Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Quan hệ giữa hình thành thị trường chứng khoán với phát triển kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (765.23 KB, 65 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

DIỆP TRÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2000


MỤC LỤC
Lời mở đầu .........................................................................................................1
CHƯƠNG I
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ ................4
1.1 Tổng quan về thò trường chứng khoán .......................................................4
1.1.1 Đònh nghóa TTCK................................................................................4
1.1.2 Phân loại TTCK ..................................................................................5
1.1.3 Hàng hóa trên TTCK ..........................................................................6
1.1.4 Những nguyên tắc hoạt động của TTCK............................................10
1.1.5 Các thành viên tham gia trên TTCK .................................................11
1.2 Mục đích và vai trò của TTCK trong phát triển kinh tế... .........................13
1.2.1 Mục đích của TTCK ...........................................................................13
1.2.2 Vai trò của TTCK trong phát triển kinh tế .........................................14
CHƯƠNG II
PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG TTCK VIỆT NAM
2.1 Phát triển kinh tế Việt Nam từ khi ban hành chính sách đổi mới .............18
2.2 Mục tiêu và nguyên nhân khách quan của việc thành lập TTCK.............22
2.2.1 Mục tiêu thành lập TTCK...................................................................22
2.2.2 Nguyên nhân khách quan của việc thành lập TTCK .........................24
2.3 Phát triển kinh tế và TTCK ở Việt Nam....................................................25


2.3.1 Mối quan hệ giữa TTCK và phát triển kinh tế VN ............................25
2.3.2 Những tác động của TTCK đến phát triển kinh tế ............................26
2.3.3 Những tác động của phát triển kinh tế đến TTCK ............................28
2.4 Các yếu tố pháp lý và điều kiện cơ bản cho việc thành lập và phát triển
thành công thò trường chứng khoán ở Việt Nam ......................................29
2.4.1 Các yếu tố pháp lý..............................................................................29

4


2.4.2 Các điều kiện cơ bản ..........................................................................33
2.5 Thực trạng quá trình hình thành TTCK ở Việt Nam .................................36
2.5.1 Những việc đã làm được .....................................................................36
2.5.2 Những thuận lợi cơ bản .......................................................................37
2.5.3 Những khó khăn tồn tại ......................................................................38
CHƯƠNG III - NHỮNG GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ.......................................41
3.1 Tạo lập môi trường ổn đònh và thuận lợi cho TTCK phát triển.................41
3.2 Đảm bảo nguồn nhân lực và cơ sở vật chất kỹ thuật ................................43
3.3 Giải pháp tăng cung cầu chứng khoán cho thò trường chứng khoán..........44
3.4 Tổ chức thò trường giao dòch chứng khoán OTC........................................47
3.5 Nâng cấp thò trường liên ngân hàng ..........................................................48
3.6 Tự do hóa kiểm soát các luồng vốn quốc tế..............................................48
Kết luận ..............................................................................................................50
Phụ lục
Tài liệu tham khảo

5


LỜI MỞ ĐẦU

Sau hơn mười năm đổi mới theo đường lối đúng đắn của Đảng, đất nước
ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội,
tạo nên thế và lực mới để bước vào giai đoạn phát triển mới "đẩy mạnh công
nghiệp hóa và hiện đại hóa". Giai đoạn phát triển mới đòi hỏi nền kinh tế không
những duy trì được nhòp độ tăng trưởng, mà còn phải chuyển dòch mạnh cơ cấu
kinh tế theo hướng tiến bộ, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, để kòp tiến
trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới.
Thực tiễn đổi mới càng ngày càng cho thấy, trong hàng loạt các vấn đề
cần giải quyết, nổi lên một vấn đề lớn. Đó là phải huy động và sử dụng có hiệu
quả một khối lượng vốn lớn cho đầu tư phát triển với tốc độ tăng trưởng cao và
lâu dài, trong đó, vốn đầu tư trong nước là quyết đònh, vốn đầu tư nước ngoài là
quan trọng. Để giải quyết được vấn đề này, phải từng bước nhưng khẩn trương
hoàn thiện cơ chế thò trường, mà trong đó, một bộ phận cấu thành cực kỳ quan
trọng trong hệ thống tài chính là thò trường chứng khoán.
Thò trường chứng khoán được xem là một kênh huy động vốn rất hữu hiệu
và hết sức quan trọng, góp phần làm cho dòng chảy của vốn có thể dễ dàng đến
những nơi làm ăn có hiệu quả, tạo điều kiện thu hút vốn dài hạn cho các doanh
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có tiềm năng phát triển ở những ngành
kinh tế quan trọng, phục vụ cho các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, mở rộng
sản xuất, nhằm nâng cao sức cạnh tranh trong một nền kinh tế hàng hóa đang
phát triển nhanh ở nước ta. Hơn thế nữa, thò trường chứng khoán phát triển và
hoạt động lành mạnh sẽ là một "hàn thử biểu" phản ánh "sức khoẻ" của nền
kinh tế, nó rất cần thiết cho công tác quản lý vó mô.

6


Nghò quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xác đònh phải "chuẩn bò các điều
kiện cần thiết để từng bước xây dựng thò trường chứng khoán phù hợp với điều
kiện Việt Nam và đònh hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước".

Thủ Tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã phát biểu trong buổi lễ ra mắt Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước vào ngày 25/08/1997: "Thò trường chứng khoán ra đời là
do nhu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế trong cơ chế thò trường. Chính
phủ có vai trò giúp đỡ nó hình thành một cách có tổ chức, bảo đảm cho nó hoạt
động lành mạnh, an toàn, có hiệu quả".
Những điều này thể hiện rõ thực chất của việc đổi mới, lối tư duy mang tính
cách mạng và sáng tạo của Đảng và Nhà nước ta trong sứ mạng lãnh đạo kinh
tế. Lựa chọn giải pháp tạo lập một thể chế kinh tế bậc cao, tinh tế nhất trong
điều kiện trình độ phát triển còn hạn chế, lại mới "chân ướt chân ráo" bước vào
cơ chế kinh tế thò trường để tạo động lực thúc đẩy phát triển vượt bậc - cách làm
này chứa đựng trong nó sức mạnh và trí tuệ của cả dân tộc.
Trong bối cảnh đó, bản thân tôi ngoài việc cố gắng vận dụng lý luận của các
sách chuyên đề, lý luận về phát triển kinh tế vừa được học qua chương trình cao
học, chúng tôi còn tiến hành tham khảo các văn bản pháp quy của Chính phủ có
liên quan, đồng thời kết hợp với việc nghiên cứu những hoạt động thực tế nhằm
tạo cơ sở khoa học và thực tiễn cho đề tài nghiên cứu : “Mối quan hệ giữa việc
hình thành thò trường chứng khoán với phát triển kinh tế ở Việt Nam”.
Mục đích của đề tài là nghiên cứu mối quan hệ giữa việc hình thành thò
trường chứng khoán với phát triển kinh tế ở Việt Nam, để làm rõ được vấn đề :
TTCK và phát triển kinh tế sẽ tác động qua lại với nhau như thế nào? Để từ đó
cho thấy sự cần thiết và cấp bách phải hình thành TTCK ở Việt Nam.
Đề tài sử dụng phương pháp luận nghiên cứu là duy vât biện chứng và
duy vật lòch sử, cùng với phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp các thông
tin trên cơ sở nguồn tài liệu đã được công bố chính thức.
7


Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong vấn đề TTCK và ảnh hưởng của
nó đến phát triển kinh tế ở Việt Nam. Vì TTCK đang trong giai đoạn hình thành,
chưa có ảnh hưởng thực tế đến nền kinh tế, do vậy một số phân tích sẽ mang

tính dự đoán hơn là phân tích thực trạng.
Nội dung của đề tài này bao gồm :
- Hệ thống hóa những vấn đề mang tính lý thuyết cơ bản về TTCK
- Xem xét quá trình hình thành TTCK ở Việt Nam và mối quan hệ giữa
TTCK và phát triển kinh tế ở Việt Nam trong tương lai
- Căn cứ vào tình hình thực tế phân tích, đưa ra những giải pháp khả thi
để thúc đẩy hình thành, hoàn thiện và phát triển TTCK ở Việt Nam.
Với nội dung nêu trên, kết cấu của luận văn được chia ra như sau :
- Lời mở đầu
- Chương 1: Thò trường chứng khoán và phát triển kinh tế
- Chương 2: Phát triển kinh tế và quá trình xây dựng TTCK ở Việt Nam
- Chương 3: Những giải pháp kiến nghò
- Kết luận
Đối với thế giới, TTCK đã xuất hiện khá lâu và đã có một bề dầy phát triển.
Nhưng ở Việt Nam, TTCK là một lónh vực hoàn toàn mới và đang còn trong giai
đoạn chuẩn bò, cho nên chúng tôi vẫn còn gặp nhiều hạn chế về mặt thực tế, đặc
biệt là trong việc áp dụng vào thực tế việc hình thành và phát triển TTCK ở
Việt Nam. Chính vì thế, trong phạm vi của luận văn này, chúng tôi không có
tham vọng nêu lên một cách đầy đủ các vấn đề về TTCK, cũng như thiết lập
một mô hình TTCK hoàn hảo, mà chỉ dừng lại ở lý luận chung, nêu lên quá trình
hình thành TTCK ở Việt Nam và mối quan hệ giữa việc hình thành TTCK và
phát triển kinh tế trong bối cảnh TTCK Việt Nam còn đang ở giai đoạn hình
thành, từ đó nêu lên những giải pháp cần thiết mang tính đònh hướng, nhằm góp
phần trong việc phát triển và hoàn thiện TTCK ở Việt Nam.
8


CHƯƠNG 1 :

THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

1.1 Tổng quan về Thò trường Chứng khoán :
1.1.1 Đònh nghóa về Thò trường Chứng khoán :
Có nhiều đònh nghóa về thò trường chứng khoán (TTCK) :
- Theo tiếng La tinh, thò trường chứng khoán là BURSA, nghóa là cái ví
đựng tiền, là một thò trường có tổ chức và hoạt động có điều khiển.
- Theo tiếng Hán, người ta thường gọi TTCK là chứng khoán giao dòch sở,
sở là nơi chốn, giao dòch là mua bán đổi chác, chứng khoán là những giấy tờ
giao ước để làm bằng chứng.
- TTCK được đònh nghóa theo Longman Dictionary of Business English,
1985 như sau : “Securities market is an organized market where securities are
bought and sold under fixed Rules”. Dòch ra tiếng Việt : Một thò trường có tổ
chức là nơi các chứng khoán được mua bán tuân theo những quy tắc đã được ấn
đònh. Đònh nghóa này đưa ra một thuật ngữ là chứng khoán (sercurities), mà cổ
phiếu (share) và trái phiếu (bond) cũng chính là hai dạng của chứng khoán.
Chứng khoán được kết hợp bằng hai từ đồng nghóa chứng và khoán đều có nghóa
là bằng cớ (evidence).
- Trong tiếng Anh theo The American Heritage Dictonary of The English
Language, Dell, 1971, p.633) "Securities is written evidence of ownership.". Như
vậy, nghóa căn bản của chứng khoán là : bằng chứng giấy trắng mực đen về
quyền sở hữu.
- Ngày nay, người ta phân biệt rõ hai thuật ngữ : TTCK - Securities
Market, và Sở giao dòch chứng khoán - Securities Exchange. "TTCK là từ ngữ
chung để chỉ các giao dòch mua bán chứng khoán có tổ chức thông qua các thò
9


trường khác nhau và trên thò trường ngoài danh mục, cụ thể như thò trường mua
bán các chứng khoán không có liệt kê, thò trường có tổ chức, thông qua hệ thống
điện thoại, máy vi tính...", còn "Sở giao dòch chứng khoán để chỉ một đòa điểm
cụ thể, có tổ chức, là nơi các thành viên tham gia TTCK gặp nhau để thực hiện

các lệnh mua bán chứng khoán do các tổ chức và cá nhân giao cho"
Tuy nhiên trong đời sống kinh tế, thuật ngữ TTCK đã thoát ly đònh nghóa
ban đầu và có thêm nội dung mới. Thật ra, mỗi đònh nghóa chỉ cung cấp được
một khái niệm tổng quát về một vấn đề nào đó, còn muốn hiểu trọn vẹn vấn đề
thì phải nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển lâu dài của nó.
1.1.2 Phân loại TTCK :
1.1.2.1 Cơ cấu tổ chức TTCK : bao gồm hai bộ phận
A. Thò trường sơ cấp : còn được gọi là thò trường cấp I hay thò trường phát
hành. Đây là nơi mua bán chứng khoán mới phát hành bởi các Công ty, tổ chức
Nhà nước, Chính phủ. Thò trường sơ cấp là thò trường tạo lập, tăng vốn, vay vốn
do các Công ty, tổ chức phát hành.
Việc phát hành chứng khoán ở các thò trường này được kiểm soát của Hội
đồng chứng khoán Quốc gia.
B. Thò trường thứ cấp : còn được gọi là thò trường cấp II, là thò trường mua
đi bán lại chứng khoán đã được bán ở thò trường sơ cấp. Trên thò trường thứ cấp,
lợi nhuận thu được từ việc mua bán chứng khoán thuộc về nhà đầu tư và những
nhà mua bán chứng khoán chứ không thuộc về tổ chức phát hành chứng khoán.
Chứng khoán được giao dòch trên thò trường thứ cấp không làm nguồn vốn
của nhà phát hành tăng. Trong khi phát hành chứng khoán ở thò trường sơ cấp
nhằm thu hút vốn đầu tư nghóa là việc mua bán ở thò trường sơ cấp làm tăng vốn
đầu tư. Tuy nhiên, việc giao dòch chứng khoán ở thò trường thứ cấp có ý nghóa rất
quan trọng đối với việc phát hành chứng khoán là việc thu hút vốn đầu tư. Vì
việc giao dòch chứng khoán ở thò trường thứ cấp làm cho chứng khoán có tính
10


thanh khoản nghóa là người đầu tư dễ dàng bán lại chứng khoán họ không thích
để rút vốn đầu tư vào lónh vực khác.
Thò trường thứ cấp tạo điều kiện cho mua bán ở thò trường sơ cấp dễ dàng
thuận lợi. Ngược lại, thò trường sơ cấp là cơ sở tiền đề của thò trường thứ cấp,

nếu không có thò trường sơ cấp thì không thể có thò trường thứ cấp.
1.1.2.2 Các loại hình TTCK :
Căn cứ theo hình thức tổ chức và phương thức giao dòch, TTCK có các loại:
A. TTCK tập trung :
Nơi đó, việc giao dòch mua bán chứng khoán được thực hiện thông qua
các thành viên trong Sở giao dòch chứng khoán và tại sàn giao dòch, do đó thò
trường này còn được gọi là TTCK chính thức. Hàng hóa giao dòch trên thò trường
này là các chứng khoán của những công ty được niêm yết trên sàn giao dòch.
B. TTCK phi tập trung :
Còn được gọi là thò trường OTC (Over The Counter), là thò trường
mà mọi hoạt động giao dòch mua bán chứng khoán được thực hiện tự do bất cứ
lúc nào, nơi nào, phân tán có thể thông qua nhà môi giới hoặc chính người sở
hữu chứng khoán thực hiện không thông qua Sở giao dòch chứng khoán. Đó là thò
trường tự phát xuất hiện đầu tiên trong lòch sử hình thành và phát triển TTCK.
Hàng hóa giao dòch trên thò trường này là các chứng khoán của những công ty
chưa đủ điều kiện niêm yết hoặc không niêm yết trên sàn giao dòch.
1.1.3 Hàng hóa lưu thông trên TTCK :
Hàng hóa lưu thông trên TTCK là chứng khoán - bằng chứng xác nhận
quyền sở hữu hay quyền chủ nợ hợp pháp đối với tài sản hay vốn của tổ chức
phát hành. Có hai loại chứng khoán chủ yếu trên TTCK : cổ phiếu và trái phiếu.

11


A. Cổ phiếu :
Cổ phiếu là một loại chứng từ - dưới hình thức giấy tờ hay ghi trên hệ
thống điện tử - do các công ty cổ phần phát hành xác nhận quyền sở hữu
hợp pháp của người có cổ phiếu đối với tài sản của người phát hành
Cổ phiếu được phát hành lúc thành lập Công ty và lúc Công ty cần gọi
thêm vốn để phát triển sản xuất kinh doanh.

Giá trò ban đầu ghi trên cổ phiếu được gọi là mệnh giá. Mệnh giá của cổ
phiếu chỉ là giá trò danh nghóa. Tùy theo hiệu quả sản xuất kinh doanh và
phương thức phân phối lợi nhuận của công ty, giá giao dòch cổ phiếu sẽ tăng hay
giảm và ngày càng bỏ xa mệnh giá.
Để phù hợp với tâm lý của người đầu tư và tạo nên sự hấp dẫn hơn cho cổ
phiếu, người ta đã chia cổ phiếu thành nhiều loại khác nhau:
- Cổ phiếu thường
- Cổ phiếu ưu đãi : bao gồm nhiều loại tương ứng với nhiều hình thức ưu đãi
+ Cổ phiếu ưu đãi tích lũy
+ Cổ phiếu ưu đãi không tích lũy
+ Cổ phiếu ưu đãi tham dự chia phần.
+ Cổ phiếu ưu đãi không tham dự chia phần.
+ Cổ phiếu ưu đãi có quyền chuyển đổi thành cổ phiếu thường.
+ Cổ phiếu ưu đãi có thể chuộc lại.
B. Trái phiếu :
Trái phiếu là một loại chứng từ chứng nhận quyền đòi nợ - gốc lẫn lãi của trái chủ đối với cá nhân hay tổ chức phát hành, nó là một chứng khoán nợ
mà người chủ nợ của tổ chức phát hành là người chủ sở hữu trái phiếu đó.
Người mua trái phiếu hàng năm, hàng quý họ sẽ được trả một số tiền lời
theo mức lãi suất đã đònh và khi đáo hạn họ sẽ được nhận tiền vốn gốc. Tình

12


hình lạm phát tiền tệ, hoặc có sự thay đổi trong chính sách tài chính - tín dụng
(tăng) cũng có thể làm ảnh hưởng giá trò trái phiếu trên thò trường.
* Các đặc điểm chung của trái phiếu :
¾Mệnh giá : Mệnh giá của trái phiếu là số tiền ghi trên trái phiếu khi phát
hành, số tiền này sẽ được hoàn lại cho trái chủ khi đáo hạn. Trái phiếu phát
hành lần đầu, thường được mua bán đúng mệnh giá của nó. Tùy theo tình hình
thò trường, mức sinh hoạt tại từng khu vực, từng nước mà trái phiếu có mệnh giá

tương xứng. Nhưng có một điểm chung nhất là mệnh giá ghi trên trái phiếu
thường được cơ cấu theo cơ cấu tiền như 1, 2, 5, 10, 20, 50, 100 để thuận tiện
trong việc mua bán trao đổi.
¾ Ngày đáo hạn : Trái phiếu lưu thông trên TTCK là trái phiếu dài hạn.
Thời hạn trái phiếu rất khác nhau giữa các Công ty, tùy mục đích và thời gian sử
dụng vốn phát hành. Chẳng hạn như trái phiếu có mục đích là trái phiếu phát
hành để huy động vốn cho mục đích đầu tư như là xây dựng cơ sở hạ tầng… có
thời hạn thu hồi vốn lâu thường từ 15 - 30 năm.
¾ Lãi suất : Mỗi trái phiếu có giá trò cam kết của Công ty hay Chính phủ sẽ
thanh toán cho người có trái phiếu một số tiền lãi cố đònh vào một ngày xác
đònh. Lãi suất thường được công bố trên tỷ lệ % so với mệnh giá của trái phiếu.
Thông thường trái chủ sẽ nhận lãi vào một ngày đònh kỳ của mỗi 6 tháng hay 1
năm.
* Phân loại trái phiếu :
Căn cứ vào tính chất pháp lý:
- Trái phiếu vô danh.
- Trái phiếu ký danh
Căn cứ vào chủ thể phát hành:
- Trái phiếu Công ty : bao gồm các loại sau đây :
+ Trái phiếu tín chấp
13


+ Trái phiếu thế chấp
+ Trái phiếu cầm cố ưu tiên một.
+ Trái phiếu thu nhập
+ Trái phiếu có khả năng chuyển đổi thành cổ phiếu thường.
+ Trái phiếu lãi suất chiết khấu.
+ Trái phiếu lãi suất thả nổi.
- Trái phiếu chính phủ : bao gồm các loại sau đây

+ Trái phiếu kho bạc ngắn hạn
+ Trái phiếu kho bạc trung và dài hạn
+ Trái phiếu đòa phương ngắn hạn
+ Trái phiếu đòa phương trung và dài hạn
C. Chứng quyền :
Trên thương trường có nhiều Công ty hoạt động mang lại hiệu quả cao, xu
hướng phát triển ngày càng mở rộng, Hội đồng quản trò Công ty quyết đònh tăng
vốn bằng cách phát hành cổ phiếu bổ sung.Việc phát hành cổ phiếu mới có thể
đưa đến tình trạng một số cổ đông ban đầu không đủ vốn để mua thêm cổ phần
mới theo tỷ lệ ban đầu, từ đó họ mất quyền kiểm soát Công ty trong khi họ là
những người có công cần được ưu đãi.
Để khắc phục tình trạng trên, người ta đã áp dụng nhiều phương thức phát
hành cổ phiếu mới đảm bảo quyền kiểm soát Công ty vẫn thuộc số cổ đông ban
đầu, bằng sự ưu tiên cho cổ đông cũ vẫn nắm quyền kiểm soát Công ty, nhưng
như vậy cổ đông mới sẽ không mua cổ phiếu. Do đó những năm 1950 người ta
đã ưu tiên khuyến khích: các cổ đông hiện hữu được quyền mua một số cổ phiếu
mới tương ứng với tỷ lệ góp vốn cũ theo giá thấp hơn giá thò trường. Quyền này
được thể hiện bằng giấy đảm bảo quyền mua cổ phiếu. Nếu cổ đông cũ không
thực hiện quyền mua thì họ có thể đưa ra bán thò trường để nhận một khoản lãi

14


do chênh lệch giá ưu tiên. Sau khi ưu tiên cho cổ đông cũ, số còn lại mới bán
rộng rãi ra thò trường.
D. Quyền lựa chọn :
Hầu hết trái phiếu có bao gồm điều khoản gọi. Khi không có điều khoản
này, những cơ quan phát hành muốn thu hồi món nợ sớm, họ có thể yêu cầu trái
chủ giao lại trái phiếu. Yêu cầu này công bố trên báo và mời trái chủ bán lại
trái phiếu với giá đã loan tải.

Khi có điều khoản dự trữ về lệnh gọi thì Công ty vì yêu cầu, họ có quyền
mua lại, có thể bằng với mệnh giá hay cao hơn. Với quyền này, Công ty có thể
bắt buộc trái chủ quyền lựa chọn tùy theo quy đònh trong điều khoản nói trên.
Muốn sử dụng quyền gọi, Công ty phải công bố trước 30 ngày trước khi có thể
gọi. Đối với loại đáo hạn nối tiếp, trái phiếu thường được gọi theo ngược, nghóa
là những trái phiếu có đáo kỳ lâu nhất được gọi trước. Đối với loại đáo hạn một
lần, trái phiếu được gọi theo từng lô.
Gần đây, với cố gắng thu hút thêm người đầu tư, một vài loại trái phiếu
đô thò đã được phát hành với điều khoản dự trù về quyền bán lại. Thực sự đây
không hoàn toàn đúng nghóa với quyền bán vì không thể đem bán được, điều
khoản này cho phép người đầu tư bán lại trái phiếu cho cơ quan phát hành.
Quyền này chỉ được sử dụng trong thời gian đã đònh thôi, thường không được
dùng trong khoảng thời gian trái phiếu mới phát hành .
1.1.4 Những nguyên tắc hoạt động của TTCK :
TTCK là một đònh chế tài chính phát triển cao trong cơ chế thò trường,
hoạt động theo cơ chế riêng biệt, được tiêu chuẩn hoá và mang tính Quốc tế.
TTCK hoạt động theo 3 nguyên tắc cơ bản sau:
1.1.4.1 Nguyên tắc trung gian :
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho các loại chứng khoán được giao dòch
là chứng khoán thực và hợp pháp, nhằm bảo vệ lợi ích cho người đầu tư, tránh
15


được sự lường gạt hoặc sai lầm do thiếu khả năng dự đoán. Những người làm
môi giới thực hiện lệnh mua và bán của khách hàng và họ được hưởng tỷ lệ hoa
hồng do khách hàng trả.
1.1.4.2 Nguyên tắc đấu giá :
Đây là nguyên tắc quan trọng để thực hiện các giao dòch là chứng khoán
một cách công bằng. Giá chứng khoán mua bán được tập họp từ những nhà môi
giới, có thể là từ những lệnh của khách hàng gởi cho họ hoặc hoàn toàn do họ

quyết đònh theo kinh nghiệm kiến thức của họ, phải được thực hiện theo nguyên
tắc là một thò trường tự do không ai có quyền can thiệp vào thò trường hay độc
đoán cho chứng khoán một giá nào đó một cách chủ quan. Hoàn toàn do cung cầu chứng khoán quyết đònh giá cả chứng khoán và chỉ do cung cầu mà thôi.
1.1.4.3 Nguyên tắc công khai :
Nguyên tắc này đảm bảo cho các nhà đầu tư công bằng với nhau trước
những cơ hội đầu tư. Phải công khai tình hình hoạt động, kết quả hoạt động của
Công ty có chứng khoán đăng ký ở thò trường chứng khoán. Công khai giá cả và
số lượng của chứng khoán đã thực hiện, công khai giá hiện tại cùng số lượng
kèm theo qua các phương tiện thông tin đại chúng cho tất cả thành viên tham gia
và dân chúng biết.
Tất cả những nguyên tắc cơ bản nêu trên đều được thể hiện bằng các văn
bản pháp quy, từ các đạo luật đến các quy chế, điều lệ của mỗi thò trường chứng
khoán, nhằm bảo vệ cho công chúng mua chứng khoán (người đầu tư) và những
thành viên trên thò trường chứng khoán.
1.1.5 Các thành viên tham gia trên TTCK :
Những nguyên tắc hoạt động trên TTCK đòi hỏi việc mua bán chứng
khoán không chỉ đơn thuần là quan hệ giữa người mua - người bán, mà phải có
sự tham gia của một số đối tượng khác, trước hết là người làm trung gian môi
giới và người tổ chức việc mua bán, đònh giá. Đồng thời để đảm bảo sự an toàn
16


của thò trường, sự tham gia quản lý và giám sát của Nhà nước đối với TTCK là
hết sức quan trọng.
Các đối tượng tham gia vào TTCK bao gồm:
1.1.5.1 Người đầu tư chứng khoán :
Người đầu tư chứng khoán là những người mua chứng khoán bao gồm:
các doanh nghiệp, các Công ty bảo hiểm, các quỹ hữu trí và đông đảo nhất là
các nhà đầu tư cá thể (công chúng).
1.1.5.2 Người phát hành chứng khoán :

Người phát hành chứng khoán là người huy động vốn bằng cách in và bán
các chứng khoán cho người đầu tư. Thuộc loại này có các doanh nghiệp và các
cơ quan công quyền được luật pháp cho phép.
1.1.5.3 Người môi giới kinh doanh chứng khoán :
Người môi giới kinh doanh chứng khoán là người được pháp luật cho phép
được thực hiện các nghiệp vụ môi giới và kinh doanh chứng khoán, trong đó
nghiệp vụ quan trọng nhất là làm trung gian môi giới chứng khoán (nhận mua bán hộ chứng khoán để hưởng hoa hồng) và bảo lãnh phát hành chứng khoán
(tức là bảo đảm việc bán toàn bộ hoặc một phần số chứng khoán được phát hành
lần đầu cho người đầu tư để hưởng phí do người phát hành trả). Ngoài ra, người
kinh doanh chứng khoán còn có thể thực hiện các nghiệp vụ khác có liên quan
như: tư vấn đầu tư chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, mua và bán
chứng khoán cho chính mình để hưởng chênh lệch giá.
1.1.5.4 Người tổ chức thò trường :
Người tổ chức thò trường là người tạo ra điạ điểm và phương tiện để phục
vụ cho việc mua bán chứng khoán, gọi là Sở Giao Dòch Chứng Khoán. SGDCK
sẽ lựa chọn và cho phép các loại chứng khoán nào được niêm yết để mua bán
tại SGDCK các công ty chứng khoán nào được là thành viên của SDGCK. Trên
cơ sở các lệnh mua và lệnh bán chứng khoán mà khách hàng đã đặt cho các
17


Công ty chứng khoán (thành viên của SGDCK). Sở Giao Dòch Chứng Khoán sẽ
tổ chức bán đấu giá để thực hiện việc mua bán chứng khoán.
1.1.5.5 Người quản lý và giám sát các hoạt động của TTCK :
Người quản lý và giám sát các hoạt động của TTCK là người bảo đảm
cho TTCK hoạt động theo đúng các quy đònh của pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích
của người đầu tư, bảo đảm việc mua bán chứng khoán công bằng, công khai,
tránh những tình trạng tiêu cực có thể xảy ra - Đó chính là Nhà nước.
Theo thông lệ chung của quốc tế và giám sát các hoạt động của thò trường
vốn là TTCK do Bộ Tài Chính chòu tránh nhiệm chính và các thành viên khác

của Chính phủ. Thông thường người ta lập ra Ủy Ban Chứng Khoán Quốc Gia
(UBCKQG) do Bộ Trưởng Bộ Tài Chính làm Chủ tòch, Thống đốc Ngân hàng
làm Phó Chủ tòch và các Ủy viên khác là thành viên của các Bộ khác của Chính
phủ.
— Nội dung quản lý Nhà nước về TTCK bao gồm:
¾ Xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật về TTCK thông thường
các nước có TTCK hoạt động lâu đời, trên cơ sở đạo luật về chứng khoán mà
san đònh các văn bản dưới luật.
¾ Giám sát hoạt động của thò trường và đưa ra các giải pháp cần thiết để
đảm bảo thò trường hoạt động tốt: cấp, đình chỉ, thu hồi các loại giấy phép trong
lónh vực phát hành và kinh doanh chứng khoán.
¾ Ngoài các đối tượng chính trên đây, trong hoạt động của Thò trường
chứng khoán còn các đối tượng hỗ trợ quan trọng khác như :
¾ Các tổ chức làm nhiệm vụ thanh toán, lưu giữ chứng khoán; tổ chức
làm dòch vụ sang tên và đăng ký lại quyền sở hữu chứng khoán, trung tâm đào
tạo người hành nghề chứng khoán; Hiệp hội các nhà đầu tư; hiệp hội các nhà
kinh doanh chứng khoán… Tất cả các tổ chức này ra đời và phát triển, tạo ra một
hệ thống dòch vụ khép kín phục vụ cho các đối tượng chính hoạt động có hiệu
18


quả trên thò trường, góp phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển
ngành công nghiệp chứng khoán.
1.2 Mục đích và vai trò của TTCK trong phát triển kinh tế :
1.2.1 Mục đích của TTCK :
- Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài chính trong quá trình phát triển
kinh tế đây là nhân tố quan trọng nhất để phát triển sản xuất. TTCK là cái van
điều tiết hữu hiệu nhất các nguồn vốn từ nơi sử dụng kém hiệu quả sang nơi sử
dụng có hiệu quả cao hơn.
- Mở rộng nền tảng quyền sở hữu của cải tài chính và bất động sản.

TTCK là nơi diễn ra các quá trình chuyển nhượng quyền sở hữu về vốn tài sản
hết sức thuận lợi và cả môi trường cho việc đa dạng hóa các chủ thể sở hữu các
đơn vò.
- Tạo điều kiện cho nhiều người sử dụng vốn đầu tư. TTCK đảm bảo và
phục vụ cho bất cứ ai có nhu cầu về vốn đầu tư sản xuất.
- Bảo đảm sẵn sàng cho nguồn vốn, cho đầu tư dài hạn. TTCK khác với
ngân hàng là luôn sẵn sàng cung cấp vốn dài hạn cho các doanh nghiệp kòp thời
đúng lúc và đầy đủ số lượng cần thiết mà không phải thông qua các thủ tục hành
chính khắt khe, mức độ vay hạn chế mà chủ yếu là ngắn hạn nếu quá hạn phải
trả lãi cao hơn.
- Mở rộng dòch vụ tài chính thông qua các hoạt động của các tổ chức tài
chính
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức tài chính.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài và nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nước ngoài.

19


1.2.2 Vai trò của TTCK trong phát triển kinh tế :
1.2.2.1. Kênh huy động vốn cho nền kinh tế :
TTCK có vai trò quan trọng trong việc huy động vốn để đầu tư vào sản
xuất kinh doanh và các nhu cầu chi tiêu của Chính phủ. Bên cạnh nguồn tiền
nhàn rỗi, trong nền kinh tế còn tồn tại một nguồn vốn to lớn từ các nhà đầu tư những người muốn trực tiếp đầu tư vào sản xuất kinh doanh để kiếm lời tận gốc.
TTCK có vai trò quan trọng trong việc thu hút nguồn vốn này để chuyển tải trực
tiếp vào các ngành công, nông và thương nghiệp.
Đơn vò : tỷ USD và % (số liệu năm 1994)
Quốc gia
Nhật bản
Hoa kỳ

Đức
Anh
Trung quốc
Hong Kong
Singapore
Thái lan
Indonesia
Malaysia
Philippines

Tài sản ngân hàng Thò trường cổ phiếu Thò trường trái phiếu
USD
GDP (%)
USD
GDP (%)
USD
GDP (%)
74
3443
80
3720
152
7106
110
7429
75
5082
54
3620
90

1719
25
471
169
3255
35
366
116
1210
216
2257
7
33
9
44
76
388
9
11
205
270
195
257
72
45
217
135
186
115
10

14
94
132
110
113
6
9
30
47
57
90
56
40
283
199
100
70
39
25
87
56
54
34

Nguồn : The Emerging Bond Market, June 1995 - World Bank
Qua bảng chỉ số tổng hợp của các thò trường tài chính quan trọng của thế
giới qua một năm tiêu biểu trên đây, chúng ta đã thấy rõ hơn vai trò của TTCK
trong việc huy động vốn.
TTCK hỗ trợ cho việc tăng trưởng hoạt động của các Công ty xí nghiệp,
đồng thời tiếp ứng cho Nhà nước những phương tiện tài chính bổ sung nhằm thực

hiện chính sách kinh tế - xã hội.
TTCK tham gia vào việc tài trợ cho những khoản đầu tư tái sản xuất mở
rộng của các Công ty, xí nghiệp. Vai trò này ngày càng quan trọng và không thể
coi là phụ thuộc so với việc tài trợ của hệ thống Ngân hàng vì những lý do sau:
20


- Phần tài trợ từ TTCK ngày càng gia tăng
- Phần vốn mà nó cung ứng có tính chất dài hạn, đây là điều hết sức thiết
yếu cho một nước phát triển cần nhiều vốn dài hạn như nước ta trong giai đoạn
hiện nay và sắp tới khi bảo đảm mức độ tăng trưởng kinh tế cao và tiến hành sự
nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
- TTCK đã thiết lập một mối quan hệ gần như trực tiếp giữa người tích
lũy và các doanh nghiệp cần vốn, thông qua phương thức phát hành cổ phiếu
hay trái phiếu. Có thể nói TTCK là công cụ tài trợ ngắn nhất giữa tiết kiệm và
đầu tư.
- Mặc khác, TTCK cũng đã cung cấp cho Nhà nước và các cơ quan công
quyền những phương tiện tài chính cần thiết cho việc thực hiện các dự án đầu tư
hay để giải quyết các khoản thiếu hụt ngân sách.
1.2.2.2 Công cụ điều hòa vốn cho nền kinh tế :
TTCK góp phần điều hòa vốn giữa các ngành trong nền kinh tế quốc dân,
do đó thúc đẩy sự bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận, một động lực cạnh tranh để
phát triển. Việc di chuyển quyền sở hữu vốn trên TTCK thông qua hành vi mua
bán là điều kiện hữu hiệu nhất góp phần điều hòa vốn giưã các ngành. Việc
phát hành chứng khoán giúp cho doanh nghiệp huy động thêm vốn đồng thời thu
hút thêm được những nhà đầu tư mới tham gia vào quản lý doanh nghiệp. Vốn,
nhân lực và quản lý là động lực của tăng trưởng, là cơ sở cho sự cạnh tranh lành
mạnh giữa các ngành, thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hình xoắn trôn ốc.
Mặt khác, nhờ vào trào lưu quốc tế hóa các TTCK quốc gia, TTCK còn
có vai trò như là người dẫn vốn đầu tư của nước ngoài vào trong nước, đồng thời

dẫn vốn trong nước ra nước ngoài, những nước có cơ hội và môi trường đầu tư
thuận lợi. Chúng ta đang tiến hành công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa nên
cần một khôí lượng vốn đầu tư lớn. Ngoài việc dựa vào nguồn vốn tích lũy nội
bộ, một nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào có ý nghóa hết sức quan trọng.
21


Thông qua thò trường chứng khoán, chúng ta có thể thu hút thêm một lượng vốn
lớn của nước ngoài đầu tư vào các doanh nghiệp Việt Nam.
1.2.2.3 Bảo đảm tính thanh khoản cho số tiết kiệm phục vụ đầu tư dài hạn :
Vai trò thứ ba của TTCK nhằm giúp hạn chế sự rủi ro bất động của đồng
tiền tiết kiệm. Với vai trò điều hòa cung cầu chứng khoán dài hạn, TTCK giải
quyết được những mối ưu tư của những người tiết kiệm. Người giữ chứng khoán
có thể bất cứ khi nào cần tiền mặt thì bán ngay chứng khoán của mình cho
những nhà đầu tư tại thò trường. Điều kiện để cho một thò trường có tính thanh
khoản cao là phải có sự hiện hữu của một số lượng quan trọng các chứng khoán
lưu hành được đặt dưới sự sử dụng của công chúng, đồng thời số lượng chứng
khoán giao dòch hàng ngày cũng tương đối vừa phải cho các cuộc trao đổi mua
bán để không dẫn đến hậu quả thăng trầm, lệch lạc của giá chứng khoán.
1.2.2.4 Đo lường giá trò các tích sản của doanh nghiệp :
Sự đóng góp tích cực nhất của TTCK trong vai trò này là tiên đoán được
trò giá của Công ty trong một thời hạn từ 3-5 năm bằng cách xây dựng những giả
thiết khả hữu đối với tương lai của Công ty.
1.2.2.5 Kích thích các doanh nghiệp hoạt động tốt hơn :
Công ty có chứng khoán phát hành và đang lưu động ở các TTCK có
nhiệm vụ phải công bố những số liệu liên quan tình hình hoạt động của Công ty,
kết quả hoạt động của Công ty theo đònh kỳ thông qua bảng cáo bạch thò trường
và số liệu đó phải được Công ty kiểm toán xác nhận. Qua đó tình hình hoạt động
của Công ty được giám sát chặt chẽ bởi cổ đông của Hội đồng quản trò. Tình
hình hoạt đông của Công ty lại được thể hiện ngay qua giá chứng khoán của họ

trên thò trường, vì vậy mà hoạt động của Công ty sẽ ngày càng tốt hơn.
1.2.2.6 Thúc đẩy quá trình cổ phần hóa phát triển :
Tạo lập một thò trường thứ cấp cho các chứng khoán do các công ty cổ
phần phát hành, tăng tính thanh khoản cho các chứng khoán. Khuyến khích dân
22


chúng đầu tư vào chứng khoán. Từ đó hình thành một cơ chế đa sở hữu về tư
liệu sản xuất và tài sản của xã hội, tính sở hữu toàn dân được mở rộng, từng
bước làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất
- đây chính là cơ sở của sự phát triển.
Nhìn chung, TTCK giữ vai trò thò trường của các thò trường, vì nơi đây
phản ánh đầy đủ nhất mọi mặt của kinh tế thò trường, là thò trường cung cấp vốn
và tiền tệ đặc trưng nhất của các quốc gia thực hiện chủ trương tự do kinh tế.
TTCK đóng vai trò cơ sở cho việc thu hút, vận hành vốn trong nền kinh tế, thỏa
mãn nhu cầu đầu tư cũng như sử dụng vốn một cách nhanh nhất, có hiệu quả
nhất, đáp ứng yêu cầu về vốn để phát triển kinh tế.

23


CHƯƠNG 2 :

QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI

VÀ VIỆC HÌNH THÀNH TTCK Ở VIỆT NAM
2.1 Phát triển kinh tế Việt Nam từ khi ban hành chính sách đổi mới :
Nghò quyết Hội Nghò Ban Chấp hành Trung Ương lần thứ sáu (Khóa IV)
năm 1979 là sự khởi đầu của những biện pháp cải tiến cơ chế quản lý. Nghò
quyết này đã bắt đầu đề cập đến những tình trạng tập trung, quan liêu, trì trệ,

bảo thủ trong kế hoạch hóa trong việc xây dựng các chính sách cụ thể về kinh tế
quốc gia và đã chủ trương cải tiến quan hệ sản xuất và cơ chế quản lý.
Đại hội Đảng lần V tháng 3 năm 1982 bắt đầu chính thức và công khai
phê phán cơ chế quản lý kinh tế cũ : “Chúng ta đã duy trì quá lâu cơ chế quản lý
hành chính, quan liêu, bao cấp, chậm thay đổi các chính sách, chế độ, kiềm hãm
sản xuất”1. Nghò Quyết Đại hội V đã đặt vấn đề phải : “Đổi mới chế độ quản lý
hành chính quan liêu bao cấp, khắc phục bằng được tình trạng trì trệ, bảo thủ, vô
trách nhiệm và ý thức kỷ luật”. Rõ ràng qua Đại hội V, chúng ta đã nhận thức
sâu sắc về tính trì trệ quan liêu của chế độ quản lý bằng kế hoạch hóa tập
trung.
Sau Đại hội V, hàng loạt các Nghò Quyết Trung Ương lần 6,7,8 (Khóa 5),
Nghò quyết 306 của Bộ Chính Trò, chỉ thò 100CT của Ban Bí Thư, đã tập trung
vào việc đổi mới cơ chế quản lý, hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nông
nghiệp, các Nghò Quyết của Chính phủ về cải tiến kế hoạch hóa, bảo đảm
quyền chủ động sản xuất và tự chủ tài chính của các xí nghiệp, khuyến khích
tính năng động, sáng tạo của các ngành, của đòa phương và của cơ sở, phát triển
các hình thức liên doanh liên kết giữa các xí nghiệp... Đặc biệt Nghò Quyết Hội
Nghò Trung Ương lần thứ 8 (khóa 5) vào năm 1985 đã xác đònh phương hước xóa
bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang thực hiện hạch toán kinh tế,

24


kinh doanh XNCH. Nghò Quyết này cũng đã tập trung giải quyết các vấn đề giálương-tiền và cho rằng “xóa bỏ triệt để quan liêu bao cấp trong giá-lương-tiền là
yêu cầu hết sức cấp bách, là khâu đột phá và có tính quyết đònh để đẩy mạnh
sản xuất, làm chủ thò trường, ổn đònh và cải thiện một bước đời sống nhân dân
lao động, thay đổi toàn bộ cơ chế quản lý nền kinh tế quốc dân”.2 Nghò Quyết
này đã có tác dụng xóa bỏ hình thức bao cấp qua giá, xóa bỏ cơ chế hai giá và
thực hiện nhất quán cơ chế một giá bán lẻ. Đây là vấn đề cốt lõi để chuyểûn
sang cơ chế thò trường. Do đó, biện pháp này được đánh giá cao, mang tính tích

cực. Đây là một bước đi táo bạo được thực hiện sớm nhất so với Liên Xô và các
nước Đông u, Trung Quốc trong công cuộc cải cách về giá cả vào thời kỳ đó.
Cả nước chỉ còn một cơ chế giá là giá thỏa thuận (giá kinh doanh). Quan điểm
này kết thúc cuộc tranh luận kéo dài nhiều năm xoay quanh vấn đề thò trường.
Tuy nhiên, do quan điểm đổi mới thiếu đồng bộ, cách nhìn nhận phiến
diện, chủ quan, duy ý chí, tưởng chừng chỉ cần điều chỉnh giá-lương-tiền là có
thể giải quyết được mọi vấn đề tồn tại của nền kinh tế, nên đã dẫn đến cuộc
tổng điều chỉnh giá-lương-tiền năm 1985 với những hậu quả nghiêm trọng tới
đời sống kinh tế xã hội của đất nước như chúng ta đã biết.
Như vậy, cơ chế thò trường đã hình thành, tồn tại ngầm trong cơ chế kế
hoạch hóa tập trung, đấu tranh quyết liệt với cơ chế quản lý cũ, trong lý luận
cũng như trong thực tiễn, suốt cả mười mấy năm trời, nhưng nó luôn bò giới hạn
trong hệ thống tư duy cũ, không phát huy được.
Mãi đến Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), đứng trước sự trì trệ về sản
xuất, sự rối ren trong phân phối lưu thông, những khó khăn trong đời sống nhân
dân, những hiện tượng tiêu cực trong nhiều lónh vực, sự giảm sút niềm tin trong
nhân dân, Đảng và Nhà nước đã khẳng đònh “phải triệt để đổi mới tư duy”, “chỉ

1
2

Văn kiện Đại hội Đại Biểu toàn quốc lần thứ 5, tập 1, NXB Sự Thật – trang 38
Tạp chí tuyên truyền Ban tuyên huấn Trung Ương số 3/1995-trang 6

25


có đổi mới thì mới thấy đúng và thấy hết sự thật, thấy những nhân tố mới để
phát huy và những sai lầm để sữa chữa”.1
Đại hội VI đã tổng kết “Quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính

là chủ yếu, với hệ thống chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh chi tiết từ trên giao xuống,
không phù hợp với nguyên tắc tập trung dân chủ”2. Điều này dẫn đến sự can
thiệp quá sâu của Nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp mà lại không chòu trách nhiệm gì về các quyết đònh của mình, đồng thời
các đơn vò cơ sở vừa không có quyền tự chủ, vừa không bò ràng buộc trách
nhiệm với hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Một đặc trưng cơ bản của cơ chế kế hoạch hóa tập trung là “cơ chế đó
chưa chú ý đầy đủ đến quan hệ hàng hóa – tiền tệ và hiệu quả kinh tế, dẫn đến
cách quản lý và kế hoạch hóa thông qua chế độ cấp phát và giao nộp, theo quan
hệ hiện vật là chủ yếu, hạch toán kinh tế chỉ là hình thức, không ràng buộc
trách nhiệm và lợi ích vật chất đối với hiệu quả sử dụng vốn, tài sản, vật tư, lao
động, tách rời việc trả công lao động”3. Đặc trưng này đẻ ra một bộ máy quản lý
cồng kềnh, cán bộ quản lý kém năng động, tạo ra phong cách quản lý quan liêu,
cửa quyền. Nó cũng dẫn đến tình trạng hạch toán kinh tế mang tính giả tạo, lãi
giả lỗ thật trở nên phổ biến, tạo ra chênh lệnh giá giả tạo, tạo cơ hội kiếm lãi
bất chính, thò trường rối loạn, phân phối thu nhập không công bằng, hợp lý. Cơ
chế quản lý tập trung bao cấp, đã dẫn đến những tác hại lớn cho nền kinh tế
suốt một thời gian dài, "không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh
tế, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế, kiềm hãm sản xuất,
làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu
thông và sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội”4.

1

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI – NXB Sự Thật – Hà Nội – trang 7
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI – NXB Sự Thật – Hà Nội – trang 62
3
Văn kiện Đại hội VI- trang 63
4
Văn kiện Đại hội VI- trang 63

2

26


Từ đó, Đại hội VI khẳng đònh việc xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp là một yêu cầu bức bách của cuộc sống, Đại hội khẳng đònh nội dung cơ bản
của cơ chế mới với hai đặc trưng chủ yếu là :
1. Tính kế hoạch là đặc trưng số một của cơ chế quản lý kinh tế ngay từ
buổi đầu của thời kỳ quá độ1. Nhà nước phải nhất thiết quản lý nền
kinh tế theo một kế hoạch thống nhất.
2. Sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa-tiền tệ.
Đại hội VI cũng nhấn mạnh :”Nền kinh tế phải được quản lý bằng các
phương pháp kinh tế là chủ yếu.”2
Đến giữa năm 1991, Đại hội Đại Biểu toàn quốc lần thứ VII đã tiếp tục
xác đònh: ”Xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và
vận hành có hiệu quả cơ chế thò trường có sự quản lý của Nhà nước. Thiết lập
trật tự, kỷ cương theo cơ chế mới vừa là nội dung, vừa là điều kiện để ra khỏi
khủng hoảng, ổn đònh và phát triển kinh tế-xã hội”3.
Nhìn chung, quá trình đổi mới cơ chế quản lý ở nước ta thật sự là một
cuộc cách mạng trong kinh tế. Từ Nghò quyết 6 Ban Chấp Hành Trung Ương
Khóa IV chấp nhận quan hệ hàng hoá-tiền tệ như một thứ yếu bổ sung cho hệ
thống kế hoạch hóa pháp lệnh tập trung, qua một quá trình thử nghiệm và nắm
bắt thực tiễn, một quá trình đấu tranh khá gay gắt về tư tưởng, quan điểm và
chính sách để đi đến bước ngoặt đổi mới tư duy của Đại hội VI : thừa nhận cơ
chế thò trường có sự quản lý của Nhà nước là một tất yếu. Có được những luận
điểm đổi mới như vậy, có được sự đổi mới trong tư duy mạnh mẽ như vậy thật sư
không phải là dễ dàng. Qua nhiều thập kỷ, tư tưởng kinh tế XHCN mang nhiều
đònh kiến sâu sắc đối với quan hệ hàng hóa, cơ chế thò trường, sở hữu tư nhân,...
Chúng bò xem như là những sản phẩm xấu xa của chế độ tư hữu, tư bản chủ

1

Văn kiện Đại hội VI- trang 63
Văn kiện Đại hội VI- trang 64
3
Chiến lược ổn đònh và phát triển kinh tế -xã hội đến năm 2000 – Sự Thật - Hà Nội 1991.
2

27


×