lần so với năm
1997, bình quân trong 10 năm (1997 - 2006) tăng 10,0%/năm, trong đó khu
vực nông - lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 4,4%/năm; khu vực công nghiệp và
xây dựng tăng 12,9%/năm; khu vực dịch vụ tăng 10,3%/năm. Như vậy, tốc độ


tăng trưởng kinh tế của tỉnh Hải Dương cao hơn cả nước (7,1%/năm) và thấp
hơn vùng đồng bằng sông Hồng (10,6%/năm).
Dân số hiện nay của tỉnh Hải Dương gần 1,8 triệu người. Tỷ lệ nhân
khẩu trong độ tuổi lao động ngày càng tăng, hiện nay tăng 52%, là một tỉnh có
dân số trẻ. Mức tăng dân số bình quân 1,61%, vào loại thấp so với bình quân
của cả nước. Nhịp tăng tự nhiên có xu hướng giảm.
Lĩnh vực văn hoá - xã hội trong tỉnh tiếp tục có bước tiến bộ; chính
quyền các cấp được củng cố và kiện toàn; công tác cải cách hành chính đạt
được những kết quả bước đầu. Bên cạnh đó, quốc phòng, quân sự địa phương
được tăng cường, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Trong tình hình mới của đất nước, phát triển kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hoá, dưới sự lãnh đạo của Đảng và các cấp chính quyền,
nhân dân Hải Dương với đức tính cần cù chịu khó sẽ tập trung khai thác có
hiệu quả các nguồn lực có sẵn, tranh thủ các dự án phát triển, thu hút đầu tư
bên ngoài, nhanh chóng hội nhập với xu thế phát triển chung cả nước, nâng
cao mức sống dân cư, phấn đấu xây dựng một tỉnh giàu về kinh tế, vững về
chính trị, ổn định về an ninh quốc phòng.
1.1.2. Truyền thống văn hoá của tỉnh Hải Dƣơng
“Nói đến Hải Dương, nhiều người thường gọi với cái tên xứ Đông, bởi

nơi đây vốn là trấn phía Đông của kinh thành Thăng Long xưa. Có thể khẳng
định rằng, truyền thống văn hiến từ ngàn xưa chính là niềm tự hào, đồng thời
là cội nguồn sáng tạo nên sức sống mãnh liệt, sức bật mạnh mẽ của mảnh đất
này trong công cuộc xây dựng đất nước hôm nay” [24, tr.33].
Hải Dương hiện đang lưu giữ một khối lượng lớn văn hoá vật thể và phi
vật thể đa dạng, độc đáo với 1.098 di tích lịch sử, văn hoá, danh thắng. Mảnh
đất Hải Dương không chỉ giàu về tài nguyên khoáng sản mà còn tích trữ nhiều
dấu tích của nền văn hoá cổ, nền văn minh sông Hồng, từ những rìu đá, rìu


đồng đến trống đồng, đồ gốm, các công trình kiến trúc thới Lý, Trần, Lê,
Nguyễn là dòng chảy liên tục và rực sáng trên vùng đất này, đã tạo nên một
không gian văn hoá đặc biệt - nơi kết hợp hài hoà cảnh quan thiên nhiên hùng
vĩ với chiều sâu lịch sử và tâm linh.
Hải Dương là quê hương của nhiều di tích lịch sử văn hoá như: Côn Sơn
- Kiếp Bạc, Yên Phụ - Kính Chủ… Đền Kiếp Bạc (Chí Linh) là di tích kỷ
niệm người anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo; đền Phù Ủng (Kim Thi) là di
tích kỷ niệm danh tướng Phạm Ngũ Lão đời Trần; động Kính Chủ (Kinh
Môn) là một di tích lịch sử, một thắng cảnh; đền thờ thầy Chu Văn An, thầy
giáo của muôn đời ở núi Phượng Hoàng, xã Văn An, Chí Linh. Hải Dương
cũng là vùng quê mà danh nhân văn hoá thế giới, anh hùng dân tộc Nguyễn
Trãi đã gắn bó cuộc đời và ngàn thu yên nghỉ. Bên cạnh đó, Hải Dương là
vùng quê của bề dày lịch sử dựng nước và giữ nước, với Lục Đầu Giang đã đi
vào huyền thoại chiến thắng Bạch Đằng. Tổng cộng ở Hải Dương có 127 di
tích được xếp hạng quốc gia.
Người Hải Dương giàu nghị lực, thông minh, sáng tạo, có truyền thống
văn hoá. Trong số dân 1,8 triệu người, ở Hải Dương, phần lớn là người Việt,
chỉ có một số ít là người Hoa, Sán Dìu, Tày sống tại một số xã ở Chí Linh,
Kinh Môn. Với tinh thần lao động cần cù và đấu tranh dũng cảm, trong quá
trình tạo dựng và giữ gìn quê hương, nhân dân Hải Dương đã viết lên trang sử

vẻ vang về truyền thống văn hoá phong phú và những chiến công rực rỡ
chống giặc ngoại xâm. Mảnh đất Hải Dương đã sản sinh ra và đóng góp cho
đất nước những danh nhân chính trị, quân sự, ngoại giao, những nhà văn hoá,
nhà khoa học, văn thơ, y học, những vị tổ nghề được cả nước ca tụng, tôn thờ
như Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Đoàn Thị Điểm, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, Tuệ Tĩnh, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Lương
Thanh Nghị…

Bằng,




Hải Dương còn là một tỉnh có nền văn hiến lâu đời, có truyền thống về
khoa bảng. Các thế hệ sĩ tử Hải Dương đã lập nên những thành tích xuất sắc
suốt hơn tám thế kỷ của các khoa thi dưới thời phong kiến. Tỉnh Hải Dương
xưa nổi tiếng là “Lò tiến sĩ xứ Đông” với 572 vị tiến sĩ, trong đó có 11 trạng
nguyên, 10 bảng nhãn, 20 thám hoa. Riêng huyện Nam Sách có 4 trạng
nguyên, huyện Nam Sách là huyện có nhiều tiến sĩ nhất tỉnh và cũng là huyện
có nhiều tiến sĩ nhất cả nước với 125 tiến sĩ. Xã Mộ Trạch được coi là “Làng
tiến sĩ” của cả nước với 39 tiến sĩ. Nhân dân Hải Dương vốn có truyền thống
hiếu học, truyền thống đó đã tạo nên những con người kiệt xuất như Lưỡng
quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, Vũ Hữu, Vũ Quỳnh…
Bên cạnh việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, nhân
dân Hải Dương đang không ngừng xây dựng những giá trị văn hoá mới. Hiện
toàn tỉnh có 68% gia đình đạt tiêu chuẩn “gia đình văn hoá”; 261 làng, khu
dân cư đạt tiêu chuẩn làng, khu dân cư văn hoá; 51% số xã và 49% số thôn có
nhà văn hoá; trên 200 thư viện, tủ sách xã, thôn… các hoạt động văn hoá,
nghệ thuật, thể dục, thể thao được tổ chức rộng rãi đến xã, phường với nội
dung, phương pháp hướng vào việc phát huy bản sắc dân tộc truyền thống của
địa phương.

Văn hoá xứ Đông còn được hình thành cũng như đi lên bằng sức lao
động cần cù, sáng tạo của con người trên mảnh đất Hải Dương. Người Hải
Dương không những giỏi làm ra hạt lúa, hạt đậu, hoa thơm trái ngọt như gạo
nếp cái hoa vàng (Kinh Môn, Cẩm Giàng); vải thiều (Thanh Hà); dưa hấu
(Gia Lộc); na dai, chuối mật (Chí Linh), mà còn biết chế biến nhiều món ăn
đặc sản nổi tiếng khắp trong và ngoài nước như bánh đậu xanh, bánh khảo,
bánh cuốn, nem chua (thành phố Hải Dương), bánh gai (Ninh Giang), bánh đa
Kẻ Sặt (Bình Giang), rượu Phú Lộc (Cẩm Giàng)…


Với những điều kiện tự nhiên, dân cư, nguồn nhân lực, kinh tế - xã hội
như vậy, ngành giáo dục Hải Dương có rất nhiều điều kiện để phát triển
nhưng đồng thời cũng đứng trước những thách thức với mục tiêu nâng cao
dân trí, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo nguồn nhân lực có kiến thức và kỹ năng
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của vùng duyên hải Bắc Bộ và tỉnh
trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập khu vực và quốc tế.
Kiêu hãnh, oai hùng với những chiến công vang dội trong lịch sử kháng
chiến chống giặc ngoại xâm cùng truyền thống ngàn năm văn hiến, Hải
Dương hôm nay khẳng định vị thế bằng những “bước chân Thánh Gióng”
trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Hải Dương đang nỗ
lực không ngừng vươn lên hoà nhịp cùng sự đổi thay từng ngày, từng giờ của
đất nước, phát huy truyền thống của một vùng đất giàu đẹp, văn hiến và
anh hùng.
1.1.3. Tình hình giáo dục của tỉnh Hải Dƣơng trƣớc năm 1997
Từ năm 1968 đến 1997, tỉnh Hải Dương và Hưng Yên hợp nhất thành
tỉnh Hải Hưng, Đảng bộ tỉnh Hải Dương cũng hợp nhất với Đảng bộ tỉnh
Hưng Yên thành Đảng bộ tỉnh Hải Hưng. Tiếp nối những truyền thống đã đạt
được trong giai đoạn trước, Đảng bộ tỉnh Hải Hưng tiếp tục lãnh đạo sự
nghiệp giáo dục.
Sau ngày 30/4/1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước

thống nhất, nhân dân cả nước phấn khởi bước vào thời kỳ xây dựng đất nước
đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn phát triển đất nước theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đảng và Nhà nước ta đã tiếp tục chăm lo cho sự
nghiệp giáo dục, một bộ phận quan trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa về
tư tưởng, văn hoá. Giáo dục có trách nhiệm to lớn và nặng nề trong việc thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV đã chỉ rõ: Ngày nay, để phục vụ đặc
biệt việc xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, nền văn hoá mới
và con người mới xã hội chủ nghĩa, hơn bao giờ hết chúng ta phải đẩy mạnh
sự nghiệp giáo dục.
Qua quá trình lãnh đạo của Đảng, sau 15 năm (1975 - 1996), ngành giáo
dục Hải Hưng đạt được nhiều thành tựu to lớn:
Một là, quy mô, mạng lưới hệ thống các trường, các cấp học ngày càng
được mở rộng.
Bên cạnh hệ thống trường công lập, chúng ta có thêm các loại hình
trường, lớp bán công, dân lập, tư thục.
Giáo dục Mầm non những năm 1986 - 1990 xuống cấp, có nơi phong
trào nhà trẻ trắng. Bước vào những năm đầu của thập kỷ 90, giáo dục mầm
non đi vào thế ổn định và phát triển, tất cả các phường, xã kể cả những vùng
sâu, vùng xa đều có nhà trẻ, lớp mẫu giáo. Đặc biệt, việc huy động trẻ 5 tuổi
vào lớp mẫu giáo lớn chuẩn bị vào lớp 1 đạt kết quả cao (năm học 1986 1987 trẻ đến lớp khoảng 80%, năm học 1995 - 1996 đã đạt 93,5%).
Giáo dục Tiểu học, hoàn thành phổ cập tiểu học và xóa mù chữ từ năm
1991. Hiện nay, chất lượng phổ cập được giữ vững và nâng cao. Các tiêu
chuẩn phổ cập đạt 97%.
Trung học phổ thông, từ năm 1992 đến nay số học sinh các bậc học đến
trường ngày càng tăng. Tỷ lệ học sinh bỏ học giảm đáng kể (trung học cơ sở
từ 15%, trung học phổ thông từ 8%, đến năm học 1996 - 1997 chỉ còn 0,6 đến

1%). Các loại hình trường lớp ngày càng được mở rộng, đáp ứng nhu cầu học
tập của nhân dân.
Hai là, chất lượng giáo dục đã có nhiều tiến bộ.
Chất lượng đại trà ở các cấp học phổ thông ngày càng ổn định và có
những mặt tiến bộ; chất lượng mũi nhọn từng bước được nâng cao, chất lượng


giáo dục toàn diện: đức, trí, thể, mỹ ngày càng được coi trọng. Năm học 1995
- 1996 số học sinh khá, giỏi đạt giải trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia tăng
2,8 lần, số học sinh đỗ vào các trường Đại học, Cao đẳng tăng 3,4 lần so với
năm học 1991 - 1992.
Trẻ suy dinh dưỡng ở khu vực nhà trẻ, mẫu giáo mỗi năm giảm 2 - 3%.
Hiện nay đã có 60% số cháu đạt kênh A.
Ba là, đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý các cấp học đã từng bước đáp
ứng tốt hơn yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục.
Công tác bồi dưỡng giáo viên được tiến hành thường xuyên. Tỷ lệ giáo
viên đạt chuẩn đào tạo ở mức cao của toàn quốc. Phong trào thi đua hai tốt,
thi giáo viên giỏi, cải tiến phương pháp giảng dạy, nghiên cứu khoa học từ
bậc mầm non, phổ thông được duy trì đều đặn. Phong trào dân chủ hoá trường
học bước đầu có hiệu quả.
Bốn là, cơ sở vật chất trường lớp đã có sự tiến bộ vượt bậc.
Bằng các nguồn vốn (Nhà nước hỗ trợ, kinh phí xã, nhân dân đóng
góp…) trong những năm qua, Hải Hưng đã tăng nhanh phòng học kiên cố,
cao tầng. Từ năm 1993 đến nay bình quân mỗi năm đưa vào sử dụng từ 350
đến 450 phòng học kiên cố, cao tầng. Riêng năm 1996 đã xây dựng được 746
phòng học kiên cố cao tầng. Tính đến cuối năm 1996 số phòng học kiên cố,
cao tầng toàn tỉnh đạt được 35,4% so với tổng số phòng học.
Năm là, công tác xã hội hoá giáo dục ngày càng được nâng cao.
Các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, tổ chức xã hội, các gia đình ngày
càng chăm lo toàn diện đến giáo dục. Các xã, phường đã thành lập Hội đồng

giáo dục và tổ chức Đại hội. Các hình thức đào tạo ở các cấp học, bậc học
ngày càng mở rộng, đáp ứng nhu cầu học tập của cán bộ và nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó thì ngành giáo dục Hải Hưng
vẫn còn một số khó khăn, yếu kém cần phải khắc phục, đó là:


Một là, chất lượng giáo dục tiến bộ còn chậm so với yêu cầu phát triển
của giáo dục, kỹ năng vận dụng thực hành, năng lực tư duy độc lập sáng tạo
của một bộ phận học sinh còn yếu.
Hai là, đội ngũ giáo viên còn thiếu nhiều, chất lượng còn yếu, nhất là
giáo viên mầm non và một bộ phận lớn giáo viên tiểu học, trung học cơ sở
chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng phát triển của giáo dục. Đội ngũ thầy
cô và cán bộ quản lý được đào tạo trên chuẩn, giỏi về chuyên môn - nghiệp vụ
ở các cấp học còn ít.
Ba là, cơ sở vật chất trường lớp ở một số địa phương, nhất là các xã
nghèo ở vùng sâu, vùng xa còn yếu kém. Nhiều trường học sân chơi bãi tập
không đúng quy định, điều kiện và dụng cụ phục vụ giáo dục thể chất cho học
sinh còn thiếu và sơ sài. Trang thiết bị để sử dụng cho việc đổi mới phương
pháp dạy học thiếu và lạc hậu, nhất là ngành học mầm non.
1.2. ĐẢNG BỘ TỈNH HẢI DƢƠNG LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP GIÁO
DỤC TRONG NHỮNG NĂM 1997 - 2005
1.2.1. Chủ trƣơng của Đảng về giáo dục
* Giai đoạn từ 1997 đến 2000
Cùng với những thay đổi của cả nước, tỉnh Hải Dương cũng có nhiều
chuyển biến. Nghị quyết kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX ngày 20/11/1996 đã
quyết định tách tỉnh Hải Hưng thành hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên, Đảng
bộ tỉnh Hải Hưng tách ra thành Đảng bộ tỉnh Hải Dương và Đảng bộ tỉnh
Hưng Yên. Sau khi được tái lập, tỉnh Hải Dương chuyển sang giai đoạn mới
trong lịch sử phát triển của mình.
Tháng 6/1996, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã họp

và quyết định đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã
hội. “Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành


một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp
lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất; đời sống vật chất và tinh thần cao; quốc phòng, an ninh vững chắc, dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”. Muốn tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục, phát huy nguồn lực
con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững. Để thực hiện
Nghị quyết Đại hội VIII, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương
quyết định định hướng chiến lược phát triển giáo dục trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000.
Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóaVIII) đã
thảo luận và thông qua hai Nghị quyết quan trọng về định hướng chiến lược
phát triển giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ
đến năm 2000. Nghị quyết Trung ương 2 có tầm chiến lược lớn, mở khâu đột
phá của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Nghị quyết Trung ương 2 khẳng định: “Thực hiện Nghị quyết các Đại
hội VI, VII và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương
khóa VII, trong những năm gần đây, giáo dục có những mặt tiến bộ”. Cụ thể
là: mạng lưới trường học phát triển rộng khắp; quy mô giáo dục tăng; chất
lượng giáo dục có tiến bộ bước đầu; đã xuất hiện một số nhân tố mới trong
giáo dục. Tuy nhiên, bên cạnh đó, ngành giáo dục còn có những mặt yếu kém
và bất cập về quy mô, cơ cấu và nhất là về chất lượng và hiệu quả.
Nghị quyết Trung ương 2 cũng đưa ra những nhiệm vụ và mục tiêu phát
triển giáo dục đến năm 2000. Nhiệm vụ là “Phát huy những thành công đã đạt
được, khắc phục các mặt yếu kém theo hướng: chấn chỉnh công tác quản lý,

khẩn trương lập lại trật tự, kỷ cương, kiên quyết đẩy lùi tiêu cực; sắp xếp và
củng cố hệ thống giáo dục và mạng lưới trường lớp; nâng cao chất lượng và


hiệu quả giáo dục; phát triển quy mô giáo dục, chuẩn bị tiền đề cho những
bước phát triển mạnh vào đầu thế kỷ 21”. Mục tiêu “chủ yếu là thực hiện giáo
dục toàn diện đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục ở tất cả các bậc học”, cụ thể
là: phát triển bậc học mầm non, phổ cập giáo dục tiểu học, thanh toán nạn mù
chữ cho những người trong độ tuổi 15 - 35…
Thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/BCHTW, Hội nghị Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh họp đầu năm 1997 đã quyết định mục tiêu, nhiệm vụ và những
giải pháp phát triển giáo dục tỉnh nhà trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và nhiệm vụ đến năm 2000. Ngày 9/4/1997, Hội nghị đã ra Nghị quyết số
02-NQ/TU “Về chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 2
(khóa VIII) về giáo dục”.
Nghị quyết đã đặt ra “Mục tiêu và nhiệm vụ phát triển giáo dục trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2000”. Mục tiêu chung được
đề ra là: Phát triển giáo dục phải coi trọng cả mặt bằng lẫn đỉnh cao dân trí;
giáo dục ra những con người có đủ phẩm chất và năng lực để xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Chống khuynh hướng “thương mại
hóa” trong các nhà trường; giữ gìn mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong nội dung
và phương pháp giáo dục. Thực hiện việc đầu tư cho giáo dục, làm cho toàn
xã hội chăm lo sự nghiệp giáo dục. Củng cố, tiếp tục đổi mới để phát triển hệ
thống giáo dục và mạng lưới trường lớp các cấp học, bậc học. Phát triển quy
mô phải gắn liền với việc nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Đổi mới
rõ rệt công tác quản lý giáo dục. Tuyên truyền và làm tốt công tác phòng
chống các tệ nạn xã hội, bảo vệ an ninh, trật tự trường học.
Nghị quyết 02 cũng đưa ra những giải pháp chủ yếu để phát triển giáo
dục đến năm 2000 là: Tăng cường các nguồn lực để phát triển giáo dục; tạo
mọi động lực đủ mạnh để phát triển giáo dục như xây dựng đội ngũ giáo viên



và cán bộ quản lý, thực hiện đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục, đẩy
mạnh công tác xã hội hóa giáo dục.
* Giai đoạn từ 2000 đến 2005
Thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương về tiến hành Đại hội
Đảng bộ các cấp, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII (12/2000) đã được
tiến hành.
Đại hội lần thứ XIII được tổ chức vào thời điểm chuyển giao thế kỷ.
Tình hình thế giới, khu vực và trong nước có nhiều diễn biến mới, thời cơ,
thuận lợi đan xen với những khó khăn, thách thức.
Những nhiệm vụ chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục cũng được Đại
hội đề ra là: Đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục "Tiếp tục quán triệt quan điểm
giáo dục là quốc sách hàng đầu, phát triển quy mô giáo dục, giữ vững, nâng
cao chất lượng và phù hợp với nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 2 (khóa
VIII) về giáo dục. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, quan tâm bồi
dưỡng, xây dựng đội ngũ giáo viên giỏi chuyên môn, nghiệp vụ, có lương tâm
nghề nghiệp, lối sống trong sáng, lành mạnh. Nâng cao hiệu quả hoạt động
của Hội đồng giáo dục, Hội khuyến học các cấp. Phấn đấu xây dựng thêm ít
nhất 50 trường học đạt chuẩn quốc gia. Đẩy mạnh xã hội hóa và đa dạng hóa
các loại hình trường lớp trong giáo dục; chuyển các lớp bán công ra khỏi
trường công; phát triển trường bán công, dân lập, tư thục. Tranh thủ các
nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư cho sự nghiệp giáo dục".
Một số giải pháp phát triển giáo dục được đồng chí Giám đốc Sở Giáo
dục Đào tạo tỉnh Hải Dương đề ra là: Củng cố vững chắc hệ thống trường lớp
ở các cấp học theo cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân quy định tại
Nghị định 90/CP và Luật Giáo dục; huy động ít nhất 40% cháu tuổi nhà trẻ và
80% cháu tuổi mẫu giáo đến trường mần non; làm tốt công tác giáo dục



hướng nghiệp; coi trọng giáo dục đạo đức; đẩy mạnh công tác xây dựng
trường chuẩn Quốc gia; đổi mới quản lý giáo dục; đổi mới phương pháp dạy
học; đẩy mạnh công tác thanh tra giáo dục; thực hiện tăng cường công tác xã
hội hóa giáo dục; huy động các nguồn lực để phát triển giáo dục; khuyến
khích hoạt động của Hội đồng giáo dục, Hội khuyến học các cấp. Những ý
kiến, đóng góp của đồng chí có ý nghĩa quan trọng giúp Đảng bộ tỉnh có
những chủ trương, biện pháp thích hợp để lãnh đạo sự nghiệp phát triển ngành
giáo dục.
Tháng 4 năm 2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam được tiến hành. Đại hội nhận định bước sang thời kỳ mới
“cách mạng nước ta vừa đứng trước thời cơ vận hội lớn, vừa phải đối mặt với
những thách thức, nguy cơ lớn không thể xem thường. Nắm bắt cơ hội, tận
dụng thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thách thức với tinh thần cách mạng
tiến công đưa cách mạng Việt Nam tiến lên mạnh mẽ, đó là vấn đề có ý nghĩa
sống còn đối với chúng ta trong thời kỳ mới” [18, tr.6 - 7].
Đại hội tiếp tục khẳng định “giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Đại hội
yêu cầu trong giai đoạn hiện nay nhiệm vụ quan trọng là “tiếp tục nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ
thống trường lớp và hệ thống quản lý; thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã
hội hóa”. Phát huy tinh thần độc lập, suy nghĩ và sáng tạo của học sinh… Đẩy
mạnh phong trào học tập trong nhân dân… Tăng ngân sách cho giáo dục…
Khuyến khích phát triển hệ thống trường lớp…” [18, tr.35 - 36].
Đại hội IX tiếp tục đề ra mục tiêu cho ngành giáo dục trong 5 năm từ
2001 - 2005 là: “Tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về phát
triển giáo dục…; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý; triển
khai thực hiện chương trình phổ cập trung học cơ sở; … từng bước phát triển


kinh tế tri thức”; làm cho đến năm 2010 “trẻ em đến độ tuổi đi học đều được

đến trường; hoàn thành phổ cập trung học cơ sở trong cả nước”.
Các chỉ tiêu về giáo dục cũng được đưa ra: Tỷ lệ học sinh trung học cơ
sở đi học trong độ tuổi đạt 80%, tỷ lệ học sinh phổ thông trung học đi học
trong độ tuổi đạt 45% vào năm 2005. Tiếp tục củng cố và duy trì mục tiêu phổ
cập tiểu học. Thực hiện chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
Để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn lực là nhân tố quyết định cho
sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện
những chủ trương của Trung ương Đảng, Chính phủ, Đảng bộ tỉnh Hải
Dương đã lãnh đạo ngành giáo dục Hải Dương phát triển tiến lên một bước
mới trong giai đoạn 2001 - 2005.
1.2.2. Đảng bộ tỉnh Hải Dƣơng lãnh đạo phát triển sự nghiệp giáo dục
* Giai đoạn từ 1997 đến 2000
Với tinh thần tự lực, tự cường, Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã lãnh đạo
nhân dân vững bước đi trên con đường đổi mới, hoàn thành tốt các mục tiêu
mà Đại hội XII đề ra về phát triển kinh tế xã hội, trong đó đặc biệt ngành giáo
dục đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục nước ta đã xác định trong Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Luật giáo dục
(1998). Trong suốt thời kỳ 1997 - 2000, Đảng bộ, Tỉnh ủy đã rất quan tâm chỉ
đạo phát triển sự nghiệp giáo dục, dành phần ngân sách thỏa đáng hàng năm
cho giáo dục, đầu tư xây dựng trường lớp đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu
học tập của học sinh. Có chính sách động viên giáo viên giỏi, học sinh giỏi,
chính sách đối với hiệu trưởng các trường mầm non, cô giáo các trường mầm
non ngoài biên chế.
Những nội dung trong Nghị quyết Trung ương 2 đã được các cơ quan
Đảng, chính quyền trong tỉnh nghiêm túc thực hiện trong đó bao gồm việc


khai thác các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục; xây dựng đội ngũ
cán bộ quản lý giáo dục, đội ngũ giáo viên đáp ứng được nhu cầu trong giai

đoạn mới (thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) đã xây dựng quy
hoạch công tác cán bộ của ngành những năm trước mắt và sau năm 2000);
thực hiện tốt công tác quản lý giáo dục như chỉ đạo vấn đề điều chỉnh, đổi
mới công tác đánh giá chất lượng giáo dục, chỉ đạo về việc dạy thêm, học
thêm, chủ trương không có trường chuyên lớp chọn…
Tháng 12 năm 1997, Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã họp Hội nghị tổng kết,
đánh giá kết quả sau một năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII)
về giáo dục tỉnh Hải Dương. Hội nghị đã đánh giá những thành tựu mà ngành
giáo dục tỉnh đạt được như: chất lượng dạy và học ngày càng được nâng cao;
đa dạng hóa các loại hình trường học; phát triển công tác xóa mù chữ; tăng
cường đội ngũ giáo viên…
Sau Hội nghị, Ban Tuyên giáo và Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Hải
Dương có văn bản hướng dẫn các Huyện ủy, Thành ủy cùng các phòng giáo
dục ở các huyện, thành phố triển khai ở địa phương đến các trường học và
giáo viên. 100% Phòng giáo dục các huyện, thành phố đều có chương trình
hàng động cụ thể và giải pháp tích cực nhằm thực hiện Nghị quyết của Trung
ương, của Tỉnh ủy về giáo dục. Trong năm 1997, căn cứ vào Nghị quyết 02
của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh đã có kế hoạch cụ thể
hóa về đầu tư ngân sách cho giáo dục trên các mặt hoạt động theo hướng tích
cực và tăng dần, đảm bảo chi ngân sách khoảng 110 - 120 tỷ so với 370/380
tỷ (trên 30%) tổng ngân sách.
Thông báo số 47-TB/TU đưa ra những đánh giá về thành tựu cũng như
hạn chế của ngành giáo dục sau khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa
VIII) và Nghị quyết 02 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hải Dương. Trong


đó, Tỉnh ủy Hải Dương nhận định “Sau hơn một năm thực hiện, sự nghiệp
giáo dục đã có tiến bộ góp phần vào việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng
nhân tài”.
Ngày 10/8/1998, Thường vụ Tỉnh ủy đã có thông báo số 143-TB/TU

“Thông báo ý kiến về những nhiệm vụ trọng tâm của công tác giáo dục trong
thời gian tới”. Trong thông báo 143-TB/TU có nêu lên ý kiến của Thường
trực Tỉnh ủy như sau: “Cơ bản nhất trí với đánh giá, đề xuất của Ban Tuyên
giáo Tỉnh ủy và đề nghị quy hoạch của Sở Giáo dục và Đào tạo. Một năm
qua, công tác giáo dục đã có nhiều tiến bộ về nhiều mặt, thực hiện tương đối
tốt chủ trương của tỉnh duy trì và nâng cao chất lượng phổ cập tiểu học, phấn
đấu phổ cập trung học cơ sở, đã đáp ứng được 60% số học sinh tốt nghiệp
trung học cơ sở có nhu cầu vào học trung học phổ thông, tăng cường đầu tư
xây dựng cơ sở vật chật, nâng cao chất lượng dạy và học, tỷ lệ học sinh tốt
nghiệp các cấp khá cao (trên 90%)” [43, tr.1].
Tháng 10/1998, Tỉnh ủy Hải Dương có Nghị quyết 04 về giáo dục trong
đó nhấn mạnh: Thực hiện đường lối của Đảng: Coi giáo dục là quốc sách
hàng đầu. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, trước hết phải tăng
cường tuyên truyền vận động, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vai trò
của giáo dục trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; tạo ra phong
trào toàn dân làm giáo dục. Thực hiện tốt xã hội hóa các nguồn đầu tư, thu hút
sự tham gia của các cấp, các ngành, các đoàn thể xã hội vào việc chăm lo và
phát triển sự nghiệp giáo dục.
Tháng 11/1998, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hải Dương có Chỉ thị 19, Hội
đồng nhân dân Tỉnh khóa IX đã có kỳ họp thứ 8 bất thường về giáo dục. Thực
hiện Thông tư liên tịch số 35/TT-LT năm 1990 của Bộ giáo dục và Đào tạo và
Công đoàn Giáo dục Việt Nam.


Tháng 6/1999, 100% xã (phường), huyện, thành phố đã tiến hành Đại
hội giáo dục và thành lập Hội đồng giáo dục mà Chủ tịch hội đồng giáo dục là
đồng chí Phó chủ tịch ủy ban nhân dân (xã, phường, huyện, thành phố) phụ
trách văn xã.
Ngày 20/12/1999, Tỉnh Hải Dương tiến hành mở Đại hội giáo dục lần
thứ nhất, đã thành lập Hội đồng giáo dục tỉnh với 36 thành viên tham gia Ban

chấp hành, xây dựng quy chế hoạt động của mình và các chương trình hoạt
động trong năm.
Tháng 6/2000, Hội Khuyến học Tỉnh được thành lập, có Ban chấp hành
hội, có quy chế hoạt động dựa trên điều lệ Hội khuyến học Việt Nam. Trong
thời gian qua, Hội đã tham mưu và thành lập nhiều chi hội khuyến học cấp xã,
phường, huyện, dòng họ.
Tháng 10/2000, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã có đợt kiểm tra, khảo sát
một số cơ sở giáo dục trong toàn tỉnh. Ban Tuyên giáo đã trình lên Tỉnh ủy
“Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 2, Nghị quyết 02 của Tỉnh
ủy về giáo dục và những biện pháp chủ yếu đạt mục tiêu đến năm 2000”. Nội
dung của báo cáo là đánh giá kết quả đạt được sau 3 năm triển khai thực hiện
thông báo số 47-TB/TU và sau 1 năm thực hiện thông báo số 143-TB/TU.
* Giai đoạn 2000 đến 2005
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XIII đã xác định nhiệm
vụ trong 5 năm (2001 - 2005) của Tỉnh là “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn thời kỳ 1997 - 2000 và mức
bình quân cả nước”. Để mục tiêu đó thành hiện thực thì yếu tố con người có
vai trò chủ thể hết sức quan trọng, trong đó sự nghiệp giáo dục với nhiệm vụ
“Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” có vị trí “quốc sách
hàng đầu”.


Ngày 26/9/2001, Tỉnh ủy Hải Dương đã ra Chương trình số 10-CTr/TU
về nâng cao chất lượng nguồn lực - yếu tố con người có ý nghĩa quan trọng
hàng đầu và quyết định đối với một nền kinh tế và sự phát triển của xã hội.
Việc nâng cao chất lượng nguồn lực là đòi hỏi bức thiết hiện nay để đảm bảo
thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỉnh ủy đã giao cho Sở
Giáo dục và Đào tạo tỉnh Hải Dương chủ trì xây dựng và thực hiện đề án
“Phát triển sự nghiệp giáo dục đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực”; giao

cho Ban Tổ chức chính quyền tỉnh chủ trì xây dựng và thực hiện đề án “Thu
hút và sử dụng nhân tài”.
Tháng 6/2002, căn cứ vào Chương trình hành động số 04/CTr-TU ngày
4/5/2001 của Tỉnh ủy về việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần
thứ XIII, Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương đã ra Quyết định số 2685/QĐ-UB
về việc phê duyệt đề án “Phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo đáp ứng
nguồn nhân lực”. Đến ngày 22/10/2002, Tỉnh ủy xây dựng chương trình thực
hiện Kết luận Hội nghị Trung ương 6 (khóa IX) trong đó đã điều chỉnh một số
mục tiêu của đề án.
Sau khi đề án được phê duyệt, Chương trình thực hiện Kết luận Hội nghị
Trung ương được thông qua, các cấp ủy đã tổ chức học tập, triển khai; ngành
giáo dục với tư cách là cơ quan thường trực thực hiện đề án, đã tích cực phối
hợp với các ngành có liên quan tham mưu cho Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân
(HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh ban hành nhiều chủ trương, biện
pháp thiết thực và kịp thời. Tại các địa phương, các Phòng Giáo dục và Đào
tạo, các nhà trường cũng chủ động tham mưu với cấp ủy và chính quyền địa
phương có nhiều giải pháp cụ thể và tích cực tổ chức thực hiện.
Tiếp đến, năm 2004, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương
Đảng họp vào 01/2004 với nhiệm vụ là kiểm điểm nửa nhiệm kỳ đầu thực


hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, đồng thời nêu lên những nhiệm vụ và
giải pháp để thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đại hội trong những năm tiếp
theo. Hội nghị nhận định, trong thời gian từ năm 2001 - 2004, giáo dục có
bước phát triển mới: “Sự quan tâm, chăm sóc và đầu tư của xã hội, nhất là
của Nhà nước cho giáo dục được tăng cường đáng kể. Năm 2000, Nhà nước
đầu tư 15% trong tổng đầu tư ngân sách cho giáo dục, năm 2003 đầu tư trên
16%; quy mô giáo dục tiếp tục tăng… Giáo dục mầm non được quan tâm phát
triển…; công tác phổ cập giáo dục trung học cơ sở được triển khai tích cực.
Tính đến hết năm 2003, có khả năng 19 tỉnh, thành phố đạt tiêu chuẩn phổ cập

trung học cơ sở. Chất lượng đội ngũ giáo viên phổ thông có chuyển biến, cơ
sở vật chất kỹ thuật của các trường trung học trên cả nước được tăng cường
đáng kể, nhất là đối với các trường trọng điểm.
Quán triệt Nghị quyết Trung ương chín và trên cơ sở phương hướng,
mục tiêu, nhiệm vụ Hội nghị giữa nhiệm kỳ đã xác định, Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh xây dựng chương trình cụ thể nhằm thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Trung ương chín. Chương trình hành động đã được đề ra vào tháng
4/2004. Nội dung của Chương trình đề cập đến việc “Phát triển giáo dục”
bằng cách thực hiện các đề án “Phát triển sự nghiệp giáo dục đáp ứng nhu
cầu đào tạo nguồn nhân lực”, đề án “Thu hút và sử dụng nhân tài”. Chương
trình tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục quán triệt, triển khai mạnh hơn quan điểm
phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Do đó, trong thời gian tới, nhiệm
vụ của Đảng bộ, chính quyền trong tỉnh là “Tập trung chỉ đạo để tập trung
nâng cao chất lượng giáo dục. Trong đó chú trọng đổi mới và nâng cao năng
lực quản lý Nhà nước về giáo dục, xử lý dứt điểm những giáo viên không đạt
chuẩn. Tiếp tục đổi mới giáo dục phổ thông, quan tâm đầu tư cho bậc mầm
non. Phát huy các nguồn lực để đẩy nhanh tốc độ kiên cố hóa phòng học mầm


×