Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Những biện pháp hoàn thiện thuế giá trị gia tăng trong thời gian tới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 71 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

NGUYỄN THỊ PHÚ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2000


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

CHXHCN:

Cộng hòa xã hội chủ nghóa

DT

:

doanh thu

GTGT

:

giá trò gia tăng

1



MỞ ĐẦU
Ngày 1/1/1999 Luật thuế Giá trò gia tăng (GTGT) được áp dụng thống
nhất trên toàn lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam. Luật thuế mới đã tác
động nhiều mặt đến nền kinh tế, xã hội. Thời gian đầu thực hiện chắc chắn
phải gặp nhiều khó khăn và lại càng khó khăn hơn trong bối cảnh của nên
kinh tế nước ta đang bò ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ
trong khu vực…. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, còn rất nhiều khó
khăn, vướng mắc trong việc chấp hành của các doanh nghiệp, cũng như
việc hành thu của cơ quan thuế. Đây là một Luật thuế đạt mức kỷ lục về
việc sửa đổi và bổ sung, đồng thời cũng gây nhiều tranh cãi nhất trong quá
trình thực hiện.
Với sựï nhận thức của một học viên cao học, đồng thời cũng là một nhân
viên ngành thuế, tác giả rất bức xúc trước những vấn đề mà Luật thuế
GTGT hiện nay đang đặt ra cho các nhà sản xuất, kinh doanh và cho cơ
quan thuế nên đã chọn đề tài: “NHỮNG BIỆN PHÁP HOÀN THIỆN
THUẾ GTGT TRONG THỜI GIAN TỚI“.
Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu những vấn đề cơ bản của thuế GTGT,
tham khảo tình hình áp dụng của một số nước và thế giới. Trên cơ sở đó
đánh giá và rút ra một số vấn đề còn vướng mắc trong quá trình thực hiện
Luật thuế GTGT ở Việt Nam và dề xuất một số giải pháp với mong muốn
góp phần hoàn thiện Luật thuế GTGT trong thời gian tới.
Luận văn gồm 59 trang và phần phụ lục. Ngoài phần mở đầu và kết luận
luận văn được kết cấu như sau:
CHƯƠNG I:

CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ GTGT.

CHƯƠNG II:


TÌNH HÌNH THỰC HIỆN THUẾ GTGT TẠI VIỆT
NAM THỜI GIAN QUA.

CHƯƠNG III:

NHỮNG BIỆN PHÁP HOÀN THIỆN THUẾ GTGT
TRONG THỜI GIAN TỚI.

2


CHƯƠNG I
CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ GTGT.
1. Khái niệm
Thuế giá trò gia tăng (GTGT) là một loại thuế gián thu, được tính trên
khoản giá trò tăng thêm của hàng hóa, dòch vụ phát sinh trong quá trình từ
sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Khoản thuế này do đối tượng tiêu dùng
hàng hóa, dòch vụ chòu.
Giá trò gia tăng là phần giá trò mà người sản xuất, kinh doanh tạo thêm
vào phần nguyên liệu hoặc hàng hóa đầu vào trước khi đem bán loại hàng
hóa, dòch vụ mới. Sự chênh lệch giữa giá trò đầu vào và giá trò của sản
phẩm bán ra là phần giá trò gia tăng.
2. Cơ chế vận hành của thuế GTGT.

Như tên gọi, thuế GTGT chỉ tính trên giá trò tăng thêm của hàng hóa,
dòch vụ tại mỗi công đoạn sản xuất và lưu thông. Cuối cùng khi đến tay
người tiêu dùng, tổng số thuế phát sinh ở từng công đoạn sẽ bằng với số
thuế tính theo giá bán sản phẩm, dòch vụ cho người tiêu dùng.
Có 3 phương pháp xác đònh số thuế GTGT phải nộp.
Phương pháp 1: Cộng thêm (Addition method).

Phương pháp này tính thuế GTGT cho lương và lợi tức tại mọi cấp.
Mức thuế tại mỗi cấp = thuế suất x (lương + lợi tức)
Nhược điểm của phương pháp cộng thêm là việc xác đònh lợi tức của
doanh nghiệp rất khó khăn, phải cần nhiều thông số mới tính được số thuế
phải trả.
Phương pháp 2: Trừ (Subtraction method)
Mức thuế GTGT được tính như sau:
Thuế GTGT = thuế suất x (giá trò đầu ra – giá trò đầu vào)

3


Nhược điểm của phương pháp này là khó xác đònh chính xác lượng giá
trò đầu vào đã sử dụng cho từng loại sản phẩm và đầu ra trong trường hợp
đa thuế suất.
Phương pháp 3: Bồi hoàn (credit method)
Mức thuế GTGT được tính như sau:
Thuế GTGT = (thuế suất x giá trò đầu ra) – (thuế suất x giá trò đầu
vào)
Phương pháp bồi hoàn được áp dụng phổ biến hơn vì có những ưu điểm
:
- Phương pháp bồi hoàn gắn liền với hóa đơn, chứng từ vì vậy mang
tính
pháp luật cao hơn và dễ kiểm tra, kiểm soát.
- Phương pháp này đơn giản hơn vì doanh nghiệp chỉ cần căn cứ vào
hóa
đơn đầu vào, đầu ra để kê khai và nộp thuế hàng tháng. Còn 2 phương
pháp kia phải dựa vào sổ sách kế toán nên phức tạp và không kòp thời.
Thuế GTGT được tính theo phương pháp trừ và phương pháp bồi hoàn
phải tổ chức kiểm soát được toàn bộ, liên tục và chính xác tất cả các công

đoạn của quá trình vận động của hàng hóa, dòch vụ. Do đó để thuế GTGT
vận hành tốt cần có các điều kiện sau:
- Hóa đơn, chứng từ phải hợp lệ, đầy đủ và chính xác: Để hình thành
toàn bộ giá trò hàng hóa, dòch vụ phải trải qua nhiều công đoạn sản xuất và
lưu thông, thuế GTGT được tính trên giá trò tăng thêm của từng công đoạn.
Nếu áp dụng phương pháp 2 hay 3, khi tính thuế khâu sau cần phải có hóa
đơn chứng từ của khâu trước - hóa đơn đầu ra của khâu trước sẽ là hóa đơn
đầu vào của khâu sau - Do đó hóa đơn, chứng từ hợp pháp là trở thành căn
cứ quan trọng nhất cho quá trình hành thu. Bất kỳ sự thiếu sót hay sai lệch
đều làm ảnh hưởng đến toàn bộ quy trình tính thuế.
4


- Thuế GTGT phải đơn giản, rõ ràng và bao quát: Thuế GTGT phải có
ít thuế suất; hạn chế việc miễn hoặc giảm thuế để việc tính toán dễ dàng,
khách quan; những quy đònh phải rõ ràng, dễ hiểu để có thể phổ cập cho
các đối tượng nộp thuế, nhất là phải phù hợp với tình hình kinh tế của đất
nước, phải bao quát có tính đến những vướng mắc trong quá trình thực
hiện. Muốn vậy luật thuế GTGT không nên có quá nhiều mục tiêu ngoài
việc tạo ra nguồn thu ổn đònh cho ngân sách nhà nước, đẩy mạnh sản xuất
và đặc biệt là khuyến khích xuất khẩu.
- Bộ máy quản lý thuế phải phù hợp với luật thuế: Bộ máy quản lý thuế
phải đủ năng lực để thực hiện những quy đònh trong luật thuế. Các chính
sách thuế hoàn chỉnh thực hiện được dễ dàng hay không sẽ phụ thuộc vào
khả năng thực hiện của bộ máy quản lý thuế. Khả năng của bộ máy quản
lý thuế là sự kết hợp giữa trình độ của cán bộ thuế và cải cách hành chính
thuế, trọng tâm là cải cách hệ thống xử lý thông tin bằng vi tính. Thông tin
chính xác và kòp thời là một công cụ quan trọng cho việc quản lý thuế.
- Trình độ hạch toán kế toán và trình độ nhận thức của đối tượng nộp
thuế: Trình độ hạch toán phải đạt được một mức độ cần thiết để quản lý

hóa đơn, chứng từ theo yêu cầu của quy trình quản lý thuế GTGT, muốn
vậy quy mô sản xuất, kinh doanh phải không quá nhỏ, quá manh mún.
Trình độ nhận thức và tính tự giác cao trong việc chấp hành nghóa vụ nộp
thuế của công dân góp phần quan trọng cho việc vận hành TGTGT, điều
này còn phụ thuộc vào công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động làm cho
người dân ý thức được nghóa vụ của mình.
3.. Các nguyên tắc khi thiết kế thuế GTGT.
3.1. Đơn giản.
Một luật thuế cần phải đơn giản để người thọ thuế dễ dàng chấp hành
và nhà nước quản lý thuế hiệu quả. Thuế GTGT đơn giản thường có ít thuế
suất, rất ít trường hợp được miễn, giảm thuế và quy trình quản lý thuế đơn

5


giản, rõ ràng. Một luật thuế phức tạp sẽ làm chi phí chấp hành và chi phí
quản lý thuế rất cao .
3.2. Ổn đònh.
Luật thuế cần phải ổn đònh theo thời gian. Những thay đổi thường
xuyên về quy đònh hay thuế suất sẽ làm cho doanh nghiệp khó lập được các
kế hoạch dài hạn và không yên tâm hoạt động. Đối với ngân sách nhà nước
tính không ổn đònh sẽ ảnh hưởng đến nguồn thu và các khoản tài trợ cho
nhu cầu của chính phủ. Do vậy luật thuế GTGT không ổn đònh dễ trở thành
một nguồn rủi ro và gây ra tình trạng kém hiệu quả kinh tế cho đất nước.
3.3. Hiệu quả.
Thuế GTGT giống như thuế doanh thu (DT) làm tăng giá hàng hóa
bằng cách cộng thêm vào giá gốc một tỷ lệ phần trăm của thuế. Điều này
tạo ra một mức chênh lệch giữa giá trò mà người tiêu dùng phải trả cho
hàng hóa và chi phí nguồn lực kinh tế dùng để sản xuất ra hàng hóa đó. Do
vậy thuế GTGT sẽ tạo ra sự biến dạng trên thò trường và sự biến dạng đó

ảnh hưởng đến hành vi người tiêu dùng và nhà sản xuất. Những biến dạng
thò trường do thuế GTGT gây ra sẽ tạo tổn thất về hiệu quả kinh tế. Mức độ
tổn thất chủ yếu phụ thuộc vào độ co dãn về giá của cầu và cung của
những hàng hoá nằm trong các thò trường bò biến dạng và phụ thuộc vào
thuế suất. Cung cầu có độ co dãn giá càng cao thì phần tổn thất do thuế
GTGT tạo ra trên thò trường càng cao. Các thuế suất cao cũng có thể làm
tổn thất cao hơn. Một luật thuế hiệu quả nếu phần tổn thất xã hội nhỏ. Luật
thuế GTGT thay thế luật thuế doanh thu cần phải cân nhắc đến yếu tố này,
cụ thể là thuế suất phù hợp để đạt hiệu quả kinh tế.
3.4. Công bằng.
Đối tượng chòu thuế GTGT là phần giá trò gia tăng do các doanh
nghiệp tạo ra trong mỗi giai đoạn của quá trình sản xuất, phân phối và tiêu
thụ sản phẩm. Trong giá trò gia tăng lợi nhuận là một bộ phận quan trọng,
nếu chi phí càng lớn thì lợi nhuận đạt được càng ít. Do đó doanh nghiệp
6


hoạt động kém hiệu quả, điều kiện kinh doanh kém thuận lợi thì nộp thuế
GTGT càng ít và dường như thuế GTGT ưu đãi các doanh nghiệp này.
Nhưng trong thực tế doanh nghiệp nào cũng phấn đấu đạt được lợi nhuận
cao vì lợi ích của bản thân doanh nghiệp, đồng thời qua thuế GTGT cũng
đáp ứng lợi ích của nhà nước. Công bằng về kinh tế được thực hiện thông
qua thuế GTGT.
4. Sự cần thiết của việc áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam.
Việc áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là một
yêu cầu cấp thiết xuất phát từ mục đích khắc phục những hạn chế của thuế
doanh thu không còn phù hợp với thực tiễn phát triển cơ chế kinh tế thò
trường ở Việt Nam, những thách thức lớn trong quá trình hội nhập khu vực
và quốc tế, cải thiện tình hình thu ngân sách nhằm đáp ứng cho nhu cầu
vốn ngày càng tăng trong nước.

4.1. Thực trạng của nền kinh tế Việt nam và những yêu cầu mới
trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Sau hơn mười năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những
bước tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên để tiếp tục phát triển, cùng với chính sách
kinh tế mở cửa, Việt Nam phải dần hội nhập với khu vực và thế giới. Hội
nhập sẽ tạo nhiều cơ hội phát triển kinh tế cho đất nước thông qua việc tiếp
cận các thành tựu về khoa học, kỹ thuật, khoa học quản lý và nhất là tranh
thủ sự ủng hộ của quốc tế. Bên cạnh đó, do nền kinh tế Việt Nam chậm
phát triển hơn so với các nước trong khối nên hội nhập không những mang
lại những thuận lợi mà còn là những thử thách lớn.
Năm 1996, Việt Nam đã bắt đầu thực hiện chương trình Ưu đãi thuế
quan có hiệu lực chung giữa các nước Đông Nam Á (CEPT). Theo thoả
thuận, từ 1996 đến 2006 thuế xuất nhập khẩu phải giảm dần, chỉ còn từ 0%
đến 5%, mọi hàng rào thuế quan khác phải tháo dỡ toàn bộ. Theo tiến trình
này, kinh tế Việt Nam sẽ gặp một số khó khăn lớn đặc biệt là đối với ngân
sách nhà nước như tiến trình thực hiện hội nhập sẽ làm nguồn thu ngân
7


sách giảm và sẽ càng giảm hơn vì với xu hướng thương mại hóa toàn cầu.
Để tồn tại và tăng khả năng cạnh tranh trên thò trường thế giới, toàn bộ hệ
thống thuế xuất, nhập khẩu của nước ta sẽ phải giảm tối đa. Vì vậy Nhà
nước phải có các biện pháp hỗ trợ cho tiến trình này để duy trì sự phát
triển kinh tế và tăng thu ngân sách như: thông qua các công cụ tài chính,
các chính sách hỗ trợ và khuyến khích kinh tế phát triển hữu hiệu, cải cách
quản lý hành chính, thiết lập môi trường pháp lý cần thiết cho doanh
nghiệp hoạt động thuận lợi và hiệu quả, trong đó thuế là một công cụ quan
trọng. Cải cách hệ thống thuế nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho sản xuất
phát triển.
4.2. Ưu điểm nổi bật của thuế GTGT so với thuế doanh thu.

Thuế doanh thu ra đời năm 1990, là một loại thuế nội đòa đã phát huy
được một số tác dụng như thống nhất cách tính thuế giữa các thành phần
kinh tế, tạo ra sự bình đẳng trong nghóa vụ nộp ngân sách và khai thác
nguồn thu trong nước để phát triển kinh tế. Nhưng với xu hướng hội nhập
hiện nay, thuế xuất nhập khẩu đang chuyển dần với nguyên tắc “ thương
lượng “ theo cam kết và thông lệ quốc tế. Thuế nội đòa sẽ được vận dụng
để tác động, điều chỉnh nền kinh tế một cách thích ứng với tình hình kinh tế
xã hội của đất nước. Do vậy vai trò của thuế doanh thu trong giai đoạn mới
bộc lộ nhiều nhược điểm và khó có thể phát huy hiệu quả một cách đầy đủ
như:
- Thuế thu trùng lắp: Mọi giao dòch diễn ra giữa các doanh nghiệp đều
phải chòu thuế và thuế doanh thu đánh trên toàn bộ doanh thu tiêu thụ hàng
hóa, dòch vụ. Trong doanh thu chòu thuế này đã bao gồm cả tiền thuế đánh
ở khâu trước. Do đó thuế đánh trùng lắp, thuế chồng thuế , làm cho giá cả
sản phẩm cao hơn, giảm khả năng cạnh tranh của hàng nội đòa vì doanh
nghiệp luôn xem thuế doanh thu là một bộ phận của chi phí sản xuất kinh
doanh.

8


- Thuế doanh thu chưa thực sự khuyến khích xuất khẩu vì chỉ miễn thuế
cho hoạt động sản xuất xuất khẩu, còn hoạt động kinh doanh xuất khẩu
không được miễn. Thêm vào đó, hàng hóa xuất khẩu chỉ được miễn thuế ở
công đoạn sản xuất xuất khẩu, còn các công đoạn trước đó đã nộp thuế thì
không được khấu trừ. Cho đến 20/06/1998 sau khi ban hành Luật Thuế
GTGT, Bộ Tài Chính mới có Thông Tư số 83/1998/TT – BTC hướng dẫn
hoàn thuế doanh thu chỉ cho nguyên vật liệu và bán thành phẩm mua để
sản xuất hàng xuất khẩu từ ngày 01/06/1998, còn các loại nhiên liệu, động
lực, dòch vụ vận tải … vẫn không được khấu trừ.

- Quản lý phức tạp, kém hiệu quả: Thuế doanh thu có nhiều thuế suất
và quy đònh quá nhiều trường hợp miễn hoặc giảm làm cho công tác quản
lý thu phức tạp, chứa đựng nhiều yếu tố chủ quan tạo điều kiện cho tham
nhũng và trốn thuế.
- Tạo điều kiện cho doanh nghiệp tránh thuế: Nếu một doanh nghiệp
liên kết các hoạt động của mình lại với nhau có thể tránh thuế. Ví dụ như
doanh nghiệp tổ chức quản lý cả 3 công đoạn từ sản xuất, bán buôn cho
đến bán lẻ thì doanh nghiệp chỉ phải nộp thuế doanh thu ở khâu bán lẻ,
tránh nộp thuế ở hai khâu sản xuất và bán buôn. Điều này ngoài việc làm
giảm nguồn thu ngân sách còn làm ảnh hưởng đến trình độ chuyên môn
hóa của xã hội.
Với những nhược điểm nêu trên thuế doanh thu không còn phù hợp với
tình hình phát triển của đất nước, không thể đảm bảo nguồn thu cho ngân
sách, nhất là trong quá trình thực hiện Chương trình Ưu đãi thuế quan có
hiệu lực chung giữa các nước Đông Nam Á (CEPT), phải tháo bỏ dần hàng
rào thuế quan bảo hộ hàng trong nước, lúc đó thuế nội đòa phải đảm đương
nguồn thu chủ yếu cho ngân sách.
Xuất phát từ cơ sở tính thuế GTGT là giá trò tăng thêm của hàng hóa,
dòch vụ qua mỗi công đoạn sản xuất kinh doanh và phương pháp tính thuế
phổ biến là khấu trừ, thuế GTGT có những ưu điểm sau:
9


- Khắc phục được tình trạng thu thuế trùng lắp: Thuế được tính cho mỗi
công đoạn không phải tính trên toàn bộ doanh thu nên không còn tình trạng
thuế chồng thuế, không gây biến dạng trong nền kinh tế nếu không có
nhiều trường hợp miễn giảm.
- Thực sự khuyến khích đối với xuất khẩu: Trong thực tế chưa có một
loại thuế gián thu nào có thể cho phép hàng xuất khẩu hoàn toàn được
miễn thuế như thuế GTGT. Với thuế xuất 0%, hàng hóa, dòch vụ xuất khẩu

không những không phải nộp thuế mà còn được hoàn trả toàn bộ thuế
GTGT nằm trong nguyên, nhiên vật liệu, điện, nước, … cấu thành nên hàng
hóa, dòch vụ xuất khẩu mà doanh nghiệp đã trả trước đó. Điều này làm cho
doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu có được lợi nhuận cao
hơn do không phải nộp thuế hay tạo điều kiện cho doanh nghiệp hạ giá
bán, tăng sức cạnh tranh trên thò trường quốc tế.
- Nâng cao hiệu quả quản lý thuế, giúp tăng nguồn thu: Điều này thực
sự đúng khi hệ thống thuế có ít thuế suất và hạn chế các trường hợp miễn,
giảm. Bởi vì thuế nộp ở giai đoạn trước sẽ được khấu trừ ở giai đoạn sau,
cơ quan quản lý thuế buộc phải kiểm tra, tính toán những gì đã bò và chưa
bò đánh thuế tại những giai đoạn khác nhau. Nếu dùng nhiều thuế suất và
nhiều trường hợp miễn, giảm khối lượng công việc kiểm tra gia tăng gấp
bội, quản lý thuế trở nên phức tạp, chi phí quản lý rất lớn, kém hiệu quả.
Kinh nghiệm áp dụng trên thế giới, số thu từ thuế GTGT sẽ tăng cao hơn
rất nhiều so với thuế doanh thu mà nó thay thế và nguồn thu thực sự tăng
khi chi phí hành thu giảm hoặc không tăng.
- Tạo điều kiện nâng cao trình độ hạch toán, quản lý hóa đơn chứng từ:
So với thuế doanh thu. Cách tính thuế GTGT ở doanh nghiệp phức tạp hơn
đòi hỏi công tác hạch toán kế toán và thống kê phải được nâng cao để đáp
ứng yêu cầu quản lý. Bên cạnh đó, hóa đơn, chứng từ giữ vai trò trọng yếu
trong việc xác đònh số thuế doanh nghiệp phải nộp nhiều hay ít, chính điều
này làm doanh nghiệp quan tâm hơn trong việc quản lý hóa đơn, chứng từ.
10


- Thúc đẩy quá trình chuyên môn hóa: Nếu như trước đây doanh
nghiệp tổ chức từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm của mình để giảm thuế
doanh thu, thì nay thuế GTGT không phụ thuộc vào sự tổ chức và phân chia
quản lý các công đoạn của chu trình sản xuất kinh doanh vì dù hàng hóa,
dòch vụ trải qua bao nhiêu công đoạn thì tổng số thuế phải nộp cũng chỉ

bằng thuế suất nhân với giá mua của người tiêu dùng. Điều này thúc đẩy
doanh nghiệp chuyên môn hóa để nâng cao chất lượng hàng hoá, dòch vụ.
Với những ưu điểm kể trên, thuế GTGT thu không trùng lắp, khuyến
khích xuất khẩu, khuyến khích đầu tư, thúc đẩy chuyên môn hóa, nâng cao
trình độ hạch toán của doanh nghiệp, đồng thời tăng nguồn thu cho ngân
sách, đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế trong giai đoạn mới.
5. Thuế GTGT hiện hành ở Việt Nam.
5.1. Đối tượng chòu thuế GTGT.
Đối tượng chòu thuế GTGT là hàng hóa, dòch vụ dùng cho sản xuất,
kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam, trừ các đối tượng không chòu thuế
dưới đây.
5.2. Đối tượng không chòu thuế.
Đối tượng không chòu thuế GTGT ngoài 26 loại đã quy đònh trong
Luật, bao gồm những hàng hóa, dòch vụ có những tiêu thức đặc trưng như:
khó xác đònh thuế GTGT; phục vụ cho nhu cầu công cộng; ưu đãi, hỗ trợ
người tiêu dùng; hoạt động công nghệ cần khuyến khích … Sau một thời
gian thực hiện, bổ sung thêm 6 loại hàng hóa, dòch vụ không chòu thuế
nâng tổng số lên 32 loại.
5.3. Giá tính thuế.
Giá tính thuế GTGT của hàng hóa, dòch vụ được xác đònh như sau:
- Đối với hàng hóa, dòch vụ do cơ sở sản xuất, kinh doanh bán ra hoặc
cung ứng cho các đối tượng khác là giá mua chưa có thuế GTGT.

11


- Đối với hàng hóa nhập khẩu là giá nhập tại cửa khẩu cộng với thuế
nhập khẩu.
Tùy theo từng loại hình sản xuất, kinh doanh; từng loại hàng hóa, dòch
vụ, giá tính thuế được xác đònh cụ thể.

5.4. Thuế suất.
Thuế GTGT hiện có 4 mức: 0%, 5%, 10%, 20% áp dụng thống nhất
theo loại hàng hóa, dòch vụ. Không phân biệt hàng nhập khẩu hay sản xuất
trong nước; khâu sản xuất hay kinh doanh thương nghiệp.
- Thuế suất 0%: Áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu. Hàng xuất khẩu
không phân biệt hàng sản xuất hay hàng gia công, xuất ra nước ngoài hay
xuất vào khu chế xuất.
- Thuế suất 5%: Áp dụng đối với hàng hóa dòch vụ sau:
Những hàng hóa, dòch vụ phục vụ cho những nhu cầu thiết yếu của
nhân dân một cách trực tiếp trên các lónh vực nông nghiệp, y tế, giáo dục,
khoa học ….
Nhóm hàng hóa chưa qua chế biến là nguyên liệu thiết yếu phục vụ
cho sản xuất cần khuyến khích; thực phẩm tươi sống.
- Thuế suất 10%: Áp dụng cho những hàng hóa, dòch vụ không quy
đònh ở các mức thuế suất 0%, 5%, 20%.
- Thuế suất 20%: Áp dụng chủ yếu cho các hàng hóa, dòch vụ cao cấp,
xa xó hoặc có mức sinh lời cao như: kinh doanh vàng bạc, đá quý; khách
sạn, du lòch, ăn uống, xổ số kiến thiết ….
Qua quá trình thực hiện do quy đònh khấu trừ theo tỷ lệ ấn đònh nên
xuất hiện loại thuế suất 3% và 5%.
5.5. Phương pháp tính thuế.
Ở nước ta có hai phương pháp tính thuế, phương pháp khấu trừ là
phương pháp cơ bản và phương pháp trực tiếp là phương pháp bổ sung,

12


dùng cho những đối tượng theo quy đònh chưa thực hiện đầy đủ chế độ sổ
sách, hóa đơn, chứng từ.
Phương pháp khấu trừ


hay phương pháp bồi hoàn (invoice or

credit method).
Là phương pháp được áp dụng phổ biến trên thế giới, đối tượng áp
dụng là các đơn vò tổ chức kinh doanh thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế
toán, hóa đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế.
Số thuế GTGT phải nộp = Số thuế GTGT đầu ra – Số thuế GGT đầu
vào
Trong đó:
Thuế GTGT đầu ra = Giá tính thuế của hàng hóa, dòch vụ bán ra x thuế
suất.
- Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế theo phương pháp khấu
trừ, khi bán hàng hóa, dòch vụ phải tính và thu thuế GTGT của hàng hóa
dòch vụ bán ra. Khi lập hóa đơn bán hàng hóa dòch vụ, cơ sở kinh doanh
phải ghi rõ giá bán chưa có thuế, thuế GTGT và giá thanh toán.
- Thuế GTGT đầu vào bằng tổng số thuế GTGT đã thanh toán được
ghi trên hóa đơn GTGT mua hàng hóa, dòch vụ hoặc chứng từ nộp thuế
TGGT hàng hóa nhập khẩu. Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ từng
tháng, có phân bổ cho các loại hàng hóa, dòch vụ chòu thuế và không chòu
thuế GTGT.
- Cơ sở kinh doanh mua vật tư, hàng hóa không có hóa đơn, chứng từ
hoặc có hóa đơn, chứng từ nhưng không phải là hóa đơn thuế GTGT hoặc
hoá đơn GTGT nhưng không ghi riêng số thuế GTGT ngoài giá bán, thì
không được khấu trừ thuế đầu vào, trừ các trường hợp luật cho khấu trừ
theo tỷ lệ ấn đònh.
Phương pháp trực tiếp.

13



Là phương pháp áp dụng cho các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh
là người Việt Nam hay tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam
không theo Luật Đầu tư nước ngoài, chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện
về kế toán, hóa đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp
khấu trừ thuế.
Số thuế GTGT
=
Phải nộp

GTGT của hàng hóa

x

GTGT của
Hàng hóa,
dòch vụ

dòch vụ chòu thuế

Giá thanh toán của
=

Thuế suất thuế TGT của

hàng hóa, dòch vụ

hàng hóa dòch vụ đó

Giá thanh toán của

_ hàng hóa, dòch vụ mua

bán ra (1)

vào tương ứng (2)

(1) Giá thanh toán của hàng hóa, dòch vụ bán ra là giá bán thực tế bên
mua phải thanh toán cho bên bán, bao gồm cả thuế GTGT và các khoản
phụ thu, phí thu thêm mà bên mua phải trả.
(2) Giá thanh toán của hàng hóa dòch vụ mua vào tương ứng được xác
đònh bằng giá trò hàng hóa, dòch vụ mua vào (giá mua bao gồm cả thuế
GTGT) mà cơ sở sản xuất kinh doanh đã dùng vào sản xuất, kinh doanh
hàng hóa, dòch vụ chòu thuế GTGT bán ra.
Phương pháp xác đònh GTGT làm căn cứ tính thuế GTGT phải nộp đối
với từng cơ sở kinh doanh như sau:
- Đối với cơ sở kinh doanh đã thực hiện đầy đủ việc mua, bán hàng
hóa, dòch vụ có hóa đơn chứng từ, ghi chép sổ sách kế toán, thì GTGT được
xác đònh căn cứ vào giá mua, giá bán ghi trên chứng từ.
- Đối với cơ sở kinh doanh đã thực hiện đầy đủ việc mua, bán hàng
hóa, dòch vụ xác đònh đúng doanh thu bán hàng hóa, dòch vụ nhưng không
có đủ hoá đơn mua hàng hoá, dòch vụ thì GTGT được xác đònh bằng doanh
thu nhân tỷ lệ GTGT tính trên doanh thu.
- Đối với cá nhân (hộ) kinh doanh chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa
đầy đủ hóá đơn mua bán hàng hóa, dòch vụ thì cơ quan thuế căn cứ vào tình
14


hình kinh doanh của từng hộ ấn đònh mức doanh thu tính thuế; GTGT được
xác đònh bằng doanh thu ấn đònh nhân với tỷ lệ GTGT tính trên doanh thu.
Thực chất của phương pháp tính thuế này là khoán một tỷ lệ GTGT

trên doanh số hay khoán cả doanh thu bán hàng để tính thuế.
5.6. Hóa đơn chứng từ mua bán hàng hóa, dòch vụ.
Hóa đơn chứng từ là căn cứ quan trọng để tính thuế GTGT. Cơ sở sản
xuất, kinh doanh phải thực hiện đầy đủ việc mua, bán có hóa đơn chứng từ
theo quy đònh của Luật như sau:
- Mọi hoạt động mua, bán hàng hóa, dòch vụ phải có hóa đơn chứng từ.
- Mọi đối tượng nộp thuế đều phải sử dụng hóa đơn thống nhất do Bộ
Tài Chính phát hành, trường hợp đơn vò muốn sử dụng hóa đơn đặc thù phải
có ý kiến của của Tổng Cục Thuế.
- Có hai loại hóa đơn chính: hóa đơn GTGT dùng cho doanh nghiệp
tính thuế theo phương pháp khấu trừ và hóa bán hàng dùng cho các đối
tượng khác.
- Cơ sở kinh doanh phải thực hiện việc quản lý, sử dụng hóa đơn,
chứng từ theo quy đònh của Bộ Tài Chính.
5.7. Đăng ký, kê khai và nộp thuế.
Đăng ký
Các cơ sở kinh doanh, kể cả các chi nhánh, cửa hàng trực thuộc cơ sở
kinh doanh chính phải đăng ký nộp thuế với Cục Thuế (hoặc Chi Cục
Thuế) theo mẫu và hướng dẫn của cơ quan thuế.
Đối với cơ sở mới thành lập, thời gian đăng ký nộp thuế chậm nhất là
10 ngày kể từ ngày cơ sở được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Trường hợp có thay đổi ngành nghề kinh doanh, sáp nhập, giải thể, phá
sản, hợp nhất, chia tách … phải đăng ký bổ sung chậm nhất là 5 ngày trước
khi có sự thay đổi đó.

15


Cơ sở sản xuất, kinh doanh ở một đòa phương nhưng có trụ sở, văn
phòng, cửa hàng, chi nhánh … làm thủ tục bán hàng ở một đòa phương khác

thì từng văn phòng, cửa hàng, chi nhánh … phải đăng ký nộp thuế với cơ
quan thuế đòa phương nơi có trụ sở, văn phòng, cửa hàng ….
Kê khai thuế
Thuế GTGT được kê khai trong vòng 10 ngày đầu của tháng sau.
Trường hợp không phát sinh thuế vẫn phải kê khai và nộp tờ khai cho cơ
quan thuế. Cơ sở kinh doanh chòu trách nhiệm về số liệu kê khai của đơn vò
mình. Việc kê khai thuế GTGT hàng nhập khẩu được thực hiện cùng lúc
với việc kê khai thuế nhập khẩu với cơ quan Hải Quan.
Cơ sở kinh doanh buôn chuyến kê khai và nộp thuế theo từng chuyến
hàng với cơ quan thế nơi mua hàng trước khi vận chuyển hàng đi.
Nộp thuế
Cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo thông báo nộp thuế của cơ quan
thuế. Thời hạn nộp thuế chậm nhất không quá ngày 25 của tháng tiếp theo.
Đối với cơ sở có số thuế nộp hàng tháng lớn thì thực hiện tạm nộp số thuế
phát sinh trong tháng theo đònh kỳ 10 ngày hoặc 15 ngày một lần. Thuế
GTGT của hàng nhập khẩu có thời hạn nộp cùng với thời hạn nộp thuế
nhập khẩu.
Trong một kỳ tính thuế, nếu cơ sở kinh doanh có số thuế nộp thừa kỳ
trước, được trừ vào số thuế phải nộp của kỳ tiếp theo, nếu kỳ trước nộp
thiếu thì phải nộp đủ số còn thiếu. Cơ sở kinh doanh tính thuế GTGT theo
phương pháp khấu trừ, nếu trong kỳ tính thuế có số thuế đầu vào được khấu
trừ lớn hơn số thuế phải nộp đầu ra thì được khấu trừ số thuế lớn hơn đó
vào kỳ tính thuế tiếp theo.
Thuế GTGT nộp vào ngân sách bằng đồng Việt Nam.
5.8. Hoàn thuế.

16


Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ

được xét hoàn thuế nếu số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra 3 tháng liên
tục.
Ngoài ra khi doanh nghiệp chia tách, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, phá
sản nếu có số thuế quyết toán nộp thừa sẽ được hoàn. Doanh nghiệp xuất
khẩu với giá trò lớn có thể hoàn từng tháng hay theo từng chuyến hàng.
5.9. n đònh thuế.
Việc ấn đònh thuế được thực hiện trong các trường hợp:
- Cơ sở kinh doanh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng chế độ
kế toán, hoá đơn chứng từ.
- Cơ sở không kê khai, hoặc quá thời hạn quy đònh nộp tờ khai đã được
thông báo nhưng vẫn không thực hiện đúng hoặc nộp tờ khai thuế nhưng kê
khai không đúng các căn cứ để xác đònh số thuế GTGT.
- Kinh doanh không đăng ký kinh doanh bò phát hiện.
Cơ quan thuế căn cứ vào tài liệu điều tra về tình hình hoạt động kinh
doanh của cơ sở hoặc số thuế phải nộp của cơ sở cùng loại ngành nghề, quy
mô để ấn đònh. Trường hợp không đồng ý với số thuế ấn đònh, cơ sở có
quyền khiếu nại lên cấp trên. Trong khi chờ xử lý vẫn phải chấp hành nộp
thuế theo mức đã ấn đònh.
6. Thuế GTGT ở một số nước và những kinh nghiệm có thể áp dụng ở
Việt Nam.
6.1. Thuế GTGT ở Thái Lan.
Giống như thuế doanh thu của Việt nam, thuế doanh nghiệp Thái Lan
sau một thời gian dài áp dụng cũng bộc lộ nhiều nhược điểm, trở thành vật
cản trong quá trình thực thi chính sách phát triển kinh tế, xã hội. Do đó
tháng 1/1992, Thái Lan trở thành nước thứ 40 trên thế giới áp dụng thuế
GTGT.

17



Đối tượng nộp thuế là những doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh
thường xuyên trên lãnh thổ Thái Lan, có doanh thu cả năm trên 600.000
Bạt (khoảng 250 triệu VNĐ). Các doanh nghiệp chỉ thực hiện một việc
kinh doanh cụ thể nào đó tại Thái Lan thì không coi là hoạt động thường
xuyên và không áp dụng thuế GTGT. Các doanh nghiệp có doanh thu từ
trên 600.000 Bạt cho đến 1,2 triệu Bạt (khoảng từ 250 triệu đến 500 triệu
VNĐ) một năm được quyền lựa chọn một trong hai hình thức nộp thuế:
thuế GTGT hay thuế doanh nghiệp, nếu chọn thuế doanh nghiệp thì thuế
suất là 1,5% tính trên toàn bộ doanh thu và không được khấu trừ đầu vào.
Đối tượng không nộp thuế GTGT là các ngân hàng thương mại, công
ty tài chính, công ty bảo hiểm, công ty buôn bán bất động sản, công ty xuất
nhập khẩu và doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng chòu thuế tiêu thụ đặc
biệt.
Thuế suất 0% áp dụng cho hàng hóa, dòch vụ xuất khẩu, không phải
nộp thuế đầu ra và cơ quan thuế sẽ hoàn lại thuế GTGT mà hàng hóa đó
đã nộp qua các giai đoạn sản xuất, kinh doanh trước đó.
Thuế suất chung là 7% trên trò giá gia tăng.
Các hàng hóa sau đây không phải chòu thuế GTGT: nông sản thực
phẩm, phân bón, bột cá và thức ăn gia súc, thuốc chữa bệnh và các sản
phẩm hóa chất dùng cho trồng trọt, cho chăn nuôi, báo chí sách giáo khoa.
Công thức tính thuế GTGT:
Thuế GTGT = thuế suất x (trò giá đầu ra – trò giá đầu vào).
Trường hợp thuế đầu ra nhỏ hơn thuế đầu vào thì doanh nghiệp được
hoàn thuế. Có hai phương pháp hoàn: hoàn ngay cho người nộp thuế hay
trừ vào tháng sau.
Trò giá tính thuế GTGT đối với hàng sản xuất trong nước là giá bán
hàng thực tế hay giá cung ứng dòch vụ thể hiện bằng chứng từ hợp pháp.
Đối với hàng nhập khẩu là giá CIF cộng thuế nhập khẩu và các chi phí
khác (ví dụ phí hải quan, phí lưu kho lưu bãi). Trong trường hợp giá nhập
18



khẩu thể hiện trên chứng từ (từ nước ngoài quá thấp) hải quan có quyền ấn
đònh lại giá cho phù hợp thực tế trên nguyên tắc giá thông thường hay giá
nhập phổ biến của những mặt hàng tương tự.
Vụ Thu thuộc Bộ Tài Chính chòu trách nhiệm quản lý, chỉ đạo thực
hiện thuế GTGT.
Ở Thái Lan cho đến nay, sau hơn 8 năm thực hiện thuế GTGT, vấn đề
quản lý vẫn đáng quan tâm. Tuy hệ thống máy tính được sử dụng rộng rãi
và hệ thống chứng từ khá nề nếp, nhưng vẫn khó tránh khỏi sơ hở dễ bò lợi
dụng trốn thuế bởi khả năng vi tính hóa cũng như trình độ quản lý chưa phù
hợp với tình hình phát triển kinh tế của đối tượng nộp thuế.
Đối tượng nộp thuế phải kê khai thuế trước ngày 15 của tháng sau. Sau
khi thông qua công tác kiểm toán, mức thuế GTGT sẽ được thông báo đến
đối tượng nộp thuế hạn từ 7 đến 10 ngày.
Hầu hết các đối tượng nộp thuế ở Thái Lan đều nhận thấy cách đánh
thuế GTGT là hợp lý và đảm bảo quyền lợi cho bản thân họ, đồng thời
cũng là động lực khiến họ tích cực đáp ứng các điều kiện để được nộp thuế
GTGT thay cho thuế doanh nghiệp,
Một số nhận xét rút ra qua áp dụng thuế GTGT ở Thái Lan:
- Sự mạnh dạn áp dụng thuế GTGT ở Thái Lan dù rằng kết quả thu
trong cơ cấu chung còn thấp, chỉ chiếm 14,8% trong tổng số thu ngân sách,
nhưng theo khẳng đònh của cơ quan thuế Thái Lan thì tỷ trọng này chắc
chắn sẽ tăng lên. Trước hết vì lợi ích kinh tế, đại đa số doanh nghiệp đều
ủng hộ và mong muốn đáp ứng các điều kiện để được áp dụng thuế GTGT.
- Việc chuyển từ hệ thống thuế doanh nghiệp sang thuế GTGT phải
qua bước đơn giản hoá về thuế suất thuế GTGT.
- Tổ chức thực hiện cần có bước đi cụ thể, không làm tràn lan, không
bắt buộc, trong thời gian đầu cần duy trì hai hệ thống thuế doanh nghiệp
và thuế GTGT. Việc quy đònh quy mô doanh nghiệp không có nghóa là mọi

đối tượng đạt doanh số đó đều phải thực hiện thuế GTGT mà nhà nước để
19


cho họ lựa chọn. Vì lợi ích kinh tế, họ sẽ đăng ký nộp thuế GTGT và như
vậy bắt buộc họ phải thực hiện đầy đủ các điều kiện quy đònh cho việc nộp
thuế GTGT.
6.2. Thuế GTGT ở Thụy Điển.
Thuế GTGT được áp dụng ở Thụy Điển từ 1/01/1960, với thuế suất 4%
đánh vào một số hàng hoá, dòch vụ. Ngày 1/01/1969 thuế suất được nâng
lên 10%, trước năm 1991 thuế suất 23,46%, từ 1/01/1991 thuế suất là 25%,
đến 1/01/1992 có hai thuế suất 18% và 25%: thuế suất 18% áp dụng cho
các ngành hàng: khách sạn, nhà hàng, thực phẩm, vận tải, giao thông công
cộng; Thuế suất 25% áp dụng cho các ngành hàng và dòch vụ khác.
Thụy Điển quy đònh miễn thuế cho 29 ngành hàng và dòch vụ như: giáo
dục, coi trẻ, dòch vụ ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, hội họạ, mỹ thuật,
điêu khắc, lưu trữ bảo tàng, tem thư, sách báo, tạp chí, quà tặng, dòch vụ,
tang lễ, bác só nha khoa …. Thuế suất 25% áp dụng cho các mặt hàng còn
lại.
Việc thực hiện thuế GTGT do Tổng Cục Thuế và Hải Quan đảm
nhiệm.
Hàng xuất khẩu không phải nộp thuế GTGT và được thoái trả số thuế
GTGT đã nộp ở khâu trước. Thuế nhập khẩu tính trên giá hàng nhập và do
chủ hàng nộp ngay khi hàng hóa nhập khẩu.
Hàng hóa, dòch vụ tiêu dùng trong nội bộ các cơ sở sản xuất kinh
doanh cũng phải chòu thuế GTGT, giá tính thuế là giá thò trường của sản
phẩm cùng loại.
Năm 1991 số thu thuế GTGT là 131 tỷ SEK, chiếm khoảng 15% tổng
số thu ngân sách nhà nước.
Việc thoái trả thuế GTGT trong mọi trường hợp được thực hiện nhanh

chóng, chính xác và không bò phiền hà do có hệ thống máy tính rất hoàn
hảo và công tác tổ chức quản lý chặt chẽ, linh hoạt. Khi nhận được tờ khai
xin thoái trả thuế, cơ quan thuế tiến hành kiểm tra tờ khai, hóa đơn mua
20


hàng, hóa đơn bán hàng, đối chiếu với số thuế GTGT đã nộp kho bạc, sau
đó ra quyết đònh và làm thủ tục thoái trả thuế qua bưu điện. Riêng đối với
cá nhân mua hàng hóa mang ra nước ngoài tiêu dùng (xuất khẩu phi mậu
dòch) Thụy Điển sử dụng công ty Dòch Vụ Thoái Trả Thuế GTGT. Người
mua hàng có hóa đơn, khi mang qua cửa khẩu sẽ được thoái trả lại số thuế
GTGT đã nộp ở Thụy Điển.
Các tổ chức, cá nhân có sản xuất, kinh doanh các mặt hàng dòch vụ
chòu thuế GTGT đều có trách nhiệm kê khai với cơ quan thuế nơi kinh
doanh như sau: những cơ sở có doanh thu dưới 200.000 SEK năm thì kê
khai thuế GTGT trong cùng một tờ khai thuế thu nhập; những cơ sở có
doanh thu từ 200.000 SEK năm trở lên thì sử dụng tờ khai riêng về thuế
GTGT. Việc kê khai thuế GTGT được thực hiện 2 tháng một lần. Những cơ
sở muốn hoàn thuế nhanh, có thể kê khai thuế hàng tháng. Thời gian gởi tờ
khai đến cơ quan thuế chậm nhất là ngày 5 của tháng sau. Quá ngày quy
đònh mà cơ sở không nộp tờ khai sẽ bò phạt: chậm trong 15 ngày bò phạt 2%
trên số thuế phải nộp, trên 15 ngày bò phạt 6% trên số thuế phải nộp, mức
phạt thấp nhất là 50 SEK cho 1 lần phạt. Nếu chậm nộp 3 tuần trở lên, cơ
quan thuế sẽ chuyển qua cơ quan cưỡng chế thuế.
Thuế GTGT hoàn toàn thu theo kê khai, không thu khoán.
Một số nhận xét rút ra qua áp dụng thuế GTGT ở Thụy Điển.
- Thuế GTGT áp dụng ở Thụy Điển trong một thời gian dài nên bộ
máy quản lý thuế đã tương đối hoàn chỉnh, thuế suất đơn giản, chỉ có hai
thuế suất 18% và 25%, ý thức chấp hành luật pháp của người dân Thụy
Điển cao, đối tượng áp dụng thuế GTGT toàn diện, hành thu thuận lợi.

- Điều kiện để áp dụng thuế GTGT là phải có sổ sách kế toán, hoá đơn
đầy đủ, trung thực và chính xác.
6.3. Những kinh nghiệm có thể áp dụng vào Việt nam.
Thuế GTGT được áp dụng đầu tiên ở Pháp ngày 1/07/19954 và đã
nhanh chóng được triển khai rộng rãi ở nhiều nước. Tính đến năm 1998 đã
21


có trên 100 quốc gia áp dụng thuế GTGT, bao gồm các nước phát triển và
các nước đang phát triển. Cộng Đồng Châu u (EC) coi việc áp dụng thuế
GTGT là một yêu cầu bắt buộc đối với quốc gia nào muốn gia nhập EC. Đa
số các trường hợp áp dụng, số thu từ thuế GTGT tăng cao hơn rất nhiều so
với hệ thống thuế gián thu mà nó thay thế. Tuy vậy, thuế GTGT đang gặp
phản ứng ở một số nước như : Mỹ, Canada, Úùc … với lý do thuế GTGT
không thu theo lũy tiến nên không bảo đảm được sự động viên, đóng góp
công bằng, hợp lý giữa các tầng lớp dân cư. Bên cạnh đó, một số nước cho
rằng bộ máy quản lý thuế phải được tăng cường khi áp dụng thuế GTGT.
Phải tính toán kỹ lưỡng, cân nhắc lợi hại giữa phần thu được và phần chi ra
của ngân sách cho bộ máy quản lý thuế. Từ việc nghiên cứu thuế GTGT
của một số nước rút ra những kinh nghiệm có thể ứng dụng vào tình hình
Việt nam là :
- Đa số các trường hợp áp dụng, số thu từ thuế GTGT ngày càng tăng
cao hơn rất nhiều so với hệ thống thuế gián thu mà nó thay thế. Điều này
rất hấp dẫn đối với các quốc gia đang muốn cải thiện việc quản lý thuế
gián thu của mình. Trong giai đoạn đầu thuế suất tương đối thấp và dần
được nâng lên sau một thời gian áp dụng.
- Đơn giản hóa thuế suất và hạn chế miễn giảm là một xu hướng mà
các nước áp dụng thế GTGT đang thực hiện vì chi phí quản lý để điều hành
một hệ thống thuế GTGT lớn hơn nhiều so với chi phí quản lý hệ thống
thuế gián thu cũ. Chi phí này càng lớn khi có nhiều thuế suất và nhiều

trường hợp miễn, giảm thuế. Bởi vì miễn giảm thuế sẽ làm tăng số thuế
suất áp dụng và vì số thuế nộp ở một công đoạn sẽ được chuyển sang công
đoạn sau. Bản thân doanh nghiệp và cơ quan quản lý thuế buộc phải tăng
khối lượng công việc tính toán.
- Hệ thống thuế GTGT đòi hỏi phải thiết kế một hệ thống quản lý
hành chính hoàn toàn mới. Những hiểu biết về hệ thống thuế doanh thu sẽ
rất hữu dụng khi điều hành thuế giá trò gia tăng nhưng phải có sự đào tạo
lại các cán bộ thuế. Đồng thời phải tạo điều kiện để áp dụng vi tính hóa. Vi
tính, hóa đơn, chứng từ và phương pháp tính thuế GTGT khấu trừ là những

22


đặc điểm hỗ trợ nâng cao khả năng phát hiện những trường hợp trốn lậu
thuế, làm người thọ thuế nghiêm chỉnh chấp hành chính sách thuế.
- Phần lớn các nước đều miễn thuế cho hàng thực phẩm, đặc biệt là
các loại thực phẩm thiết yếu có tính chất quan trọng đối với các gia đình có
thu nhập thấp.
- Miễn thuế GTGT cho các dòch vụ tài chính vì khó có thể xác đònh
được giá trò gia tăng được tạo ra cho mỗi dòch vụ của các tổ chức tài chính.
Thuế GTGT chỉ thu được của các dòch vụ tài chính khi bán lẻ cho các hộ
gia đình, mọi hình thức sử dụng dòch vụ tài chính của các doanh nghiệp sẽ
được khấu trừ. Do vậy việc mở rộng thuế GTGT cho các loại hình dòch vụ
tài chính không làm tăng đáng kể nguồn thu ngân sách. Bên cạnh đó các
dòch vụ tài chính được miễn thuế nhưng vẫn phải trả thuế GTGT cho mọi
khoản đầu vào và không được khấu trừ. Nếu thực hiện thu thuế GTGT đối
với dòch vụ tài chính sẽ làm tăng chi phí vay vốn đối với khu vực tư nhân,
điều này có ý nghóa kinh tế nhất đònh.
- Để đơn giản hóa việc quản lý thuế GTGT các nước thường áp dụng
biện pháp lựa chọn ngưỡng chòu thuế, nhưng mức đề ra ở các nước khác

biệt nhau khá lớn. Lợi ích của việc quy đònh ngưỡng thu thuế là loại bỏ
ngay những đối tượng khó thu thuế GTGT, phần lớn là các nông dân và hộ
buôn bán nhỏ. Việc quy đònh ngưỡng thu thuế cũng tạo ra một số vấn đề
nhất đònh. Có trường hợp khai man hay tách nhỏ doanh nghiệp để được ở
dưới ngưỡng. Ngược lại những doanh nghiệp nhỏ thường xuyên cung cấp
hàng cho những doanh nghiệp lớn nộp thuế GTGT là những doanh nghiệp
muốn ở trên ngưỡng. Để hạn chế tình trạng này, một số quốc gia áp dụng
một loại thuế doanh thu gộp cho các doanh nghiệp nhỏ, loại thuế đó được
tính toán để khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ chuyển sang chế độ thuế
GTGT. Qua nghiên cứu, các chuyên gia thuế cho rằng nên quy đònh ngưỡng
cao hơn là ngưỡng thấp. Nguồn nhân lực về hành chính cần có để quản lý
các đối tượng nhỏ có thể được sử dụng hiệu quả hơn khi tập trung vào các
đối tượng nộp thuế vừa và lớn. Nhiều doanh nghiệp nhỏ được miễn trừ khỏi
hệ thống thuế GTGT thì sự phản đối việc áp dụng loại thuế này cũng sẽ ít
hơn.
23


CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN THUẾ GTGT
TẠI VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
1. Những thuận lợi và những khó khăn khi áp dụng thuế GTGT ở Việt
Nam.
Để việc thực hiện luật thuế GTGT đạt hiệu quả, cần nhận đònh đúng
những thuận lợi có thể hỗ trợ, cũng như những khó khăn có thể gây cản trở
quá trình thực hiện, trên cơ sở đó có những biện pháp thích hợp.
1.1. Những thuận lợi.
- Sau 10 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có những thành tựu
nhất đònh mức tăng trưởng GDP hàng năm tương đối cao so với khu vực,
kim ngạch xuất khẩu tăng qua các năm, nguồn vốn đầu tư huy động trong

và ngoài nước tăng đáng kể, cơ chế kinh tế thò trường đang thiết lập và
củng cố theo đònh hướng kinh tế Xã Hội Chủ Nghóa , đời sống nhân dân
được nâng cao, chế độ chính trò ổn đònh.
- Tuy luật Thuế Doanh Thu có nhiều nhược điểm, không còn phù hợp
với tình hình mới nhưng qua việc thực hiện các doanh nghiệp đã hình thành
và củng cố tổ chức bộ máy hạch toán kế toán, quan tâm đến hóa đơn chứng
từ , ứng dụng những phần mềm vi tính vào công tác kế toán, thống kê để
tăng độ chính xác và kòp thời. Đó là tiền đề quan trọng để thực hiện thuế
GTGT.
- Chúng ta có nhiều kinh nghiệm thực hiện thuế GTGT của nhiều nước
trên thế giới, nhất là các nước trong khu vực để tham khảo, nghiên cứu và
ứng dụng vào thực tiễn Việt Nam, nhằm hạn chế tối đa những vướng mắc
có thể phát sinh trong quá trình thực hiện.
1.2. Những khó khăn.
24


×