Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2a

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (438.65 KB, 28 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GD & ĐT NHƯ THANH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

“MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG GIAO TIẾP
CHO HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở LỚP 2A
TRƯỜNG TIỂU HỌC THANH TÂN 1”.

Người thực hiện: Bùi Anh Đào
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thanh Tân 1
SKKN thuộc lĩnh vực ( môn): Khác

THANH HÓA NĂM 2017

1


MỤC LỤC
Mục
A
I
II
III
IV
B
I
II
1


2
III

Nội dung
Mở đầu
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung
Cơ sở lí luận
Thực trạng
Thực trạng chung việc rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh DTTS
Thực trạng giao tiếp của học sinh dân tộc thiểu số lớp 2A.
Các giải pháp thực hiện
Giải pháp1: Phân loại khả năng giao tiếp của sinh dân tộc thiểu
số ở lớp 2A.
Giải pháp 2: Xây dựng môi trường giao tiếp thân thiện, lành
mạnh.
Giải pháp 3: Xác định những kĩ năng cơ bản trong giao tiếp.

IV
C
1
2

Trang
1
1
2

2
2
2
2
3
4
5
6
9

Giải pháp 4: Rèn kĩ năng giao tiếp cho HSDTTS thông qua hoạt
động học tập.

11

Giải pháp 5: Rèn kĩ năng giao tiếp cho HSDTTS thông qua các
HĐNGLL.

14

Giải pháp 6: Mở rộng môi trường giao tiếp ở gia đình và cộng
đồng.

16

Giải pháp 7: Tổ chức thi đua, động viên khen thưởng.

17

Hiệu quả của SKKN

Kết luận – Kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị

19
19
19
20
2


3


A. MỞ ĐẦU
Lời nói đầu:
Trong các kĩ năng sống cơ bản của con người thì giao tiếp là một kĩ năng
cơ bản giữa người nói và người nghe nhằm đạt được một mục đích nào đó
thông thường. Giao tiếp là hoạt động thường nhật xảy ra liên tục mọi lúc mọi
nơi là cầu nối liên kết con người với nhau trong xã hội.
Chắc chắn trong cuộc sống sẽ có nhiều người cảm thấy lạc lõng giữa những
mối quan hệ. Cảm thấy khó khăn khi mở đầu câu chuyện, hay bế tắc khi
muốn trình bày ý tưởng của mình cho người khác nhất là trước đám đông
hiểu. Đó là vì bạn chưa nắm được những bí quyết trong kỹ năng giao tiếp
hằng ngày. Người giao tiếp hiệu quả và thành công là những người sử dụng
và thực hành kỹ năng giao tiếp một cách thuần thục nhất, họ biết dung hòa
đối với mong đợi của những người khác, có cách ứng xử phù hợp khi làm
việc cùng và ở cùng với những người khác trong một môi trường tập thể đạt
được những điều họ mong muốn một cách chính đáng.
1. Lí do chọn đề tài

Rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu
số (vốn chịu nhiều thiệt thòi về hoàn cảnh gia đình, địa bàn…) là việc làm
thiết thực nhằm giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, biết bày tỏ sự cảm thông, thương
lượng, hợp tác, tìm kiếm sự giúp đỡ, giải quyết mâu thuẫn, kiểm soát cảm
xúc... tạo được niềm tin, tích cực học tập và rèn luyện ở các em. Góp phần
hình thành một trong những kĩ năng sống cơ bản ban đầu phù hợp với lứa
tuổi, phù hợp với đặc điểm từng em góp phần tạo điều kiện tốt cho các em
học lớp trên đáp ứng yêu cầu của giáo dục hiện nay và phát triển nền tảng
nguồn nhân lực có chất lượng sau này.
Ngay trong Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 9 năm 2016 về
Đánh giá học sinh Tiểu học, thì cũng quy định đánh giá về “Năng lực” của
học sinh tiểu học, trong đó tiêu chí “hợp tác” được biểu hiện cụ thể như:
Mạnh dạn giao tiếp trong hợp tác, trình bày rõ ràng, ngắn gọn, nói đúng nội
dung cần trao đổi, ngôn ngữ phù hợp với hoàn cảnh và đối tượng.
Không ai sinh ra đã sở hữu kỹ năng giao tiếp hoàn hảo. Học tập là việc làm
suốt đời, ông cha ta có câu: “Học ăn học nói – Học gói học mở”. Chính vì
thế, ngoài việc cung cấp cho các em kiến thức cần thiết, tôi luôn có trăn trở:
Làm thế nào để nâng cao kĩ năng giao tiếp cho học sinh dân tộc thiểu số
trong lớp? Làm thế nào để học sinh biết cách vận dụng giao tiếp vào trong
cuộc sống hằng ngày? Nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ
năng giao tiếp cho học sinh là việc làm rất cần thiết và vô cùng quan trọng,
nên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài:
4


“Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh dân tộc thiểu số
ở lớp 2A trường Tiểu học Thanh Tân 1”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Giúp người giáo viên có điều kiện gần gũi với học sinh, hiểu học sinh hơn để
từ đó phát triển kĩ năng giao tiếp cho học sinh dân tộc thiểu số một cách tốt

nhất.
- Học sinh dân tộc thiểu số sẽ mạnh dạn hơn, không
còn ngại gần gũi, ngại tiếp xúc với mọi người, các em có cơ hội phát huy tối
đa những khả năng vốn có của mình trong giao tiếp, học tập cũng như mọi
hoạt động của lớp, của trường.
3. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp, cách thức để rèn luyện phát triển khả năng giao tiếp cho các em
học sinh dân tộc thiểu số.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra, trực quan, nêu gương, làm mẫu, hỏi đáp.
- Phương pháp nghiên cứu kết quả của hoạt động.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
- Kĩ năng giao tiếp giúp con người biết đánh giá tình huống giao tiếp và điều
chỉnh cách giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả; cởi mở bày tỏ suy nghĩ,
cảm xúc nhưng không làm hại gây tổn thương cho người khác. Kĩ năng này
giúp chúng ta có mối quan hệ tích cực với người khác, có mối quan hệ tích
cực với các thành viên trong gia đình – nguồn hỗ trợ quan trọng cho mỗi
chúng ta; đồng thời biết cách xây dựng mối qua hệ với bạn bè mới và đây là
yếu tố rất quan trọng đối với niềm vui cuộc sống. Kĩ năng này cũng giúp kết
thúc các mối quan hệ khi cần thiết một cách xây dựng.
- Kĩ năng giao tiếp là yếu tố cần thiết cho nhiều kĩ năng khác như bày tỏ sự
cảm thông, thương lượng, hợp tác, tìm kiếm sự giúp đỡ giải quyết mâu
thuẫn, kiểm soát cảm xúc.

5


- Có thể nói một cách không quá cường điệu là kỹ năng giao tiếp có một vai

trò quan trọng trong việc phát triển về tâm sinh lý cho trẻ. Không có một sự
lo lắng và khó chịu nào lớn hơn là tình trạng không hiểu được nhau! Trẻ
không hiểu người lớn muốn gì ở mình và người lớn cũng không hiểu trẻ cần
điều gì nếu như không xây dựng được một mối quan hệ tốt thông qua những
kỹ năng giao tiếp hiệu quả. Đến trường tiểu học, không gian được mở ra đối
với các em, các em tham gia nhiều hơn vào các mối quan hệ thầy cô, bạn bè.
Lúc ở nhà thì tình cảm của trẻ đối với cha mẹ, người thân là chủ yếu thì đến
trường tình cảm của các em đối với thầy cô giáo, bạn bè, cộng đồng… là rất
lớn.
- Một lớp học có nhiều học sinh dân tộc thiểu số (DTTS) giao tiếp chưa tốt thì
trong đó có trách nhiệm rất lớn thuộc về giáo viên chủ nhiệm. Người giáo
viên phải luôn luôn bên cạnh các em, luôn là nguồn động viên, khuyến khích
cổ vũ, hướng dẫn các em nói điều hay lẽ phải, chỉ cho các em thấy mặt hạn
chế trong giao tiếp để kịp thời khắc phục.
II. THỰC TRẠNG:
1.Thực trạng chung việc rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh DTTS:
- Là một trường đóng trên địa bàn xã miền núi thuộc vùng đặc biệt khó khăn
135 của Huyện Như Thanh. Địa bàn rộng, dân số đông, giao thông đi lại khó
khăn, trường có nhiều khu lẻ. Học sinh DTTS của trường là 223/367HS = 60,7%
người dân tộc Thái chiếm chủ yếu, bên cạnh đó lại có cả một bộ phận dân tái
định cư của người dân tộc Thái chuyển từ Thường Xuân về, các em hay phát âm
sai: l/đ; l/n; d/r, một số từ ngữ dùng không đúng ngữ cảnh bị/được: bị ốm thì lại
nói được ốm, bị phạt thì lại nói được phạt… Mỗi một em học sinh ở vùng đặc
biệt khó khăn nói chung, các em học sinh DTTS của trường chúng tôi nói riêng,
biết dùng tiếng phổ thông để diễn đạt một nội dung cho đầy đủ các ý là ít có em
làm được như vậy. Các em có biểu hiện, mức độ khó khăn khác nhau trong giao
tiếp. Học sinh lớp 3,4,5 thì khả năng giao tiếp của các em có tốt hơn so với học
sinh lớp 1,2 do vốn từ, sự tiếp cận với cộng đồng bên ngoài còn hạn chế.
- Hầu hết giáo viên yêu nghề mến trẻ, tận tụy với công việc, chăm lo chuyên
môn. Tuy nhiên cũng có nhiều giáo viên còn gặp khó khăn trong việc tìm ra biện

pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh nói chung và học sinh DTTS nói riêng.
Một số giáo viên chỉ chú trọng công tác giảng dạy truyền thụ kiến thức cho các
em, không quan tâm nhiều đến việc giáo dục rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh.
Nếu nói rằng thầy cô giáo không quan tâm đến việc dạy rèn kĩ năng giao tiếp là
không đúng, nhưng việc này là rất hạn chế nhất là việc lồng ghép vào tất cả các
môn học cũng như lồng ghép vào các hoạt động ngoại khóa thì giáo viên còn mơ
hồ, chưa nắm rõ các biện pháp về việc rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh.

6


- Qua tìm hiểu, tôi nhận thấy khi các em gặp “vấn đề” trong giao tiếp thì phần
nhiều còn giáo viên chưa khéo léo, chưa tận tình hướng dẫn các em nói đúng
hơn về ngôn ngữ lẫn nội dung giao tiếp. Những em học TDTS ít nói, ngại giao
tiếp, khó khăn trong giao tiếp, trong giờ học không xây dựng bài… một số giáo
viên liền liệt kê các em đó vào loại học sinh “lầm lì”, “khó bảo”, “tự kỉ”… các
em dần bị lãng quên trong lớp, nhất là trong các cuộc giao tiếp, các hoạt động
tập thể. Như vậy cả giáo viên và học sinh trong lớp thường không quan tâm đến
sự tiến bộ của các em, vô tình đã đẩy em co mình lại, lạc lỏng trong hoạt động
học tập và vui chơi của lớp.
- Bên cạnh đó phụ huynh chỉ khuyến khích cho con học giỏi kiến thức mà quên
hướng cho con em mình phát triển kĩ năng thực hành xã hội, trong đó có kĩ năng
giao tiếp, rồi ngay cả cách xưng hô không chuẩn mực trong giao tiếp của các
thành viên trong gia đình cũng làm cho trẻ bắt chước xưng hô thiếu thiện cảm.
2. Thực trạng giao tiếp của học sinh dân tộc thiểu số lớp 2A
- Năm học 2016-2017, tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 2A, tổng
số học sinh 28 em, có 18 học sinh nam và 10 học sinh nữ. Trong đó học sinh dân
tộc thiểu số là 21 em = 75%. (Chủ yếu là dân tộc Thái).
- Phần lớn các em đều ngoan ngoãn, chăm chỉ, thật thà. Các em hiểu được nỗi
vất vả của cha mẹ nên cũng sớm có ý thức tự lập và mong muốn học tập để

vươn lên. Tuy nhiên phần lớn học sinh DTTS là con gia đình gặp khó khăn về
kinh tế, trình độ dân trí còn hạn chế, cha mẹ đi làm nương rẫy cả ngày nên ít
được tiếp xúc với người Kinh, ít tham gia vào các hoạt động ngoại khóa nên sự
mạnh dạn khi hoạt động với bạn bè là chưa có.
- Đa phần các em học sinh DTTS lớp 2A còn sợ sệt, nhút nhát, ngại giao tiếp,
nói năng cộc lốc… Có một số em có lời nói tương đối lưu loát, trôi chảy, tuy
nhiên, chưa thể hiện được lời nói biểu cảm trong giao tiếp một cách rõ nét. Bên
cạnh đó có em lại hạn chế về phát âm như nói ngọng, hở hàm ếch bẩm sinh. Vì
vậy việc gặp khó khăn trong giao tiếp phần nào dẫn đến kết quả học tập của
không ít em chưa cao.

7


- Môi trường giao tiếp bằng tiếng Việt của học sinh DTTS nói chung, lớp 2A
nói riêng rất hạn hẹp và không thuần nhất: Trong khi học sinh bình thường
được học tập, giao tiếp trong môi trường thuần tiếng Việt thì môi trường
giao tiếp của các em DTTS hết sức hạn hẹp và thiếu tính tích cực. Ở trường,
khi học trên lớp, chủ yếu các em được nghe cô giáo giảng bài bằng tiếng
Việt, được luyện đọc nhưng không hiểu nội dung bài đọc; được luyện viết
nhưng chỉ luyện để viết đúng con chữ mà không thể viết thành bài văn hoàn
chỉnh được. Còn khi ra chơi, các em lại nói với nhau bằng tiếng mẹ đẻ. Về
với gia đình và cộng đồng, các em lại sống trong môi trường thuần tiếng dân
tộc, vốn tiếng Việt tạm thời bị chìm vào dạng tiềm năng, mỗi ngày các em
chỉ sử dụng tiếng Việt trong khoảng thời gian hạn hẹp trong môi trường học
tập. Đó chính là nguyên nhân, là rào cản lớn nhất của sự hình thành kỹ năng
sử dụng tiếng Việt của các em DTTS.
Thiết nghĩ để rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh DTTS đòi hỏi người giáo viên
phải áp dụng nhiều biện pháp, hình thức tổ chức, cần sự kiên trì tỉ mỉ bằng
những câu nói, hành động, việc làm của giáo viên, bạn bè, của tập thể lớp, của

cả cộng đồng. Quá trình đó cũng không phải diễn ra trong một hai ngày mà là
quá trình tác động lâu dài, thường xuyên, liên tục. Xuất phát từ điều đó tôi đưa
ra một số biện pháp sau để nhằm rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh DTTS lớp
tôi.

8


III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Giải pháp 1: Phân loại khả năng giao tiếp của sinh dân tộc thiểu số ở lớp 2A.
Sau khi khảo sát chất lượng đầu năm và qua tiếp cận, giảng dạy tôi đã bắt đầu
theo dõi và phân loại học sinh theo các nhóm sau:
- Nhóm học sinh DTTS có lời nói lưu loát, đọc trôi chảy mạch lạc, biết thể hiện
lời nói biểu cảm trong giao tiếp (Vi Việt Anh, Lương Thanh Phương, Hà Thu
Uyên).
- Nhóm học sinh DTTS có lời nói tương đối lưu loát, trôi chảy. Tuy nhiên, chưa
thể hiện được lời nói biểu cảm trong giao tiếp một cách rõ nét (Vi Hùng,
Lương Văn Khoa, Hà Châu, Hà Triệu Vy, Hà Hải Hoàn).
- Nhóm học sinh DTTS còn sợ sệt, nhút nhát, ngại giao tiếp, nói năng cộc
lốc… hầu như không biết sử dụng lời nói biểu cảm trong giao tiếp (Hà Tuấn
Vũ, Lô Châu, Đinh Quyền, Lương Khánh, Hà Ngọc Uyên, Lò Thanh Phong,
Lương Tuấn, Đậu Tuấn ….)
- Nhóm học sinh DTTS có hạn chế về phát âm: Nói ngọng (Lương Văn Minh,
Hà Ngọc Vũ), hở hàm ếch bẩm sinh (Hà Minh Nhất), các em phát âm khó
khăn, nói chưa đúng chính tả.
Sau khi phân tích đặc điểm cũng như giao tiếp của từng học sinh, trong các tiết
học hoạt động nhóm tôi tiến hành xếp chỗ ngồi cho học sinh sao cho phân
bố đều khắp 4 đối tượng học sinh nêu trên trong các nhóm, học sinh người
dân tộc Kinh xếp lẫn cùng HSDTTS, các em tương trợ lẫn nhau trong quá
trình học tập là một việc làm hết sức bổ ích như câu tục ngữ “Học thầy

không tày học bạn”. Nghe thầy - đua bạn sẽ giúp các em mạnh dạn, năng
động hơn rất nhiều trong quá trình rèn luyện kỹ năng nói. Sự giúp đỡ động
viên của các bạn trong lớp, trong nhóm sẽ khích lệ, hỗ trợ các em tự tin hơn
trước lời phát biểu của mình.
Giải pháp 2: Xây dựng môi trường giao tiếp thân thiện, lành mạnh:
1.2, Tạo sự gần gũi, thân thiện trong giao tiếp:
- Khi mà nơi: “Trường học thực sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các em, các
thầy cô là những người thân trong gia đình”; hay “Mẹ của em ở trường là cô
giáo mến thương” thì khi đó trường học thật sự là nơi các em hàng ngày muốn
đến, để thực sự “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.

9


- Tôi luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không đánh
mắng hoặc dùng lời lẽ thiếu tôn trọng với các em. Thông qua cử chỉ, lời nói,
ánh mắt, nụ cười mỗi buổi đến lớp tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn là nơi để
các em có thể bày tỏ những khó khăn trong giao tiếp, trong học tập, trong
cuộc sống của bản thân mình. Vì tôi hiểu “Chỉ có tấm lòng mới đánh thức
được tấm lòng”.

Cô trò cùng nhau vui vẻ trong học tập và vui chơi.

- Bản thân là người dân tộc Kinh, không biết giao tiếp bằng tiếng TDTS, nhưng
do công tác và chung sống ở địa phương lâu năm nên phần nào tôi hiểu cách
sinh hoạt, tập quán người DTTS ở địa phương.
- Tôi cố gắng đi sớm hơn để cô và trò thường xuyên hỏi han, cùng chơi các trò
chơi với các em, trao đổi, trò truyện, những vấn đề trong học tập cũng như trong
cuộc sống hằng ngày bằng tiếng Việt, từ đó đã tạo nên sự gần gũi giữa cô và trò
cũng như rèn thêm cho học sinh sự mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp. Cũng từ

10


đó rèn thêm ngôn ngữ nói tiếng phổ thông cho các em. Tôi nhẹ nhàng chỉ ra cho
các em thấy tác dụng của việc học bằng những ví dụ cụ thể, qua những tấm
gương rất gần gũi với các em của sự thành công trong cuộc sống và sự nghiệp
do sự học tập và giao tiếp giỏi mang lại (Chủ tịch Hồ Chí Minh, Diễn giả Quách
Tuấn Khanh, Thần đồng nhỏ tuổi Đỗ Nhật Nam. Hay những MC nổi tiếng như
Lại Văn Sâm, Trấn Thành…).
- Học sinh DTTS lớp 2A nằm rãi đều trên 6 thôn, do địa hình rộng nên nhà các
em ở cách xa điểm trường, có tới 18 em nhà cách xa trên 4 km. Đặc biệt nhà em
Phương, Khoa ở cuối bản Trung Tiền cách trường 6,5km. Nhiều gia đình có
hoàn cảnh khó khăn như em Phong bố mẹ bỏ nhau, em ở với mẹ, mẹ lại đi làm
ăn xa, phải gửi ở nhà chú họ trong khi chú lại đông con, kinh tế khăn, em Quân
cả bố và mẹ đều bị ảnh hưởng thần kinh nên bản thân em là học sinh khuyết tật
trí tuệ….do hoàn cảnh vậy nên ít nhiều ảnh hưởng đến tâm sinh lí các em.
+ Tôi còn nhớ khi mới nhận lớp được 2 tuần, hôm đó là thứ hai - khi các bạn
lớp trong đã ra sân trường để chuẩn bị cho tiết chào cờ đầu tuần, tôi thấy Ngọc
Vũ ngồi trong góc lớp trầm ngâm, mắt đỏ hoe. Thấy tôi lại hỏi vì sao không ra
sân trường chào cờ, em gục mặt xuống bàn khóc, gặng hỏi mãi em mới nói:
“ Hôm qua em đi chăn trâu cho ông bà, vướng phải cành cây bị rách áo ấm,
bà không kịp vá cho em, giờ em ra chào cờ mặc áo rách sợ các bạn cười em…”
nói đến đây em nức nở … (Ngọc Vũ vốn mồ côi bố từ bé, mẹ đi lấy chồng em ở
với ông bà ngoại đã già yếu ốm đau thường xuyên). Tôi ôm em vỗ về an ủi và
cho em ở lại trong lớp. Tranh thủ giờ ra chơi tôi mượn kim chỉ khâu lại những
chỗ áo bị rách, mặc áo lại cho em - Vũ nhìn tôi và thỏ thẻ nói “Em cảm ơn cô”
mà lòng tôi vừa nghẹn lại, vừa thấy hạnh phúc.
- Chính việc những việc tưởng chừng nhỏ nhặt trên nhưng lại đã giúp tôi tiến
gần đến các em hơn, tạo cho học sinh nhìn mình là cảm thấy gần gũi, chứ không
phải khi có lỗi là sợ bị la mắng, từ đó đã tạo nên sự gần gũi giữa cô và trò cũng

như rèn thêm cho học sinh về ngôn ngữ nói tiếng phổ thông cho các em. Các em
không còn tìm mọi cách để đối phó với sự việc, nhiệm vụ được giao. Tôi như là
một người bạn thân, bạn tâm tình, sẵn sàng lắng nghe ý kiến của các em, khi vui,
buồn các em đã mạnh dạn chia sẻ với cô, luôn tin rằng cô sẽ giúp đỡ lúc gặp khó
khăn khi ở trường.
- Khi chiếm được niềm tin của trò, tôi hướng cho các em thực hiện hoạt động
tích cực một cách linh hoạt gợi mở. Lúc nào thì nghiêm nghị nhắc nhở, lúc nào
thì gần gũi, lúc nào thì động viên kịp thời, lúc nào thì phê bình nhẹ nhàng súc
tích, ngắn gọn, có lúc thì phải liên hệ tới việc em đang làm với một tấm gương
hay một điển hình tiến bộ.
- Tôi đã tạo không gian thân thiện, gần gũi qua việc trang trí lớp. Qua các góc
học tập: Em yêu Tiếng Việt, Khám phá thế giới tự nhiên, Góc cộng đồng, Hộp
11


thư vui, Cùng em sáng tạo…gần gũi, thân thiết mang lại hiệu ứng ấm áp, và
cũng là nơi để các em thể hiện khả năng sáng tạo, tâm tư của mình như: Trưng
bày và giới thiệu sản phẩm tự làm của cá nhân, của nhóm, viết thư và nói tâm tư,
những điều em muốn nói của mình với bạn với cô…

Một số góc học tập được trang trí trong lớp.
2.2, Sự mẫu mực của giáo viên trong giao tiếp:
- Đối với trẻ thầy cô là hình mẫu lí tưởng để các em học tập và làm theo, nên
mọi cử chỉ, lời nói việc làm của giáo viên cần đúng chuẩn, ngay cả trong giao
tiếp hàng ngày hay trong giảng dạy (nhất là trước mặt học sinh).
- Tôi luôn xưng cô- gọi con, không nói bậy, nói lóng, không dùng kính ngữ, cố
gắng nhẹ nhàng ngay cả khi học sinh mắc lỗi, yêu cầu học sinh cũng “thưa cô –
xưng con”, khuyến khích học sinh trong lớp “xưng mình - gọi bạn”, không nên
“mày-tao”, hay cách xưng ngôi không rõ ràng ví dụ:“ bạn ni cho bạn ni mượn
bút với”. Với mục tiêu “mưa dầm thấm lâu”, không nóng vội rồi sẽ cho chúng

ta hiệu quả như mong muốn vì các em là những cây non dễ uốn.
- Ngay cả trong quá trình giáo dục và giảng dạy trên lớp, nếu tôi có nói nhầm
hay trách nhầm học sinh nào đó tôi sẵn sàng xin lỗi các em một cách công khai.
Hay như vào các dịp lễ 20/10; 20/11; Tết Nguyên đán, 8/3 vừa qua các em có lời
chúc, tặng hoa cho cô, tôi không chỉ nói cảm ơn các em mà còn thông qua các
em gửi lời cảm ơn, lời chúc đến gia đình người thân các em…rèn thói quen văn
minh nói“cảm ơn – xin lỗi” trong giao tiếp.
- Khi chúng ta biết cảm ơn và xin lỗi những người mà chúng ta tiếp xúc hàng
ngày, trên đường phố, hay trong sự va chạm khi tham gia giao thông… hay ngay
cả những việc nhỏ như không tự tiện lục cặp của trẻ, không tự tiện lấy những
món đồ của trẻ hay của người khác để sử dụng cho riêng mình, thì chắc chắn

12


việc chúng ta dạy các em những ngôn ngữ, hình thức giao tiếp rất dễ dàng và có
hiệu quả cao.
Giải pháp 3: Xác định những kĩ năng cơ bản trong giao tiếp cần rèn luyện
cho học sinh DTTS:
3.1, Chú trọng hoạt động thực nghiệm “học đi đôi với hành”:
- Học từ trải nghiệm thường mang lại cảm xúc sâu sắc cho cá nhân mỗi người,
do đó những kinh nghiệm mà học sinh có được từ trải nghiệm bao giờ cũng sâu
sắc và được lưu giữ lâu hơn trong trí nhớ.
Dân gian ta có câu “trăm hay không bằng tay quen”. Kỹ năng giao tiếp là một
trong những kỹ năng mang tính thực hành rất nhiều. Những lời dạy dỗ sáo rỗng
không những không đem lại kết quả tốt mà đôi khi còn phản tác dụng, khi trẻ em
được chứng kiến những cảnh:“nói vậy mà không phải vậy”, học phải đi đôi với
hành, kiến thức lời nói phải được chứng minh bằng hành động, việc làm thực
tiễn mới ghi nhớ và dần thành thói quen, kĩ năng.
- Tôi hướng dẫn cho trẻ biết thể hiện bản thân, diễn đạt ý tưởng của mình cho

người khác hiểu, để trẻ cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới
xung quanh các em. Đây là kĩ năng cơ bản và khá quan trọng nó có vị trí chính
yếu khi so sánh với tất cả các kĩ năng khác như đọc, viết, làm toán hay nghiên
cứu khoa học. Khi các em thấy thoãi mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến
nào đó, các em sẽ dễ dàng học và sẽ sẵn sàng hợp tác mọi thứ.
Với đặc điểm lứa tuổi lớp 2, thì phạm vi giao tiếp còn rất hạn chế cũng như đơn
giản, tôi yêu cầu các em cần:
+ Biết giới thiệu về bản thân, về gia đình, về trường lớp và bạn bè thầy cô giáo.
+ Biết chào hỏi lễ phép trong nhà trường, ở nhà và ở nơi công cộng.
+ Biết nói lời cảm ơn, xin lỗi.
+ Biết kêu gọi sự giúp đỡ khi gặp khó khăn, khi gặp trường hợp bị xâm hại.
+ Không cướp lời, không nói leo khi người khác đang nói.
+ Không tự tiện lấy và sử dụng đồ dùng của người khác.
+ …..
- Thực tế trong nhà trường, thông qua các môn học, các hoạt động tập thể HS
được dạy cách lễ phép nhưng khi đi vào thực tế, nhiều em thiếu kỹ năng giao
tiếp, không có thói quen chào hỏi, tự giới thiệu mình với người khác, thậm chí
có nhiều em còn không dám nói hoặc không biết nói lời xin lỗi khi các em làm
sai.
3.2, Chú trọng rèn luyện một số kĩ năng trong giao tiếp:
* Rèn kỹ năng mạnh dạn:
- Vào đầu năm học những tuần đầu tiên tôi thường cho các em tự giới thiệu
trước tập thể lớp vào giờ sinh hoạt 15 cũng như các tiết sinh hoạt cuối tuần như:
+ Em tên là gì? Em học lớp mấy? Cô giáo chủ nhiệm em tên gì?
+ Em học trường nào? Thầy hiệu trưởng tên là gì?
+ Năm nay em bao nhiêu tuổi?
+ Em ở bản nào? Cách trường xa hay gần? Ai hay đưa em đi học?
13



+ Bố mẹ em tên gì? Làm gì? Bạn thân nhất của em là ai?
+ Em thích học môn nào? Mơ ước của em sau này sẽ làm gì?
+ Thường ngày em làm những việc gì ở nhà?
Chính việc làm trên giúp các em học sinh DTTS không chỉ có thói quen giới
thiệu bản thân, mạnh dạn hơn mà còn hình thành kĩ năng ứng phó tình huống
xấu xảy ra, như khi không may các em lạc đường, bị bắt cóc cần được giúp đỡ…
- Tôi rèn cho các em biết mạnh dạn khi trình bày ý kiến của mình trong học tập
nhất là kĩ năng xử lí trong sinh hoạt, ví dụ:
+ Một hôm trời mưa, do nhà xa Khoa đi học muộn, khi cô đã vào lớp và đang
giảng bài, do sợ sệt nên em cứ thập thò đứng ở cửa lớp, mà không dám xin cô để
vào. Thấy vậy tôi gọi em vào lớp và đã nhẹ nhàng hướng dẫn trước lớp:
Nếu từ nay trong lớp ta mà có bạn nào đó đi học muộn, các con phải xin phép:
- “Con xin lỗi cô, hôm nay con đi học muộn cô cho con xin phép vào lớp ạ !”
Sau khi được tôi hướng dẫn Khoa đã mạnh dạn xin phép tôi trước lớp và từ đó
quy tắc này được các em thực hiện rất nghiêm túc.
+ Hay cả ngay những việc sinh hoạt cá nhân nhỏ nhặt như khi các em buồn đi
vệ sinh trong giờ học, nhưng do sợ sệt không dám xin phép cô ra ngoài dẫn đến
tè dầm ra quần….Tôi cũng phải hướng dẫn các em một cách tế nhị, nhã nhặn.
- Tôi hình thành cho các em tự hỏi và tự trả lời sau đó bạn hỏi mình trả lời, từ
đó hình thành được các câu hỏi và câu trả lời đầy đủ nội dung, có chủ ngữ vị.
Những em còn e dè, nhút nhát tôi thường xuyên chỉ đạo, hướng dẫn cho nhóm
trưởng cho trình bày phát biểu trước nhóm nhiều và tôi cũng thường xuyên cho
những học sinh đó phát biểu trước lớp nhiều hơn.
- Tôi khuyến khích các em lên hát, đọc thơ, kể chuyện, diễn kịch… trong
những dịp sinh hoạt văn nghệ, tôi luôn cổ vũ động viên bằng một tràng pháo tay
trước và sau khi các em trình bày, ghi nhận sự cố gắng cho dù các em có thể còn
diễn đạt, chưa như mong muốn.
*Rèn kỹ năng hội thoại:
Tục ngữ Việt Nam có câu:
“Lời nói chẳng mất tiền mua

Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
- Hội thoại là một trong những hình thức giao tiếp quan trọng, diễn ra thường
xuyên liên tục của con người. Tôi rèn cho các em nắm được các điều cơ bản
nhất sau trong hội thoại:
+ Biết xác định đối tượng giao tiếp: Đối tượng giao tiếp là ai? để có cách xưng
hô nói năng phù hợp, đúng mực.
Người dân tộc Thái có những cách xưng hô khá riêng, như ai sinh ra trước thì
làm anh, làm chị không phân định vai vế theo huyết thống cành trên cành dưới
như người dân tộc khác. Từ “nó” được sử dụng làm ngôi thứ hai khá phổ biến
cho tất cả đối tượng giao tiếp. Chính vì vậy tôi đã rèn cho các em cách xưng hô
sao cho phù hợp và một cách đúng mực nhất có thể, để các em dễ nhớ, dễ hiểu
và thực hiện.
14


VD: Với ông bà, cô, gì, chú, bác, người lớn tuổi phải xưng cháu.
Với thầy cô phải xưng con hay em.
Với anh chị phải xưng em.
Với bạn bè phải xưng mình, tớ.
Với em út nhỏ tuổi hơn phải xưng anh, chị.
+ Xác định nội dung giao tiếp: Nói về nội dung, chủ đề, lĩnh vực gì?…để khi
nói chuyện đúng trọng tâm tránh lan man, lạc đề trong cuộc hội thoại.
VD: Cô hỏi về em thích học môn nhất, thì học sinh lại trả lời về các sở thích
hàng ngày ở nhà, như xem phim, hay thích ăn kem…Hay trong giờ học cô gọi
lên bảng chữa bài thì học sinh lại mang vở lên nộp v.v…
+ Biết sử dụng ngôn ngữ lời nói và hình thể trong giao tiếp: Để học sinh có kỹ
năng giao tiếp tốt, giáo viên cần chú ý cho học sinh phải sử dụng ngôn ngữ lịch
sự, văn minh, không nói tục, chửi bậy, chửi thề, không nói lóng, không dùng
kính ngữ…
VD: Người lớn gọi phải dạ, thưa không được ừ, hay gật, lắc đầu. Không được

trả lời cộc lốc (một thói quen xấu mà học sinh DTTS rất hay mắc phải).
Trong khi giao tiếp cần có tư thế trao đổi lời nói, giọng kể thích hợp, ngay cả sự
biểu cảm trên khuôn mặt, cử chỉ điệu bộ...không được quát tháo, chỉ chỏ, phải
nhìn người đang giao tiếp với mình trong suốt quá trình giao tiếp, thể hiện sự tôn
trọng người nghe cũng là tôn trọng chính mình.
- Kĩ năng hội thoại này trong học tập được rèn luyện nhiều thông qua hình thức
bài tập “Phân vai dựng lại câu chuyện”, hay bài tập thực hành luyện nói theo
chủ đề bài học.
* Rèn kĩ năng ứng xử thích hợp/ không thích hợp:
-Trong đại đa số gia đình, với các em ở lứa tuổi lớp 2 còn nhỏ, hầu như được
bảo vệ và chăm sóc theo một nguyên tắc là phụ thuộc và nuông chiều. Các bậc
cha mẹ thường cho trẻ ăn những món mà họ cho rằng rất bổ dưỡng cho trẻ, cho
trẻ mặc những y phục mà theo họ là thích hợp, và buộc trẻ phải có những hành
vi ứng xử mà họ nghĩ rằng đó là sự vâng lời.
- Tất cả những điều đó sẽ là tốt đẹp nếu nó ở một chừng mực nào đó, nếu vẫn có
những lĩnh vực và không gian cho phép trẻ có cơ hội để bộc lộ những sở thích cá
nhân, những hành vi tự chủ. Nhưng nó sẽ là một bi kịch sẽ dẫn đến những xung
đột trong việc giao tiếp, tạo cho trẻ những nhận thức và hành vi không phù hợp
khi trẻ bắt đầu tiếp xúc, hình thành các khả năng giao tiếp với xã hội bên ngoài.
- Nếu trẻ phải tiếp nhận những sự bắt buộc, hoặc ngược lại là một sự nuông
chiều, thả lỏng trẻ được chấp nhận mọi yêu cầu vô điều kiện với suy nghĩ đơn
giản là trẻ nhỏ chưa biết gì, chiều nó một chút cũng không sao, điều đó sẽ tạo
nên những hành vi và nhận thức sai lệch của trẻ mà lâu dần sẽ biến thành thói
quen rất khó thay đổi.

15


- Tôi hướng cho các em cần biết những hạn chế về không gian và thời gian, như
trong nhà có những chỗ không thể chơi đùa, và dĩ nhiên là phải có chỗ được

chơi tự do. Trong việc ăn uống, vui chơi cũng có những mốc thời gian, sẽ có
những khoảng thời gian nhất định cho việc ăn uống chơi đùa và học tập. Các em
cũng cần có một cái lịch hoạt động cho các công việc của mình từ sáng đến
chiều (lập thời gian biểu) để có được sự ổn định và hình thành tư duy logic phù
hợp. VD: + Trong giờ học không được nói chuyện, làm việc riêng, muốn có ý
kiến phải xin phép.
+Trong giờ chào cờ không được nghịch, trao đổi nói chuyện riêng phải thể
hiện sự nghiêm trang.
+ Đến nhà có người ốm đau, gia đình có chuyện buồn…thì không được
cười đùa, nghịch, nói chuyện ồn ào, mà cần biết tôn trọng thể hiện sự sẻ chia…
Giải pháp 4: Rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh dân tộc thiểu số thông qua
hoạt động học tập:
4.1, Rèn kĩ năng giao tiếp qua việc tích hợp vào các môn học:
- Để giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh có hiệu quả bản thân đã vận dụng
vào các môn học, tiết học, nhất là các môn như: Tiếng Việt; Đạo đức; Tự nhiên
và xã hội; An toàn giao thông.... để những giờ học sao cho các em được làm,
được nói, được trao đổi để học, được trải nghiệm như trong cuộc sống thực:
+ Trong môn Tiếng Việt- Lớp 2 tôi luôn chú ý đến việc bổ sung kiến thức tiếng
Việt như ngữ âm, ngữ điệu đọc qua các tiết Tập đọc, luật chính tả trong các tiết
Chính tả, Tập viết, bổ sung vốn từ trong khi học Luyện từ và câu. Trong Tập làm
văn có nhiều bài học mà thông qua đó các kĩ năng giao tiếp xã hội được rèn
luyện như: Chào hỏi, tự giới thiệu; Nói lời cảm ơn, xin lỗi; Biết mời nhờ, nói lời
yêu cầu đề nghị; Chia buồn an ủi; Đáp lời chào, đáp lời cảm ơn; Biết đáp lời
phủ định; Biết đáp lời chia vui, đáp lời đồng ý...
+ Qua môn Đạo đức - Lớp 2 các câu chuyện, tình huống gắn với các tình huống
giao tiếp như: Lịch sự khi nhận và gọi điện thoại; Lịch sự khi đến nhà người
khác… Thông qua bài học các chuẩn mực hành vi đạo đức, pháp luật xã hội trở
thành tình cảm, niềm tin, hành vi và thói quen của học sinh. Từ việc xử lí, thực
hành các kiến thức liên quan, học sinh sẽ rút ra: Tại sao phải lịch sự khi nhận và
gọi điện thoại? cách gọi và nhận điện thoại như thế nào cho lịch sự … kiến

thức chuyển tải thông điệp, thành hành động, thói quen và dần hình thành kĩ
năng trong ứng xử và giao tiếp.
+ Trong các bài học Tự nhiên & xã hội - Lớp 2: Gia đình; Các thành viên trong
gia đình; Đường giao thông…kiến thức được cụ thể hóa, được lồng ghép cụ thể
qua các tình huống giao tiếp, đặc biệt trong các bài tập liên hệ thực tế, thực
hành.
16


- Bên cạnh đó việc dạy học tích hợp tiếng Việt cho HSDTTS phải dựa trên nền
tảng tổ chức dạy học giao tiếp trong môi trường tiếng Việt theo các quan hệ đa
phương: thầy - trò; trò - thầy; trò - trò; trò - tài liệu học tập (SGK, TBDH,...).
Ví dụ: Dạy bài Hoa (TN – XH lớp 2), thay vì dùng tranh vẽ để giới thiệu các loại
hoa như trước đây, tôi cho các em sưu tầm các loại hoa có sẵn rồi tổ chức trao
đổi theo nhóm và nói cho các bạn biết về loại hoa mình sưu tầm được theo gợi ý
của GV (không nhất thiết phải sưu tầm các loại hoa trong SGK giới thiệu).
- Bản thân chỉ gợi mở sau đó cho các em tự nói một cách tự nhiên hoàn toàn
không gò bó áp đặt. Bên cạnh đó, nhiều bài Luyện từ và câu có nội dung rèn
luyện các nghi thức lời nói, nhiều bài Tập đọc giới thiệu những văn bản mẫu
chuẩn bị cho việc hình thành một số kĩ năng giao tiếp cộng đồng như thư, tóm
tắt tin tức: Thông báo của thư viện vườn chim; Nội quy Đảo Khỉ; Thời tiết,…
hoặc cung cấp những câu chuyện mà qua đó học sinh có thể rút ra những nội
dung rèn kĩ năng sống.
- Tôi rèn cho các em các kĩ năng được phát triển từ dễ đến khó. Sau bài học
giới thiệu là những bài học như khám phá, tư duy hiệu quả và đặc biệt kĩ năng
làm việc đồng đội. Bản thân luôn tạo không khí thân thiện, áp dụng việc đổi mới
phương pháp tạo điều kiện cho các em mạnh dạn, tự lập, tự khẳng định và phát
huy mình hơn qua việc học nhóm.
Ví dụ: Khi dạy bài: Tập làm văn “Biết nói lời yêu cầu, đề nghị” bản thân cho học
sinh chuẩn bị những hộp thư với nội dung “yêu cầu, đề nghị” và tổng kết lại vào

cuối tiết. Em nào nêu được nhiều câu yêu cầu, đề nghị lịch sự nhất sẽ được
tuyên dương. Không những vậy bản thân tổ chức cho các em trao đổi:
“Theo em, như thể nào là lịch sự khi yêu cầu, đề nghị?” “Em đã lịch sự khi yêu
cầu đề nghị chưa?”... qua đó các em sẽ bộc lộ những suy nghĩ của mình.
- Học sinh có thể nói sai, GV cần theo dõi và giúp các em sửa lại cho đúng.
Qua hoạt động dạy học theo gợi ý trên, mục tiêu bài học vẫn đạt được và điều
quan trọng là các em biết sử dụng tiếng Việt để học tập; giờ học vui, sinh động
và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, dạy học theo hướng tích hợp tiếng Việt vào các môn
học sẽ khó khăn cho GV và HS khi gặp những bài học cung cấp khái niệm trừu
tượng. Để khắc phục khó khăn này, cần có sự chỉ đạo giảm tải hoặc “dễ hóa” các
vấn đề quá tải được trình bày trong SGK.
4.2, Đa dạng hóa phương pháp và hình thức tổ chức dạy học:
- Tổ chức dạy học lấy học sinh làm trung tâm, học sinh tự tự học, tự chiếm lĩnh
tri thức thông qua sự hướng dẫn của giáo viên. Do đó nó phát huy được tính tự
học và tự trình bày trước tập thể rất nhiều cũng từ đó rèn cho các em tính mạnh
dạn trước tập thể.

17


- Trong qua trình giảng dạy, tôi thường xuyên áp dụng phương pháp dạy học đổi
mới theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Tổ chức
cho học sinh thực hiện các hoạt động học tập phong phú, đa dạng như: kể
chuyện theo tranh; quan sát tranh ảnh, băng hình, tiểu phẩm; phân tích, xử lí tình
huống; chơi trò chơi, đóng tiểu phẩm, múa hát, đọc thơ, vẽ tranh,…Sử dụng
nhiều phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như: học theo nhóm, theo dự án,
đóng vai, trò chơi,…
+ Thảo luận nhóm: Thảo luận nhóm là hình thức dạy học rất có ích trong việc
hình thành cho học sinh khả năng giao tiếp, hợp tác, thích ứng và độc lập suy
nghĩ. Vì vậy, đối với các môn học mục tiêu là rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh

tôi thường vận dụng hình thức này như đối với phân môn Tập làm văn khi thực
hành các yêu cầu như: Tự tổ chức cuộc họp tổ, nhóm; trình bày bài làm miệng
trước lớp; kể về gia đình em với người bạn mới quen ... Tôi thường cho học sinh
thảo luận nhóm đôi để thực hiện bài tập cần huy động sự chung sức, sau đó các
nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình, nhóm khác nhận xét, bổ sung.
Việc sinh hoạt theo nhóm tạo môi trường làm việc thân thiện, giúp các em cải
thiện hành vi giao tiếp thông qua các hoạt động trao đổi diễn ra thường xuyên.
Các em trở nên thân thiện, từ đó giúp bầu không khí học tập, lao động trở nên
sôi động hơn. Tham gia sinh hoạt theo nhóm giúp các em học sinh hưng phấn
hơn trong học tập và tạo nên cách ứng xử hợp lý trong mọi tình huống. Khi sinh
hoạt nhóm phải luôn đưa ra nhiều tình huống tạo sự phát triển tư duy cho các
em. Đó cũng là cách tạo sự gần gũi giữa các em với nhau và kĩ năng giao tiếp
được phát triển.
+ Trò chơi học tập: Trò chơi học tập là hình thức học tập có hiệu quả đối với
học sinh, đặc biệt là những em học sinh DTTS ngại giao tiếp, tức là ngại nói, thì
trò chơi học tập sẽ làm cho các em có cơ hội học mà chơi – chơi mà học, có
hứng thú hơn trong học tập. Thông qua trò chơi, học sinh được luyện tập, làm
việc cá nhân, làm việc trong đơn vị nhóm, đơn vị lớp theo sự phân công và tinh
thần hợp tác. Trò chơi tạo cơ hội cho học sinh tự hoạt động, tự củng cố kiến
thức, tự hoàn thiện kỹ năng giao tiếp của chính mình. Các trò chơi học tập có thể
tổ chức cho học sinh trong giờ tự học, giờ ra chơi hoặc giờ sinh hoạt lớp hay
trong phần củng cố của mỗi giờ học. Qua các trò chơi này, học sinh được tăng
cường rèn luyện các kiến thức vừa được học, từ đó sẽ nhớ bài và vận dụng vào
việc giao tiếp trong đời sống hằng ngày.
Ví dụ: Trò chơi phỏng vấn (TNXH – Tiết 11: Gia đình) Thực hành luyện cho
học sinh cách tự giới thiệu về gia đình mình với bạn bè hoặc người xung quanh.
Cách chơi: Một học sinh giới thiệu về gia đình mình (quê quán, gia đình gồm có
mấy người, nói về từng người trong gia đình, mọi người sống với nhau như thế
nào,..). Một học sinh khác làm phóng viên phải giới thiệu lại từng bạn với cả
18



lớp. Nội dung giới thiệu phải chính xác, cách giới thiệu rõ ràng. Cho nhiều học
sinh làm phóng viên, sau đó bình chọn phóng viên giỏi nhất. Các em làm việc
tích cực, vui vẻ, tự mỗi em nói được tiếng nói, suy nghĩ của mình với bạn bè,
với thầy cô một cách tự tin mạnh dạn. Việc rèn luyện các kĩ năng này đã tạo ra
được thói quen tốt cho bản thân mỗi em, các em tham gia một cách chủ động
tích cực vào quá trình học tập, tạo điều kiện cho các em chia sẻ những kinh
nghiệm, ý kiến hay để giải quyết một vấn đề nào đó.
- Chính thông qua việc sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực trên,
học sinh có cơ hội thực hành, trải nghiệm nhiều kĩ năng sống cần thiết, phù hợp
với lứa tuổi. Đó là lối sống lành mạnh, các hành vi ứng xử phù hợp với nền văn
minh xã hội. Lối sống, hành vi như: gọn gàng, ngăn nắp, nói lời đẹp, chăm sóc
bố mẹ, ông bà, hợp tác, giúp đỡ, chia sẻ với bạn… Lúc đầu các em rất ái ngại
không tự tin khi đóng vai, bày tỏ ý kiến trước lớp nhưng giáo viên đã kịp thời
nhắc nhở các em những điều cần chú ý trong khi giao tiếp, cộng thêm một môi
trường hòa đồng thân thiện các em thực hiện rất tốt, không còn những cái nhìn ái
ngại. Thay vào đó là những cánh tay tự tin cùng những câu nói rõ ràng, chắc
gọn, mạnh dạn hơn.
Giải pháp 5: Rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh dân tộc thiểu số thông qua
hoạt động ngoài giờ lên lớp:
5.1, Tạo môi trường giao tiếp tự nhiên, thân thiện cho HS:
- Ngay những ngày đầu tiên khi các em vào lớp học, bản thân đã phát động các
phong trào: “Nói lời hay làm việc tốt” qua cách ứng xử lễ phép như biết “đi
thưa về hỏi”, chào hỏi những người lớn tuổi, biết xin lỗi khi có khuyết điểm,
cảm ơn khi được giúp đỡ hay tặng quà, vui vẻ hoà nhã với bạn bè, lễ phép với
thầy cô và những người lớn tuổi,...
- Những buổi chào cờ, tôi luôn khuyến khích các em xung phong trả lời những
câu hỏi mà thầy Phan Trọng Hải( Hiệu trưởng ), thầy Lê Hồng Huyên (Tổng phụ
trách Đội) hay hỏi, phải lắng nghe các nội dung, hoạt động cần làm trong tuần

được phổ biến dười cờ. Nhờ vậy các em mạnh dạn dần và thực hiện tốt các
phong trào
- Tôi khuyến khích các em lên thư viện trường đọc sách, báo, tranh thủ đọc
sách cho các em nghe, kể những mẫu chuyện liên qua đến cách ứng xử trong
giao tiếp… trong mọi tình huống, như những lúc sinh hoạt đầu giờ, hoặc trong
giờ sinh hoạt lớp.
- Khác với HS bình thường, học sinh DTTS thường không sử dụng tiếng Việt
trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Giờ ra chơi, nếu chơi tự do, các em sẽ
chơi thành từng nhóm dân tộc và giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ. Tôi khuyến khích
19


trong lớp không phân biệt dân tộc, đoàn kết cùng học tập vui chơi với nhau mọi
lúc mọi nơi. Có như vậy sự cộng hưởng kĩ năng giao tiếp giữa học sinh dân tộc
Kinh với các em học sinh DTTS mới đem lại kết quả tốt. Trong các hoạt động
tập thể, giờ ra chơi, ngay cả giao tiếp ngoài nhà trường các em học sinh DTTS
cũng nên giao tiếp bằng tiếng Việt.
- Tôi tạo các tình huống trò chơi trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của các em,
Ví dụ: Như hôm trời lạnh tôi tổ chức cho các em chơi trò: “Tay ai ấm hơn”
Cách chơi: Cô đếm 1- các em xoa hai bàn tay mình; cô đếm 2- các em sở hai
bàn tay mình lên tai; cô đếm 3- hai bạn cùng bàn xoa và nắm tay nhau xem tay
ai ấm hơn.
Chính sự gần gũi, thân thiện khi chơi giúp các em xóa được khoảng cách giữa
nam và nữ, giữa học sinh bình thường với học sinh DTTS, giữa bạn có sự mạnh
dạn vời bạn còn rẹt rè…. Các em lớn lên, học hành và khám phá thông qua trò
chơi. Các hành động chơi đòi hỏi các em phải suy nghĩ, giải quyết các vấn đề,
thực hành các ý tưởng.
- Tôi còn khuyến khích các em cùng chia sẻ những cảm nhận, những suy nghĩ,
những quan sát của mình với cô với bạn một cách thoải mái, tự nhiên không gò
bó, áp đặt, giờ ra chơi tôi cùng các em tham gia những trò chơi dân gian và yêu

cầu các em nói với nhau bằng tiếng Việt. Qua trò chơi giúp các em phát triển cả
giao tiếp lẫn trí tuệ, thể chất....
5.2, Rèn kĩ năng giao tiếp qua hoạt động phong trào nhằm tạo cơ hội cho HS
hòa nhập phát triển giao tiếp:
- Trong môi trường giao tiếp tự nhiên, không bị cưỡng bức bởi nội dung bài
học, các em sử dụng tiếng Việt sẽ dễ dàng hơn. Tuy nhiên, thay đổi được thói
quen hành vi này thường gặp khó khăn ở thời gian đầu. Khi nhà trường đưa ra
được các chương trình sinh hoạt văn hóa tích cực ở địa phương vào trong các
hoạt động tập thể, tôi khuyến khích các em (nhất là các em học sinh DTTS)
trong lớp tích cực tham gia, chính vì thế đã lôi cuốn được hứng thú tham gia của
học sinh, từ đó sẽ giúp các em tự tin hơn trong giao tiếp.
- Thông qua trải nghiệm bằng thực tế như tôi đấu mối với Tổng phụ trách Đội
tổ chức cùng học sinh đi dâng hương, chăm sóc Đài tưởng niệm liệt sĩ xã Thanh
Tân, Trước buổi đi tôi dặn dò các em những việc nên làm và những việc không
được làm khi ra Đài tưởng niệm. Sau buổi đi tôi có đưa ra những câu hỏi để các
em nêu ý nghĩa của việc làm của mình.
- Việc tổ chức được thường xuyên các hoạt động tập thể, mang tính cộng đồng
sẽ là sân chơi bổ ích, kỹ năng sử dụng TV của HS DTTS sẽ phát triển nhanh và
bền vững hơn, sẽ giúp cho các em có công cụ học tập tốt hơn.
20


Đội văn nghệ lớp 2A tham gia khai trương làng văn hóa
Thôn Tân Tiến- xã Thanh Tân
Giải pháp 6: Mở rộng môi trường giao tiếp ở gia đình và cộng đồng:
- Đây là vấn đề khó thực hiện thành công, bởi môi trường giao tiếp của người
DTTS thường thể hiện nét đặc trưng riêng với những phong tục tập quán riêng.
Trong đó, ngôn ngữ là một yêu tố bản sắc phi vật thể.
Để hướng tới vì sự tiến bộ của con em mình trong học tập, thông qua các buổi
hội nghị phụ huynh, các buổi gặp gỡ trao đổi riêng với phụ huynh tôi khéo léo

đề xuất là khi về nhà nói chuyện với con em mình, nên sử dụng tiếng Việt hoặc
một phần tiếng Việt, nếu làm được điều này, sẽ hỗ trợ được rất nhiều cho các em
trong việc tăng cường khả năng sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp và học tập.
- Gia đình, cha mẹ học sinh có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc rèn kĩ năng
giao tiếp cho học sinh góp vì thế tôi đã mạnh dạn chia sẻ với các bậc phụ huynh
việc xây dựng môi trường thân thiện trong từng gia đình, trong đó mọi thành
viên đều yêu thương và tôn trọng lẫn nhau; người lớn cần gương mẫu về cách
sống, làm việc, nói năng và hành vi ứng xử; nên dành thời gian ít nhất 15 - 30
phút mỗi ngày để trò chuyện, lắng nghe chia sẻ các ý kiến và nguyện vọng chính
đáng của con em mình. Hàng ngày nên dành thời gian thích hợp để kiểm tra việc
học bài, làm bài tập ở nhà nhưng tránh gây áp lực cho con em mình. Xem sổ liên
lạc, định kỳ liên hệ với giáo viên chủ nhiệm để nắm được tình hình học tập và
hỗ trợ kịp thời việc học tập, rèn luyện của con em mình. Tuỳ theo đặc điểm công
việc của gia đình, sắp xếp thời gian buổi trưa, tối lúc nào phù hợp, hỏi về tình
hình học tập của con em, tìm hiểu về mong muốn và định hướng của con em
mình.
- Đối với người lớn, trẻ cần được tập cho những lời nói lễ phép và tự nhiên,
không quá màu mè và hình thức nhưng cũng không được phép cộc lốc và suồng
21


sã. Điều này trẻ sẽ học được một cách hiệu quả thông qua cách giao tiếp và ứng
xử của bố mẹ với người khác. Chúng ta sẽ không thể cấm trẻ nói năng thô lỗ nếu
chính bố mẹ thích “xả rác bằng miệng” và cũng không thể buộc trẻ lễ phép khi
bố mẹ không có những hành vi lịch sự tối thiểu.
- Ngoài bố mẹ, trẻ có thể bắt chước các hành vi và ngôn ngữ không thích hợp ở
họ hàng, những người giúp việc hay thậm chí cả những người hàng xóm… trẻ
em thường xuyên tiếp xúc với nhiều người, nhiều mối quan hệ khác nhau. Vì
thế, chúng ta cũng cần lưu ý đến những nguồn có khả năng gây “ô nhiễm” cho
lời nói và hành động của trẻ, mà nhiều khi rất nặng nề nếu như không được ngăn

ngừa và phát hiện sớm.
Giải pháp 7: Tổ chức thi đua, động viên khen thưởng
- Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ năng,
ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm học bản thân đưa ra kế hoạch rèn luyện
cho các em lớp mình phụ trách. Tôi trao đổi với Ban chấp hành hội phụ huynh
cùng phối hợp và dành một khoản riêng để khen thưởng kịp thời động viên các
em để tạo cho các em có một động cơ tốt trong việc duy trì thực hiện.
-Tôi theo dõi hằng ngày, các em có biểu hiện tốt thì ghi vào sổ tay, trong tiết
sinh hoạt cuối tuần cho các em bình chọn những bạn thực hiện tốt sẽ được một
bông hoa điểm tốt. Vì vậy, các em thi đua nhau “nói lời hay, làm việc tốt” và
cuối tuần nào cũng có rất nhiều em được bông hoa điểm tốt. Mỗi tháng tổng kết
một lần để khen thưởng những em tiến bộ trong giao tiếp, đã đạt nhiều hoa điểm
tốt bằng những phần quà nhỏ. Những món quà tuy nhỏ nhưng cũng là nguồn
động viên kịp thời khích lệ các em. Đó cũng là cách ghi nhận sự tiến bộ của các
em, là một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị và hiệu quả. Các em đã
nhanh nhẹn hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong cuộc sống.
- Những câu nhận xét hàng ngày của tôi: Cô rất thích câu trả lời của con; Hôm
nay con trả lới đã tiến bộ hơn rất nhiều; Hôm nay con trả lời rất gỏi làm cô rất
ngạc nhiên; Cô tin là lần sau con sẽ nói rõ ràng hơn; Chỉ là con chưa tập trung
cô tin con làm được mà; Nếu con cố gắng sau này sẽ có thể làm người dẫn
chương trình MC giỏi; Cô cảm thấy tự hào về con…nó giống như những viên
thuốc bổ, là những hạt giống tâm hồn được gieo vào trí não tuổi thơ của trẻ.
Đây chính là những dưỡng chất nuôi dưỡng hứng thú học tập, tạo dựng nhân
bản niềm tin, kích hoạt sự phát triển hành vi nhân cách tốt hơn nhiều là sự ra
lệnh, bắt ép hay trách phạt của giáo viên, điều này đặc biệt rất quan trọng đối với
học sinh DTTS có nhiều khó khăn, lúng túng trong giao tiếp. Chuyên gia tâm lí
học lâm sàng trẻ em PGS.TS Nguyễn Công Khanh từng nói: “Lời nói ảnh
hưởng đến suy nghĩ, xúc cảm, tình cảm. Xúc cảm, tình cảm ảnh hưởng đến hành
vi. Hành vi tích cực, tự giác được lặp lại, được cổ vũ chuyển thành thói quen
22



tốt, niềm tin tích cực, kết thành giá trị. Qua đó giúp định hình phát triển nhân
cách cho học sinh”.
IV. HIỆU QUẢ CỦA SKKN:
Việc áp dụng những biện pháp mà tôi đã đúc rút ở trên để rèn luyện kĩ năng
giao tiếp cho học sinh TDTS lớp 2A trong thời gian qua, đã thu được kết quả rất
khả quan được phụ huynh, đồng nghiệp, Chuyên môn công nhận như sau:
- Số các em mạnh dạn tự tin, có lời nói lưu loát, đọc trôi chảy mạch lạc, biết
thể hiện lời nói biểu cảm trong giao tiếp tăng lên một cách rệt rệt như: Vi Hùng,
Khoa, Hà Châu, Hà Triệu Vy, Hà Hải Hoàn…
- Ngay cả các em như: Hà Tuấn Vũ, Lô Châu, Đinh Quyền, Lương Khánh, Hà
Ngọc Uyên, Phong, Lương Tuấn, Đậu Tuấn …cũng mạnh dạn hơn, không nói
cộc lốc, không còn sợ sệt khi giao tiếp với mọi người (nhất là người lạ), nói
năng rõ ràng, biết trao đổi đúng nội dung hình thức của cuộc giao tiếp, biết thể
hiện lời nói biểu cảm trong giao tiếp một cách rõ nét.
- Đến như em Nhất (hở hàm ếch), Lương Văn Minh, Hà Ngọc Vũ (nói ngọng)
tưởng chừng khó có thể tiến bộ trong giao tiếp thì giờ đây cũng mạnh dạn, nói
cũng bớt ngọng (tuy còn một số âm nói chưa chuẩn) nhưng rất tích cực xây
dựng bài, hoạt bát trong giao tiếp, ngày Quốc tế phụ nữ 8/3 vừa qua còn xung
phong lên hát tặng cô và các các bạn trong lớp.
- Các em ngoan ngoãn lễ phép, lớp luôn được xếp loại A, là lớp đứng đầu về thi
đua của nhà trường. Trong giờ học các em tập trung chú ý, tích cực xây dựng
bài, không nói chuyện riêng trong giờ học, không còn tình trạng trêu chọc, mỉa
mai bạn; khi gặp những tình huống khó khăn bất lợi các em biết kìm chế không
nổi nóng, hung, hay chưởi bậy với bạn như trước, biết bày tỏ sự cảm thông,
thương lượng, hợp tác, tìm kiếm sự giúp đỡ, giải quyết mâu thuẫn, kiểm soát
cảm xúc tham gia sinh hoạt sôi nổi, vui vẻ cởi mở hơn. Không còn học sinh
DTTS trong lớp giao tiếp chưa được, tạo được niềm tin, tích cực học tập và rèn
luyện ở các em. Tính đến giữa HKII nhưng chất lượng giáo dục, năng lực, phẩm

chất, đặc biệt là tiêu chí “hợp tác” của đánh giá về Năng lực đạt Hoàn thành
100%, trong đó Hoàn thành tốt đạt trên 75% vượt kế hoạch về chỉ tiêu đăng kí
giáo dục toàn diện với nhà trường.
C. KẾT LUẬN- KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
- Việc giáo dục kĩ năng giao tiếp tích cực đem đến cho các em học sinh DTTS
được nhiều điều tốt đẹp như: Các em có nhiều cơ hội chia sẻ, bày tỏ, được mọi
người quan tâm, tôn trọng và lắng nghe ý kiến; tích cực chủ động hơn trong học
23


tập và rèn luyện; tự tin trước mọi người; khả năng của trẻ được phát huy. Về lâu
dài, tạo được môi trường sống hoà bình, sống vì mọi người, thấy được an toàn,
được tôn trọng lẫn nhau, giải quyết được các xung đột hay mâu thuẫn thông qua
thương lượng, ngoại giao. Từ đó trẻ thích học tập, ham hoạt động; dần hình
thành kĩ năng sống cho học sinh. Chúng ta sẽ thành công và đạt hiệu quả cao
trong công tác giáo dục. Hình thành những con người có nhân cách mới, ứng xử
tiến bộ với môi trường sống, với xã hội.
- Hiệu quả giáo dục kĩ năng không thể đo đếm được bằng những con số chính
xác, nhưng được thể hiện: các em có ý thức, thái độ đúng mực với mọi người
trong gia đình; thầy cô, người lớn tuổi, luôn hoà đồng với bạn bè; tự tin khi nói
năng... đó chính là hiệu quả từ việc giáo dục, đào tạo kĩ năng sống mạng lại.
2. Kiến nghị
- Đối với GV chủ nhiệm: phải thật sự tâm huyết, trăn trở, yêu thương học sinh
cần có nghệ thuật riêng trong giáo dục, rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho học sinh
nói chung và học sinh DTTS nói riêng.
- Đối với cha mẹ học sinh: Cần động viên, gần gũi quan tâm hơn nữa tới việc
tự học, tự rèn ở nhà của các em. Tạo điều kiện tốt nhất cả về vật chất, tinh
thần, môi trường giáo dục tích cực để các em được rèn kĩ năng giao tiếp và
phát triển một cách toàn diện. Luôn giữ mối liên hệ với giáo viên để cùng

giáo viên có biện pháp uốn nắn, rèn luyện, giáo dục các em.
- Đối với nhà trường: Cần tổ chức các chuyên đề phổ biến các kinh nghiệm
trong công tác giáo dục, rèn luyện kĩ năng sống trong đó có kĩ năng giao
tiếp, để giáo viên trong nhà trường học hỏi và vận dụng vào thực tiễn công
tác chủ nhiệm lớp, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà
trường.
Trên đây là một số kinh nghiệm, sự tâm huyết của bản thân tôi về công tác
GD kĩ năng giao tiếp cho học sinh DTTS lớp 2A trong thời gian qua. Chắc
chắn rằng đề tài này còn có những thiếu sót nhất định, kính mong các cấp
quản lý cùng bạn bè đồng nghiệp góp ý chân thành giúp cho công tác chủ
nhiệm của tôi ngày càng thành công hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Như Thanh, ngày 5 tháng 6 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

24


Bùi Anh Đào

25


×