Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

SKKN Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.56 KB, 37 trang )

Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2

I. PHẦN MỞ ĐẦU
I.1. Lý do chọn đề tài
Môn Toán là một trong những môn học giữ vị trí quan trọng trong chương trình
giáo dục tiểu học. Môn học góp phần to lớn trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục toàn
diện. Với đặc trưng của môn học, môn toán chuẩn bị cho học sinh những tri thức, kĩ
năng toán học cơ bản cho việc học tập hoặc bước vào cuộc sống lao động. Đây cũng là
môn học giúp học sinh rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận,
phương pháp học tập, phương pháp giải quyết vấn đề; đồng thời rèn luyện trí thông
minh sáng tạo và các đức tính quý báu như: cần cù, nhẫn nại, tự lực, ý chí vượt khó,
thích chính xác... Trong chương trình TH, môn toán chiếm thời lượng tương đối lớn.
Tuy nhiên, môn toán không được phân chia thành các phân môn chuyên biệt mà là sự
kết hợp của 5 tuyến kiến thức được sắp xếp xen kẽ nhau (số học, hình học, đại lượng,
thống kê mô tả và giải toán) . Trong đó, giải toán có lời văn là một trong những mạch
kiến thức cơ bản xuyên suốt chương trình Toán cấp tiểu học. Đây là mạch kiến thức
tổng hợp của các mạch kiến thức toán học. Khi giải toán có lời văn các em sẽ vận dụng
các kiến thức đã học để giải các loại toán về số học, yếu tố đại số, yếu tố hình học và đo
đại lượng. Ngược lại, thông qua học giải toán, học sinh được củng cố khắc sâu các kiến
thức về số học, về đại lượng, đo đại lượng, về hình học...
Mặt khác, dạy học giải toán toán còn giúp rèn luyện cho học sinh các kỹ năng
tính toán với các phép tính về số học, quan trọng hơn cả là giúp học sinh hình thành
phương pháp giải toán, rèn luyện khả năng diễn đạt khi giải toán. Vì vậy, khả năng giải
toán sẽ phản ánh lại năng lực vận dụng kiến thức toán học của học sinh. Giải toán có lời
văn là học cách giải quyết vấn đề của môn toán. Đồng thời, giải toán có lời văn còn là
cầu nối giữa toán học và các môn học khác, giữa toán học và thực tế cuộc sống. Trong
khi đó, giải toán có lời văn là dạng toán khó đối với học sinh dân tộc thiểu số, các em
thường gặp khó khăn trong việc hiểu nội dung bài toán, xác định yêu cầu của bài toán.
Vì vậy cần phải đổi mới phương pháp dạy học nhằm phù hợp với nội dung dạy học mới
đồng thời có thể khắc phục dần những hạn chế của học sinh. Đây chính là những điều
chúng tôi băn khoăn, trăn trở và đi đến quyết định nghiên cứu về Phương pháp dạy


dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2 . Đề tài này
không phải là vấn đề mới. Nó đã xuất hiện trong một số đề tài nghiên cứu của đồng
nghiệp nhưng nội dung bàn về phương pháp dạy cho học sinh dân tộc thiểu số không
nhiều và không cụ thể. Vì lẽ đó, tôi hi vọng đề tài đưa ra được những biện pháp hữu
hiệu nhất để vận dụng nhằm mang lại kết quả cao cho chất lượng dạy học môn toán ở
những đơn vị có nhiều học sinh dân tộc thiểu số.
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của đề tài này là đưa ra được các cách tóm tắt đề toán, phương pháp
giải bài toán có lời văn ở tiểu học nói chung và lớp 2 nói riêng. Có định hướng giải phù
hợp với trình độ nhận thức, đặc điểm tâm lí của học sinh dân tộc thiểu số, góp phần cải
thiện, nâng cao chất lượng bồi dưỡng và rèn luyện kĩ năng giải toán cho học sinh.

Người viết: Nguyễn Thanh Thúy

1


Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2

I.3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh người dân tộc thiểu số đang học lớp 2 ở trường Tiểu học Tình Thương–
Huyện Krông Ana – Tỉnh Đăk Lăk
I.4. Phạm vi nghiên cứu:
- Phương pháp giải các bài toán có lời văn trong chương trình toán lớp 2
- Khả năng đọc hiểu đề toán, tìm hiểu, tóm tắt và giải bài toán có lời văn của học
sinh người dân tộc thiểu số đang học lớp 2 ở trường Tiểu học Tình Thương
I.5. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp điều tra, phân loại, nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp, thực
nghiệm,...
II. PHẦN NỘI DUNG

II.1.Cơ sở lí luận
Học sinh tiểu học được làm quen với toán có lời văn ngay từ lớp 1 và học liên
tục đến lớp 5. Dạng toán có lời văn được xem như chiếc cầu nối kiến thức toán học
trong nhà trường và ứng dụng của toán học trong đời sống thực tế, đời sống xã hội.
Chính vì vậy, muốn học sinh giải quyết tốt những bài toán có lời văn thì việc
giúp các em hiểu được bài toán và biết cách tóm tắt đúng các bài toán là một việc quan
trọng, là chỗ dựa cho học sinh tìm ra trình tự giải và phép tính tương ứng của bài giải.
Qua tóm tắt, giải bài toán có lời văn giúp học sinh rèn tư duy lô-gic óc suy luận, khả
năng phân tích, tổng hợp và khả năng trình bày khoa học .
II.2. Thực trạng
a. Thuận lợi - khó khăn
*Thuận lợi:
- Được sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của các cấp lãnh đạo và chính quyền
địa phương.
- Có sự phối hợp chặt chẽ của các đoàn thể trong nhà trường và sự hợp tác của
hội cha mẹ học sinh.
-Giáo viên thường xuyên được tham dự các lớp tập huấn, chuyên đề và nghiên
cứu các tài liệu về đổi mới phương pháp giảng dạy các môn học theo chương trình,
giảng dạy các môn học theo vùng miền, giảng dạy trẻ có hoàn cảnh khó khăn,...
- Giáo viên được phép chủ động trong việc xây dựng kế hoạch dạy học và có sự theo
dõi kiểm tra chỉ đạo thường xuyên của tổ khối chuyên môn, lãnh đạo trường.
- Tài liệu tham khảo khá phong phú
* Khó khăn:
- Trình độ dân trí ở địa phương còn thấp, điều kiện kinh tế gia đình học sinh còn
khó khăn. Nhiều gia đình học sinh chưa quan tâm đến việc học tập của con em.
- Học sinh dân tộc thường nhút nhát, thiếu tự tin, khả năng tiếp thu chậm.
- Giáo viên và học sinh, phụ huynh bất đồng về ngôn ngữ.
b.Thành công - hạn chế
* Thành công:
- Học sinh có thói quen giải toán theo đúng quy trình .

2

Người viết: Nguyễn Thanh Thúy


Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2

- Đa số giáo viên biết vận dụng các phương pháp dạy học linh hoạt, sáng tạo,
khai thác đồ dùng, phương tiện dạy học có hiệu quả.
* Hạn chế:
- Vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu bài toán, ngôn ngữ toán học của học
sinh hạn chế.
- Học sinh chưa biết cách tự học, diễn đạt còn vụng về, đôi lúc còn rập khuôn,
máy móc.
c. Mặt mạnh - mặt yếu
* Mặt mạnh:
- Đội ngũ giáo viên có tinh thần tự giác tìm tòi, sáng tạo, nghiên cứu đổi mới
phương pháp trong dạy học.
- Học sinh bước đầu nắm được quy trình giải toán .
* Mặt yếu:
- Khả năng kiên trì của học sinh dân tộc thiểu số trong quá trình học chưa cao.
- Một số giáo viên còn lúng túng trong đổi mới phương pháp dạy học.
d. Các nguyên nhân, các yêu tố tác động…
*Nguyên nhân của thành công:
+ Giáo viên:
- Nhiệt tình, tâm huyết với nghề, có ý thức tìm tòi, sáng tạo trong dạy học, có
lòng kiên trì, quyết tâm cao.
- Thường xuyên rèn luyện bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, bổ sung kiến thức
phục vụ cho công tác giảng dạy.
- Mạnh dạn trong đổi mới phương pháp, sử dụng đồ dùng dạy học, ứng dụng

công nghệ thông tin.
+ Học sinh: Đi học chuyên cần, có ý thức vượt khó trong học tập
*Nguyên nhân của hạn chế, yếu kém
- Học sinh không học tập bằng tiếng mẹ đẻ mà bằng ngôn ngữ thứ 2.
- Khả năng ghi nhớ, vận dụng kiến thức của các em hạn chế.
- Thiếu sự quan tâm, hướng dẫn, nhắc nhở từ phía gia đình.
- Một số giáo viên chưa mạnh dạn trong đổi mới phương pháp dạy học.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề thực trạng mà đề tài đã đặt ra
- Về phía học sinh: Các em học tập bằng ngôn ngữ thứ 2, đây là lí do ảnh hưởng
không nhỏ đến quá trình tiếp cận tri thức trong sách vở cũng như tri thức trong cuộc
sống. Các em đọc, hiểu chậm nên tiếp thu kiến thức mới cũng chậm. Cộng với khả năng
ghi nhớ hạn chế dẫn đến việc vận dụng kiến thức của các em gặp nhiều khó khăn. Cụ thể
là khả năng đọc hiểu bài toán của các em chưa tốt nên nhiều học sinh không biết tóm tắt,
không biết phân tích đề, không biết yêu cầu của đề là gì và xác định sai dạng toán. Một
số học sinh thiếu tự tin khi giải toán, có em làm được phép tính nhưng chưa hiểu được
cách ghi lời giải, ghi sai đơn vị …Mặt khác, học sinh dân tộc thường nhút nhát, khả năng
tiếp thu chậm nên cũng gây nhiều khó khăn cho giáo viên khi áp dụng đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng tích cực hoá các đối tượng học sinh.
Người viết: Nguyễn Thanh Thúy

3


Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2

- Về phía phụ huynh: Phần lớn các gia đình học sinh chưa nhận thức được đầy đủ
về lợi ích của việc học; đời sống của đa số gia đình các em còn nghèo, họ chưa thể đầu
tư cho việc học hành của con em một cách tốt nhất. Ngoài ra, thời gian của các bậc phụ
huynh ở rẫy nhiều hơn ở nhà nên việc phối hợp với nhà trường trong việc giáo dục các
em cũng rất khó khăn.

- Về phía giáo viên: Một số giáo viên chưa mạnh dạn đổi mới, lúng túng trong
vận dụng các phương pháp dạy học. Còn chủ quan trong việc nắm bắt nội dung chương
trình và các mạch kiến thức của môn toán, không để ý đến mối liên quan giữa các bài
trong môn học. Chưa quan tâm đúng mức đến mạch kiến thức giải toán có lời văn.
Trong dạy học còn quá chú ý đến hình thức và thời gian tiết dạy, chưa chú ý đến khả
năng tiếp thu của từng đối tượng học sinh, hệ thống câu hỏi gợi mở, dẫn dắt chưa lôgic,
chưa phù hợp đối tượng học sinh, sử dụng đồ dùng dạy học còn hạn chế, chưa kiên trì
trong hướng dẫn, giảng giải.
II. 3. Giải pháp, biện pháp
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Đề tài chúng tôi đưa ra không ngoài mục tiêu là giúp người giáo viên phải xác
định rõ mục tiêu của việc hướng dẫn học sinh tóm tắt đề toán, tìm cách giải các bài toán
có lời văn và cần phải đạt được các tri thức, kĩ năng sau :
- Học sinh nhận biết “cái đã cho”, “cái phải tìm” trong mỗi bài toán, mối quan hệ
giữa các đại lượng có trong mỗi bài toán, biết lập luận để đưa ra cách tóm tắt dễ hiểu nhất
- Học sinh giải được các bài toán hợp với một số quan hệ thường gặp giữa các đại
lượng thông dụng.
- Học sinh biết trình bày bài giải đúng quy định theo yêu cầu bài toán.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
*. Nắm bắt nội dung chương trình
Để dạy tốt môn Toán nói chung, giải bài toán có lời văn nói riêng, điều đầu
tiên là mỗi giáo viên phải nắm chắc nội dung chương trình, sách giáo khoa từ lớp 1
đến lớp 5. Ở tiểu học thường có các dạng toán sau đây :
- Những dạng toán thuộc loại toán đơn : thêm, bớt, nhiều hơn, ít hơn, tìm số bị
trừ, tìm số hạng chưa biết, tìm tích, chia thành nhiều phần bằng nhau, chia thành nhóm,
gấp một số lên nhiều lần, giảm đi một số lần, so sánh hai số hơn, kém nhau bao nhiêu
đơn vị, tìm một phần mấy của một số, so sánh số lớn gấp mấy lần số bé, so sánh số bé
bằng một phần mấy số lớn, tìm tỉ số phần trăm của hai số, tìm phần trăm của một số,
tìm một số biết một số phần trăm của nó, tìm vận tốc, tìm thời gian, tìm quãng đường,...
- Những dạng toán thuộc loại toán hợp : loại giải bằng 2 phép tính chia, nhân có

liên quan đến việc rút về đơn vị, dạng a : b �c ; loại giải bằng 2 phép tính chia có liên
quan đến việc rút về đơn vị, dạng a : (b : c).
- Những dạng thuộc loại toán điển hình : tìm trung bình cộng của nhiều số, tìm
hai số khi biết tổng và hiệu của chúng, tìm hai số khi biết tổng (hoặc hiệu) và tỉ của
chúng, bài toán liên quan đến quan hệ tỉ lệ,...
- Tuyến kiến thức về giải toán ở tiểu học:
4

Người viết: Nguyễn Thanh Thúy


Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2

+ Lớp 1 : giới thiệu bài toán có lời văn ; giải các bài toán bằng một phép tính (một
phép cộng hoặc một phép trừ) ; chủ yếu là các bài toán thêm, bớt một số đơn vị.
+ Lớp 2: giải các bài toán đơn về phép cộng và phép trừ ; các bài toán về nhiều
hơn, ít hơn một số đơn vị ; phép nhân và phép chia; bước đầu làm quen giải bài toán có
nội dung hình học (tính chu vi các hình đã học), các bài toán liên quan đến các phép
tính với các đơn vị đo đã học (km, m, dm, cm, mm, kg, lít).
+ Lớp 3: giải các bài toán có đến hai bước tính với các mối quan hệ trực tiếp và
đơn giản ; giải các bài toán quy về đơn vị và các bài toán có nội dung hình học.
+ Lớp 4: giải các bài toán có đến hai hoặc ba bước tính, có sử dụng phân số ; giải
các bài toán liên quan đến : tìm hai số khi biết tổng và hiệu của chúng, tìm hai số khi
biết tổng (hoặc hiệu) và tỉ của chúng, tìm số trung bình cộng, các bài toán có nội dung
hình học đã học) ; giới thiệu bước đầu về việc sử dụng toán học lớp 4 để giải quyết các
vấn đề của thực tế.
+ Lớp 5: giải các bài toán có đến ba bước tính là chủ yếu. Đó là các bài toán đơn
giản về tỉ số phần trăm : tìm tỉ số phần trăm của hai số, tìm phần trăm của một số, tìm
một số biết một số phần trăm của nó; các bài toán đơn giản về chuyển động đều,
chuyển động ngược chiều và cùng chiều : tìm vận tốc khi biết thời gian chuyển động và

độ dài quãng đường, tìm thời gian chuyển động khi biết vận tốc chuyển động và độ dài
quãng đường, tìm độ dài quãng đường khi biết thời gian chuyển động và vận tốc
chuyển động ; các bài toán về quy tắc tam suất đơn (thuận, nghịch) ; các bài toán có nội
dung về tìm diện tích, thể tích các hình đã học ; các bài toán ứng dụng các kiến thức đã
học để giải quyết một số vấn đề của đời sống.
- Về hình thức trình bày bài giải, học sinh phải trình bày bài giải đầy đủ theo
quy định thống nhất từ lớp 1 đến lớp 5:
+ Câu lời giải.
+ Phép tính giải.
+ Đáp số.
- Về số lượng bài toán trong một tiết học được rút bớt (so với chương trình
trước đây) để dành thời gian cho học sinh đọc kĩ đề, tìm hiểu để, tóm tắt và trình
bày bài giải (Chưa kể ở một số bài, giáo viên có thể chủ động giảm bớt một số bài
tập khó cho phù hợp với đối tượng học sinh dân tộc thiểu số theo hướng dẫn điều
chỉnh nội dung dạy học số 5842 của Bộ GD&ĐT).
*. Tìm hiểu để nắm vững quy trình chung khi giải bài toán có lời văn ở lớp 2
Quá trình giải toán thường theo 4 bước sau:
- Tìm hiểu nội dung bài toán
- Tìm cách giải bài toán
- Thực hiện cách giải toán
- Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải bài toán.
Thực tiễn dạy học giải toán đã khẳng định tính đúng đắn của 4 bước giải toán nói
trên. Đối với học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số, giáo viên cần kiên
trì hướng dẫn thường xuyên, lặp đi lặp lại qua các tiết học để hình thành cho các em
thói quen thực hiện giải toán theo 4 bước đó.
Người viết: Nguyễn Thanh Thúy

5



Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2

Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán
Quá trình tìm hiểu nội dung bài toán (đề toán) thường thông qua việc đọc bài toán.
Học sinh cần đọc kỹ, hiểu rõ đề toán, phân biệt được cái đã cho và cái phải tìm.Có thể
nói đây là bước quan trọng góp phần vào sự thành công trong việc giải toán của học
sinh, giáo viên cần hướng dẫn để học sinh xác định được yêu cầu của đề, nắm bắt được
mấu chốt trong yêu cầu của bài toán. Hết sức tránh tình trạng học sinh vừa đọc xong đề
đã vội vã bắt tay vào giải ngay. Phải tập cho học sinh có thói quen tự tìm hiểu đề toán
qua việc phân tích những điều đã cho và xác định được những điều phải tìm.
Trong một bài toán, câu hỏi có một chức năng quan trọng vì việc lựa chọn phép
tính thích hợp được quy định không chỉ bởi các dữ kiện mà còn bởi các câu hỏi. Với
cùng các dữ kiện như nhau có thể đặt các câu hỏi khác nhau do đó việc lựa chọn phép
tính cũng khác nhau, việc thấu hiểu câu hỏi của bài toán là điều kiện căn bản để giải
đúng bài toán đó. Với học sinh dân tộc thiểu số, khả năng hiểu tiếng Việt còn hạn chế
nên các em đã gặp khó khăn ngay từ bước này. Do vậy, giáo viên cần chú ý với việc kết
hợp giảng giải từ và thuật ngữ toán học giúp học sinh hiểu được nội dung bài toán.
Giáo viên cần dựa vào các hoạt động cụ thể của các em với vật thật, mô hình hay dựa
vào hình vẽ, các sơ đồ toán học.... để giúp các em hiểu khái niệm "nhiều hơn ", "ít
hơn”, ‘thêm”, “bớt”,... trong tương quan giữa các mối quan hệ trong bài toán. Giáo viên
cần chú ý vận dụng các biện pháp tăng cường tiếng Việt cho học sinh trong tất cả các
môn học giúp các em được rèn luyện nhiều hơn về khả năng đọc – hiểu tiếng Việt.
Để kiểm tra việc học sinh hiểu nội dung bài toán như thế nào, giáo viên nên cho
học sinh nhắc lại yêu cầu bài toán không phải bằng hình thức đọc thuộc lòng mà bằng
cách diễn đạt của mình (đây là yêu cầu khó đối với học sinh dân tộc thiểu số nhưng
không vì thế mà giáo viên bỏ qua, cần phải kiên trì luyện tập cho các em). Sau khi đọc
bài toán, học sinh cần xác định được 3 yếu tố cơ bản của bài toán:
- Những dữ kiện của bài toán: Đó là những cái đã cho, những cái đã biết của bài
toán. Giáo viên nên yêu cầu học sinh tự xác định dữ kiện bằng bút chì trước rồi mới
phát biểu bằng lời sau (hướng dẫn học sinh gạch chân các dữ kiện đã cho theo quy ước

là một gạch)
- Những ẩn số: Là cái chưa biết, là cái bài toán yêu cầu tìm. Tương tự như trên,
giáo viên nên yêu cầu học sinh tự xác định ẩn số bằng bút chì trước rồi mới phát biểu
bằng lời sau (hướng dẫn học sinh gạch chân cái bài toán yêu cầu tìm theo quy ước là
hai gạch để học sinh phân biệt). Việc làm này được thực hiện thường xuyên sẽ rèn
luyện cho học sinh tính tích cực, chủ động trong giải toán.
- Những điều kiện của bài toán: đó là mối liên hệ giữa các dữ kiện và các ẩn số.
Ví dụ: Có 18 lá cờ chia đều 2 tổ. Hỏi mỗi tổ được mấy lá cờ?( bài 3 trang 111- SGK
Toán 2)
+ Cái đã cho: 18 lá cờ chia đều 2 tổ
+ Cái cần tìm: mỗi tổ được mấy lá cờ?
Lưu ý học sinh là trong quá trình giải toán không phải tất cả đề bài đều cho biết
cái đã cho trước và cái cần tìm sau mà đôi khi ngược lại: Đưa cái cần tìm trước rồi mới
biết cái đã cho; cũng có khi cái đã cho và cái cần tìm đan xen với nhau.
6

Người viết: Nguyễn Thanh Thúy


Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2

Ví dụ1: Tính chu vi hình tam giác có độ dài các cạnh là: 24mm, 16mm và 28mm?
(bài 3 – trang 153- SGK Toán 2)
+ Cái cần tìm: Tính chu vi hình tam giác.
+ Cái đã cho: độ dài các cạnh là: 24mm, 16mm, 28mm
Ví dụ 2: Có 12 học sinh chia đều thành các nhóm, mỗi nhóm có 3 học sinh. Hỏi chia
được thành mấy nhóm? ?”( bài 3 - trang 136 - SGK Toán 2)
+ Cái đã cho: mỗi nhóm có 3 học sinh
+Cái cần tìm: 12 học sinh chia được mấy nhóm?
Bước 2: Tìm cách giải toán

Hoạt động tìm tòi cách giải bài toán gắn liền với việc phân tích các dữ kiện, ẩn
số và điều kiện của bài toán nhằm xác lập mối quan hệ giữa chúng. Từ đó lựa chọn
phép tính số học thích hợp. Hoạt động này thường diễn ra như sau:
- Minh hoạ bài toán thông qua tóm tắt đề toán: Việc làm này giúp học sinh bớt
được một số câu, chữ làm cho bài toán gọn lại, nhờ đó mối quan hệ giữa các số đã cho và
số phải tìm hiện ra rõ hơn. Bởi vậy cần tóm tắt thật ngắn gọn, GV chỉ cần hướng sự tập
trung chú ý của HS đến những chi tiết chính của bài toán, còn những chi tiết phụ của bài
toán cần gạt bỏ đi để HS không bị rối. Tóm tắt bài toán chính là sự biểu diễn cái đã cho,
cái cần tìm và mối liên hệ giữa chúng. Có rất nhiều cách để tóm tắt một bài toán, có thể
tóm tắt đề toán theo các cách sau:
+ Tóm tắt bằng lời
+ Dùng sơ đồ đoạn thẳng
+ Dùng ngôn ngữ và kí hiệu
+ Dùng chữ thay số
+ Dùng sơ đồ Graph
+ Dùng bảng
+ Dùng sơ đồ ven
+ Dùng hình vẽ
+Dùng hình tượng trưng
Tuy nhiên, với khả năng của học sinh lớp 2, chúng ta chỉ nên hướng dẫn các em
các cách tóm tắt bằng lời, dùng sơ đồ đoạn thẳng hoặc dùng hình tượng trưng.
VÝ dô 1: Trong vườn có 9 cây táo, mẹ trồng thêm 6 cây táo nữa. Hỏi trong
vườn có tất cả bao nhiêu cây táo?
Tóm tắt:

: 9 cây táo
Thêm
: 6 cây táo
Tất cả có : …cây táo?
VÝ dô 2: Lớp 2A có 29 học sinh và số học sinh lớp 2B nhiều hơn số học sinh

lớp2A là 5 học sinh. Hỏi lớp 2B có bao nhiêu học sinh?
Người viết: Nguyễn Thanh Thúy

7


Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2

Tãm t¾t:
2A:

29 họcsinh
5 học sinh

2B:

? học
sinh

Ví dụ 3: Bình có 11 quả bóng bay, Bình cho bạn 4 quả. Hỏi Bình còn lại mấy quả
bóng bay?
Tóm tắt :
Có :
Còn lại : ... quả ?

Cho bạn

Đối với một số bài toán nâng cao có thể dùng thêm các dạng tóm tắt khác cho học
sinh dễ tìm ra cách giải, Ví dụ như ở bài toán sau:
Tìm một số biết rằng số đó lần lượt cộng với 1 rồi nhân với 2, được bao nhiêu

đem chia cho 3 rồi trừ đi 4 thì được 5.
Tóm tắt :
+1

2

:3

?

4
5

Tùy theo trình độ học sinh thấp hay cao mà lựa chọn cách tóm tắt mang nhiều hay ít
tính trực quan. Học sinh dân tộc thiểu số thường gặp khó khăn khi tìm hiểu nội dung bài
toán. Vì vậy, giáo viên cần hướng dẫn tóm tắt bài toán bằng cách đàm thoại (Bài toán
cho biết gì? Hỏi gì?). Học sinh dựa vào các dữ kiện của bài toán (phần đã gạch chân) để
trả lời các câu hỏi của giáo viên và từng bước hoàn thành tóm tắt bài toán.
- Lập kế hoạch giải toán nhằm xác lập trình tự giải quyết, thực hiện các phép tính số
học: Có hai hình thức thể hiện tương ứng với hai phương pháp phân tích bài toán để tìm
cách giải cho một bài toán, tùy từng bài toán cụ thể mà ta lựa chọn phương pháp tìm cách
giải phù hợp.
+ Phép phân tích xuôi: Là phương pháp tìm cách giải đi từ dữ kiện của bài toán
đến câu hỏi của bài toán. Từ những cái đã cho (đã có) suy ra hoặc tính được điều gì
giúp ích cho việc giải toán không? Cứ như thế ta suy luận để tìm ra cách giải toán.
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh tìm cách giải bài toán: “Lớp 2A có 18 học sinh
đang tập hát, lớp 2B có 21 học sinh đang tập hát. Hỏi cả hai lớp có bao nhiêu học sinh
đang tập hát?” (bài 3 -trang 11 - SGK Toán 2), giáo viên nêu các câu hỏi như sau:
- Bài toán đã cho biết những gì? (Lớp 2A có 18 học sinh, lớp 2B có 21 học sinh)
8


Người viết: Nguyễn Thanh Thúy


Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2

- Bài toán hỏi gì? (Cả hai lớp có bao nhiêu học sinh?)
- Để biết cả hai lớp có bao nhiêu học sinh ta làm phép tính gì? (Làm phép
tính cộng)
+ Phép phân tích ngược: Là phương pháp đi từ câu hỏi của bài toán đến dữ kiện
của bài toán. Tức là phải tập trung vào câu hỏi của bài toán và suy nghĩ xem muốn trả lời
được câu hỏi đó thì phải biết những gì và phải làm phép tính gì? Trong những điều kiện
cần thiết phải biết đó thì cái nào là cái có sẵn, cái nào phải tìm và tìm như thế nào? Cứ
như thế ta suy nghĩ ngược lên: Từ câu hỏi của bài toán trở về các điều kiện của bài toán.
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh tìm cách giải bài toán: “Có 12 học sinh chia đều
thành các nhóm, mỗi nhóm có 3 học sinh. Hỏi chia được thành mấy nhóm?”( trang 136
- SGK Toán 2), giáo viên nêu các câu hỏi như sau:
-Bài toán hỏi gì? (Chia được thành mấy nhóm?)
- Bài toán hỏi về số nhóm được chia từ mấy học sinh? ( Số nhóm được
chia từ 12 học sinh)
- Muốn biết từ 12 học sinh chia được thành mấy nhóm ta phải biết gì?
(Biết mỗi nhóm có mấy học sinh?)
- Điều đó chúng ta biết chưa? (biết rồi), mỗi nhóm có bao nhiêu học sinh?
(mỗi nhóm có 3 học sinh)
- Để biết chia được thành mấy nhóm ta làm phép tính gì? (Làm phép tính chia)
Bước 3: Thực hiện cách giải bài toán.
Hoạt động này bao gồm việc thực hiện phép tính đã được nêu trong bước tìm
cách giải bài toán nêu trên và trình bày bài giải. Cách trình bày bài giải như sau:
- Viết câu lời giải : Sau khi học sinh đã xác định được phép tính, với học sinh
dân tộc thiểu số, nhiều khi việc hướng dẫn học sinh đặt câu lời giải còn khó hơn

việc chọn phép tính và tính ra đáp số. Những tuần đầu khi học đến phần giải toán có
lời văn, nhiều học sinh rất lúng túng khi viết lời giải, vì ở lớp 1 chỉ yêu cầu học sinh tập
viết câu lời giải ở dạng đơn giản. Bởi vậy, ở những tiết toán có bài toán giải có lời văn,
giáo viên cần dành nhiều thời gian hơn để hướng dẫn kĩ và kết hợp trình bày mẫu nhiều
bài giúp các em hình thành và ghi nhớ kĩ năng giải toán.
Ví dụ: Sau khi đọc đề toán ở trang 11 SGK Toán 2.
“ Lớp 2A có 18 học sinh đang tập hát, lớp 2B có 21 học sinh đang tập hát. Hỏi
cả hai lớp có bao nhiêu học sinh đang tập hát?”.
Học sinh tập nêu bằng lời để tóm tắt bài toán:
Lớp 2A có
:
18 học sinh.
Lớp 2B có
:
21 học sinh.
Cả hai lớp có :
… học sinh?
Học sinh nêu miệng câu lời giải:
Cả hai lớp có tất cả số học sinh đang tập hát là:
Học sinh nêu miệng phép tính: 18 + 21 = 39 (học sinh)
Tiếp đó, cho học sinh tự trình bày bài giải. Ở những bài toán trong các tuần
đầu, giáo viên cần cho học sinh luyện nêu miệng bài toán nhiều lần để các em ghi nhớ
cách trình bày một bài giải.
Người viết: Nguyễn Thanh Thúy

9


Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2


Giáo viên có thể gợi ý cho học sinh một số mẹo nhỏ để viết được lời giải chính xác
với yêu cầu câu lời giải cần phải ghi ngắn gọn, đủ ý được mệnh đề khẳng định . Đối với
bài toán trong ví dụ trên, có thể dùng các cách hướng dẫn học sinh như sau:
Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu (Hỏi), thay từ “bao
nhiêu” bằng từ “số” và thêm từ “là” ở cuối câu để có câu lời giải : "Cả hai lớp có
số học sinh đang tập hát là:"
Cách 2: Bỏ từ “hỏi” và từ “bao nhiêu” trong câu hỏi rồi đưa từ "học sinh" ở
cuối câu hỏi lên đầu và thêm từ Số (ở đầu câu), là ở cuối câu để có: "Số học sinh
cả hai lớp đang tập hát là:"
Cách 3: Dựa vào dòng cuối cùng của tóm tắt, coi đó là "từ khoá" của câu
lời giải.
Ví dụ: Từ dòng cuối của tóm tắt: "Cả hai lớp có :…..học sinh ?". Học sinh
viết câu lời giải: " Cả hai lớp có số học sinh là:"
Cách 4: Giáo viên nêu miệng câu hỏi: " Cả hai lớp có bao nhiêu học sinh
đang tập hát?" để học sinh trả lời miệng: "Cả hai lớp có 39 học sinh đang tập hát"
rồi chèn phép tính vào để có cả bước giải (gồm câu lời giải và phép tính):
Cách 5: Sau khi học sinh tính xong: 18 + 21 = 39 (học sinh), giáo viên chỉ
vào 39 và hỏi: "39 học sinh ở đây là số học sinh của lớp nào?" (là số học sinh của
cả hai lớp). Từ câu trả lời của học sinh ta giúp các em chỉnh sửa thành câu lời giải:
"Số học sinh cả hai lớp là" v.v...
Giáo viên có thể vận dụng các cách khác nhau để dẫn dắt học sinh tìm lời giải,
không nên bắt buộc trẻ nhất nhất phải viết theo một kiểu lời giải nào đó. Tốt nhất là
giáo viên gọi nhiều học sinh nêu các lời giải khác nhau rồi lựa chọn và chỉnh sửa
(nếu chưa chính xác) thành lời giải phù hợp nhất cho bài giải. Sau đó cho học sinh
yếu kém nhắc lại. Từ đó khắc sâu và nhấn mạnh cho học sinh hiểu muốn tìm được câu
lời giải đúng với yêu cầu của bài toán phải dựa vào cái cần tìm ( đây cũng chính là câu
hỏi của bài toán )
Tuy nhiên đối với bài toán tính độ dài đoạn thẳng, đoạn dây, đường gấp khúc...
có số đo đại lượng như: km, m, dm, mm, . . . giáo viên cần phân biệt một cách chính
xác các khái niệm như: "đại lượng", "Số đo của một đại lượng" để giúp học sinh tránh

những sai lầm đồng nhất "đoạn thẳng" với "độ dài đoạn thẳng" hay "số đo đoạn thẳng"
Ví dụ: Bài 4 trang 25 SGK
Đọan thẳng AB dài 10cm, đoạn thẳng CD dài hơn đoạn thẳng AB 2cm. Hỏi đoạn
thẳng CD dài bao nhiêu cm?
Học sinh không viết câu lời giải: "Số xăng-ti-mét đoạn thẳng CD dài là" mà
phải viết là: "Độ dài đoạn thẳng CD là".
- Viết phép tính: Phép tính phải viết theo hàng ngang, không được viết theo cột
dọc. Không viết đơn vị kèm theo trong các phép tính mà chỉ viết đơn vị vào sau kết quả
phép tính và đặt trong dấu ngoặc đơn.
- Viết đáp số: Đáp số viết ở cuối bài giải, bài toán có bao nhiêu câu hỏi thì có bấy
nhiêu đáp số, chỉ ghi 1 lần từ “đáp số”. Đáp số phải ngắn gọn và đủ ý trả lời cho câu hỏi của
bài toán. Dạy học sinh dân tộc thiểu số nên giáo viên cần hướng dẫn kĩ cho các em cách viết
từ “Đáp số” lùi vào mấy ô li so với từ “Bài giải” (đã được viết chính giữa trang vở)
10
Người viết: Nguyễn Thanh Thúy


Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2

Ví dụ: Con lợn thứ nhất nặng118kg. Con lợn thứ hai nặng kém con lợn thứ nhất 7kg. Hỏi:
a) Con lợn thứ hai nặng bao nhiêu kilôgam?
b) Cả hai con lợn nặng bao nhiêu kilôgam?
(Bài 239 – trang 39 - Toán nâng cao lớp 2)
Bài giải:
a) Con lợn thứ hai nặng là:
118 – 7 = 111(kg)
b) Cả hai con lợn nặng là:
118 + 111 = 229 (kg)
Đáp số: a) 111 kg
b) 229 kg

Bước 4: Kiểm tra cách giải bài toán.
Việc kiểm tra nhằm phân tích xem cách giải phép tính và kết quả là đúng hay sai,
có các hình thức thực hiện sau:
+ Thiết lập tương ứng các phép tính giữa các số đã tìm được trong quá trình giải
với các số đã cho.
+ Tạo ra bài toán ngược với bài toán đã cho rồi giải nó.
+ Giải bài toán bằng cách khác rồi so sánh đáp số.
+ Xét tính hợp lý của đáp số.
Việc kiểm tra cách giải và đáp số của bài toán là yêu cầu không thể thiếu khi giải toán
Thực tế quan sát học sinh tiểu học khi giải toán chúng tôi nhận thấy rằng: Các
em thường coi bài toán đã được giải xong khi có đáp số. Nhưng khi giáo viên hỏi: "Em
có chắc chắn đó là kết quả đúng không?" thì đa số các em đã lúng túng và chưa trả lời
được ngay.
Kiểm tra cách giải và đáp số của bài toán là các việc như kiểm tra về:
+ Cách sử dụng dụng dữ kiện
+ Lựa chọn và thực hiện phép tính
+ Cách trình bày bài giải (diễn đạt câu văn , thứ tự thực hiện)
+ Kiểm tra lại phương pháp và thủ thuật đã sử dụng khi giải toán.
Đây là bước không thể thiếu trong quá trình giải toán ở tiểu học, điều đó giúp các
em đảm bảo được tính chính xác cao khi giải toán và đặc biệt giúp phát triển ở các em
năng lực sáng tạo, tính tích cực, chủ động và độc lập gải toán. Đối với học sinh giỏi
việc tìm ra nhiều cách giải toán khác nhau cho cùng một bài toán đó là biện pháp tốt
nhất để tìm ra cách giải và đáp số của bài toán đó. Hơn thế nữa, nó tạo điều kiện cho sự
phát triển tư duy linh hoạt, năng động sáng tạo của học sinh. Ngược lại, việc giúp học
sinh biết cách đánh giá cách giải là một động lực thúc đẩy sự cố gắng tìm ra cách giải
khác nhau để giải bài toán. Đối với học sinh dân tộc thiểu số thì giáo viên nên lựa chọn
những cách kiểm tra đơn giản nhất để không làm suy nghĩ của các em bị rối
*Nắm vững phương pháp dạy học toán theo hướng đổi mới
Một trong những phương pháp dạy học toán ở tiểu học hiện nay đó là việc sử
dụng các phương pháp dạy học tích cực nhằm phát huy tối đa khả năng làm việc một

cách chủ động, tích cực dưới sự tổ chức, điều khiển của giáo viên.
11
Người viết: Nguyễn Thanh Thúy


Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2

Phương pháp dạy học tích cực là hệ thống các phương pháp tác động liên tục của
giáo viên nhằm kích thích tư duy của học sinh, tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh
theo quy trình. Phương pháp này tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh đều tham gia
tích cực vào qua trình dạy học, học sinh được tiếp cận kiến thức bằng hoạt động làm bài
tập, học sinh được làm việc cá nhân hoặc theo nhóm, trao đổi hợp tác với bạn, với thầy.
Trong phương pháp dạy học tích cực:
- Giáo viên giữ vai trò chủ đạo, tổ chức các tình huống học tập, hướng dẫn học
sinh giải quyết vấn đề, khẳng định kiến thức mới trong vốn tri thức của học sinh. Giáo
viên nói ít, giảng ít nhưng lại thường xuyên làm việc với từng học sinh hoặc từng nhóm
học sinh, đặc biệt là đối tượng học sinh yếu. Như vậy, giáo viên phải biết cách tổ chức
các hoạt động của học sinh, đồng thời phải có một tri thức vượt ngoài lĩnh vực bộ môn
mình dạy để có thể làm chủ nội dung và nghệ thuật dạy. Cách dạy như thế sẽ giúp học
sinh phát triển năng lực, sở trường cá nhân .
- Học sinh là chủ thể nhận thức, phải chủ động, độc lập suy nghĩ, làm việc tích
cực và biết tự học, tự chiếm lĩnh tri thức từ nhiều nguồn khác nhau, dưới sự theo dõi
hướng dẫn của giáo viên. Cách học này tạo cho học sinh thói quen tự giác, chủ động
không dập khuôn, biết tự đánh giá và đánh giá kết quả học tập của mình, của bạn, đặc
biệt là tạo niềm vui, niềm tin trong học tập.
Như vậy học sinh trở thành trung tâm của quá trình dạy học, nghĩa là học sinh
phải hoạt động để đạt được các yêu cầu của bài học. Giáo viên trở thành người cộng tác
thực sự trong cùng một công việc, cùng một nhiệm vụ theo những cách thức hình thức
khác nhau.
Ngoài việc quan tâm tới vai trò của giáo viên và học sinh, phương pháp dạy học tích

cực còn quan tâm đến cả yếu tố môi trường (bao gồm cơ sở vật chất, tâm tư, tình cảm, tính
cách...). Bởi môi trường ảnh hưởng đến phương pháp học của học sinh và phương pháp sư
phạm của giáo viên và giữa chúng có sự tác động tương hỗ.
c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
-Phải được sự đồng tình ủng hộ của các cấp lãnh đạo và chính quyền địa phương.
- Giáo viên phải thật nhiệt tình, tâm huyết với nghề, yêu thương, tôn trọng học
sinh, hiểu biết về phong tục tập quán của địa phương, có ý thức tự tìm tòi, học hỏi bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và có lòng kiên trì, nhẫn nại, quyết tâm cao.
- Làm tốt công tác phối hợp giữa nhà trường – gia đình – xã hội
- Cơ sở vật chất đảm bảo
d. Mối quan hệ giữa các biện pháp
Các biện pháp được nêu ra trong đề tài có mối liên hệ với nhau, đan xen, phối
hợp, hỗ trợ cho nhau. Bởi vậy, trong quá trình thực hiện, để sử dụng biện pháp như thế
nào cho hiệu quả còn tùy thuộc vào từng đối tượng học sinh, tùy vào từng thời điểm,
hoàn cảnh cụ thể, nên mỗi giáo viên chúng ta cần phải linh động, khéo léo lựa chọn kết
hợp các biện pháp sao cho có hiệu quả.
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Tôi đã nghiên cứu, thực hiện đề tài trong vai trò là giáo viên chủ nhiệm lớp 2.
Trong quá trình thực hiện, tôi nhận thấy các biện pháp rất thực tế và có hiệu quả. Thông
12
Người viết: Nguyễn Thanh Thúy


Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2

qua quá trình phát triển từng bước và thường xuyên, liên tục một số biện pháp nêu trên
và kết quả thu được là :
- Học sinh càng ngày càng yêu thích môn toán, có hứng thú học toán hơn, cảm
thấy môn học bớt khó khăn và không dễ chán như trước đây nữa.
- Bước đầu học sinh có kĩ năng tóm tắt bài toán không còn nhầm lẫn giữa các

dạng toán, lựa chọn phép tính đúng, nắm được yêu cầu bài toán để tìm lời giải thích
hợp với các phép tính.
- Các em tiếp thu bài một cách chủ động, ghi nhớ được bài.
Kết quả khảo nghiệm ở các lớp 2 trong học kì I như sau:
Kết quả giải toán có lời văn
TS
HS

Biết tóm Đặt câu Lựa chọn Ghi
tắt
bài lời giải đúng
đúng
phù hợp
phù hợp phép tính đáp số

Điểm môn
Toán cuối Ghi chú
kì I (từ TB
trở lên)

20

65%

90 %

85%

70%


50%

II. 4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Đề tài đã trình bày được các cách hướng dẫn học sinh giải bài toán có lời văn
theo từng bước cụ thể. Có thể nói nhiệm vụ mà đề tài đặt ra đã hoàn thành. Qua quá trình
nghiên cứu, chúng tôi đã tích luỹ được nhiều kiến thức và kĩ năng quý báu phục vụ cho
công tác giảng dạy và chỉ đạo tổ chuyên môn.
Đề tài đã góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn toán ở lớp 2, đồng thời
khuyến khích giáo viên tiếp tục nghiên cứu tìm hiểu thêm những kiến thức liên quan
đến các dạng bài toán có lời văn, từ đó sáng tạo thêm những biện pháp hữu ích để vận
dụng cho việc giúp học sinh lớp 2 học tốt môn toán.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
III.1. Kết luận :
Qua các tiết giảng dạy, dự giờ, nghiên cứu tài liệu chỉ đạo chuyên môn, tôi nhận
thấy rằng giải toán có lời văn là một nội dung dạy học quan trọng trong chương trình tiểu
học . Nội dung này là sự tích hợp các kiến thức số học, đại lượng và hình học. Trong các
bài toán đơn có liên quan chặt chẽ với các kiến thức về số học, đại lượng. Một điều
chúng ta nhận thấy rất rõ nữa là nội dung các bài toán gắn liền với thực tế; học sinh giải
toán có lời văn chính là giải quyết các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống. Bởi vậy, rèn cho
học sinh nắm vững quy trình giải toán có lời văn là việc làm cần thiết, đòi hỏi nhiều công
sức. Do đó, người giáo viên không được nóng vội, phải kiên trì lặp lại các biện pháp để
tạo được thói quen cho các em. Theo chúng tôi, giáo viên cần chủ động xây dựng biện
pháp giảng dạy mạch kiến thức này. Bắt đầu từ việc tập cho học sinh trả lời những câu
hỏi về số học thành câu ; tiếp đến là kiên trì vận dụng các biện pháp để giúp tất cả học
sinh có thể tự đọc, hiểu và giải được bài toán có lời văn .
Để vận dụng tốt các biện pháp trên, giáo viên cần nắm vững hệ thống các bài
toán có lời văn trong chương trình. Trong các giờ học cần quan tâm đến tất cả các đối
tượng học sinh, nhất là học sinh yếu kém. Phân công nhiệm vụ phù hợp với trình độ
Người viết: Nguyễn Thanh Thúy


13


Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2

nhận thức của từng đối tượng học sinh, chưa vội cho học sinh tiếp cận với các bài toán
nâng cao khi các em chưa giải thông thạo các bài toán trong sách giáo khoa. Giáo viên
cần vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào quá trình dạy học bằng việc tổ
chức, hướng dẫn cho các em tự hoạt động, thao tác với các phương tiện trực quan để
chiếm lĩnh kiến thức dưới các hình thức học tập khác nhau. Quan trọng hơn cả trong
dạy học giải toán có lời văn là hình thành cho học sinh phương pháp giải toán, rèn
luyện khả năng diễn đạt khi giải toán.
III.2. Kiến nghị :
- Giáo viên phải luôn luôn tìm tòi học hỏi trau dồi kinh nghiệm để nâng cao
nghiệp vụ chuyên môn. Giáo viên phải mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy bằng nhiều
hình thức.
- Sau mỗi bài dạy giáo viên cần tự đánh giá hiệu quả của biện pháp đã vận dụng
và có những điều chỉnh (nếu chưa phù hợp) kịp thời ở bài sau.
- Mỗi giáo viên nên mạnh dạn đưa nội dung trao đổi về biện pháp giảng dạy
các môn học vào các buổi sinh hoạt chuyên môn.
- Nhà trường bổ sung đầy đủ hơn các đồ dùng dạy học, tài liệu hướng dẫn để
tạo điều kiện cho giáo viên nghiên cứu, vận dụng phương pháp dạy học phù hợp
với từng bài, từng đối tượng học sinh.
- Ngành giáo dục cần tổ chức cho giáo viên tham dự các lớp tập huấn,
chuyên đề về phương pháp giảng dạy đối tượng học sinh dân tộc thiểu số thường
xuyên hơn.
- Các tổ chức xã hội cần quan tâm nhiều hơn nữa đến giáo dục ở những vùng khó
khăn, có biện pháp động viên người dân ở vùng khó khăn quan tâm tạo điều kiện cho
con em học tập.
Ngày 05/01/2015

Người viết

Nguyễn Thanh Thuý

14

Người viết: Nguyễn Thanh Thúy


Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………................................................................................................
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN

Người viết: Nguyễn Thanh Thúy

15



Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2

16

Người viết: Nguyễn Thanh Thúy


Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Trần Diên Hiển (2004), Thực hành giải toán tiểu học (T1), NXBGD.
[2]. Đỗ Trung Hiệu (2005), Những đề toán hay của toán tuổi thơ, NXBGD.
[3]. Đỗ Đình Hoan (2007), SGK toán 1, NXBGD.
[4]. Đỗ Đình Hoan (2007), SGK toán 2, NXBGD.
[5]. Đỗ Đình Hoan (2007), SGK toán 3, NXBGD.
[6]. Đỗ Đình Hoan (2007), SGK toán 4, NXBGD.
[7]. Đỗ Đình Hoan (2007), SGK toán 5, NXBGD.
[8]. Nguyễn Danh Ninh – Vũ Dương Thụy (2003), Toán nâng cao lớp 2, NXBGD.
[9]. Đỗ Đình Hoan (2010), SGV Toán 2, NXBGD.
[10]. Tài liệu khác : Toán tuổi thơ, Nhi đồng chăm học, Tạp chí giáo dục

Người viết: Nguyễn Thanh Thúy

17


Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2

Hết


18

Người viết: Nguyễn Thanh Thúy


Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2

I. PHẦN MỞ ĐẦU
I.1. Lý do chọn đề tài
Môn Toán là một trong những môn học giữ vị trí quan trọng trong chương trình
giáo dục tiểu học. Môn học góp phần to lớn trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục toàn
diện. Với đặc trưng của môn học, môn toán chuẩn bị cho học sinh những tri thức, kĩ
năng toán học cơ bản cho việc học tập hoặc bước vào cuộc sống lao động. Đây cũng là
môn học giúp học sinh rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận,
phương pháp học tập, phương pháp giải quyết vấn đề; đồng thời rèn luyện trí thông
minh sáng tạo và các đức tính quý báu như: cần cù, nhẫn nại, tự lực, ý chí vượt khó,
thích chính xác... Trong chương trình TH, môn toán chiếm thời lượng tương đối lớn.
Tuy nhiên, môn toán không được phân chia thành các phân môn chuyên biệt mà là sự
kết hợp của 5 tuyến kiến thức được sắp xếp xen kẽ nhau (số học, hình học, đại lượng,
thống kê mô tả và giải toán) . Trong đó, giải toán có lời văn là một trong những mạch
kiến thức cơ bản xuyên suốt chương trình Toán cấp tiểu học. Đây là mạch kiến thức
tổng hợp của các mạch kiến thức toán học. Khi giải toán có lời văn các em sẽ vận dụng
các kiến thức đã học để giải các loại toán về số học, yếu tố đại số, yếu tố hình học và đo
đại lượng. Ngược lại, thông qua học giải toán, học sinh được củng cố khắc sâu các kiến
thức về số học, về đại lượng, đo đại lượng, về hình học...
Mặt khác, dạy học giải toán toán còn giúp rèn luyện cho học sinh các kỹ năng
tính toán với các phép tính về số học, quan trọng hơn cả là giúp học sinh hình thành
phương pháp giải toán, rèn luyện khả năng diễn đạt khi giải toán. Vì vậy, khả năng giải
toán sẽ phản ánh lại năng lực vận dụng kiến thức toán học của học sinh. Giải toán có lời

văn là học cách giải quyết vấn đề của môn toán. Đồng thời, giải toán có lời văn còn là
cầu nối giữa toán học và các môn học khác, giữa toán học và thực tế cuộc sống. Trong
khi đó, giải toán có lời văn là dạng toán khó đối với học sinh dân tộc thiểu số, các em
thường gặp khó khăn trong việc hiểu nội dung bài toán, xác định yêu cầu của bài toán.
Vì vậy cần phải đổi mới phương pháp dạy học nhằm phù hợp với nội dung dạy học mới
đồng thời có thể khắc phục dần những hạn chế của học sinh. Đây chính là những điều
chúng tôi băn khoăn, trăn trở và đi đến quyết định nghiên cứu về Phương pháp dạy
dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2 . Đề tài này
không phải là vấn đề mới. Nó đã xuất hiện trong một số đề tài nghiên cứu của đồng
nghiệp nhưng nội dung bàn về phương pháp dạy cho học sinh dân tộc thiểu số không
nhiều và không cụ thể. Vì lẽ đó, tôi hi vọng đề tài đưa ra được những biện pháp hữu
hiệu nhất để vận dụng nhằm mang lại kết quả cao cho chất lượng dạy học môn toán ở
những đơn vị có nhiều học sinh dân tộc thiểu số.
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của đề tài này là đưa ra được các cách tóm tắt đề toán, phương pháp
giải bài toán có lời văn ở tiểu học nói chung và lớp 2 nói riêng. Có định hướng giải phù
hợp với trình độ nhận thức, đặc điểm tâm lí của học sinh dân tộc thiểu số, góp phần cải
thiện, nâng cao chất lượng bồi dưỡng và rèn luyện kĩ năng giải toán cho học sinh.

Người viết: Nguyễn Thanh Thúy

19


Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2

I.3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh người dân tộc thiểu số đang học lớp 2 ở trường Tiểu học Tình Thương–
Huyện Krông Ana – Tỉnh Đăk Lăk
I.4. Phạm vi nghiên cứu:

- Phương pháp giải các bài toán có lời văn trong chương trình toán lớp 2
- Khả năng đọc hiểu đề toán, tìm hiểu, tóm tắt và giải bài toán có lời văn của học
sinh người dân tộc thiểu số đang học lớp 2 ở trường Tiểu học Tình Thương
I.5. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp điều tra, phân loại, nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp, thực
nghiệm,...
II. PHẦN NỘI DUNG
II.1.Cơ sở lí luận
Học sinh tiểu học được làm quen với toán có lời văn ngay từ lớp 1 và học liên
tục đến lớp 5. Dạng toán có lời văn được xem như chiếc cầu nối kiến thức toán học
trong nhà trường và ứng dụng của toán học trong đời sống thực tế, đời sống xã hội.
Chính vì vậy, muốn học sinh giải quyết tốt những bài toán có lời văn thì việc
giúp các em hiểu được bài toán và biết cách tóm tắt đúng các bài toán là một việc quan
trọng, là chỗ dựa cho học sinh tìm ra trình tự giải và phép tính tương ứng của bài giải.
Qua tóm tắt, giải bài toán có lời văn giúp học sinh rèn tư duy lô-gic óc suy luận, khả
năng phân tích, tổng hợp và khả năng trình bày khoa học .
II.2. Thực trạng
a. Thuận lợi - khó khăn
*Thuận lợi:
- Được sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của các cấp lãnh đạo và chính quyền
địa phương.
- Có sự phối hợp chặt chẽ của các đoàn thể trong nhà trường và sự hợp tác của
hội cha mẹ học sinh.
-Giáo viên thường xuyên được tham dự các lớp tập huấn, chuyên đề và nghiên
cứu các tài liệu về đổi mới phương pháp giảng dạy các môn học theo chương trình,
giảng dạy các môn học theo vùng miền, giảng dạy trẻ có hoàn cảnh khó khăn,...
- Giáo viên được phép chủ động trong việc xây dựng kế hoạch dạy học và có sự theo
dõi kiểm tra chỉ đạo thường xuyên của tổ khối chuyên môn, lãnh đạo trường.
- Tài liệu tham khảo khá phong phú
* Khó khăn:

- Trình độ dân trí ở địa phương còn thấp, điều kiện kinh tế gia đình học sinh còn
khó khăn. Nhiều gia đình học sinh chưa quan tâm đến việc học tập của con em.
- Học sinh dân tộc thường nhút nhát, thiếu tự tin, khả năng tiếp thu chậm.
- Giáo viên và học sinh, phụ huynh bất đồng về ngôn ngữ.
b.Thành công - hạn chế
* Thành công:
- Học sinh có thói quen giải toán theo đúng quy trình .
20

Người viết: Nguyễn Thanh Thúy


Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2

- Đa số giáo viên biết vận dụng các phương pháp dạy học linh hoạt, sáng tạo,
khai thác đồ dùng, phương tiện dạy học có hiệu quả.
* Hạn chế:
- Vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu bài toán, ngôn ngữ toán học của học
sinh hạn chế.
- Học sinh chưa biết cách tự học, diễn đạt còn vụng về, đôi lúc còn rập khuôn,
máy móc.
c. Mặt mạnh - mặt yếu
* Mặt mạnh:
- Đội ngũ giáo viên có tinh thần tự giác tìm tòi, sáng tạo, nghiên cứu đổi mới
phương pháp trong dạy học.
- Học sinh bước đầu nắm được quy trình giải toán .
* Mặt yếu:
- Khả năng kiên trì của học sinh dân tộc thiểu số trong quá trình học chưa cao.
- Một số giáo viên còn lúng túng trong đổi mới phương pháp dạy học.
d. Các nguyên nhân, các yêu tố tác động…

*Nguyên nhân của thành công:
+ Giáo viên:
- Nhiệt tình, tâm huyết với nghề, có ý thức tìm tòi, sáng tạo trong dạy học, có
lòng kiên trì, quyết tâm cao.
- Thường xuyên rèn luyện bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, bổ sung kiến thức
phục vụ cho công tác giảng dạy.
- Mạnh dạn trong đổi mới phương pháp, sử dụng đồ dùng dạy học, ứng dụng
công nghệ thông tin.
+ Học sinh: Đi học chuyên cần, có ý thức vượt khó trong học tập
*Nguyên nhân của hạn chế, yếu kém
- Học sinh không học tập bằng tiếng mẹ đẻ mà bằng ngôn ngữ thứ 2.
- Khả năng ghi nhớ, vận dụng kiến thức của các em hạn chế.
- Thiếu sự quan tâm, hướng dẫn, nhắc nhở từ phía gia đình.
- Một số giáo viên chưa mạnh dạn trong đổi mới phương pháp dạy học.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề thực trạng mà đề tài đã đặt ra
- Về phía học sinh: Các em học tập bằng ngôn ngữ thứ 2, đây là lí do ảnh hưởng
không nhỏ đến quá trình tiếp cận tri thức trong sách vở cũng như tri thức trong cuộc
sống. Các em đọc, hiểu chậm nên tiếp thu kiến thức mới cũng chậm. Cộng với khả năng
ghi nhớ hạn chế dẫn đến việc vận dụng kiến thức của các em gặp nhiều khó khăn. Cụ thể
là khả năng đọc hiểu bài toán của các em chưa tốt nên nhiều học sinh không biết tóm tắt,
không biết phân tích đề, không biết yêu cầu của đề là gì và xác định sai dạng toán. Một
số học sinh thiếu tự tin khi giải toán, có em làm được phép tính nhưng chưa hiểu được
cách ghi lời giải, ghi sai đơn vị …Mặt khác, học sinh dân tộc thường nhút nhát, khả năng
tiếp thu chậm nên cũng gây nhiều khó khăn cho giáo viên khi áp dụng đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng tích cực hoá các đối tượng học sinh.
Người viết: Nguyễn Thanh Thúy

21



Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2

- Về phía phụ huynh: Phần lớn các gia đình học sinh chưa nhận thức được đầy đủ
về lợi ích của việc học; đời sống của đa số gia đình các em còn nghèo, họ chưa thể đầu
tư cho việc học hành của con em một cách tốt nhất. Ngoài ra, thời gian của các bậc phụ
huynh ở rẫy nhiều hơn ở nhà nên việc phối hợp với nhà trường trong việc giáo dục các
em cũng rất khó khăn.
- Về phía giáo viên: Một số giáo viên chưa mạnh dạn đổi mới, lúng túng trong
vận dụng các phương pháp dạy học. Còn chủ quan trong việc nắm bắt nội dung chương
trình và các mạch kiến thức của môn toán, không để ý đến mối liên quan giữa các bài
trong môn học. Chưa quan tâm đúng mức đến mạch kiến thức giải toán có lời văn.
Trong dạy học còn quá chú ý đến hình thức và thời gian tiết dạy, chưa chú ý đến khả
năng tiếp thu của từng đối tượng học sinh, hệ thống câu hỏi gợi mở, dẫn dắt chưa lôgic,
chưa phù hợp đối tượng học sinh, sử dụng đồ dùng dạy học còn hạn chế, chưa kiên trì
trong hướng dẫn, giảng giải.
II. 3. Giải pháp, biện pháp
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Đề tài chúng tôi đưa ra không ngoài mục tiêu là giúp người giáo viên phải xác
định rõ mục tiêu của việc hướng dẫn học sinh tóm tắt đề toán, tìm cách giải các bài toán
có lời văn và cần phải đạt được các tri thức, kĩ năng sau :
- Học sinh nhận biết “cái đã cho”, “cái phải tìm” trong mỗi bài toán, mối quan hệ
giữa các đại lượng có trong mỗi bài toán, biết lập luận để đưa ra cách tóm tắt dễ hiểu nhất
- Học sinh giải được các bài toán hợp với một số quan hệ thường gặp giữa các đại
lượng thông dụng.
- Học sinh biết trình bày bài giải đúng quy định theo yêu cầu bài toán.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
*. Nắm bắt nội dung chương trình
Để dạy tốt môn Toán nói chung, giải bài toán có lời văn nói riêng, điều đầu
tiên là mỗi giáo viên phải nắm chắc nội dung chương trình, sách giáo khoa từ lớp 1
đến lớp 5. Ở tiểu học thường có các dạng toán sau đây :

- Những dạng toán thuộc loại toán đơn : thêm, bớt, nhiều hơn, ít hơn, tìm số bị
trừ, tìm số hạng chưa biết, tìm tích, chia thành nhiều phần bằng nhau, chia thành nhóm,
gấp một số lên nhiều lần, giảm đi một số lần, so sánh hai số hơn, kém nhau bao nhiêu
đơn vị, tìm một phần mấy của một số, so sánh số lớn gấp mấy lần số bé, so sánh số bé
bằng một phần mấy số lớn, tìm tỉ số phần trăm của hai số, tìm phần trăm của một số,
tìm một số biết một số phần trăm của nó, tìm vận tốc, tìm thời gian, tìm quãng đường,...
- Những dạng toán thuộc loại toán hợp : loại giải bằng 2 phép tính chia, nhân có
liên quan đến việc rút về đơn vị, dạng a : b �c ; loại giải bằng 2 phép tính chia có liên
quan đến việc rút về đơn vị, dạng a : (b : c).
- Những dạng thuộc loại toán điển hình : tìm trung bình cộng của nhiều số, tìm
hai số khi biết tổng và hiệu của chúng, tìm hai số khi biết tổng (hoặc hiệu) và tỉ của
chúng, bài toán liên quan đến quan hệ tỉ lệ,...
- Tuyến kiến thức về giải toán ở tiểu học:
22

Người viết: Nguyễn Thanh Thúy


Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2

+ Lớp 1 : giới thiệu bài toán có lời văn ; giải các bài toán bằng một phép tính (một
phép cộng hoặc một phép trừ) ; chủ yếu là các bài toán thêm, bớt một số đơn vị.
+ Lớp 2: giải các bài toán đơn về phép cộng và phép trừ ; các bài toán về nhiều
hơn, ít hơn một số đơn vị ; phép nhân và phép chia; bước đầu làm quen giải bài toán có
nội dung hình học (tính chu vi các hình đã học), các bài toán liên quan đến các phép
tính với các đơn vị đo đã học (km, m, dm, cm, mm, kg, lít).
+ Lớp 3: giải các bài toán có đến hai bước tính với các mối quan hệ trực tiếp và
đơn giản ; giải các bài toán quy về đơn vị và các bài toán có nội dung hình học.
+ Lớp 4: giải các bài toán có đến hai hoặc ba bước tính, có sử dụng phân số ; giải
các bài toán liên quan đến : tìm hai số khi biết tổng và hiệu của chúng, tìm hai số khi

biết tổng (hoặc hiệu) và tỉ của chúng, tìm số trung bình cộng, các bài toán có nội dung
hình học đã học) ; giới thiệu bước đầu về việc sử dụng toán học lớp 4 để giải quyết các
vấn đề của thực tế.
+ Lớp 5: giải các bài toán có đến ba bước tính là chủ yếu. Đó là các bài toán đơn
giản về tỉ số phần trăm : tìm tỉ số phần trăm của hai số, tìm phần trăm của một số, tìm
một số biết một số phần trăm của nó; các bài toán đơn giản về chuyển động đều,
chuyển động ngược chiều và cùng chiều : tìm vận tốc khi biết thời gian chuyển động và
độ dài quãng đường, tìm thời gian chuyển động khi biết vận tốc chuyển động và độ dài
quãng đường, tìm độ dài quãng đường khi biết thời gian chuyển động và vận tốc
chuyển động ; các bài toán về quy tắc tam suất đơn (thuận, nghịch) ; các bài toán có nội
dung về tìm diện tích, thể tích các hình đã học ; các bài toán ứng dụng các kiến thức đã
học để giải quyết một số vấn đề của đời sống.
- Về hình thức trình bày bài giải, học sinh phải trình bày bài giải đầy đủ theo
quy định thống nhất từ lớp 1 đến lớp 5:
+ Câu lời giải.
+ Phép tính giải.
+ Đáp số.
- Về số lượng bài toán trong một tiết học được rút bớt (so với chương trình
trước đây) để dành thời gian cho học sinh đọc kĩ đề, tìm hiểu để, tóm tắt và trình
bày bài giải (Chưa kể ở một số bài, giáo viên có thể chủ động giảm bớt một số bài
tập khó cho phù hợp với đối tượng học sinh dân tộc thiểu số theo hướng dẫn điều
chỉnh nội dung dạy học số 5842 của Bộ GD&ĐT).
*. Tìm hiểu để nắm vững quy trình chung khi giải bài toán có lời văn ở lớp 2
Quá trình giải toán thường theo 4 bước sau:
- Tìm hiểu nội dung bài toán
- Tìm cách giải bài toán
- Thực hiện cách giải toán
- Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải bài toán.
Thực tiễn dạy học giải toán đã khẳng định tính đúng đắn của 4 bước giải toán nói
trên. Đối với học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số, giáo viên cần kiên

trì hướng dẫn thường xuyên, lặp đi lặp lại qua các tiết học để hình thành cho các em
thói quen thực hiện giải toán theo 4 bước đó.
Người viết: Nguyễn Thanh Thúy

23


Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2

Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán
Quá trình tìm hiểu nội dung bài toán (đề toán) thường thông qua việc đọc bài toán.
Học sinh cần đọc kỹ, hiểu rõ đề toán, phân biệt được cái đã cho và cái phải tìm.Có thể
nói đây là bước quan trọng góp phần vào sự thành công trong việc giải toán của học
sinh, giáo viên cần hướng dẫn để học sinh xác định được yêu cầu của đề, nắm bắt được
mấu chốt trong yêu cầu của bài toán. Hết sức tránh tình trạng học sinh vừa đọc xong đề
đã vội vã bắt tay vào giải ngay. Phải tập cho học sinh có thói quen tự tìm hiểu đề toán
qua việc phân tích những điều đã cho và xác định được những điều phải tìm.
Trong một bài toán, câu hỏi có một chức năng quan trọng vì việc lựa chọn phép
tính thích hợp được quy định không chỉ bởi các dữ kiện mà còn bởi các câu hỏi. Với
cùng các dữ kiện như nhau có thể đặt các câu hỏi khác nhau do đó việc lựa chọn phép
tính cũng khác nhau, việc thấu hiểu câu hỏi của bài toán là điều kiện căn bản để giải
đúng bài toán đó. Với học sinh dân tộc thiểu số, khả năng hiểu tiếng Việt còn hạn chế
nên các em đã gặp khó khăn ngay từ bước này. Do vậy, giáo viên cần chú ý với việc kết
hợp giảng giải từ và thuật ngữ toán học giúp học sinh hiểu được nội dung bài toán.
Giáo viên cần dựa vào các hoạt động cụ thể của các em với vật thật, mô hình hay dựa
vào hình vẽ, các sơ đồ toán học.... để giúp các em hiểu khái niệm "nhiều hơn ", "ít
hơn”, ‘thêm”, “bớt”,... trong tương quan giữa các mối quan hệ trong bài toán. Giáo viên
cần chú ý vận dụng các biện pháp tăng cường tiếng Việt cho học sinh trong tất cả các
môn học giúp các em được rèn luyện nhiều hơn về khả năng đọc – hiểu tiếng Việt.
Để kiểm tra việc học sinh hiểu nội dung bài toán như thế nào, giáo viên nên cho

học sinh nhắc lại yêu cầu bài toán không phải bằng hình thức đọc thuộc lòng mà bằng
cách diễn đạt của mình (đây là yêu cầu khó đối với học sinh dân tộc thiểu số nhưng
không vì thế mà giáo viên bỏ qua, cần phải kiên trì luyện tập cho các em). Sau khi đọc
bài toán, học sinh cần xác định được 3 yếu tố cơ bản của bài toán:
- Những dữ kiện của bài toán: Đó là những cái đã cho, những cái đã biết của bài
toán. Giáo viên nên yêu cầu học sinh tự xác định dữ kiện bằng bút chì trước rồi mới
phát biểu bằng lời sau (hướng dẫn học sinh gạch chân các dữ kiện đã cho theo quy ước
là một gạch)
- Những ẩn số: Là cái chưa biết, là cái bài toán yêu cầu tìm. Tương tự như trên,
giáo viên nên yêu cầu học sinh tự xác định ẩn số bằng bút chì trước rồi mới phát biểu
bằng lời sau (hướng dẫn học sinh gạch chân cái bài toán yêu cầu tìm theo quy ước là
hai gạch để học sinh phân biệt). Việc làm này được thực hiện thường xuyên sẽ rèn
luyện cho học sinh tính tích cực, chủ động trong giải toán.
- Những điều kiện của bài toán: đó là mối liên hệ giữa các dữ kiện và các ẩn số.
Ví dụ: Có 18 lá cờ chia đều 2 tổ. Hỏi mỗi tổ được mấy lá cờ?( bài 3 trang 111- SGK
Toán 2)
+ Cái đã cho: 18 lá cờ chia đều 2 tổ
+ Cái cần tìm: mỗi tổ được mấy lá cờ?
Lưu ý học sinh là trong quá trình giải toán không phải tất cả đề bài đều cho biết
cái đã cho trước và cái cần tìm sau mà đôi khi ngược lại: Đưa cái cần tìm trước rồi mới
biết cái đã cho; cũng có khi cái đã cho và cái cần tìm đan xen với nhau.
24

Người viết: Nguyễn Thanh Thúy


Phương pháp dạy dạng bài “Giải toán có lời văn” cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2

Ví dụ1: Tính chu vi hình tam giác có độ dài các cạnh là: 24mm, 16mm và 28mm?
(bài 3 – trang 153- SGK Toán 2)

+ Cái cần tìm: Tính chu vi hình tam giác.
+ Cái đã cho: độ dài các cạnh là: 24mm, 16mm, 28mm
Ví dụ 2: Có 12 học sinh chia đều thành các nhóm, mỗi nhóm có 3 học sinh. Hỏi chia
được thành mấy nhóm? ?”( bài 3 - trang 136 - SGK Toán 2)
+ Cái đã cho: mỗi nhóm có 3 học sinh
+Cái cần tìm: 12 học sinh chia được mấy nhóm?
Bước 2: Tìm cách giải toán
Hoạt động tìm tòi cách giải bài toán gắn liền với việc phân tích các dữ kiện, ẩn
số và điều kiện của bài toán nhằm xác lập mối quan hệ giữa chúng. Từ đó lựa chọn
phép tính số học thích hợp. Hoạt động này thường diễn ra như sau:
- Minh hoạ bài toán thông qua tóm tắt đề toán: Việc làm này giúp học sinh bớt
được một số câu, chữ làm cho bài toán gọn lại, nhờ đó mối quan hệ giữa các số đã cho và
số phải tìm hiện ra rõ hơn. Bởi vậy cần tóm tắt thật ngắn gọn, GV chỉ cần hướng sự tập
trung chú ý của HS đến những chi tiết chính của bài toán, còn những chi tiết phụ của bài
toán cần gạt bỏ đi để HS không bị rối. Tóm tắt bài toán chính là sự biểu diễn cái đã cho,
cái cần tìm và mối liên hệ giữa chúng. Có rất nhiều cách để tóm tắt một bài toán, có thể
tóm tắt đề toán theo các cách sau:
+ Tóm tắt bằng lời
+ Dùng sơ đồ đoạn thẳng
+ Dùng ngôn ngữ và kí hiệu
+ Dùng chữ thay số
+ Dùng sơ đồ Graph
+ Dùng bảng
+ Dùng sơ đồ ven
+ Dùng hình vẽ
+Dùng hình tượng trưng
Tuy nhiên, với khả năng của học sinh lớp 2, chúng ta chỉ nên hướng dẫn các em
các cách tóm tắt bằng lời, dùng sơ đồ đoạn thẳng hoặc dùng hình tượng trưng.
VÝ dô 1: Trong vườn có 9 cây táo, mẹ trồng thêm 6 cây táo nữa. Hỏi trong
vườn có tất cả bao nhiêu cây táo?

Tóm tắt:

: 9 cây táo
Thêm
: 6 cây táo
Tất cả có : …cây táo?
VÝ dô 2: Lớp 2A có 29 học sinh và số học sinh lớp 2B nhiều hơn số học sinh
lớp2A là 5 học sinh. Hỏi lớp 2B có bao nhiêu học sinh?
Người viết: Nguyễn Thanh Thúy

25


×