Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Phân tích hành vi hạn chế cạnh tranh và so sánh cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.89 KB, 6 trang )

1.

Đề tài
Phân tích khái niệm, đặc điểm của hành vi hạn chế cạnh tranh
được quy định tại Khoản 3 Điều 3 Luật cạnh tranh.

2. Phân tích, so sánh cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh
tranh theo quy định của Luật cạnh tranh 2004.
Cấu trúc bài thuyết trình:
A. Khái niệm, đặc điểm của hành vi hạn chế cạnh tranh.
I. Khái niệm.
II. Đặc điểm của các hành vi hạn chế cạnh tranh.
III. Phân tích vụ việc về hành vi hạn chế cạnh tranh.
1. Tóm tắt vụ việc
2. Phân tích các đặc điểm của hành vi hạn chế cạnh tranh thể hiện trong
vụ việc trên
B. So sánh cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh.
I. Giống nhau
II. Khác nhau.
III. Vụ việc cụ thể
1. Vụ việc về cạnh tranh không lành mạnh
2. Vụ việc về hạn chế cạnh tranh
I/ Khái niệm
Theo Khoản 3 Điều 3 Luật cạnh tranh 2004, hành vi hạn chế cạnh tranh là hành
vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường, bao gồm
hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng
vị trí độc quyền và tập trung kinh tế.
II. Đặc điểm của các hành vi hạn chế cạnh tranh.
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh là doanh nghiệp hoặc
nhóm doanh nghiệp
Phần lớn là doanh nghiệp có vị trí nhất định trên thị trường để có khả năng hạn


chế cạnh tranh, hoặc sự kết hợp hành động của các doanh nghiệp này tạo nên khả năng
hạn chế cạnh tranh.
Việc xác định vị trí của doanh nghiệp trên thị trường phụ thuộc vào thị phần
hoặc khả năng hạn chế cạnh tranh của doanh nghiệp đó.


Thứ hai, hành vi hạn chế cạnh tranh có thể là hành vi mang tính độc lập của
một doanh nghiệp hoặc là hành vi của một nhóm doanh nghiệp trên cùng một thị
trường liên quan.
Thứ ba, mục đích của các hành vi hạn chế cạnh tranh là nhằm cản trở và làm sai
lệch cạnh tranh trên thị trường.
Hậu quả của hành vi hạn chế cạnh tranh bao gồm
(i) thay đổi cấu trúc cạnh tranh của thị trường hoặc tương quan cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp;
(ii) hiện tượng phá sản hoặc giải thể của các doanh nghiệp;
(iii) lợi ích của các khách hàng, của người tiêu dùng bị xâm hại,…
III. Phân tích vụ việc về hành vi hạn chế cạnh tranh.
1. Tóm tắt vụ việc
Ngày 15/9/2008, Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam (HHBHVN) đã chủ trì tổ chức
Hội nghị thường niên các Tổng giám đốc phi nhân thọ lần thứ 6 (CEO PNT 6). Tại
đây, 15 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ (DNBH) đã ký thỏa thuận hợp tác trong
các lĩnh vực bảo hiểm hàng hóa, bảo hiểm tàu biển và bảo hiểm xe cơ giới. Sau đó, có
thêm bốn DNBH cũng muốn tham gia ký kết, nâng tổng số doanh nghiệp tham gia lên
19 doanh nghiệp.
Thị trường mà 19 DNBH hướng tới trong các bản thỏa thuận chính là thị trường
có phạm vi toàn quốc và ngay ở thời điểm ký kết, thị phần của 19 DNBH này là
99,79%. Các bản thỏa thuận này có sự thống nhất ý chí cùng hành động để gây hạn
chế cạnh tranh đó là không hạ phí, đồng thời thống nhất áp dụng mức phí 1,56% thu
của khách mua bảo hiểm xe ôtô và quy định về chế tài cụ thể, thể hiện ý chí tự nguyện
của các bên tham gia.

Hội đồng Xử lý vụ việc Cạnh tranh đã quyết định mở Phiên điều trần công khai
từ ngày 27/7/2010 để xử lý vụ việc cạnh tranh. Tại Phiên điều trần, Hội đồng đã xác
định thị phần kết hợp của 19 doanh nghiệp bảo hiểm tham gia thỏa thuận chiếm tỷ lệ
99.79%.
2. Phân tích các đặc điểm của hành vi hạn chế cạnh tranh thể hiện trong vụ việc
trên
Thứ nhất, về chủ thể tham gia là 19 doanh nghiệp bảo hiểm hoàn toàn độc lập
trên thị trường, tham gia thỏa thuận hoạt động độc lập với nhau và không phụ thuộc
với nhau về tài chính.
Thứ hai, có sự thống nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp tham gia thỏa
thuận một cách công khai: cùng hành động để gây hạn chế cạnh tranh đó là không hạ
phí, đồng thời thống nhất áp dụng mức phí 1,56% thu của khách mua bảo hiểm xe ôtô.
Từ đó, 19 doanh nghiệp này có cơ hội lớn hơn, có điều kiện thuận lợi hơn để có


được một thị phần lớn hơn trong tổng dung lượng thị trường bảo hiểm xe ôtô cả nước,
đồng thời hạn chế cạnh tranh đối với những doanh nghiệp khác.
Thứ ba, hậu quả của thỏa thuận này có thể làm giảm sức ép cạnh tranh, làm sai
lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường.
Thỏa thuận này gây ra cho thị trường sự xóa bỏ cạnh tranh vì 19 doanh nghiệp
bảo hiểm này đều lớn và có thị phần kết hợp lên tới 99,79% cùng với lượng khách
hàng rất hùng hậu và doanh thu tương đối lớn.
Hậu quả của nó có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người tiêu dùng và
gây thiệt hại cho các doanh nghiệp không tham gia việc thỏa thuận, cụ thể là 6 doanh
nghiệp còn lại trong thị trường bảo hiểm chỉ chiếm 0,21% thị phần, một con số rất
nhỏ.
Từ những phân tích về đặc điểm hành vi thỏa thuận của 19 doanh nghiệp bảo
hiểm, chúng ta có thể nhận định đây chính là hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
theo quy định của Luật cạnh tranh năm 2004.
Cụ thể hành vi này chính là hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bằng cách ấn

định giá hàng hóa dịch vụ một cách gián tiếp theo quy định tại Khoản 1 Điều 8 Luật
cạnh tranh năm 2004.
B. So sánh cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh.
I. Giống nhau
Đều là hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh được quy định trong Luật cạnh
tranh 2004.
II. Khác nhau.
Điểm khác biệt chủ yếu giữa hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế
cạnh tranh là khi xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh không yêu cầu xem xét
đến thị phần của doanh nghiệp thực hiện hành vi còn khi xem xét hành vi hạn chế cạnh
tranh phải xác định thị phần hoặc khả năng hạn chế cạnh tranh của doanh nghiệp đó.
Cụ thể, có thể xác định sự khác nhau giữa hành vi cạnh tranh không lành mạnh
và hạn chế cạnh tranh theo một số tiêu chí sau:
Hạn chế cạnh tranh
Cạnh tranh không lành
mạnh
Cơ sở pháp lý
Khoản 3 Điều 3 Luật cạnh Khoản 4 Điều 3 Luật cạnh
tranh 2004.
tranh 2004
Khái niệm
Hành vi của doanh nghiệp Hành vi cạnh tranh của
làm giảm, sai lệch, cản trở doanh nghiệp trong quá
cạnh tranh trên thị trường, trình kinh doanh trái với các
bao gồm hành vi thoả thuận chuẩn mực thông thường về
hạn chế cạnh tranh, lạm đạo đức kinh doanh, gây
dụng vị trí thống lĩnh thị thiệt hại hoặc có thể gây
trường, lạm dụng vị trí độc thiệt hại đến lợi ích của Nhà
quyền và tập trung kinh tế.
nước, quyền và lợi ích hợp

pháp của doanh nghiệp khác
hoặc người tiêu dùng.
Hành vi khách quan
- Hành vi thoả thuận hạn - Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;


chế cạnh tranh;
- Lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường, lạm dụng vị trí
độc quyền;
- Hành vi tập trung kinh tế.

- Xâm phạm bí mật kinh
doanh;
- Ép buộc trong kinh doanh;
- Gièm pha doanh nghiệp
khác;
- Gây rối hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp
khác;
- Quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh;
- Khuyến mại nhằm cạnh
tranh không lành mạnh;
- Phân biệt đối xử của hiệp
hội;
- Bán hàng đa cấp bất
chính;
- Các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh khác


Làm giảm, sai lệch, cản trở
cạnh tranh trên thị trường,
tác động tới môi trường
cạnh tranh nói chung và ảnh
hưởng tới nhiều doanh
nghiệp cạnh tranh trên thị
trường nói riêng.
Quy định về miễn trừ trách Một số trường hợp được
nhiệm
miễn trừ quy định tại Điều
10, Điều 19 Luật cạnh tranh
2014
Cơ quan có thẩm quyền xử Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
lý vi phạm
tranh
Xử phạt vi phạm
Nghị định 71/2014 quy
định về các hình thức xử
phạt gồm hình thức xử phạt
chính (cảnh cáo, phạt tiền),
hình thức xử phạt bổ sung
(thu hồi các loại giấy tờ, tịch
thu tang vật...) và các biện
pháp khắc phục hậu quả.

Thông thường chỉ ảnh
hưởng tới một hoặc một
nhóm doanh nghiệp cụ thể,
gây thiệt hại hoặc có thể

gây thiệt hại đến lợi ích của
Nhà nước, doanh nghiệp
hoặc người tiêu dùng.
Pháp luật không quy định
miễn trừ đối với hành vi
cạnh tranh không lành mạnh

Hậu quả

Cơ quan quản lý cạnh tranh
Các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh không chỉ
bị xử phạt hành chính, xử
phạt ở lĩnh vực dân sự mà
còn có thể bị truy cứu trách
nhiệm hình sự khi đạt đến
độ nguy hiểm nhất định cho
xã hội.

III. Vụ việc cụ thể
1. Vụ việc về cạnh tranh không lành mạnh
Vụ việc về Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác theo Khoản 5
Điều 39 Luật cạnh tranh.
Năm 2001, Taxi V20 chiếm 30-40% thị phần vận chuyển hành khách bằng taxi
của Hà nội do giá cả và cung cách phục vụ hợp lý.


Tuy nhiên, từ đầu tháng 10/2001, Trung tâm điều khiển vô tuyến điện của V20
bị tê liệt do một dải tần chèn phá và Trung tâm kiểm soát tần số khu vực I đã phát hiện
một số đài phát sóng lạ trên địa bàn Hà Nội, có vị trí phát sóng thường xuyên thay đổi,

gây nhiễu, phá liên lạc của hãng Taxi V20.
Ngày 19/10, Trung tâm kiểm soát tần số khu vực I đã xác định được 2 vị trí
phát sóng vô tuyến điện gây nhiễu vô tuyến điện trên cột ăngten.
Đêm 22/10 Lực lượng cảnh sát điều tra đã cùng các cán bộ Trung tâm kiểm soát
tần số khu vực I phát hiện tại trụ sở của hãng Taxi Thu Hương 5 thiết bị phát sóng,
khuyếch đại gây nhiễu loạn hệ thống thông tin của Taxi V20.
Chủ nhân của các thiết bị cũng là chủ hàng Taxi Thu Hường đã thừa nhận sai
phạm.
Hành vi gây rối nói trên đã làm cho gần 10.000 cuộc gọi của khách hàng gọi tới
V20 không thể thực hiện, gây thiệt hại trên dưới 300 triệu đồng trong 10 ngày thực
hiện việc phá hoại, gây những tổn hại về uy tín của Taxi V20 trước khách hàng.
Trong vụ việc trên có thể hiện một số đặc điểm của hành vi cạnh tranh không
lành mạnh cụ thể là gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác theo Khoản
5 Điều 39 Luật cạnh tranh như sau:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi là công ty Taxi Thu Hương - doanh nghiệp
cạnh tranh với doanh nghiệp bị gây rối – công ty Taxi V20.
Thứ hai, mục đích của hành vi là nhằm cạnh tranh trong kinh doanh. Pháp luật
cạnh tranh không yêu cầu xem xét thị phần của công ty thực hiện hành vi là công ty
Taxi Thu Hương.
Thứ 3, hành vi gây nhiễu, phá liên lạc của hãng Taxi V20 của công ty Taxi Thu
Hương là trái với các chuẩn mực đạo đức thông thường về đạo đức kinh doanh.
Thứ 4, hậu quả của hành vi là làm cho gần 10.000 cuộc gọi của khách hàng gọi
tới V20 không thể thực hiện, gây thiệt hại trên dưới 300 triệu đồng trong 10 ngày thực
hiện việc phá hoại, gây những tổn hại về uy tín của Taxi V20 trước khách hàng.
2. Vụ việc về hạn chế cạnh tranh
Vụ việc hai doanh nghiệp có hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường,
lạm dụng vị trí độc quyền quy định tại Khoản 5, Khoản 6 Điều 13 Luật cạnh tranh cụ
thể là áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan
trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng; Ngăn cản việc tham gia thị trường của những
đối thủ cạnh tranh mới.

Công ty Ánh Dương (có vị trí thống lĩnh trên thị trường dịch vụ lữ hành đối với
khách Nga, Ukraine và các nước khác trong khối CIS vào Việt Nam tại tất cả các điểm
du lịch trên toàn quốc) đã ký hợp đồng độc quyền sử dụng phòng với các khách sạn ở
Nha Trang, Phan Thiết, Phan Rang và đảo Phú Quốc phục vụ du khách Nga đến Việt
Nam.


Tuy nhiên, Công ty Ánh Dương đã có hành vi buộc doanh nghiệp khác (là các
khách sạn) phải chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của
hợp đồng. Bởi, đối tượng của hợp đồng cung cấp phòng chính là dịch vụ lưu trú, được
thực hiện thông qua việc thuê phòng khách sạn.
Ngoài ra, công ty Ánh Dương đã có hành vi ngăn cản việc tham gia thị trường
của những đối thủ cạnh tranh mới, như yêu cầu các khách sạn chỉ được nhận đặt phòng
cho du khách Nga, Ukraine và các nước trong khối CIS bay bằng chuyên cơ hay
chuyến bay thuê bao riêng của Công ty Ánh Dương đến Cam Ranh, Đà Nẵng.
Trong vụ việc trên có thể hiện một số đặc điểm của hành vi hạn chế cạnh tranh
cụ thể là:
Thứ nhất, chủ thể là công ty Ánh Dương có vị trí thống lĩnh trên thị trường liên
quan với thị phần 51,6%, có khả năng hạn chế cạnh tranh.
Thứ hai, Công ty Ánh Dương đã có hành vi buộc doanh nghiệp khác trên cùng
thị trường liên quan (là các khách sạn) phải chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan
trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng. Đây là hành vi được quy định tại tại Khoản 5,
Điều 13 của Luật Cạnh tranh.
Ngoài ra, Công ty Ánh Dương đã ngăn cản việc gia nhập thị trường của các
doanh nghiệp khác, bao gồm cả các đối thủ cạnh tranh mới. Đây là hành vi được quy
định tại Khoản 6, Điều 13 của Luật Cạnh tranh.
Thứ ba, hành vi của công ty Ánh Dương là hành vi không phù hợp với pháp
luật cạnh tranh, có khả năng làm hạn chế đáng kể cạnh tranh trên thị trường, giảm
động lực sáng tạo và gây thiệt hại cho người tiêu dùng.




×