Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Một số vấn đề hoàn thiện nội dung và phương pháp lập báo cáo tài chính hiện nay ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

BÙI XUÂN TRÀNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2000


BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH

*******
BÙI XUÂN TRÀNG

MỘT SỐ VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN VỀ NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP LẬP BÁO CÁO TÀI CHÍNH
HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH : KẾ TOÁN TÀI VỤ & PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KINH TẾ
MÃ SỐ :
5.02.11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : TS. VÕ VĂN NHỊ

Thành phố Hồ Chí Minh - 2000


BẢNG KÝ HIỆU VIẾT CHỮ TẮT


• AICPA : American Institute of Certified Public Accountants – Học viện Kế
toán viên Công có bằng cấp của Mỹ.
• FASB : Financial Accounting Standards board – Ban Chuẩn mực Kế toán –
Tài chính.
• GAAP : Genrally Accepted Accounting Principles – Nguyên tắc Kế toán
Quốc tế.
• IASC : International Accounting Standards Committee – y ban Chuẩn mực
Kế toán Quốc tế.
• IFA : International Federation of Accountants – Liên đoàm Kế toán viên
Quốc tế.
• FIFO : First In, First Out – Nhập trước, xuất trước.
• LIFO : Last In, First Out – Nhập sau, xuất trước.


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Trang 1
I. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .Trang 1
II. Mục đích nghiên cứu của đề tài . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Trang 2
III. Đối tượng nghiên cứu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Trang 2
IV. Phương pháp nghiên cứu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .Trang 2
V. Bố cục . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Trang 2
NỘI DUNG
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH . . Trang 3
1.1- Vò trí của thông tin kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh . Trang 3
1.1.1- Mục đích và ý nghóa của thông tin kế toán. . . . . . . . . . . . . . .Trang 3
1.1.2- Các loại thông tin kế toán . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .Trang 3
1.1.2.1- Kế toán tài chính. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Trang 3
1.1.2.2- Kế toán quản trò . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .Trang 4
1.1.3- Bản chất và vai trò của Báo cáo tài chính . . . . . . . . . . . . . . .Trang 4
1.2- Môi trường kế toán và mục đích của Báo cáo tài chính . . . . . . . . .Trang 6

1.2.1- Môi trường kế toán. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .Trang 6
1.2.2- Mục đích của Báo cáo tài chính. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .Trang 7
1.3- Tiêu chuẩn của thông tin kế toán hữu ích trên Báo cáo tài chính .Trang 8
1.3.1- Sự cần thiết . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .Trang 8
1.3.2- Các tiêu chuẩn . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .Trang 9
1.3.2.1- Tính dễ hiểu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Trang 9
1.3.2.2- Tính thích hợp. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Trang 9
1.3.3.3- Tính đáng tin cậy. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .Trang 10
1.3.3.4- Tính so sánh được . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .Trang 11
1.4- Thông tin trình bày trên hệ thống Báo cáo tài chính . . . . . . . . . . Trang 12
1.4.1- nh hưởng của cơ chế quản lý kinh tế đối với những
thông tin trình bày trên hệ thống Báo cáo tài chính. . . . . . . Trang 12
1.4.2- Chuẩn mực kế toán quốc tế, cơ sở quan trọng để hình
thành các thông tin trình bày trên hệ thống BC tài chính. . . Trang 12
1.4.2.1- y ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC) . . . . . . . . . . Trang 12
1.4.2.2- Mục đích của các chuẩn mực kế toán quốc tế. . . . . . . Trang 13
1.4.3- Thông tin trình bày trên hệ thống báo cáo tài chính . . . . . . .Trang 13


1.4.3.1- Bảng Cân đối kế toán . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Trang 13
1.4.3.2- Báo cáo kết qủa hoạt động kinh doanh . . . . . . . . . . . ..Trang 14
1.4.3.3- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Trang 14
1.4.3.4- Bảng thuyết minh báo cáo tài chính . . . . . . . . . . . . . . .Trang 15
* Kết luận Chương I . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .Trang 16
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH
ÁP DỤNG TẠI CÁC DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
2.1- Giới thiệu tổng quát về hệ thống BC tài chính Việt Nam . . .Trang 18
2.2- Nguyên tắc lập các báo cáo tài chính và một số nội dung
cần hoàn thiện . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .Trang 22
2.2.1- Những quy đònh chung. . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . .Trang 22

2.2.2.1- Mục đích . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .Trang 22
2.2.2.2- Nội dung . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .Trang 22
2.2.2.3- Trách nhiệm, thời hạn lập và gởi . . . . . . . . . . . . . . Trang 23
2.2.2- Những quy đònh cụ thể. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .Trang 23
2.2.2.1- Bảng Cân đối kế toán . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .Trang 23
1- Tổng quát
2- Nội dung và kết cấu
3- Cơ sở số liệu
4- Một số vấn đề cần sửa đổi, bổ sung hoặc hoàn thiện
2.2.2.2- Báo cáo kết qủa hoạt động kinh doanh . . . . . . . . . .Trang 24
1- Tổng quát
2- Nội dung và kết cấu
3- Cơ sở số liệu
4- Một số vấn đề cần sửa đổi, bổ sung hoặc hoàn thiện
2.2.2.3- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ . . . . . . . . . . . . . . . . . . Trang 25
1- Tổng quát
2- Nội dung và kết cấu
3- Nguyên tắc lập và cơ sở số liệu
4- Một số vấn đề cần sửa đổi, bổ sung hoặc hoàn thiện
2.2.2.4- Bảng thuyết minh báo cáo tài chính . . . . . . . . . . . Trang 29
1- Tổng quát
2- Nội dung và kết cấu
3- Cơ sở số liệu
4- Nguyên tắc lập
5- Một số vấn đề cần sửa đổi, bổ sung hoặc hoàn thiện
* Kết luận Chương II . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Trang 30


CHƯƠNG III : MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO TÍNH HỮU
ÍCH CỦA BÁO CÁO TÀI CHÍNH TRONG CÔNG TÁC

QUẢN LÝ Ở CÁC DOANH NGHIỆP
3.1- Phương hướng và nội dung hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính
đang áp dụng ở các doanh nghiệp Việt nam hiện nay. . . . . . . . . . . ..Trang 31
3.1.1- Các quan điểm về soạn thảo và trình bày BC tài chính . . . . . . .Trang31
- Trên thế giới
- Ở Việt nam
3.1.2- Phương hướng, mục tiêu hoàn thiện hệ thống Báo cáo
tài chính ở Việt nam hiện nay. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Trang36
3.1.3- Các điều kiện cần thiết để hoàn thiện hệ thống BCTC . . . . . . . Trang36
3.3.1.1- Khuôn khổ pháp lý về kế toán
3.3.1.2- Xây dựng và ban hành chuẩn mực kế toán Việt nam
3.3.1.3- Công tác kiểm toán Báo cáo tài chính
3.1.4- Nội dung hoàn thiện . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .Trang38
3.1.4.1- Bảng Cân đối kế toán . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Trang39
3.1.4.2- Báo cáo kết qủa hoạt động kinh doanh . . . . . . . . . . . . . . . .Trang40
3.1.4.3- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Trang42
3.1.4.4- Bảng thuyết minh báo cáo tài chính . . . . . . . . . . . . . . . . . .Trang44
3.2- Hiệu chỉnh mức giá báo cáo tài chính . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .Trang46
3.2.1- Hạn chế của số liệu trên Báo cáo tài chính do tác động của
biến đổi mức giá. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Trang46
3.2.2- Nội dung và phương pháp điều chỉnh mức giá. . . . . . . . . . . . .
.Trang47
* Kết luận Chương III. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .Trang 56
KẾT LUẬN
* Danh mục Tài liệu tham khảo
* Phụ lục


LỜI MỞ ĐẦU
I. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu :

Báo cáo kế toán là phương pháp tổng hợp số liệu từ các sổ sách kế toán
theo các chỉ tiêu kinh tế tài chính nhất đònh một cách có hệ thống nhằm cung cấp
thông tin cần thiết, quan trọng về tình hình tài chính của doanh nghiệp cho các
đối tượng sử dụng thông tin có liên quan khác nhau. Trong nền kinh tế thò trường
, đối tượng sử dụng thông tin kế toán không chỉ giới hạn là những người quản lý
ở bên trong doanh nghiệp hay những nhà quản lý Nhà nước với mục đích kiểm
tra, kiểm soát các doanh nghiệp ... mà đối tượng sử dụng thông tin kế toán còn
bao gồm cả các đối tượng, các thể nhân, pháp nhân bên ngoài doanh nghiệp như
các nhà đầu tư, các chủ nợ, ngân hàng thương mại, các công ty bảo hiểm, các đối
tác kinh doanh ... và mỗi đối tượng sử dụng thông tin kế toán với mục đích cũng
rất khác nhau. Do vậy, việc tổ chức hệ thống báo cáo kế toán cho từng đối tượng
cũng rất khác nhau. Bộ phận kế toán trong doanh nghiệp phải phân tích, phán
đoán để nắm chính xác nhu cầu về thông tin của từng đối tượng sử dụng khác
nhau đó để tổ chức hệ thống báo cáo kế toán một cách khoa học. đảm bảo đầy
đủ yêu cầu của một báo cáo kế toán cũng như đáp ứng tốt nhất việc cung cấp
thông tin kinh tế kòp thời cả về số lượng và chất lượng.
Nghiên cứu về vấn đề này, trên thế giới, các hiệp hội kế toán và các tổ
chức kế toán quốc gia, quốc tế đã đề ra những đònh hướng, những thủ tục và
nguyên tắc có căn cứ khoa học và thực tiễn, trong đó đặc biệt là UB chuẩn mực
kế toán quốc tế đã xác lập những tiêu chuẩn đònh tính và những nội dung cơ bản
cấu thành hệ thống thông tin trên báo cáo tài chính, đồng thời xây dựng hệ thống


các chuẩn mực kế toán cụ thể để hạch toán các khoản mục trên báo cáo tài
chính.
Trong khi đó, ở Việt nam, khi nền kinh tế đang chuyển sang cơ chế thò
trường theo đònh hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước thì hệ thống kế toán
DN nói chung và hệ thống thông tin trên các báo cáo tài chính nói riêng đã có
một sự thay đổi sâu sắc nhằm đáp ứng kòp thời với tinh hình thực tế về yêu cầu
cung cấp thông tin phù hợp, đa dạng và tạo điều kiện hội nhập với hệ thống

thông tin trong khu vực, trên thế giới cũng như theo thông lệ và chuẩn mực kế
toán quốc tế.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu về lý luận cũng như thực tế về hệ thống báo
cáo kế toán nói chung cũng như hệ thống báo cáo tài chính nói riêng, chúng tôi
cũng xin mạn phép được tham gia một số ý kiến nhỏ bé với mong muốn được có
điều kiện cùng trao đổi thêm với các bậc thầy cũng như các đồng nghiệp trong
vấn đề này, với giới hạn phạm vi nghiên cứu chỉ riêng về hệ thống báo cáo tài
chính trong hệ thống báo cáo kế toán của doanh nghiệp.
II. Mục đích nghiên cứu của đề tài :
Trên cơ sở khái quát lý luận về hệ thống báo cáo kế toán, báo cáo tài
chính trên thế giới và ở Việt nam, tìm hiểu thực trạng hệ thống báo cáo tài chính
áp dụng tại các doanh nghiệp Việt nam hiện nay nhằm đề ra một số ý kiến về
phương hướng và nội dung hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính.
III. Đối tượng nghiên cứu :
Đối tượng nghiên cứu của đề tài, một mặt là lý luận và thực tiễn về hệ
thống báo cáo tài chính đã và đang áp dụng trên thế giới; mặt khác, đó là hệ
thống báo cáo tài chính đang được sử dụng ở các doanh nghiệp Việt nam hiện


nay. Qua nghiên cứu, đề xuất một số ý kiến để góp phần từng bước hoàn thiện
hệ thống báo cáo tài chính cả về mặt lý luận và thực tiễn kế toán Việt nam.
IV. Phương pháp nghiên cứu :
Phương pháp nghiên cứu chủ đạo là phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lòch sử, nghiên cứu các vấn đề trong mối quan hệ phổ biến và trong sự
vận động, phát triển; kết hợp sử dụng đồng bộ phương pháp phân tích, phương
pháp đối chiếu, so sánh và quá trình nghiên cứu được chia thành 3 bùc cơ bản :
Bước 1 : Nêu lên một cái nhìn chung về mặt lý luận về hệ thống báo cáo
tài chính : từ mục đích đến tiêu chuẩn của thông tin trên báo cáo tài chính cũng
như các chuẩn mực kế toán quốc tế liên quan và các thủ tục, nguyên tắc lập báo
cáo tài chính.

Bước 2 : Nêu lên thực trạng về hệ thống báo cáo tài chính đang áp dụng
tại các doanh nghiệp Việt nam hiện nay về nội dung, phương pháp lập và những
vấn đề cần bổ sung, sửa đổi hoặc hoàn thiện.
Bước 3 : Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích trên, đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao tính hữu ích của báo cáo tài chính trong công tác quản lý ở
các doanh nghiệp hiện nay.
V. Bố cục : Ngoài phần mở đầu và kết luận (3 trang) , đề tài gồm 3
chương:
Chương I :

TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH. (15 trang).

Chương II : THỰC TRẠNG HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH ÁP DỤNG
TẠI CÁC DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM.(13 trang).
Chương III : MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO TÍNH HỮU ÍCH CỦA
BÁO CÁO TÀI CHÍNH TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ Ở CÁC
DOANH NGHIỆP. (26 trang).


NỘI DUNG
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1- Vò trí của thông tin kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh
1.1.1- Mục đích và ý nghóa của thông tin kế toán.
Trong bất kỳ một nền kinh tế nào, thông tin là một yếu tố cực kỳ quan
trọng nếu không muốn nói là không thể thiếu được và kinh tế xã hội ngày càng
phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng tiên tiến, trình độ phát triển kinh
tế ngày càng cao, mức độ cạnh tranh để tồn tại, để phát triển trên thò trường càng
trở nên gay gắt thì yếu tố này cũng ngày càng bức thiết.
Tất cả các đơn vò sản xuất kinh doanh đều phải nhận thông tin như một
yếu tố sản xuất trực tiếp để có thể đưa ra những quyết đònh đúng đắn trong việc

điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như tiến hành các hoạt động
đầu tư, liên doanh, đối tác ... Trong đó, có thể nói, kế toán ra đời tồn tại và phát
triển cùng với nền văn minh nhân loại và có lẽ cũng là một trong những phát
minh to lớn nhất của loài người và hệ thống thông tin kế toán là hệ thống thông
tin kinh doanh được sử dụng rộng rãi và lâu đời nhất, nó theo dõi, phản ảnh và
báo cáo hoạt động kinh doanh và các sự kiện kinh tế khác. Hệ thống thông tin
này dựa vào việc lưu giữ thông tin trên các loại sổ sách kế toán thông qua khái
niệm ghi sổ kép đã có từ rất lâu cũng như các khái niệm kế toán khác hiện đại
hơn như khái niệm trách nhiệm, khái niệm lợi tức ... Hệ thống này còn ghi chép
và báo cáo các dòng vốn lưu chuyển qua doanh nghiệp dựa trên các số liệu phát
sinh và đưa ra các bản BC tài chính như bảng cân đối kế toán, báo cáo kết qủa
kinh doanh. Ngoài ra hệ thống này còn lập nên các dự đoán về tình hình tương


lai như các BC tài chính dự tính và dự toán ngân sách tài chính; sau đó, tình hình
thực hiện tài chính thực tế được đem đối chiếu với các dự tính trên cơ sở các BC
kế toán phân tích khác nhau.
1.1.2- Các loại thông tin kế toán
Để tổ chức hệ thống thông tin một cách khoa học, có thể có nhiều cách
phân loại hệ thống thông tin khác nhau. Cách phân loại tương đối phổ biến hiện
nay dựa theo đối tượng nhận thông tin với mục đích sử dụng thông tin khác nhau.
Theo cách phân loại này, kế toán được chia ra : Kế toán tài chính và kế toán
quản trò với các đặc điểm cung cấp thông tin khác nhau :
1.1.2.1- Kế toán tài chính :
- Chủ yếu cung cấp thông tin kinh tế cho đối tượng bên ngoài doanh
nghiệp như các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế (Cơ quan chủ quản, tài
chính, thanh tra, ...), các cơ quan nghiên cứu, thông tấn báo chí, các chủ sở hữu,
các chủ nợ, công nhân viên chức doanh nghiệp ... nhằm mục đích kiểm tra, kiểm
soát và đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Thông tin kinh tế phải đảm bảo tính thống nhất chung, bắt buộc chung,

hình thành nguyên tắc thống nhất.
- Thông tin của báo cáo tài chính sử dụng đơn vò đo lường tiền tệ, gắn liền
với nguyên tắc bảo toàn tài sản của doanh nghiệp trên phương diện giá trò.
- Nhằm cung cấp thông tin để kiểm tra, kiểm soát, thông tin của báo cáo
tài chính chỉ cần được cung cấp theo đònh kỳ.
- Thông tin của BC tài chính phản ảnh những cái đã thực hiện trong quá
khứ
1.1.2.2- Kế toán quản trò :


- Chỉ cung cấp thông tin kinh tế bên trong cho các đối tượng bên trong
doanh nghiệp nhằm mục đích ra các quyết đònh quản trò và đồng thời cũng nhằm
đảm bảo được nguyên tắc bí mật về thông tin kinh tế.
- Thông tin kinh tế phải đảm bảo nguyên tắc tự chủ của doanh nghiệp
nhằm cung cấp thông tin sát thực tế kinh doanh cho bộ máy quản trò doanh
nghiệp : Mọi số liệu được tính toán trên cơ sở thực tế kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Thông tin của báo cáo quản trò sử dụng các loại đơn vò đo lường, trong
đó chủ yếu là đơn vò đo lường hiện vật, gắn liền với nguyên tắc bảo toàn tài sản
của doanh nghiệp trên phương diện hiện vật.
- Nhằm cung cấp thông tin để ra các quyết đònh sản xuất kinh doanh,
thông tin của báo cáo quản trò phải được cung cấp thường xuyên, liên tục.
- Cũng nhằm cung cấp thông tin để ra các quyết đònh sản xuất kinh doanh,
thông tin của báo cáo quản trò không chỉ đề cập đến cái đã xảy ra trong thực tế
kinh doanh mà còn phải đề cập đến cái sẽ xảy ra trong tương lai. Nói cách khác,
chỉ có kế toán quản trò mới có số liệu kế hoạch.
Trên đây là một số khác biệt mang tính nguyên tắc, nó chi phối toàn bộ
quá trình hoạt động của kế toán ở hai bộ phận vừa mang tính độc lập tương đối
vừa có quan hệ gắn bó với nhau là kế toán tài chính và kế toán quản trò. Có phân
biệt như vậy, ta mới vận dụng đúng đắn các thông tin kinh tế để phục vụ cho yêu

cầu quản lý kinh doanh đạt hiệu qủa cao nhất.
1.1.3- Bản chất và vai trò của Báo cáo tài chính
1.1.3.1. Mục đích :
Qua nghiên cứu về thông tin của báo cáo kế toán ở trên, ta biết ràng báo
cáo tài chính là một hệ thống thông tin được xử lý bởi hệ thống kế toán tài chính.


Theo Viện kế toán viên công chứng Hoa kỳ (AICPA) thì : “Hệ thống báo
cáo tài chính được lập nhằm mục đích phục vụ cho việc xem xét đònh kỳ hoặc
báo cáo về quá trình hoạt động của nhà quản lý, về tình hình đầu tư trong kinh
doanh và những kết qủa đạt được trong thời kỳ báo cáo. Hệ thống báo cáo tài
chính phản ảnh sự kết hợp của những sự kiện được ghi nhận, những nguyên tắc
kế toán và những đánh giá của cá nhân, mà trong đó những đánh giá và nguyên
tắc kế toán được áp dụng có ảnh hưởng chủ yếu đến việc ghi nhận các sự kiện.
Những đánh giá đúng đắn tùy thuộc vào khả năng và sự trung thực của người lập
báo cáo, đồng thời phụ thuộc vào sự tuân thủ đối với những nguyên tắc kế toán
đã được chấp nhân rộng rãi”.
Theo chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) : Báo cáo tài chính được lập nhằm
đáp ứng nhu cầu của người sử dụng bao gồm : Các nhà đầu tư, nhà quản lý và
nhân viên, những người cho thuê, các nhà cung cấp, các khách hàng, chính phủ,
công chúng.
Còn theo hai tác giả Bryan Carsberg và Susan Dev thì hệ thống báo cáo
tài chính được thiết kế để trình bày những kết qủa của những nghiệp vụ và
những sự kiện xảy ra trong quá khứ và là kênh truyền đạt thông tin chính của
những hoạt động quản lý với thế giới bên ngoài. Báo cáo tài chính được yêu cầu
phải tuân thủ luật công ty, quy chế của thò trường chứng khoán nếu chứng khoán
của công ty được niêm yết. Vì thế việc kiểm toán báo cáo tài chính nên được
yêu cầu bởi luật pháp, bởi vì nhà quản lý có thể là một nhóm khác biệt với
những cổ đông, những người đã giao phó tài sản của họ cho nhà quản lý. Báo
cáo tài chính được yêu cầu phải được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán bên

ngoài, nên khả năng có thể thẩm tra là một thuộc tính chủ yếu của những con số
xuất hiện trên báo cáo tài chính.


Như vậy, có thể nói bản chất của báo cáo tài chính là thể hiện sự kết hợp
của những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ với những nguyên tắc kế toán đã
được thừa nhận và những đánh giá của cá nhân nhằm chủ yếu là cung cấp thông
tin tài chính hữu ích cho các đối tượng sử dụng ở bên ngoài doanh nghiệp . Đồng
thời báo cáo tài chính yêu cầu phải được kiểm toán bởi một tổ chức kiểm toán
độc lập vì thông tin trình bày trên báo cáo tài chính chủ yếu chòu sự chi phối bởi
những đánh giá của người lập báo cáo tài chính cũng như có sự tách biệt giữa sự
sở hữu và khả năng kiểm soát của những người cung cấp vốn cho hoạt động của
doanh nghiệp.
1.3.2. Vai trò :
Vai trò của báo cáo tài chính được xem xét thông qua một số đối tượng
liên quan chủ yếu như sau :
- Đối với Nhà nước : Báo cáo tài chính cung cấp thông tin cần thiết giúp
cho việc thực hiện chức năng quản lý vó mô của Nhà nước đối với nền kinh tế;
giúp cho việc thực hiện kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan tài chính Nhà nước
đối với các hoạt động sản xuất KD của doanh nghiệp cũng như làm cơ sở cho
việc tính thuế và các khoản nộp khác của doanh nghiệp đối với ngân sách Nhà
nước.
- Đối với các nhà quản lý doanh nghiệp : Các nhà quản lý cần công bố
công khai các thông tin trên báo cáo tài chính đònh kỳ về hoạt động của doanh
nghiệp nhằm thuyết phục các nhà đầu tư cũng như các chủ nợ rằng doanh nghiệp
đang có mức lợi nhuận cao nhất với độ rủi ro thấp nhất. Hơn nữa, thông tin trên
báo cáo tài chính cũng phục vụ cho công tác điều hành quản lý hoạt động sản
xuất kinh doanh của nhà quản lý.



- Đối với các nhà đầu tư hiện tại và tương lai, các chủ nợ, người cho vay,
cho thuê : Nói chung, các đối tượng này cần thông tin trên báo cáo tài chính để
giám sát và bắt buộc các nhà quản lý phải thực hiện theo đúng hợp đồng đã ký
kết và để thực hiện các quyết đònh đầu tư hoặc cho vay, cho thuê, cho nợ của họ.
- Đối với các kiểm toán viên độc lập : Báo cáo tài chính là đối tượng của
kiểm toán độc lập vì các nhà đầu tư và cung cấp tín dụng yêu cầu tính chính xác,
trung thực của các thông tin trên báo cáo tài chính đã được kiểm toán, để họ có
thể có những quyết đònh đúng đắn nhất.
1.2- Môi trường kế toán và mục đích của Báo cáo tài chính
1.2.1- Môi trường kế toán
Kế toán phát triển và được nuôi dưỡng trong môi trường kế toán.
nhiều tác giả đã khẳng đònh và trình bày cũng như phân tích rõ về vấn đề này
như Radebaugh (1975), Seidler (1976), Nobes (1988). Trong đó, tiên phong là
Mueller (1968) đã phân tích môi trường kinh doanh trong nước có thể bò ảnh
hưởng bởi 4 yếu tố : Tình trạng của sự phát triển kinh tế, các giai đoạn phát triển
trong kinh doanh, tác động của những phe nhóm chính trò; sự tín nhiệm với một
hệ thống luật pháp cụ thể. Theo đó, mỗi môi trường kinh doanh sẽ tương ứng với
một mô hình phát triển của kế toán.
1.2.1.1. Hệ thống luật pháp :
Hệ thống kế toán thế giới được phân thành 2 loại : Theo quan điểm
hướng luật hay quan điểm thương mại hợp lý :
- Ở những quốc gia theo quan điểm hướng luật (Quan điểm điển chế luật)
: Sự tuân thủ theo luật kế toán trong hệ thống luật quốc gia là mang tính pháp
lệnh.


- Ở những quốc gia theo quan điểm thương mại hợp lý (Quan điểm thông
luật) : Luật chỉ giới hạn về sự bất hợp pháp, trong vòng giới hạn này là phạm vi
hoạt động tự do.
1.2.1.2. Bản chất mối quan hệ giữa doanh nghiệp và các nhà cung ứng vốn :

Mức độ công bố thông tin trên báo cáo tài chính có khuynh hướng nhiều
hơn khi có một số lượng lớn các nhà cung cấp vốn với nhu cầu thông tin rất đa
dạng. Ngược lại, mức độ cung cấp thông tin sẽ ít hơn khi doanh nghiệp chỉ dựa
với một số ít nguồn tài chính với nhu cầu thông tin giống nhau.
1.2.1.3. Luật thuế :
Tuỳ theo sự ấn đònh của luật thuế đến luật kế toán trong từng quốc gia :
Nếu kế toán tài chính và kế toán thuế tách biệt nhau thì lợi tức chòu thuế sẽ là lợi
tức kế toán với những điều chỉnh nhất đònh. Ngược lại, thì các doanh nghiệp phải
ghi nhận doanh thu và chi phí trong báo cáo theo yêu cầu của luật thuế để phục
vụ cho việc tính thuế.
1.2.1.4. Mức độ lạm phát :
- Ở những quốc gia có mức độ lạm phát cao thì thông tin trên báo cáo tài
chính áp dụng phương pháp tính toán theo sự biến động của giá cả.
- Ở những quốc gia ít lạm phát : Thông tin trên báo cáo tài chính cũng ít
được quan tâm hạch toán theo sự thay đổi của giá cả.
1.2.1.5. Sự ràng buộc về kinh tế và chính trò :
Yếu tố này đã ảnh hưởng đến sự phát triển kế toán của mỗi quốc gia
thông qua việc chi phối đến vấn đề xác lập các kiểu mẫu kế toán giữa các nước
ở những mức độ nhất đònh. Đặc biệt là ảnh hưởng về mặt tổ chức, phương pháp
và kỹ thuật kế toán của các quốc gia với các thuộc đòa hoặc các nước được bảo
hộ.


1.2.1.6. Yếu tố văn hóa xã hội :
Ngoài những ảnh hưởng về thực hành kế toán, môi trường văn hoá xã hội
còn ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, do đó nó cũng tác động lên những
thông tin được trình bày trong báo cáo tài chính của các doanh nghiệp : Trong xã
hội nhấn mạnh với sự độc lập và những mối quan hệ khách quan, trung thực đối
với doanh nghiệp và xã hội thì có khuynh hướng phản ảnh theo đònh hướng
chung. Ngược lại, trong xã hội chỉ nhấn mạnh vào những quan hệ cá nhân, không

chú ý những người bên ngoài thì lại có khuynh hướng phản ảnh theo đònh hướng
riêng biệt.
Nói tóm lại, nghiên cứu những yếu tố của môi trường tác động đến sự phát
triển của kế toán rất cần thiết, đặc biệt đối với các quốc gia đang muốn nỗ lực
để hòa nhập với kế toán của các quốc gia trên thế giới như nước ta.
1.2.2- Mục đích của Báo cáo tài chính
Mục đích của báo cáo tài chính là cung cấp những thông tin về tình hình
tài chính, tình hình kinh doanh và những biến động về tình hình tài chính của
doanh nghiệp. Những thông tin này rất hữu ích, giúp cho người sử dụng ra các
quyết đònh kinh tế một cách kòp thời.
Như vậy, thông tin của báo cáo tài chính đáp ứng những yêu cầu chung
của hầu hết những người sử dụng. Nhưng chúng không cung cấp toàn bộ các
thông tin mà người sử dụng yêu cầu để ra các quyết đònh về quản lý kinh tế vì
chúng chỉ đưa ra các ảnh hưởng tài chính quá khứ, và cũng không bắt buộc cung
cấp các thông tin phi tài chính.
Báo cáo tài chính cũng trình bày kết qủa về khả năng và trách nhiệm
quản lý của các nhà quản lý doanh nghiệp đối với những nguồn lực mà họ được
phép sử dụng. Những người sử dụng muốn đánh giá về khả năng và trách nhiệm


quản lý của các nhà quản lý nhằm giúp họ có những quyết đònh quản lý kòp thời.
Ví dụ, họ quyết đònh giữ lại hay bán đi các khoản đầu tư, bổ nhiệm lại hay thay
thế các nhà quản lý.
Qua bảng cân đối kế toán, người sử dụng nắm được thông tin về tình hình
tài chính. Đó là các nguồn lực kinh tế do doanh nghiệp kiểm soát, cơ cấu tài
chính và khả năng thanh toán. Cụ thể, giúp cho người sử dụng :
- Đánh giá năng lực của doanh nghiệp trong việc tạo ra các nguồn tiền và
các khoản tương đương tiền trong tương lai.
- Dự đoán nhu cầu phải đi vay vốn trong tương lai và phương thức phân
phối lợi tức.

- Dự đoán khả năng thành công của doanh nghiệp trong việc huy động các
nguồn tài chính.
- Đánh giá khả năng của doanh nghiệp trong việc thực hiện các cam kết
tài chính khi đến hạn.
1.3- Tiêu chuẩn của thông tin kế toán hữu ích trên Báo cáo tài chính
1.3.1- Sự cần thiết
Trong nền kinh tế thò trường, yêu cầu được nhận các thông tin hữu ích
cung cấp bởi hệ thống báo cáo tài chính là một đòi hỏi khách quan của các đối
tượng có lợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp đối với doanh nghiệp. Nói cách khác
chất lượng của thông tin trên báo cáo tài chính thể hiện ở tính trung thực, đầy
đủ, khách quan, chính xác, kòp thời ... nhằm phục vụ cho người sử dụng trong
việc đưa ra các quyết đònh đúng đắn về đầu tư, cho vay, kiểm tra, tính thuế hoặc
quản trò doanh nghiệp. Muốn vậy, báo cáo tài chính phải được kiểm toán bởi tổ
chức kiểm toán độc lập và phải được công bố công khai các thông tin trên báo
cáo tài chính và báo cáo tài chính phải được soạn thảo và trình bày dựa trên


chuẩn mực kế toán quốc gia.
Ở Việt nam, khi nền kinh tế đang chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế mới
thì việc xây dựng và phát triển chuẩn mực kế toán quốc gia là một việc làm thực
sự cấp thiết nhằm góp phần nâng cao chất lượng thông tin kế toán. (Bộ Tài chính
đã có quyết đònh số 38/2000/QĐ/BTC về việc ban hành và công bố các chuẩn mực
kế toán, chuẩn mực kiểm toán áp dụng cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất
kinh doanh và các công ty kiểm toán hoạt động tại Việt nam). Chuẩn mực kế toán
đưa ra các khái niệm khuôn mẫu làm nền tảng cho việc lập báo cáo tài chính,
trong xác đònh các tiêu chuẩn để đánh giá thế nào là thông tin kế toán hữu ích,
đồng thời cũng qui đònh các chuẩn mực kế toán cụ thể cho việc lập báo cáo tài
chính để vừa đảm bảo tuân thủ luật pháp lại vừa đảm bảo tính trung thực, hợp lý.
1.3.2- Các tiêu chuẩn
Uỷ ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC) có đưa ra các tính chất đònh

tính làm tiêu chuẩn cho việc thiết lập báo cáo tài chính nhằm đảm bảo tính hữu
ích của chúng, đó là : Tính dễ hiểu, tính thích hợp, tính đáng tin cậy và tính so
sánh được. IASC còn đưa ra một số khái niệm nhằm làm cho các thông tin trên
báo cáo tài chính đạt được các tính chất trên như : Khái niệm trọng yếu, trình
bày trung thực, nội dung hơn hình thức, tính khách quan, thận trọng và đầy đủ.
1.3.2.1- Tính dễ hiểu
Chất lượng cơ bản của thông tin tài chính do các báo cáo tài chính cung
cấp là những thông tin phải dễ hiểu đối với người sử dụng. Người sử dụng ở đây
được hiểu là người có kiến thức về kinh doanh và hoạt động kinh tế, hiểu biết về
kế toán ở mức vừa phải, sẵn lòng nghiên cứu các thông tin được cung cấp với
mức độ tập trung suy nghó vừa phải. Tuy nhiên, thông tin về những vấn đề phức
tạp cần được kèm theo báo cáo tài chính vì nó phục vụ yêu cầu ra quyết đònh về


quản lý kinh tế của người sử dụng. Những thông tin này không thể bò loại ra, vì
lý do nó sẽ là rất khó hiểu đối với người sử dụng.
1.3.2.2- Tính thích hợp
Để hữu dụng, thông tin tài chính phải phù hợp để đáp ứng kòp thời các yêu
cầu đưa ra các quyết đònh kinh tế của người sử dụng. Những thông tin có chất
lượng thích hợp là những thông tin có tác động đến quyết đònh kinh tế của người
sử dụng bằng cách giúp họ đánh giá các sự kiện quá khứ, hiện tại hoặc tương lai,
hay để xác nhận, điều chỉnh việc đánh giá trong quá khứ của họ. Tuy nhiên, tính
thích hợp của thông tin còn chòu ảnh hưởng bởi bản chất và tính trọng yếu của
thông tin đó. Các thông tin được coi là trọng yếu nếu không có hoặc xác đònh sai
những thông tin đó có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyết đònh kinh tế của
người sử dụng thông tin. Mức độ trọng yếu lại tùy thuộc vào mức độ khoản mục
hoặc mức độ của sai lầm mà trong hoàn cảnh cá biệt nào đó đã bò bỏ sót hoặc
xác đònh sai; vì vậy khái niệm trọng yếu đưa ra một ngưỡng hơn là một đònh tính
mà thông tin phải chứa đựng nếu nó là hữu ích. Trong một số trường hợp, chỉ cần
bản chất của thông tin cũng đủ để xác nhận tính phù hợp của những thông tin đó.

Ví dụ, khi báo cáo về một bộ phận mới có thể sẽ ảnh hưởng đến sự đánh giá các
rủi ro và các thuận lợi mà doanh nghiệp sẽ gặp trong tương lai bất kể tính trọng
yếu của những kết qủa mà bộ phận mới đạt được trong kỳ báo cáo. Trong những
trường hợp khác, cả bản chất và tính trọng yếu đều quan trọng, ví dụ giá trò hàng
tồn kho hiện có của đơn vò được phân theo các chủng loại chính phù hợp với hoạt
động kinh doanh.
3.3.3- Tính đáng tin cậy
Để hữu ích, thông tin cũng phải đáng tin cậy. Tức là khi chúng không mắc
những sai lầm nghiêm trọng hoặc phản ảnh méo mó sự thực một cách cố ý và có


thể phụ thuộc vào người sử dụng khi sử dụng thông tin cho mục đích khách quan
hợp lý. Ngoài ra, các thông tin có thể thích hợp nhưng lại không đáng tin cậy về
bản chất hay cách trình bày vì các thông tin này có thể có những sai lầm mà
người ta chưa phát hiện ra. Ví dụ trò giá của khoản tiền đòi bồi thường trong một
vụ kiện tụng tranh chấp có thể sẽ không hợp lý khi ta công nhận số tiền này
trong báo cáo tài chính nhưng sẽ hợp lý khi trình bày khoản tiền đó ở tài liệu bổ
sung.
Để đảm bảo tính đáng tin cậy của thông tin về bản chất hoặc cách trình
bày, thông tin trong các báo cáo tài chính phải thoả mãn các tính chất sau :
ª Trình bày trung thực : Các thông tin phải được trình bày trung thực về
những giao dòch và các sự kiện khác có liên quan nhằm trợ giúp cho việc trình
bày hoặc có thể được dự kiến là hợp lý để trình bày. Do vậy, bảng cân đối kế
toán nên trình bày một cách trung thực các nghiệp vụ, sự kiện khác có liên quan
đến đánh giá tài sản, công nợ và nguồn vốn của doanh nghiệp vào thời điểm lập
báo cáo mà những chỉ tiêu đó đáp ứng được yêu cầu của các tiêu thức hạch toán.
Hầu hết các thông tin tài chính đều phụ thuộc vào một số rủi ro do việc
trình bày chưa xác thực với tình hình thực tế. Điều này không phải do không
khách quan, vô tư mà có thể do những khó khăn tiềm tàng trong việc xác đònh
các nghiệp vụ được đánh giá, việc đặt ra và áp dụng các kỹ thuật đánh giá, việc

trình bày làm sao để truyền đạt được những thông tin phù hợp với những nghiệp
vụ đó. Trong một số trường hợp việc đánh giá ảnh hưởng tài chính của các chỉ
tiêu có thể không thật chắc chắn đến nỗi làm cho các doanh nghiệp không dám
công nhận chúng trong báo cáo tài chính. Ví dụ, mặc dù hầu hết các doanh
nghiệp hoạt động lâu đời đều có lợi thế thương mại nhưng thật khó khi tính toán
hoặc xác đònh chỉ tiêu này một cách đáng tin cậy. Nhưng trong một số trường hợp


khác, có thể sẽ là thích hợp khi hạch toán các khoản mục và trình bày các rủi ro
sai lầm xung quanh việc hạch toán và đánh giá chúng.
ª Nội dung hơn hình thức : Điều cần thiết là những thông tin phải được
tính tóan và trình bày phù hợp với nội dung và tính xác thực kinh tế của chúng
chứ không chỉ đơn thuần là hình thức pháp lý của chúng; vì nội dung của những
nghiệp vụ, sự kiện không phải lúc nào cũng phù hợp với hình thức bên ngoài
hoặc hình thức pháp lý của chúng.
ª Tính khách quan : Thông tin không được bò xuyên tạc, bóp méo một
cách cố ý. Các báo cáo tài chính sẽ không được coi là khách quan nếu như bằng
việc lựa chọn hoặc trình bày thông tin của chúng có ảnh hưởng đến quyết đònh
hoặc xét đoán và cách lựa chọn trình bày đó nhằm đạt được kết qủa mà người
lập báo cáo đã biết trước.
ª Tính thận trọng : Người lập báo cáo tài chính thưòng phải trình bày các
nội dung về các sự kiện, tình thế không chắc chắn, chẳng hạn như khả năng thu
hồi các khoản phải thu khó đòi, thời gian hữu dụng của máy móc thiết bò hoặc số
lượng trái quyền có thể phát sinh ... Các yếu tố không chắc chắn như vậy được
hạch toán bằng cách trình bày nội dung bản chất của nó và thực hiện nguyên tắc
thận trọng trong việc lập báo cáo tài chính. Thận trọng gồm cả mức độ lường
trước các sự kiện cần xét đoán trong quá trình hạch toán trên cơ sở những dữ liệu
không thật chắc chắn, ví dụ tài sản và thu nhập không được tính cao, ngược lại
chi phí và công nợ không được tính thấp. Tuy nhiên tính thận trọng cũng không
cho phép che dấu nguồn dự trữ hoặc lập các qũy dự phòng lớn hơn yêu cầu thực

tế.
ª Tính đầy đủ : Các thông tin trong báo cáo tài chính phải được hoàn tất
trong phạm vi những vấn đề trọng yếu và chi phí bỏ ra. Sự bỏ sót có thể gây ra


những thông tin sai lệch dẫn đến những kết luận nhầm lẫn và như vậy các thông
tin không được coi là thích hợp vì chúng không đầy đủ và không đáng tin cậy.
1.3.3.4- Tính so sánh được
Người sử dụng phải có khả năng so sánh các thông tin trong báo cáo tài
chính kỳ này với kỳ trước để xác đònh xu hướng biến động về tình hình tài chính,
kinh doanh của doanh nghiệp. Họ cũng phải so sánh các báo cáo tài chính của
các doanh nghiệp khác nhau để đánh giá mối tương quan về tình hình tài chính,
tình hình kinh doanh và các thay đổi tình hình tài chính giữa các doanh nghiệp.
Muốn vậy, người sử dụng phải được thông báo về chính sách kế toán mà doanh
nghiệp áp dụng để lập báo cáo tài chính cũng như mọi thay đổi về các chính
sách này, ảnh hưởng của những thay đổi đó. Tuy nhiên, sự cần thiết cho việc so
sánh được không bò lẫn lộn với tính đồng nhất đơn thuần và không được phép trở
thành trở ngại cho việc áp dụng và nâng cao chuẩn mực kế toán. Nếu tiếp tục
thực hiện các phương pháp kế toán như nhau cho các nghiệp vụ và sự kiện sẽ có
thể không thích hợp khi chính sách kế toán được tuân theo không đảm bảo được
tính chất về đònh tính, tính phù hợp và độ tin cậy.
Mâu thuẫn về tính phù hợp và độ tin cậy của thông tin : Nếu có sự chậm
trễ trong việc báo cáo các thông tin, thì sự chậm trễ có thể làm mất đi tính phù
hợp của thông tin. Do đó, các nhà quản lý cần cân đối giữa việc cần báo cáo
đúng kỳ hạn với việc cung cấp thông tin đáng tin cậy :
- Cân đối giữa lợi ích và chi phí : Lợi ích từ các thông tin phải cao hơn chi
phí bỏ ra để có thông tin đó. Tuy nhiên việc đánh giá lợi ích và chi phí là quá
trình xét đoán.
- Cân đối giữa các đặc điểm đònh tính : Việc cân đối nhằm để đáp ứng
mục đích của báo cáo tài chính luôn luôn là mục tiêu của người lập và sử dụng



báo cáo tài chính. Tầm quan trọng tương đối của các tính chất đònh tính này là
vấn đề thuộc về xét đoán chuyên môn.
1.4- Thông tin trình bày trên hệ thống Báo cáo tài chính
1.4.1- nh hưởng của cơ chế quản lý kinh tế đối với những thông tin
trình bày trên hệ thống Báo cáo tài chính.
Khác với trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, nhu cầu thông tin kế toán
giữa Nhà nước và doanh nghiệp là thống nhất nên thông tin kế toán chỉ được
trình bày trên một hệ thống báo cáo kế toán duy nhất do Nhà nước qui đònh. Hơn
nữa, do những kế hoạch được lập ra không mang tính thực tế, thậm chí thoát ly
nhu cầu thực tế, nên nhiều khi thông tin trình bày trên các báo cáo kế toán không
phản ảnh trung thực tình hình thực hiện kế hoạch của doanh nghiệp mà chỉ là
những tài liệu để chứng minh và hợp pháp hóa việc thực hiện các chỉ tiêu kế
hoạch cũng như việc thực hiện những qui đònh của chế độ kế toán thống kê.
Trong cơ chế kinh tế thò trường có sự quản lý của Nhà nước theo đònh hướng xã
hội chủ nghóa ở Việt nam hiện nay, các doanh nghiệp xây dựng kế hoạch sản
xuất đầu tư theo nhu cầu thò trường và việc đánh giá kết qủa hoạt động của
doanh nghiệp chủ yếu dựa vào chỉ tiêu lợi nhuận và tỉ suất lợi nhuận của doanh
nghiệp.
Do vậy, báo cáo kế toán phải cung cấp những thông tin hữu ích nhất, đáp
ứng nhu cầu thông tin của bản thân doanh nghiệp cũng như của các đối tượng
bên ngoài doanh nghiệp, trong đó Nhà nước lúc này với vai trò là chủ sở hữu vốn
của các doanh nghiệp Nhà nước vẫn là đối tượng chủ yếu sử dụng thông tin trên
báo cáo tài chính bao gồm cả thông tin tài chính, được trình bày dưới hình thái
giá trò và thông tin sử dụng cho việc quản lý nội bộ doanh nghiệp, ngoài hình
thái giá trò, thông tin còn được trình bày dưới hình thái khác và còn được mô tả


phân tích một cách chi tiết tỉ mỉ.

1.4.2- Chuẩn mực kế toán quốc tế, cơ sở quan trọng để hình thành các thông
tin trình bày trên hệ thống Báo cáo tài chính.
1.4.2.1. y ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC) :
Nội dung, hình thức cũng như nguyên tắc và thủ tục lập báo cáo tài chính
ở các quốc gia khác sẽ khác nhau, thậm chí rất khác nhau do nhiều nguyên nhân
như hoàn cảnh lòch sử, văn hóa, luật pháp, môi trường kinh doanh hoặc do yêu
cầu của người sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính. Từ sự khác nhau nói trên,
dẫn đến việc sử dụng các khái niệm của các yếu tố trong báo cáo tài chính cũng
có thể khác nhau và thường rất đa dạng, làm cho việc sử dụng chuẩn mực để ghi
chép vào các khoản mục trong báo cáo tài chính sẽ khác nhau và cuối cùng là
làm cho việc soạn thảo và trình bày báo cáo tài chính ở mỗ quốc gia cũng trở
thành khác nhau. Do đó, ngày 29/6/2973 y ban chuẩn mực kế toán quốc tế
(IASC) đã ra đời, có nhiệm vụ thu hẹp những khác biệt nói trên bằng cách soạn
thảo ra các qui đònh, các thủ tục với các chuẩn mực kế toán có liên quan để cho
ra đời chuẩn mực kế toán quốc tế.
1.4.2.2. Mục đích của các chuẩn mực kế toán quốc tế :
- Hình thành và công bố những chuẩn mực kế toán làm cơ sở cho việc lập
báo cáo tài chính, nhằm phục vụ cho quyền lợi của nhiều đối tượng sử dụng khác
nhau và để nâng cao sự chấp nhận và tôn trọng trên phạm vi toàn thế giới.
- Tiến tới việc cải tiến và tạo nên sự hoà hợp các qui đònh, chuẩn mực và
thủ tục kế toán liên quan đến việc soạn thảo và trình bày báo cáo tài chính.
IASC tin rằng, nhờ vậy chất lượng của các báo cáo tài chính sẽ được cải
tiến và sẽ gia tăng khả năng so sánh của hệ thống báo cáo tài chính giữa các
quốc gia với nhau, và như vậy cũng làm gia tăng độ tin cậy và tính hữu dụng của


×