Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

Việt nam trên đường tiến tới tự do hóa tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 139 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

TRẦN THỊ KIM CHI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2000


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

TRẦN THỊ KIM CHI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2000


Mục Lục
Mở đầu
Chương 1: Tự do hoá tài chính, xu hướng tất yếu của quá trình hội nhập
và tăng trưởng . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 4
1.1. Kiềm chế tài chính . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 4
1.2. Tự do hoá tài chính và mối quan hệ đồng biến với tăng trưởng. .. .. . . 5
1.3. Các điều kiện tiên quyết để tự do hoá tài chính . . . . . . . . . . . .. . . . 10
1.3.1. Điều chỉnh lãi suất một cách phù hợp . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 10
1.3.2. Giảm số lượng các chương trình tín dụng chỉ đònh . . . . . . . . .. . . . 10


1.3.3. Hệ thống pháp lý và kế toán phải có hiệu lực và minh bạch . . . . 10
1.3.4. Vấn đề tỷ giá hối đoái và bãi bỏ các biện pháp kiểm soát ngoại hối .
Chương 2: Thực trạng quá trình tự do hoá tài chính ở Việt Nam . . . . . .. 13
2.1.
2.1.1.
2.1.2.
2.1.3.
2.1.4.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.
2.3.
2.3.1.
2.3.2.

Vấn đề lãi suất ở Việt Nam. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 13
Các yếu tố tác động đến lãi suất . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. 14
Lãi suất trên thò trường tiền tệ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 16
Lãi suất trên thò trường vốn . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . 18
Thực trạng quản lý lãi suất ở Việt Nam . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 19
Vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 20
Những yếu tố chủ yếu để lựa chọn chính sách tỷ giá hối đoái.. . . . 20
Diễn biến tỷ giá hối đoái ở Việt Nam . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 21
Tình hình chỉ đạo phân bổ tín dụng ở Việt Nam . . . . . . . . . . . . . . . 24
Tình hình tài chính của các doanh nghiệp nhà nước . . . . . . . …. . . 25
Tình hình phân bổ tín dụng cho các doanh nghiệp nhà nước từ
hệ thống ngân hàng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . 27
2.4. Môi trường pháp lý ở Việt Nam . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 28
2.4.1. Khung pháp lý và những qui đònh giám sát trong hệ thống tài chính . .
.. . 28

2.4.2. Tình hình “sân chơi” của các doanh nghiệp Việt Nam . . . . . . . . . . 30
Chương 3: Các giải pháp tự do hoá tài chính ở Việt Nam . . . . . . . . . . . 32
3.1.
3.1.1.
3.1.2.
3.2.
3.2.1.

Điều kiện để tự do hoá tài chính ở Việt Nam . . . . . . . . . . .. . . 32
Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . 32
Các quan điểm và điều kiện để tự do hoá tài chính ở Việt Nam . . 33
Các giải pháp tự do hoá tài chính ở Việt Nam . . . . . . . . . . . . . . . . 35
Sự quản lý vó mô của Ngân hàng Nhà nước
bằng công cụ lãi suất cơ bản . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 35


a. Công cụ điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng Nhà nước . . . . . . . 36
- Lãi suất cho vay trên thò trường liên ngân hàng . . . .. . . . . . 37
- Lãi suất tái chiết khấu thương phiếu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 37
- Lãi suất thò trường tín dụng trung và dài hạn . . . . . . . . .. . . . 37
b. Điều kiện để sử dụng những công cụ điều chỉnh lãi suất của
Ngân hàng Nhà nước . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 38
c. Trình tự tự do hoá lãi suất . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 39
3.2.2. Giải pháp về chính sách tỷ giá hối đoái . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . 41
3.2.3. Các giải pháp khác . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . 44
a. Giải pháp triệt để cho vấn đề chỉ đạo phân bổ tín dụng ở Việt
Nam:
Các đề xuất liên quan đến việc cổ phần hoá các DNNN . . . 44
b. Xây dựng những nền tảng đònh chế của một nền kinh tế thò trường
c. Tạo ra một sân chơi bình đẳng . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 51

Chương kết luận . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . 52
Tài liệu tham khảo . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 55
Phần phụ lục . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .


Việt Nam trên đường tiến tới tự do hoá tài chính

MỞ ĐẦU
Nền kinh tế thế giới đang ngày càng trở nên hội nhập với sự hình
thành của các tổ chức hợp tác kinh tế, các khu vực mậu dòch tự do và tiến tới
nhất thể hoá. ASEAN đã kết nạp thành viên thứ mười của mình. Việt Nam
đang chuẩn bò các điều kiện cần thiết và trang bò sức mạnh để đứng vững
trong tổ chức AFTA khi các rào cản thuế quan được bãi bỏ dần trước thềm
thiên niên kỷ mới. Các hội nghò quốc tế về vấn đề toàn cầu hoá của WTO
đang diễn ra trong sự quan tâm của mọi giới. Đồng Euro đã tham gia thò
trường tiền tệ toàn cầu trong các cuộc giao dòch thanh toán quốc tế. Trong
xu thế toàn cầu đó, các quốc gia đang mở cửa biên giới của mình, bãi bỏ các
rào cản mậu dòch và nới lỏng các biện pháp kiểm soát tài chính để bước vào
quá trình hoà nhập toàn cầu nếu không muốn bò thiệt thòi, tụt hậu và đứng
lại bên lề cuộc chạy đua tăng trưởng. Hội nhập kinh tế và tăng trưởng kinh
tế dường như là hai kẻ song hành trong thời đại ngày nay. Dòng hàng hoá và
dòch vụ được trao đổi thông thoáng giữa các nước, và cùng với nó là dòng
vốn lưu chuyển trong một trào lưu chung
Đối với Việt Nam, chủ trương hội nhập cũng đã được khẳng đònh
trong Nghò quyết Đại hội VIII: “Xây dựng một nền kinh tế mở”, “Đẩy nhanh
quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Trong bối cảnh kinh tế thò
trường và trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tự do hoá tài chính trở
nên một xu hướng tất yếu của thời đại để đạt được tăng trưởng cao và bền
vững. Trực giác dường như mách bảo chúng ta rằng một hệ thống tài chính
hiệu quả là điều thiết yếu để tăng trưởng nhanh chóng. Nhưng thực tế các

nước cũng phơi bày những bài học thương đau về các quá trình tự do hoá
thất bại, gây ra xáo trộn kinh tế vó mô hơn là tăng trưởng, khiến chính phủ

1


Việt Nam trên đường tiến tới tự do hoá tài chính

các nước ấy phải thoái lui và từ bỏ ý đònh bãi bỏ kiểm soát qui đònh đối với
các nguồn vốn. Vậy thì, điều gì khiến nước này thành công nhưng nước khác
lại thất bại? Tại sao Đông Á một thời thành công còn châu Mỹ Latinh lại
xáo trộn? Tại sao sự thành công của Đông Á vẫn không ngăn được cuộc
khủng hoảng 1997-1998 dẫn đến suy thoái kinh tế và buộc các nước tìm đến
Quỹ Tiền tệ Quốc tế và chấp nhận những khoản vay có điều kiện để cứu
vãn nền kinh tế của họ? Tự do hoá tài chính quan hệ ra sao với tăng trưởng
kinh tế? Và nếu đó là mối quan hệ đồng biến, thì quốc gia cần phải hội đủ
những điều kiện gì để quá trình phát triển tài chính theo hướng tự do hoá đạt
được thành công? Việt Nam rút ra được những bài học gì từ quá trình tự do
hoá tài chính của các nước để thực hiện tiến trình này một cách xuôi chèo
mát mái hơn? Để tìm hiểu những vấn đề đó, trước tiên chúng tôi đã tìm hiểu
về lý thuyết kiềm chế tài chính và tự do hoá tài chính, xem xét các nghiên
cứu của Ngân hàng Thế giới về mối quan hệ của tự do hoá tài chính với
tăng trưởng cho nhiều quốc gia, từ đó đúc kết những biến số then chốt của
tự do hoá tài chính và tăng trưởng. Trên cơ sở này, chúng tôi so sánh với
tình hình thực tế của Việt Nam, tìm hiểu thực trạng những vấn đề này ở Việt
Nam hiện nay và đi tới kết luận về những điều kiện cần thiết để Việt Nam
có thể thực hiện tự do hoá tài chính thành công. Cuối cùng, chúng tôi đã cố
gắng tìm tòi một vài giải pháp khả dó cho những vấn đề được thảo luận
trong bối cảnh của Việt Nam nhằm chuẩn bò cho công cuộc tự do hoá tài
chính được tiến hành thuận lợi và hiệu quả.

Căn cứ theo một báo cáo của ngân hàng Thế giới đã được phổ biến
rộng rãi và xem ra được công chúng các nước đang phát triển quan tâm và
có nhu cầu sử dụng cao [1, 5], có ba vấn đề chính được quan tâm hàng đầu
trong quá trình phát triển hệ thống tài chính theo chiều hướng tự do hoá tài

2


Việt Nam trên đường tiến tới tự do hoá tài chính

chính tại các nước đang phát triển. Đó là: (1) điều chỉnh lãi suất một cách
phù hợp; (2) giảm các chương trình tín dụng chỉ đònh và (3) hệ thống pháp lý
và kế toán phải có hiệu lực và minh bạch.
Mọi hoạt động trong nền kinh tế đều liên quan đến tài chính, nên tự
do hoá tài chính là một đề tài rộng lớn, quan hệ đến nhiều lónh vực và bao
trùm nhiều vấn đề. Nói về tự do hoá tài chính, có thể kể đến lãi suất, lạm
phát, cung và cầu tiền, sự can thiệp của chính phủ, môi trường pháp lý và kế
toán, vấn đề tỷ giá hối đoái v.v... Trong khuôn khổ có hạn của một luận
văn thạc só kinh tế, chúng tôi không thể tiến hành một công việc nghiên cứu
toàn diện về tất cả mọi vấn đề có liên quan đến tự do hoá tài chính. Vì thế,
chúng tôi xin được phép giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài này trong
ba vấn đề chính yếu: (1) vấn đề lãi suất ở Việt Nam (2) tỷ giá hối đoái ở
Việt Nam và (3) những giải pháp khác, trong đó bao gồm những vấn đề đã
được báo cáo của Ngân hàng Thế giới đề cập đến như vấn đề chỉ đạo phân
bổ tín dụng, hệ thống pháp lý và kế toán ở Việt Nam. Như vậy, bản luận
văn này không nhằm xử lý vấn đề một cách toàn diện, tuy thế, nó bao trùm
những vấn đề được cho là quan trọng nhất và có nhiều ảnh hưởng nhất.

3



Việt Nam trên đường tiến tới tự do hoá tài chính

CHƯƠNG 1. TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH, XU HƯỚNG TẤT
YẾU CỦA QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP VÀ TĂNG TRƯỞNG
1.1. Kiềm chế tài chính
Từ năm 1973, McKinon và Shaw đã đặt nền tảng cho học thuyết tự
do hoá tài chính được nhiều nước theo đuổi và hiện nay Quỹ Tiền tệ Quốc
tế cũng như Ngân hàng Thế giới lấy đó làm kim chỉ nam đổi mới tài chính
trên toàn cầu: “Tự do hoá tài chính thành công là bộ phận cấu thành quan
trọng trong chiến lược tăng trưởng kinh tế của mỗi nước”[13]. Mô hình
kiềm chế tài chính McKinnon và Shaw lập luận rằng lãi suất thấp không
khuyến khích đầu tư. Đề xuất này thật khác thường so với kinh tế vó mô
trường phái Keynes truyền thống, trường phái này gắn liền lãi suất thấp với
mức đầu tư cao. Lý thuyết tân cổ điển cho rằng lãi suất thấp thì khuyến
khích đầu tư dựa trên lập luận rằng, lãi suất thấp có nghóa là chi phí sử dụng
vốn thấp, nên các nhà đầu tư tiếp tục đầu tư cho tới khi nào hiệu suất sinh
lợi biên tế của vốn (tuân theo qui luật sinh lợi giảm dần) trở nên nhỏ hơn chi
phí sử dụng vốn thì hành vi đầu tư mới dừng lại. Nhưng McKinnon và Shaw
lập luận rằng, lãi suất thấp trong một môi trường kiềm chế tài chính sẽ
không khuyến khích tiết kiệm và do vậy sẽ làm thui chột các quyết đònh đầu
tư.
Chính phủ đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển một hệ
thống tài chính tốt đẹp, tối thiểu hoá các vấn đề khó khăn về thông tin
không hoàn hảo và việc cưỡng chế thực thi hợp đồng hạn chế. Tuy nhiên,
thông thường chính phủ can thiệp vào hệ thống tài chính nhằm những mục

4



Việt Nam trên đường tiến tới tự do hoá tài chính

đích khác, thường là để tạo điều kiện dễ dàng cho các yêu cầu vay mượn
của riêng họ bằng cách tối đa hoá khả năng chi tiêu thông qua hành vi in
tiền (sovereign - thuế in đúc tiền). Điều đó dẫn tới kết quả ròng là cái mà ta
gọi là “kiềm chế tài chính”. Trong môi trường tài chính bò kiềm chế, chính
phủ can thiệp quá mức vào các hoạt động và các quá trình tài chính. Các
chính sách tài chính của chính phủ thiên về hệ thống ngân hàng hơn là các
đònh chế và công cụ tài chính khác. Những biện pháp như áp đặt kiểm soát
ngoại hối, qui đònh trần lãi suất, dự trữ bắt buộc cao, trực tiếp phân bổ tín
dụng (thường ưu tiên cho quốc doanh) và kiềm chế hay không phát triển thò
trường vốn tư nhân đều vận hành nhằm gia tăng dòng chảy của các nguồn
lực tài chính trong nước về cho khu vực công mà không phải tăng thuế hay
tăng tỷ lệ lạm phát. Môi trường kiềm chế tài chính còn biểu hiện ở sự bao
cấp tín dụng, lãi suất rất thấp hoặc âm. Khu vực tư nhân hầu như không có
cơ hội vay vốn tín dụng, không phát triển khả năng đầu tư, dẫn tới hạn chế
tăng trưởng kinh tế và gây ra bất ổn đònh kinh tế vó mô. Điều đó xảy ra theo
cơ chế nào?
Lý thuyết tân cổ điển nói rằng lãi suất thấp khuyến khích đầu tư,
nhưng lãi suất thấp kéo dài không khuyến khích dân chúng tiết kiệm dưới
dạng tiền gửi, mà tiết kiệm được lưu giữ dưới dạng vàng hoặc ngoại tệ
mạnh. Cầu vốn lớn hơn cung vốn, cộng với cơ chế phân bổ tín dụng ưu tiên
cho khu vực quốc doanh khiến cho những danh mục đầu tư có lợi không
nhận được vốn làm hạn chế tăng trưởng kinh tế. Nền kinh tế đói vốn tác
động tới lạm phát, làm lạm phát gia tăng và không kiểm soát được tỷ giá
hối đoái, dẫn tới xáo trộn kinh tế vó mô. Kiềm chế tài chính có thể giúp
chính phủ tài trợ cho thâm hụt của mình, nhưng làm cho tiết kiệm tư nhân
thấp, đầu tư tư nhân thấp và làm xấu đi môi trường ra quyết đònh đầu tư.

5



Việt Nam trên đường tiến tới tự do hoá tài chính

1.2. Tự do hoá tài chính và mối quan hệ đồng biến với tăng trưởng
Kiềm chế tài chính rõ ràng không thể dẫn tới tăng trưởng nhanh
chóng và rõ ràng không thể tồn tại được khi một quốc gia muốn hội nhập
vào nền kinh tế thế giới. Để hội nhập và tăng trưởng, quốc gia cần phải thực
hiện tự do hoá tài chính. Tự do hoá tài chính là một nền tài chính mà trong
đó không có hoặc chỉ có sự can thiệp rất ít của chính phủ vào hoạt động và
các quá trình tài chính. Trong môi trường tự do hoá tài chính, các quan hệ và
các giao dòch tài chính vận động theo cơ chế thò trường. Các dòng vốn được
tự do lưu chuyển từ nơi có hiệu suất sinh lợi thấp đến nơi có hiệu suất sinh
lợi cao mà không gặp phải một rào cản nào. Các dòng vốn đó bao gồm các
nguồn vốn đầu tư khu vực công và tư, vốn dân cư, vốn của các tổ chức tài
chính, của các tổ chức phi chính phủ trong nước và ngoài nước, vốn đầu tư
trực tiếp và gián tiếp. Như vậy, có thể nói vắn tắt rằng tự do hoá tài chính
là một quá trình tiến tới hoạt động tự do trên các thò trường tài chính. Thò
trường tài chính theo truyền thống bao gồm (1) thò trường tiền tệ và (2) thò
trường vốn. Nhưng nói đến tự do hoá tài chính, không thể không kể đến
một thò trường thứ ba: thò trường ngoại hối, bởi vì tự do hoá tài chính không
chỉ ngụ ý sự lưu chuyển vốn trong nước mà cả trên phạm vi toàn cầu. Vốn
khi lưu chuyển qua biên giới quốc gia thì tất yếu phải liên quan đến sự
chuyển đổi đồng tiền nước này sang đồng tiền nước khác. Hay nói cách
khác, theo đònh nghóa, tỷ giá hối đoái là giá của một tài sản này (tiền gửi
bằng nội tệ) tính bằng một tài sản khác (ngoại tệ). Do đó, lợi tức dự tính
của tiền gửi nước ngoài so với tiền gửi trong nước là nhân tố trung tâm của
việc xác đònh tỷ giá. Lợi tức dự tính phụ thuộc vào lãi suất và vào phần
trăm thay đổi của tỷ giá dự kiến. Chính ở đây, chúng ta gặp lại yếu tố lãi
suất, và cũng chính ở đây, chúng ta có thể thấy được sự giao thoa giữa thò


6


Việt Nam trên đường tiến tới tự do hoá tài chính

trường tiền tệ và thò trường vốn với thò trường ngoại hối. Cả ba làm nên thò
trường tài chính. Vì thế, thò trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái là một vấn
đề quan trọng trong tự do hoá tài chính. Và cũng chính vì thế, để giải quyết
vấn đề được nêu ra trong bản luận văn này, chúng tôi tập trung xem xét (1)
vấn đề lãi suất, vấn đề trọng tâm của thò trường tiền tệ và thò trường vốn ,
(2) vấn đề tỷ giá hối đoái, biến số chính của thò trường ngoại hối, và (3) các
vấn đề còn lại có liên quan mật thiết đến việc tự do hoá tài chính.
Có thể phân tự do hoá tài chính thành hai cấp độ:
• Tự do hoá tài chính nội đòa: chủ yếu thể hiện qua việc xoá bỏ kiểm soát
lãi suất và phân bổ tín dụng. Lãi suất sẽ được đònh đoạt dựa trên cơ chế
thò trường thông qua cung vốn và cầu vốn. Các ngân hàng sẽ cạnh tranh
nhau để thu hút vốn, giúp mở rộng cung ứng tín dụng. Mặt khác, việc
phân bổ tín dụng sẽ không chòu sự chi phối mạnh của chính phủ nữa mà
dựa trên tiêu chí hiệu quả đầu tư. Muốn đạt được điều đó, chính các
ngân hàng thương mại phải gánh lấy trách nhiệm thẩm đònh và gánh chòu
kết quả việc cho vay của họ. Chính phủ phải rút lui vào hậu đài như thể
người tạo ra môi trường chính sách và pháp lý mà thôi, không còn thực
hiện phân bổ tín dụng và không can thiệp vào việc bảo lãnh cho các
khoản vay ngoại trừ trường hợp hàng hoá và dòch vụ công. Cơ chế này
giúp cho hệ thống tài chính ngân hàng lớn mạnh, cán bộ ngân hàng vững
vàng về nghiệp vụ và phát huy năng lực thực sự.
• Tự do hoá tài chính quốc tế: thể hiện qua việc bãi bỏ các biện pháp kiểm
soát vốn và những hạn chế trong quản lý ngoại hối tiến tới tự do hoá
trong lónh vực chuyển đổi tiền tệ. Chính ở nội dung này mà chính sách


7


Việt Nam trên đường tiến tới tự do hoá tài chính

tỷ giá hối đoái có ý nghóa quan trọng đối với quá trình tự do hoá tài
chính.
Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế chủ trương ủng hộ tự do
hoá tài chính trên cơ sở lập luận rằng tự do hoá tài chính làm gia tăng số
lượng vốn đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn. Lý do là vì tự do hoá tài chính
gắn liền với mức lãi suất hình thành trên thò trường, cân bằng lợi ích hợp lý
giữa người cho vay, trung gian tài chính và người đi vay. Người cho vay
nhận được mức lãi suất thực dương, nhà trung gian tài chính cân đối được lợi
ích và chi phí trên cơ sở chi phí tài trợ khoản vay hợp lý và bảo hiểm rủi ro;
và người đi vay nhận được nguồn vốn cho công việc đầu tư mà anh ta tin
rằng có được hiệu suất sinh lợi vượt hơn chi phí nợ vay. Nhờ cơ chế đó, tiết
kiệm gia tăng, đầu tư gia tăng và nền kinh tế đạt được tăng trưởng. Tự do
hoá tài chính đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng vốn hiệu quả, hệ thống
tài chính ngân hàng phát triển lành mạnh và các loại thò trường tài chính
phát triển mạnh mẽ từ đó giúp cho các nguồn lực tài chính được phân phối
hợp lý dựa trên tiêu chí suất sinh lời xã hội và sử dụng hiệu quả.
Với sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới, nhiều nước đang phát triển đã
thực hiện cải cách tài chính bao gồm việc bãi bỏ trần lãi suất và bãi bỏ
kiểm soát các giao dòch tài chính. Kết quả chẳng phải luôn luôn tốt đẹp dù
lý thuyết khẳng đònh tính đúng đắn của tự do hoá tài chính. Nhìn lại bài học
các nước rơi vào thất bại và phân tích lý thuyết, chúng ta có thể đưa ra một
vài lý do giải thích sự thất bại của một vài quốc gia (không phải toàn bộ)
như sau:
• Trong một vài trường hợp, tăng lãi suất dẫn tới giảm vốn sở hữu thuần

của người đi vay, điều này dẫn tới việc làm tăng chứ không phải làm

8


Việt Nam trên đường tiến tới tự do hoá tài chính

giảm chi phí của việc cung ứng các khoản vay. Vốn sở hữu thuần của
người đi vay (bao gồm lượng tài sản tích luỹ trong quá khứ và hiện giá
của thu nhập thuần trong tương lai) càng lớn thì người cho vay càng ít tốn
chi phí giám sát hoạt động và giải quyết tranh chấp với người đi vay, và
số tiền vay được của người đi vay càng lớn. Vốn sở hữu thuần của người
đi vay càng giảm, người cho vay càng không muốn cho vay (do sợ rủi ro,
sợ tốn chi phí giám sát và giải quyết tranh chấp...), nền kinh tế càng ít có
những khoản vay lớn và dài hạn.
• Trong một vài trường hợp, việc hoạch đònh thời gian cho tự do hoá là
kém cỏi. Tự do hoá trùng hợp với các điều kiện bên ngoài xấu (lãi suất
thế giới gia tăng, giá hàng hoá giảm, tăng tỷ giá hối đoái, suy thoái kinh
tế thế giới…) cũng làm giảm vốn sở hữu thuần của người đi vay và làm
tăng chi phí của việc cung ứng các khoản vay. Vì vốn sở hữu thuần của
người vay phụ thuộc vào các biến số kinh tế thực (thu hoạch quá khứ,
sức mạnh của nền kinh tế trong những năm gần đây, và những dự đoán
về triển vọng kinh tế trong tương lai), nên hệ thống tài chính có xu
hướng vận hành làm khuếch đại các dao động trong hoạt động kinh tế.
Nói cách khác, hệ thống tài chính làm cho tình hình tồi tệ càng trở nên
tồi tệ hơn và tình hình tốt đẹp càng trở nên tốt đẹp hơn.
• Cuối cùng, trong một vài trường hợp, các trung gian tài chính lạm dụng
sự tự do mới có được của mình để cung ứng những khoản vay kém dựa
trên tiền đề là họ sẽ được nhà nước bảo kê nếu sự việc trở nên tồi tệ.
Các nghiên cứu trước đây (ví dụ như nghiên cứu của King và Levine)

đã cho thấy rằng các biện pháp phát triển trung gian tài chính theo hướng tự
do hoá báo trước cho sự tăng trưởng kinh tế trong 18 tới 30 năm sau tại

9


Việt Nam trên đường tiến tới tự do hoá tài chính

nhiều quốc gia. Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cũng đã tìm hiểu xem
liệu tự do hoá tài chính có phải chỉ là một chỉ báo hàng đầu hay chính là
nguyên nhân của tăng trưởng kinh tế. Nghiên cứu nhận thấy rằng “tự do hoá
tài chính phát huy một tác động to lớn mang tính nhân quả đối với tăng
trưởng kinh tế” [16].

Sau khi thiết lập được mối quan hệ nhân quả giữa

phát triển tài chính và tăng trưởng, công trình nghiên cứu đã xem xét các
yếu tố xác đònh sự phát triển tài chính. Nghiên cứu cho thấy rằng, những
điểm khác biệt trong hệ thống pháp lý và tiêu chuẩn hạch toán giữa các
nước (không kể những cái khác) giải thích cho sự khác biệt trong quá trình
phát triển tài chính giữa các nước; họ đi đến kết luận sau:
(1) Những quốc gia nào mà hệ thống pháp luật và qui đònh pháp lý mang lại
sự ưu tiên cao cho những người cung ứng tín dụng (người tiết kiệm) được
hưởng toàn bộ hiện giá của các khoản cho vay của họ thì những quốc
gia ấy có các trung gian tài chính hoạt động tốt hơn so với những quốc
gia mà hệ thống pháp lý hỗ trợ những người cung ứng tín dụng một cách
yếu kém hơn.
(2) Sự cưỡng chế thi hành hợp đồng xem ra rất quan trọng, thậm chí còn
quan trọng hơn các bộ luật và qui đònh pháp lý. Những quốc gia nào áp
đặt được việc tuân thủ pháp luật một cách hữu hiệu thì có xu hướng có

được các trung gian tài chính phát triển tốt hơn so với các quốc gia mà
việc thi hành pháp luật lỏng lẻo hơn.
(3) Việc truyền đạt thông tin rất quan trọng. Những quốc gia nào mà ở đó,
các công ty công bố các báo cáo tài chính tương đối sâu rộng/toàn diện
và chính xác thì có các trung gian tài chính phát triển tốt hơn so với

10


Việt Nam trên đường tiến tới tự do hoá tài chính

những quốc gia mà những thông tin được công bố về các công ty kém
tin cậy hơn.
1.3.

Các điều kiện tiên quyết để tự do hoá tài chính
Tự do hoá tài chính là một vấn đề được thế giới đang phát triển hết

sức quan tâm. Ngân hàng Thế giới đã thực hiện nhiều nghiên cứu về đề tài
này và đúc kết ba vấn đề đáng quan tâm hàng đầu trong quá trình phát triển
hệ thống tài chính theo chiều hướng tự do hoá và hội nhập quốc tế tại các
nước đang phát triển [1, 5]. Ở đây, chúng tôi xin tóm tắt lại những vấn đề
này nhằm sử dụng chúng làm một khung khổ chuẩn mực để so sánh nghiên
cứu thực trạng Việt Nam:
1.3.1. Điều chỉnh lãi suất một cách phù hợp: Đối với những nước có được
sự ổn đònh kinh tế vó mô và thò trường tài chính tương đối phát triển,
thì nên để cho các lực lượng thò trường tác động lên lãi suất. Ở những
quốc gia chưa đạt được sự ổn đònh vó mô và thò trường tài chính còn
non yếu, chính phủ có thể tiến hành kiểm soát lãi suất. Việc kiểm
soát này phải hết sức linh hoạt để tính đến các tác động của lạm phát

và các sức ép của cung cầu vốn trên thò trường. Việc điều chỉnh lãi
suất một cách phù hợp là hết sức quan trọng đối với những nền kinh
tế có thò trường vốn mở.
1.3.2. Giảm số lượng các chương trình tín dụng chỉ đònh: Trong hệ thống
kiềm chế tài chính, chính phủ thường tham gia nhiều vào việc phân
bổ tín dụng. Nhưng trong một thế giới có mức giá biến động, có cơ
cấu kinh tế phức tạp và có những thò trường tài chính phát triển thì
những biện pháp quản lý như thế có nguy cơ dẫn đến những kết quả
sai lệch, phương hại đến hiệu quả kinh tế. Nghiên cứu của Ngân

11


Việt Nam trên đường tiến tới tự do hoá tài chính

hàng Thế giới đi đến kết luận rằng, nguồn vốn có thể được phân bổ
tốt hơn bằng cách giảm số lượng các chương trình tín dụng theo chỉ
đònh, giảm tỷ lệ tín dụng phải chòu tác động của việc chỉ đònh và giảm
mức độ trợ cấp lãi suất. Tại những quốc gia mà chính phủ vẫn tiếp
tục chỉ đạo việc phân bổ tín dụng thì phải xác đònh phạm vi ưu tiên
hẹp hơn. Thay vì trợ cấp lãi suất, một biện pháp gây nguy hại cho
quá trình hoạt động tài chính, tốt hơn là nên tập trung vào việc tạo
nguồn tín dụng.
1.3.3. Hệ thống pháp lý và kế toán phải có hiệu lực và minh bạch: Ngân
hàng Thế giới nhấn mạnh rằng, bản thân việc tự do hoá các tổ chức
tài chính thoát khỏi sự kiểm soát lãi suất và phân bổ tín dụng không
thôi thì chưa đủ để đảm bảo rằng hệ thống tài chính sẽ phát triển như
mong muốn. Cần phải có một hệ thống pháp lý và kế toán minh bạch
và chuẩn xác, thiết lập được sự cưỡng chế thi hành hợp đồng một
cách hữu hiệu, đồng thời kiểm soát giám sát tốt thò trường tài chính

và các tổ chức tài chính thì mới hội đủ những điều kiện tiên quyết
cho sự phát triển và tự do hoá hệ thống tài chính. Hệ thống pháp lý
và kế toán vững chắc giúp cho nền tài chính được lành mạnh và an
toàn, ít chứa đựng những nguy cơ gây ra khủng hoảng. Tính lành
mạnh của hệ thống tài chính yêu cầu các hoạt động tài chính rõ ràng,
được kiểm tra kiểm soát tốt, có hệ thống kế toán công khai minh
bạch, được kiểm toán, chống lại mọi biểu hiện gian lận, đầu cơ tài
chính. Mức độ an toàn của hệ thống tài chính đặc biệt quan trọng
trong tiến trình hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay. Hệ thống tài
chính cần vững mạnh, giảm tới mức thấp nhất những cú sốc từ bên

12


Việt Nam trên đường tiến tới tự do hoá tài chính

ngoài và hạn chế tới mức thấp nhất những khủng hoảng từ bản thân
nó.
1.3.4. Vấn đề tỷ giá hối đoái và bãi bỏ các biện pháp kiểm soát ngoại hối:
Vì một lý do nào đó, báo cáo của Ngân hàng Thế giới không phân
tích vấn đề chính sách tỷ giá hối đoái, mà chỉ đơn cử một vài ví dụ
của một số quốc gia đã bãi bỏ kiểm soát ngoại hối trong quá trình tự
do hoá tài chính [1, 7] nhưng như đã lập luận trong phần trên (trang 6
bản luận văn này), chúng tôi cho rằng thò trường tài chính theo nghóa
rộng không những chỉ có thò trường tiền tệ và thò trường vốn mà còn
phải bao trùm cả thò trường ngoại hối trong xu thế hội nhập toàn cầu
và sự lưu chuyển vốn xuyên biên giới quốc gia hiện nay. Và nói đến
tự do hoá tài chính mà không nhắc đến chính sách tỷ giá hối đoái sẽ
là một thiếu sót lớn. Vì thế, dựa vào những kết luận đã được đúc kết
của Ngân hàng Thế giới và dựa vào lập luận trên, trong chương 2

chúng tôi sẽ phân tích thực trạng Việt Nam xoay quanh những vấn
đề, tuy không phải là đầy đủ mọi vấn đề có liên quan, nhưng được
cho là thiết yếu nhất đối với quá trình tự do hoá tài chính: vấn đề lãi
suất, vấn đề tỷ giá hối đoái và những vấn đề khác, trong đó có vấn
đề chỉ đạo phân bổ tín dụng, môi trường pháp lý và kế toán kiểm
toán. Từ phân tích thực trạng mỗi vấn đề, chúng tôi sẽ đề xuất một
số giải pháp cho Việt Nam trên con đường tiến tới hội nhập tài chính
với thò trường quốc tế trong chương 3.

13


Việt Nam trên đường tiến tới tự do hoá tài chính

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH TỰ DO HOÁ TÀI
CHÍNH Ở VIỆT NAM
2.1. Vấn đề lãi suất ở Việt Nam
Trong xu thế tự do hoá tài chính, lãi suất thể hiện cung cầu vốn và
giúp luân chuyển nguồn vốn giữa các quốc gia từ nơi có sinh lợi thấp đến
nơi có sinh lợi cao. Với vai trò là một công cụ để thực hiện chính sách tiền
tệ quốc gia, lãi suất là một yếu tố hết sức quan trọng ảnh hưởng tới tiết
kiệm, đầu tư, và tiêu dùng, và từ đó ảnh hưởng lớn đến tổng cầu hay sự tăng
trưởng của quốc gia. Trần lãi suất cho vay ở Việt Nam hiện đã nhiều lần
được hạ thấp nhằm tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư và thực hiện chính
sách kích cầu rộng lớn của đất nước. Nhưng tuy đã nhiều lần hạ lãi suất mà
tiền gửi tiết kiệm vẫn không giảm, số dư cho vay vẫn không tăng đáng kể.
Điều đó cho thấy là lãi suất ấn đònh của Ngân hàng Nhà nước chưa điều
chỉnh cung cầu vốn như mong muốn. Phải chăng lãi suất cần được tự do hoá
cũng như xu thế tự do hoá thò trường hàng hoá để phản ánh được cung cầu
vốn trong nền kinh tế? Phải chăng Ngân hàng Nhà nước cần chuẩn bò để tự

do hoá lãi suất, có thể xem như giá cả của nguồn vốn, để tạo môi trường
thuận lợi hơn về phiá cung, tức việc huy động vốn, và về phiá cầu, tức khiá
cạnh đầu tư của nền kinh tế? Vậy thì, trong xu thế tự do hoá lãi suất, ngân
hàng Nhà nước sẽ sử dụng những công cụ chính sách gì để quản lý điều tiết
sự biến thiên của lãi suất trên thò trường nhằm đạt được những mục tiêu của
chính sách kinh tế quốc dân nói chung và chính sách tiền tệ nói riêng?
Chúng tôi xin được thảo luận về những yếu tố tác động đến lãi suất trên thò
trường và vấn đề lãi suất trên thò trường tài chính để làm cơ sở cho những
giải pháp liên quan đến vấn đề lãi suất, hay nói cụ thể hơn, những đề xuất

14


Việt Nam trên đường tiến tới tự do hoá tài chính

về vai trò của Ngân hàng Nhà nước sau khi bãi bỏ trần lãi suất, thực hiện tự
do hoá lãi suất trong phần 3 của bản luận văn này.
2.1.1. Các yếu tố tác động đến lãi suất
Lãi suất tác động rõ rệt và mạnh mẽ đến lưu thông tiền tệ thông qua
việc ấn đònh lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay. Bằng lãi suất tiền gửi,
ngân hàng huy động các nguồn vốn trong công chúng tích tụ thành một
nguồn tiền lớn rồi mang cho nguồn tiền đó cho khu vực doanh nghiệp vay
với lãi suất cho vay. Lãi suất tiền gửi (hay lãi suất huy động) và lãi suất cho
vay biến thiên cùng chiều. Hễ lãi suất huy động cao, lãi suất cho vay cao.
Lãi suất huy động cao khuyến khích dân chúng gửi tiền nhiều, ngân hàng
huy động được nhiều vốn và khả năng cho vay tăng lên. Nhưng mặt khác,
lãi suất cho vay cao không khuyến khích doanh nghiệp vay vốn, đầu ra khó
khăn và vốn tồn đọng trong ngân hàng. Ngược lại lãi suất cho vay là yếu tố
thúc đẩy nhiều người đi vay ở ngân hàng. Mà lãi suất cho vay thấp, tất
nhiên lãi suất huy động cũng thấp, đến mức nào đó, nó không khuyến khích

dân chúng tiết kiệm nữa.
Lãi suất tín dụng thực chất là giá cả của tín dụng, giá cả của quyền sử
dụng vốn. Marshall nói “Lãi suất là cái giá phải trả cho việc sử dụng vốn
trên một thò trường bất kỳ”.
Lãi suất tăng hay giảm do sự thay đổi trong cung và cầu tiền; đến
lượt nó, cung và cầu tiền lại phụ thuộc vào các nhân tố sau đây:
• Thu nhập quốc dân: Khi thu nhập quốc dân càng cao thì cầu tiền gia tăng
do các tầng lớp dân cư, doanh nghiệp và khu vực chính phủ có cần có
lượng tiền nhiều hơn để thực hiện các giao dòch, thỏa mãn nhu cầu về

15


Việt Nam trên đường tiến tới tự do hoá tài chính

tiêu dùng và đầu tư, nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế xã hội v.v… Cầu
tiền tăng gây sức ép lên lãi suất. Nếu cung tiền không tăng, lãi suất sẽ
gia tăng để đạt đến trạng thái cân bằng mới trên thò trường tiền tệ.
• Sự can thiệp của chính phủ: Sự can thiệp của chính phủ, đặc biệt thông
qua chính sách tiền tệ là nhân tố tác động rất mạnh đến lãi suất, bởi vì
chính sách tiền tệ sẽ sử dụng các công cụ để tác động đến cung tiền (M)
của nền kinh tế. Trên nguyên tắc, khi cung tiền tăng, nếu các yếu tố
khác không đổi, lãi suất có khuynh hướng giảm xuống; và ngược lại, khi
cung tiền giảm thì lãi suất tăng lên. Giả sử khi cung tiền tăng, tiền gửi
tại ngân hàng cũng tăng lên, ngân hàng có dư thanh khoản, sẽ có khuynh
hướng chấp nhận một lãi suất cho vay thấp hơn thường lệ. Ngược lại, khi
cung tiền giảm, ký thác không kỳ hạn tại ngân hàng cũng giảm, khả
năng cho vay của ngân hàng cũng yếu đi, ngân hàng có xu hướng cho
vay với lãi suất cao hơn thường lệ. Nhưng đây chỉ là một mô hình tónh
trên lý thuyết, vì thông thường trong thực tế, khi cung tiền tăng, lạm phát

sẽ có xu hướng gia tăng. Khi đó, lãi suất thực thỏa thuận giữa người đi
vay và người cho vay sẽ gia tăng để bù trừ lạm phát. Nếu ngân hàng
trung ương muốn thực hiện chính sách nhằm kiểm soát lượng tiền cung
ứng và kiểm soát lạm phát, nhất đònh sẽ tác động rất lớn đến lãi suất,
chẳng hạn muốn giảm bớt cung tiền (thực hiện chính sách thắt chặt tiền
tệ), ngân hàng trung ương sẽ nâng lãi suất chiết khấu, nhờ đó các mức
lãi suất tín dụng theo đó cũng sẽ được nâng lên và ngược lại. Trên thực
tế, chính sách của ngân hàng trung ương đối với cung tiền thường đi đôi
với chính sách lãi suất. Nói cách khác, khi ngân hàng trung ương muốn
gia tăng cung tiền, ngân hàng trung ương cũng áp dụng một chính sách
lãi suất thấp nhằm khuyến khích giới doanh nghiệp đi vay nhiều hơn. Do

16


Việt Nam trên đường tiến tới tự do hoá tài chính

đó, ngân hàng trung ương sẽ hạ thấp lãi suất tái chiết khấu hoặc trần lãi
suất mà các ngân hàng thương mại không được vượt quá.
• Tình hình lạm phát trong nước: Lãi suất thường biến động tỷ lệ thuận với
tốc độ lạm phát, thông thường ở những nước có tỷ lệ lạm phát cao thì lãi
suất cũng tăng cao. Như đã trình bày ở trên, khi lạm phát tăng, người đi
vay và người cho vay thường thoả thuận một mức lãi suất sao cho bù đắp
được tỷ lệ lạm phát để đạt được lãi suất thực dương. Từ đó dẫn đến khái
niệm lãi suất danh nghóa và lãi suất thực. Lãi suất danh nghóa là lãi suất
công bố để áp dụng trong các mối quan hệ tài chính tín dụng. Còn lãi
suất thực là lãi suất danh nghóa đã loại trừ tỷ lệ lạm phát. Khi cho vay
trong tình hình đang có lạm phát cao, người cho vay có xu hướng đòi hỏi
mức lãi suất danh nghóa cao hơn để bù trừ tỷ lệ lạm phát, do đó ta có mối
quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghóa như sau:

Lãi suất danh nghóa = lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát dự kiến.
2.1.2. Lãi suất trên thò trường tiền tệ
Thò trường tiền tệ, như chúng ta đã biết, là một bộ phận của thò trường
tài chính, là nơi mua bán các giấy nợ ngắn hạn có thời hạn dưới một năm.
Các công cụ của thò trường tiền tệ bao gồm trái phiếu, tín phiếu kho bạc, các
loại thương phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu ngân hàng, các
khế ước cho vay v.v… Đã là nợ thì phải trả lãi. Người chủ trái phiếu được
hưởng lãi sau một thời gian. Người bán trái phiếu là người cần tiền và
người mua trái phiếu là người có tiền muốn đầu tư để sinh lợi sau một thời
gian ngắn. Điều này cho thấy rằng lãi suất trên thò trường tiền tệ có tác
dụng lôi cuốn một số lượng tiền tiết kiệm hoặc tiền dư tạm thời từ nơi thừa
sang nơi thiếu hoặc nơi cần.

17


Việt Nam trên đường tiến tới tự do hoá tài chính

Sự biến đổi lãi suất trên thò trường tiền tệ tuân theo một vài yếu tố
chính: (1) giá của trái phiếu, (2) sự tương quan cung và cầu trái phiếu, (3) sự
dự đoán của những người tham gia trên thò trường tiền tệ về giá trái phiếu,
(4) sự can thiệp của ngân hàng trung ương trên thò trường tiền tệ.
Trước hết, lãi suất biến đổi ngược chiều với giá của các trái phiếu.
Ví dụ, một trái phiếu kho bạc có thời hạn trả là 3 tháng, được bán với giá
970.000 đồng, đáo hạn được hoàn trả 1.000.000 đồng, sai biệt là tiền lãi của
trái phiếu, vào khoảng 1% một tháng. Nếu giá lên 980.000 đồng, lời chỉ
còn 20.000 đồng, lãi suất hạ xuống dưới 1%. Hãy xem một ví dụ khác: nếu
một trái phiếu có ghi tiền lời được lãnh mỗi năm là 5.000 đồng, người ta
mua với giá 50.000 đồng, thì lãi suất là 10%. Nếu giá trái phiếu này tăng
lên 100.000 đồng, lãi suất giảm còn 5%. Thứ hai, lãi suất tùy thuộc vào mối

tương quan giữa cung và cầu các trái phiếu. Nếu có nhiều người muốn bán
các trái phiếu (cung trái phiếu tăng) trong khi cầu đối với trái phiếu ấy
không đổi, thì giá của trái phiếu có xu hướng giảm, nghóa là lãi suất tăng
lên. Thứ ba, lãi suất phụ thuộc sự dự đoán và hành vi của những người tham
gia thò trường. Giả sử trong trường hợp sự biến động cung cầu làm giảm giá
trái phiếu và tăng lãi suất. Khi đó, lãi suất tăng là một yếu tố hấp dẫn
người mua trái phiếu nhiều hơn, tức làm tăng cầu. Mặt khác, khi giá các
trái phiếu giảm, những người đầu cơ trên thò trường tiền tệ có thể tiên đoán
rằng giá cả các trái phiếu sẽ không giảm nữa, vì nó đã giảm nhiều rồi. Do
đó, họ có khuynh hướng mua trái phiếu trước khi nó lên giá trở lại. Điều
này làm tăng cầu thêm nữa, có ảnh hưởng làm tăng giá trái phiếu, tức làm
giảm lãi suất.

18


Việt Nam trên đường tiến tới tự do hoá tài chính

Nhưng những người đầu cơ cũng có thể dự đoán ngược lại. Tình
huống của thò trường tiền tệ lẽ tất nhiên biến đổi nhiều mặt, tuỳ dự đoán và
sự tính toán của tất cả những người tham gia thò trường. Nếu ngược lại,
người ta tiên đoán giá trái phiếu sẽ còn giảm nữa, trong tình hình khủng
hoảng chính trò hay kinh tế, họ sẽ vội vã bán trái phiếu trước khi giá của nó
tụt giảm trầm trọng làm bùng nổ khủng hoảng trên thò trường tài chính.
Ngoại trừ trường hợp cực đoan đó, vả lại còn có sự can thiệp của ngân hàng
trung ương trên thò trường tiền tệ để tránh tình huống xấu này có thể xảy ra,
thông thường giá các trái phiếu xuống tới mức độ nào đó rồi lại tăng lên vì
những tiên đoán lạc quan của những người đầu cơ. Lãi suất sau khi đứng lại
rồi lại sụt giảm khi giá trái phiếu bắt đầu tăng lên. Nói tóm lại, lãi suất trên
thò trường tiền tệ luôn luôn biến đổi tùy theo tương quan cung cầu, và tuỳ

theo những dự đoán của những người tham gia trên thò trường này. Và thứ
tư, đó cũng là lý do khiến ngân hàng trung ương can thiệp vào lãi suất trên
thò trường tiền tệ thông qua các nghiệp vụ thò trường mở: những hành vi mua
hay bán trái phiếu ra thò trường.
Ngân hàng trung ương có thể mua hay bán trái phiếu để duy trì mức
lãi suất trên thò trường tiền tệ ở một mức tương đương với lãi suất tín dụng
trong hệ thống ngân hàng, vì ngân hàng trung ương không muốn thay đổi
mức lãi suất hiện hành. Ngân hàng trung ương cũng có thể chủ động tăng
hay giảm lãi suất theo chính sách tiền tệ của mình: nếu muốn tăng lãi suất,
ngân hàng trung ương sẽ tung trái phiếu ra bán, làm giá trái phiếu giảm, lãi
suất tăng. Ngược lại, muốn giảm lãi suất, ngân hàng trung ương mua trái
phiếu vào làm cho giá trái phiếu đắt hơn, lãi suất tăng.

19


Việt Nam trên đường tiến tới tự do hoá tài chính

2.1.3. Lãi suất trên thò trường vốn
Trên thò trường vốn, các giấy nợ trung hạn, dài hạn (chứng khoán có thời
hạn trên một năm) và các loại cổ phiếu được mua bán. Lãi suất trên thò
trường tiền tệ là lãi suất ngắn hạn, còn lãi suất trên thò trường vốn là lãi suất
dài hạn.
Những biến đổi của lãi suất trên thò trường vốn cũng phụ thuộc vào
những yếu tố giống như trên thò trường tiền tệ, tức lãi suất biến đổi ngược
chiều với giá cổ phiếu và trái phiếu dài hạn, và tuỳ thuộc vào mối tương
quan giữa cung và cầu của chứng khoán. Nếu so với trái phiếu ngắn hạn
trên thò trường tiền tệ, vốn biến động rất mạnh với lãi suất, thì giá trái phiếu
dài hạn biến động chậm hơn. Nhưng đối với cổ phiếu, những thông tin về
lãi suất tác động rất mạnh đến giá cổ phiếu. Tuy nhiên, trên thò trường tín

dụng trung và dài hạn này, không có sự can thiệp trực tiếp của ngân hàng
trung ương. Ngân hàng trung ương không mua bán chứng khoán, mà chỉ có
ảnh hưởng gián tiếp qua việc can thiệp trên thò trường tiền tệ từ đó tác động
đến lãi suất thò trường vốn. Nói chung, lãi suất ngắn hạn biến đổi mạnh
hơn, sâu rộng hơn lãi suất dài hạn và thường thấp hơn lãi suất dài hạn. Mặc
dầu vậy, khuynh hướng biến đổi của hai loại lãi suất ngắn và dài hạn vẫn
theo cùng một chiều hướng như nhau.
2.1.4 Thực trạng quản lý lãi suất ở Việt Nam
Từ những khái quát trên, ta thấy lãi suất là giá phải trả để sử dụng một
số tiền vay thông qua hợp đồng vay hay bán trái phiếu trong một thời gian
nhất đònh. Nhưng tiền tệ là một mặt hàng hoàn toàn khác với bất kỳ sản
phẩm hay dòch vụ nào khác. Đối với tiền tệ, người cho vay phải thu hồi lại

20


Việt Nam trên đường tiến tới tự do hoá tài chính

“món hàng” của mình cùng với cái giá nhận được sau một thời gian để cho
người đi vay sử dụng sản phẩm của mình, và “món hàng” lại tiếp tục được
cho vay để các doanh nghiệp tạo ra thêm hoặc lưu thông hàng hoá và dòch
vụ khác cho xã hội. Người bán sản phẩm, tức người cho vay, chỉ nhận được
một khoản tiền bán sản phẩm (lãi vay) chiếm một tỷ lệ nhỏ so với giá trò
của sản phẩm (khoản vay). Vì thế, yếu tố rủi ro đóng một vai trò rất lớn
trong lónh vực kinh doanh này. Mặt khác, tiền lại là một công cụ để nhà
nước quản lý vó mô trong nền kinh tế nên “món hàng kinh doanh” này phải
được nhà nước quản lý chặt chẽ. Các ngân hàng thương mại vừa là đối
tượng vừa là chủ thể chính thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà
nước. Trong thời gian vừa qua, cho dù Ngân hàng Nhà nước đã nhiều lần hạ
trần lãi suất nhưng cầu vốn vẫn không tăng lên được, trái lại, mức cung vẫn

không giảm, và tiền gửi ở các ngân hàng vẫn tồn đọng nhiều. Như vậy có
nghóa là qui đònh trần lãi suất của ngân hàng vẫn không phản ánh được mức
cung cầu của đồng vốn, ta không thể đònh mức trần hay mức sàn để khống
chế nhằm mục tiêu thúc đẩy doanh nghiệp đi vay hay bảo vệ người cho vay.
Qui đònh lãi suất bằng mệnh lệnh hành chính vẫn không phải là một công cụ
thích hợp trong xu thế tự do hoá ngày nay, và rõ ràng không đạt được mục
tiêu chính sách mong muốn trong mục tiêu chung của hệ thống chính sách là
kích cầu, thúc đẩy tăng trưởng.
Bảo vệ an toàn tiền gửi cho khách hàng dó nhiên phải là mục tiêu
hàng đầu của ngân hàng vì có như thế ngân hàng mới xây dựng được uy tín
để tồn tại. Chính vì vậy mà mỗi ngân hàng phải tự đánh giá khách hàng
của mình để ấn đònh một lãi vay cho phù hợp. Trong hệ thống ngân hàng
thương mại, lãi suất cho vay ưu đãi của một số ngân hàng hàng đầu đối với
các khách hàng lớn, có uy tín, có điều kiện thuận lợi về thò trường, thường là

21


×