Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

thực trạng về việc học nghề ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.65 KB, 17 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Từ xa xưa, lao động đã xuất hiện trong đời sống con người. Lao động là một
hoạt động không thể thiếu nhằm đảm bảo đời sống của con người. Trải qua thời
gian, các công việc lao động ngày một phát triển, yêu cầu về những người lao động,
người thợ nghề ngày một tăng theo. Yêu cầu đó bao gồm nhiều mặt, đối với những
người làm nghề thì nằm chủ yếu ở hai mặt là sức khỏe và trình độ tay nghề. Sức
khỏe là yếu tố quan trọng mà bất kì người lao động nào cũng cần phải có trong quá
trình lao động và để có thể đạt được năng suất. Tuy nhiên ngoài những công việc
giản đơn chỉ cần đến sức khỏe thì nếu làm những công việc cần trình độ cao, cần kỹ
thuật thì người lao động cần phải có một kỹ năng nghề nhất định. Việc có năng lực
kỹ năng có thể do bản năng, chỉ cần nhìn lướt qua là có thể làm được nhưng đa
phần là phải tập luyện và tích lũy kiến thức mới đạt được kỹ năng nghề.
Công tác dạy và học nghề có vai trò quan trọng đặc biệt quan trọng trong
thời kỳ hiện nay. Việc xây dựng nền kinh tế phát triển, tiếp nhận công nghệ tiên
tiến, hội nhập thế giới đòi hỏi một lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật vững vàng, đặc biệt là đội ngũ công nhân, kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ lành
nghề. Có một trình độ nghề nhất định vừa để đáp ứng yêu cầu của công việc và yêu
cầu của người sử dụng lao động. Để đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động hiện
trong thời đại này thì việc học nghề là một hoạt động không thể thiếu để tìm việc
làm. Việc đào tạo nghề cho người lao động ngày càng trở thành vấn đề cốt lõi cho
sự cạnh tranh phát triển đới với nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Do đó, việc
học nghề đang ngày một được chú trọng và quan tâm. Trong phạm vi bài tiểu luận,
em xin tìm hiểu về vấn đề “thực trạng về việc học nghề ở nước ta hiện nay” để tìm
hiểu sâu hơn.
Trong bài có sử dụng từ viết tắt
BLLĐ = Bộ luật lao động


B. NỘI DUNG
I. Các khái niệm và vấn đề liên quan về học nghề
1. Khái niệm học nghề


Theo nghĩa rộng thì học nghề có thể hiểu là quá trình tích lũy kiến thức, kỹ
năng nghề nghiệp của con người để giải quyết nhu cầu quan trọng và chủ yếu là
việc làm. Hoặc hiểu theo nghĩa hẹp, học nghề được hiểu là hình thức học thông qua
làm việc có hướng dẫn để người học đạt được sự thành thạo nhất định về nghề
nghiệp. Quá trình này diễn ra các hoạt động làm quen, học tập, tích lũy, rèn luyện...
của người học nhằm nắm bắt kỹ năng thực hành một nghề nhất định, thành thạo về
chuyên môn nghề. Quá trình học nghề có thể diễn ra trong khoảng thời gian ngắn
hoặc dài tùy thuộc yêu cầu của nghề được đào tạo cũng như khả năng của người
học và người dạy
Việc học nghề của người học nghề nhằm hướng tới đạt được trình độ, kỹ
năng nghề về một nghề nào đó, nhằm mục đích kiếm được việc làm, tạo ra thu nhập
cho bản thân. Còn người tuyển dụng lao động thì muốn người lao động của mình
nếu chưa có trình độ thì học nghề để có khả năng lao động, nếu đã có khả năng lao
động thì việc học nghề nhằm bồi dưỡng, nâng cao trình độ.
Học nghề là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới quan hệ lao động, thường đan
xen với quan hệ lao động hay phát sinh trước để tạo điều kiện cho quan hệ lao động
hình thành. Dưới góc độ pháp luật lao động, học nghề là chế định quan trọng, bao
gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, quy định về quyền
học nghề; điều kiện của người học nghề; quyền dạy nghề, điều kiện của người dạy
nghề; hợp đồng học nghề và những vấn đề liên quan tới hợp đồng học nghề; quan
hệ dạy và học nghề giữa hai bên; chính sách áp dụng đối với cơ sở dạy nghề; vấn
đề giải quyết việc làm cho người học nghề trong một số trường hợp cụ thể.


2. Phân loại học nghề
 Phân loại theo mục tiêu của người học
Căn cứ vào mục tiêu của người học thì bao gồm: học nghề để tự tạo việc làm,
học nghề để tham gia quan hệ lao động.
Học nghề để tự tạo việc làm là việc người học nghề có thể tham gia dự khóa
học nghề ngắn hạn hoặc dài hạn ở bất kì cơ sở dạy nghề nào mà đã đạt đủ các yêu

cầu của pháp luật để trang bị cho mình kiến thức của một nghề nhất định, tự tạo
việc làm và thu nhập.
Học nghề để tham gia quan hệ lao động bao gồm: việc người sử dụng lao động
tuyển người vào học nghề để làm việc cho mình và việc người lao động học nghề
để nâng cao kỹ năng nghề để làm việc cho người sử dụng lao động. Hoạt động học
nghề này được quy định cụ thể về các điều kiện đối với người sử dụng lao động và
người học nghề.
Mỗi người khi thực hiện việc học nghề đều có một mục tiêu nhất định và
thường xác định từ đầu. Mặc dù vậy mục đích của người học không phải lúc nào
cũng rõ ràng là học để tự tạo việc làm hay tham gia quan hệ lao động và nhiều khi
các mục đích này có thể chuyển đổi theo từng hoàn cảnh cụ thể. Vì vậy, cách phân
chia này chỉ mang ý nghĩa tương đối.
 Phân loại theo cách thức tổ chức dạy và học nghề
Theo cách thức tổ chức dạy và học nghề, học nghề được chia thành: học nghề
được tổ chức thành lớp học và học nghề theo hình thức kèm cặp tại doanh nghiệp.
Học nghề được tổ chức thành lớp học thường thấy ở các cơ sở chuyên dạy
nghề với số lượng người học nhiều. Quá trình học nghề thường được phân chia
thành hai phần tương đối rõ ràng là lí thuyết và thực hành. Chính vì vậy, đây là


cách thuận tiện giúp người học có được các kĩ năng, kiến thức cơ bản và họ sẽ được
cấp bằng hoặc chứng chỉ nghề theo quy định của nhà nước.
Học nghề theo hình thức kèm cặp tại doanh nghiệp thường được tổ chức ở cơ
sở sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp với số lượng người học ít.
 Phân loại theo trình độ nghề
Theo trình độ nghề, học nghề được chia thành ba cấp độ: sơ cấp, trung cấp
và cao đẳng.
Học nghề trình độ sơ cấp1: diễn ra trong khoảng thời gian từ ba tháng đến
dưới một năm nhằm trang bị cho người học kĩ năng thực hành một nghề đơn giản
hoặc năng lực thực hành một số công việc của một nghề; đạo đức, lương tâm nghề

nghiệp, ý thức tổ chức kỉ luật, tác phong công nghiệp; tạo điều kiện thuận lợi cho
người học tìm kiếm việc làm, tự tạo việc làm hoặc có điều kiện học lên trình độ cao
hơn. Nội dung dạy nghề trình độ sơ cấp phải tập trung vào năng lực thực hành
nghề, phù hợp với thực tiễn và sự phát trển của khoa học, công nghệ. Phương pháp
dạy nghề trình độ sơ cấp phải chú trọng rèn luyện kĩ năng thực hành nghề và phát
huy tính tích cực, tự giác của người học.
Học nghề trình độ trung cấp2: trong khoảng thời gian từ 1 đến 2 năm học và
phải đảm bảo khối lượng kiến thức tối thiểu theo từng ngành, nghề đào tạo là 35 tín
chỉ đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông, 50 tín chỉ đối với người
có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở. Học nghề trình độ trung cấp có thể trang bị cho
người có kiến thức chuyên môn và năng lực thực hành các công việc của một nghề;
có khả năng làm việc độc lập và ứng dụng kĩ thuật, công nghệ vào công việc; có
đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỉ luật, tác phong công việc; tạo điều kiện
1 Điều 4 Thông tư Số: 42/2015/TT-BLĐTBXH “QUY ĐỊNH VỀ ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ SƠ CẤP” của bộ lao động
thương binh và xã hội
2 Thông tư số 03/2017/TT-BLĐTBXH Quy định về quy trình xây dựng, thẩm định và ban hành chương trình; tổ chức
biên soạn, lựa chọn, thẩm định giáo trình đào tạo trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng, của bộ lao động thương
binh và xã hội.


thuận lợi cho người học tìm kiếm việc làm, tự tạo việc làm hoặc điều kiện học lên
trình cao hơn. Yêu cầu của đối với nội dung dạy nghề trình độ trung cấp là phải tập
trung vào năng lực thực hành các công việc của một nghề, nâng cao trình độ học
vấn theo yêu cầu đạo tạo, đảm bảo tính hệ thống, cơ bản, phù hợp với thực tiễn và
sự phát triển của khoa học, công nghệ.
Học nghề trình độ cao đẳng:3 diễn ra trong khoảng thời gian từ hai năm đến ba
năm tùy theo nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông, từ
một năm đến hai năm tùy theo nghề đạo tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung
cấp nghề cùng ngành nghề đào tạo.Mục tiêu của học nghề trình độ cao đẳng là
trang bị kiến thức chuyên môn và năng lực thực hành các công việc của một nghề ,

có khả năng làm việc độc lập và tổ chức làm việc theo nhóm, có khả năng sáng tạo,
ứng dụng kĩ thuật, công nghệ vào công việc, giải quyết được các tình huống phức
tạp trong thực tế; có đạo đức,lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỉ luật, tác phong công
nghiệp; tạo điều kiện thuận lợi cho người học tìm kiếm việc làm, tự tạo việc làm
hoặc có điều kiện học lên trình độ cao hơn. Nội dung dạy nghề trình độ cao đẳng
phải tập trung vào năng lực thực hành các công việc của một nghề, nâng cao kiến
thức chuyên môn theo yêu cầu đào tạo của nghề, bảo đảm tính hệ thống, cơ bản,
hiện đại, phù hợp với thực tiễn và đáp ứng sự phát triển của khooa học và công
nghệ.
3. Hợp đồng học nghề
a. Khái niệm hợp đồng học nghề
Theo khoản 1 điều 39 mục 2 Đào tạo thường xuyên Luật giáo dục nghề nghiệp
2014 quy định: “Hợp đồng đào tạo là sự giao kết bằng lời nói hoặc bằng văn bản về
quyền và nghĩa vụ giữa người đứng đầu cơ sở hoạt động giáo dục nghề nghiệp, lớp
3 Thông tư số 03/2017/TT-BLĐTBXH Quy định về quy trình xây dựng, thẩm định và ban hành chương trình; tổ chức
biên soạn, lựa chọn, thẩm định giáo trình đào tạo trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng, của bộ lao động thương
binh và xã hội.


đào tạo nghề, tổ chức, cá nhân với người học tham gia các chương trình đào tạo
thường xuyên quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 40 của Luật này và
trong trường hợp doanh nghiệp tuyển người vào đào tạo để làm việc cho doanh
nghiệp.”
b. Phân loại hợp đồng học nghề
Cũng theo Luật giáo dục nghể nghiệp 2014 thì:
- Dựa vào hình thức, hợp đồng học nghề được chia thành hai loại: hợp đồng học
nghề bằng văn bản và hợp đồng học nghề bằng lời nói.
- Theo giá trị pháp lý, hợp đồng học nghề được chia thành hai loại: hợp đồng học
nghề hợp pháp và hợp đồng học nghề vô hiệu.
c. Nội dung của hợp đồng học nghề

Theo khoản 2 điều 39 Luật giáo dục nghề nghiệp 2014 thì hợp đồng học
nghề có các nội dung sau đây:
- Tên nghề đào tạo hoặc các kỹ năng nghề đạt được;
- Địa điểm đào tạo;
- Thời gian hoàn thành khóa học;
- Mức học phí và phương thức thanh toán học phí;
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của mỗi bên khi vi phạm hợp đồng;
- Thanh lý hợp đồng;
- Các thỏa thuận khác không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Theo khoản 3 điều 39 Luật giáo dục nghề nghiệp 2014:


“ Trường hợp doanh nghiệp tuyển người vào đào tạo để làm việc cho doanh
nghiệp thì hợp đồng đào tạo ngoài những nội dung quy định tại khoản 2 Điều này
còn có các nội dung sau đây:
- Cam kết của người học về thời hạn làm việc cho doanh nghiệp;
- Cam kết của doanh nghiệp về việc sử dụng lao động sau khi học xong;
- Thỏa thuận về thời gian và mức tiền công cho người học trực tiếp hoặc tham gia
làm ra sản phẩm cho doanh nghiệp trong thời gian đào tạo.”
d. Giao kết, thực hiện và chấm dứt hợp đồng học nghề
- Giao kết hợp đồng học nghề


Điều kiện chủ thể tham gia giao kết hợp đồng học nghề

+ Đối với người học nghề: Người học nghề thường phải từ 14 tuổi trở lên, có đủ
sức khỏe đáp ứng yêu cầu của nghề theo học. Trong trường hợp người sử dụng
lao động tuyển người vào học nghề để làm việc cho mình, thì người học nghề,
phải đủ 14 tuổi và phải có đủ sức khoẻ phù hợp với yêu cầu của nghề. Tuy nhiên,
ở một số ngành nghề nhất định, theo danh mục do nhà nước quy định, tuổi học

nghề có thể dưới 14. Trong một số trường hợp cụ thể có phạm vi cấm được đặt ra
cho người học nghề.
+ Đối với cơ sở dạy nghề: Các cơ sở dạy nghề được phep thành lập khi đáp ứng
được các điều kiện luật định, bao gồm: điều kiện về nội dung và điều kiện về thủ
tục. Điều kiện về nội dung gồm: có trường sở, khả năng tài chính, thiết bị dạy lí
thuyết, thực hành phù hợp với nghề, trình độ và y mô đào tạo; có đội ngũ giáo
viên, cán bộ quản lí có đủ số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đạt tiêu chuẩn về phẩm
chất, trình độ chuẩn, kĩ năng nghề đảm bảo thực hiện mục tiêu, chương trình dạy
nghề. Điều kiện về thủ tục thể hiện ở việc thành lập, đăng kí hoạt động cơ sở dạy
nghề theo quy định của pháp luật.




Nguyên tắc giao kết hợp đồng:
Việc giao kết hợp đồng học nghề phải tuân thủ các nguyên tắc: tự nguyện,

bình đẳng và không trái pháp luật. Tham gia quan hệ học nghề hay không là do
các bên tự quyết định bằng hành vi giao kết và thực hiện hợp đồng học nghề. Các
bên tham gia giao kết hợp đồng học nghề có địa vị pháp lý ngang nhau.


Trình tự giao kết hợp đồng:
Quá trình giao kết hợp đồng học nghề diễn ra theo 3 bước: Đề nghị giao kết

hợp đồng, hai bên thỏa thuận các nội dung và các vấn đề có liên quan tới hợp đồng
học nghề; giao kết hợp đồng.
- Thực hiện giao kết hợp đồng dạy nghề:
Thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng học nghề chưa có quy định cụ
thể. Việc thực hiện hợp đồng thường diễn ra khi khóa học bắt đầu. Mỗi bên phải

thực hiện đúng các cam kết trong hợp đồng và các quy định pháp luật có liên quan
thì còn phải tôn trọng lợi ích, tạo điều kiện thuận lợi cho bên kia thực hiện hợp
đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận để thay đổi nội
dung hợp đồng, tạm hoãn thực hiện thực hiện hợp đồng học nghề khi cần thiết.
Những vấn đề cần phải lưu ý là lí do và thủ tục tiến hành phải đảm bảo không trái
với quy định chung của phá luật.
- Chấm dứt giao kết hợp đồng dạy nghề:
Chấm dứt hợp đồng học nghề về thực chất là chấm dứt các quyền và nghĩa
vụ của các bên theo hợp đồng đã giao kết. Khi hợp đồng học nghề chấm dứt thì tư
cách chủ thể của cả hai bên trong quan hệ hợp đồng cũng chấm dứt. Hợp đồng học
nghề có thể chấm dứt trong các trường hợp sau: hết hạn hợp đồng, khóa học kết
thúc, người học nghề đi thực hiện nghĩa vụ quân sự, hai bên cùng thỏa thuận chấm
dứt hợp đồng hợp đồng học nghề hoặc một trong hai bên đơn phương chấm dứt


hợp đồng… Khi hợp đồng học nghề chấm dứt, cần phải giải quyết quyền lợi và
trách nhiệm của hai bên. Quyền lợi và trách nhiệm của các bên được giải quyết như
thế nào phụ thuộc chủ yếu vào việc chấm dứt hợp đồng học nghề hợp pháp hay trái
pháp luật.
II. Thực trạng về việc học nghề ở nước ta hiện nay
Xã hội nước ta hiện nay là nền văn hóa chuộng tri thức. Việc những người trẻ
tuổi sau khi kết thúc chương trình học bậc trung học phổ thông nếu nhà không có
điều kiện thì mới tìm một công việc nào đó tham gia học nghề để lao động còn đa
phần sẽ cố gắng vào học một trường đại học. Ở bậc đại học, mục đích của việc học
tại đây là nhằm nghiên cứu chuyên sâu hoặc học các công việc nghề nghiệp thực
hiện nhiều trên giấy tờ, lý thuyết. Các hoạt động nghề nghiệp không được chỉ dẫn,
tiếp xúc nhiều từ đó dẫn đến việc chỉ có lý thuyết thiếu thực hành. Hiện trạng thừa
bằng cấp chỉ dẫn những thực hành thì không có trình độ thường xuyên xảy ra.
Đối với sự phát triển công nghệ đời sống các ngành nghề đang cần nguồn
nhân lực có tay nghề kỹ thuật như: cơ khí, sửa chữa điện tử, ô tô, xe máy.... Đối với

phụ nữ thì có thể lựa chọn những ngành nghề nhẹ nhàng hơn về sức khỏe và kỹ
năng phù hợp với mình như: hướng dẫn viên du lịch, phục vụ khách sạn, nhà
hành… Do nhu cầu tuyển lao động đối với các ngành nghề này càng ngày càng
tăng cao nên mức lương đối với người lao động cũng khá hấp dẫn.
Trong nhiều năm trở lại đây, thực tế cho thấy lao động đã qua đào tạo còn
nhiều vấn đề bất cập so với thị trường đặc biệt là cơ cấu ngành nghề. Lao đông
nước ta chủ yếu ở khu vực nông thôn thiếu trầm trọng lao đông kĩ thuật trong các
khu công nghiệp dịch vụ.
Việc mọi người đi theo trào lưu bước vào con đường đại học dẫn tới một hệ
lụy đáng báo động. Người dân không hiểu được rằng, mục đích cuối cùng của việc
học đại học hay học nghề đều là muốn có công việc phù hợp với năng lựu bản thân,
kiếm được thu nhập. Điều đó yêu cầu mọi người xác định được thế mạnh và mong


muốn của mình về nghề nghiệp đó. Thay vì tập trung học mà cảm thấy không khả
thi, hãy đề ra mục tiêu mới để làm việc và học tập tại các trường dạy nghề chuyên
nghiệp.
Thực tế cũng được minh chứng qua các phiên giao dịch việc làm ở các địa
phương: Nhóm lao động kỹ thuật luôn “đắt hàng” nhất trong các nhu cầu tuyển
dụng lao động. Trung bình, chỉ tiêu tuyển dụng lao động kỹ thuật chiếm 50 - 70%
tổng số chỉ tiêu. Trong khi đó, nhóm có trình độ đại học thất nghiệp nhiều, bởi một
số lý do: Lĩnh vực chuyên môn chưa phù hợp với yêu cầu của thị trường, chủ yếu là
ứng viên ngành xã hội, năng lực chuyên môn chưa tương xứng với bằng cấp. Tình
trạng lao động tốt nghiệp đại học trở lên chấp nhận làm lao động phổ thông, không
đúng ngành, nghề đã học khá phổ biến ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh...
a) Những mặt tích cực trong việc dạy và học nghề ở nước ta hiện nay
Mạng lưới cơ sở dạy nghề - học nghề được phát triển rộng khắp cả nước. Tất
cả các đơn vị cấp huyện, các khu công nghiệp, khu chế xuất đều có cơ sở dạy nghề.
Hàng nghìn làng nghề được phục hồi và phát triển, giải quyết việc làm cho hơn
chục triệu lao động nông thôn. Việc đào tạo nghề thể hiện sự phát triển cả về chiều

rộng và chiều sâu trong công tác dạy nghề. Cơ cấu nghề đào tạo đã được điều chỉnh
theo nhu cầu thị trường lao động; theo cơ cấu ngành nghề trong sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ phục vụ cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn và giải quyết việc làm cho người lao động. Chất lượng và hiệu quả dạy nghề
có bước chuyển biến tích cực (khoảng 70% học sinh tìm được việc làm hoặc tự tạo
việc làm ngay sau khi tốt nghiệp, ở một số nghề và một số cơ sở dạy nghề tỷ lệ này
đạt trên 90%). Các điều kiện bảo đảm chất lượng dạy nghề đã từng bước được cải
thiện.
Học nghề đã từng bước đáp ứng nhu cầu lao động kỹ thuật trực tiếp trong
sản xuất của thị trường lao động. Trong nhiều doanh nghiệp liên kết, liên doanh với
nước ngoài hoặc doanh nghiệp có quy mô sản xuất lớn công nghệ kỹ thuật tiên tiến,
hiện đại lao động Việt Nam đã đảm nhiệm được hầu hết những vị trí quan trọng


trong các ngành sản xuất, kể cả các ngành đòi hỏi kỹ thuật cao, công nghệ phức tạp,
góp phần nâng cao năng suất lao động, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm hàng
hóa.Mô hình dạy nghề tại doanh nghiệp được triển khai một số năm qua đã đạt
được những kết quả bước đầu. Nếu như các cơ sở đào tạo chính quy tập trung dạy
nghề cho học sinh và người lao động chưa có nghề thì các doanh nghiệp ngoài việc
đào tạo nghề cho lao động mới tuyển, còn thực hiện đào tạo bổ túc và đào tạo nâng
cao nhằm nâng cao chất lượng và nâng cao kỹ năng nghề cho người lao động của
doanh nghiệp, phù hợp với sự thay đổi sản phẩm và công nghệ của doanh nghiệp.
b) Những mặt tiêu cực trong việc dạy và học nghề ở nước ta hiện nay
Thứ nhất là về mặt mạng lưới cơ sở dạy nghề, giáo viên, tình trạng tuyển
sinh và việc làm học sinh sau tốt nghiệp, cơ sở vật chất thiết bị...
Hiện nay các cơ sở dạy nghề vẫn còn rất nhiều những bất cập cần được khắc
phục. Tính đến cuối năm 2011 cả nước có 1293 cơ sở dạy nghề, tuy nhiên việc
phân bố còn nhiều bất cập:
+ Nhiều nhất tập trung ở đồng bằng sông Hồng với 27,3% số cơ sở trên cả nước
+ Tiếp đến là vùng Bắc Trung Bộ, Duyên Hải Nam Trung Bộ với 20,4%

+ Thấp nhất là vùng Tây Nguyên: 5,3%.
Có thể nhận thấy hoạt động dạy và học nghề được phân bố không đồng đều
các vùng. Nhiều vùng chưa thể tạo điều kiện phù hợp cho người dân có thể tiếp xúc
học nghề.
Tại đồng bằng sông Hồng cũng là vùng có số lượng trường Cao đẳng nghề
cao nhất trong cả nước với 52 trường, trong khi cả vùng Tây Nguyên hiện mới chỉ
có 3 trường Cao đẳng nghề. Riêng thủ đô Hà Nội, tốc độ tăng số lượng trường Cao
đẳng nghề nhanh nhất, từ 8 trường năm 2007 lên tới 22 trường vào năm 2011.
Nhiều trường nghề thiết bị học tập còn lạc hậu, cơ sở giảng dạy còn thiếu
thốn và trong tình trạng kém, như:
+ Rất ít trường nghề đáp ứng được 100% quy mô đào tạo, đa phần mới đáp ứng
được trên 50% quy mô đào tạo theo tiêu chuẩn, quy định ban hành.


+ Thêm nữa, đa phần các trường chưa đạt tiêu chuẩn về diện tích phòng học, giảng
đường theo quy định. Một số trường chưa có cơ sở riêng phải thuê giảng đường,
phòng làm việc. Thư viện của các trường nhỏ, chỉ đáp ứng khoảng 1% nhu cầu của
người học, số lượng đầu sách nghèo nàn
+ Khi sinh viên đến đợt thực tập, mặt bằng các xưởng không đủ diện tích tiêu
chuẩn lắp đặt thiết bị và bố trí đủ vị trí thực hành cho sinh viên
+ Nhiều trường còn không có diện tích để sinh viên tham gia các hoạt động thể
thao, giải trí ngoài trời.
Thứ hai là về số lượng, chất lượng học nghề.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (năm 2012), lao động phổ thông không
có chuyên môn kỹ thuật chiếm 83,28% tổng số lao động; lao động đã qua đào tạo
nghề chỉ chiếm tỷ lệ 4,84%; lao động có trình độ trung cấp chuyên nghiệp là 3,61%
và lao động có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên chiếm 8,26%. Theo Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội, lao động qua đào tạo nghề (gồm cả dạy nghề chính
quy và thường xuyên, phi chính quy, dạy nghề dưới 3 tháng và dạy nghề tại doanh
nghiệp) chiếm khoảng 34% tổng số lao động trong cả nước. Trên thực tế, chất

lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn thấp và có khoảng cách khá lớn so với các
nước trong khu vực. Ngân hàng Thế giới đánh giá Việt Nam đang thiếu lao động có
trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao. Nếu lấy thang điểm là 10 thì chất
lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm, xếp thứ 11/12 nước châu Á tham
gia xếp hạng của Ngân hàng Thế giới (trong khi Hàn Quốc đạt 6,91 điểm; Ấn Độ
đạt 5,76 điểm; Malaysia đạt 5,59 điểm... Do vậy nên năng suất lao động của Việt
Nam thuộc nhóm thấp ở châu Á - Thái Bình Dương (thấp hơn Singapore gần 15
lần, thấp hơn Nhật Bản 11 lần và thấp hơn Hàn Quốc 10 lần). Năng suất lao động
của Việt Nam bằng 1/5 Malaysia và 2/5 Thái Lan. Trong giai đoạn 2002 - 2007,
năng suất lao động tăng trung bình 5,2% mỗi năm. Tuy nhiên, kể từ cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, tốc độ tăng năng suất trung bình hằng năm của
Việt Nam chậm lại, chỉ còn 3,3%. Việt Nam còn thiếu nhiều lao động lành nghề,


nhân lực qua đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu của trị trường lao động và doanh
nghiệp về tay nghề và các kỹ năng mềm khác. Trình độ ngoại ngữ của lao động
Việt Nam chưa cao nên gặp nhiều khó khăn trong quá trình hội nhập. Những hạn
chế, yếu kém của nguồn nhân lực là một trong những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng
đến năng lực cạnh tranh của nền kinh tế (năm 2011, Việt Nam xếp thứ 65/141 nước
được xếp hạng về năng lực cạnh tranh).4
Thứ ba, về ngành nghề dạy và học hiện nay.
Báo cáo mới nhất của Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội ngày 24/12/2015 cho thấy, tỷ lệ thất nghiệp chung đã giảm
nhưng số lượng người có trình độ đại học, sau đại học thất nghiệp tăng cao: 225.500
người.
Trong khi cử nhân đại học thất nghiệp nhiều thì tình trạng thiếu lao động vẫn
xảy ra ở một số nghề như nhân viên kinh doanh, nhân viên chăm sóc khách hàng, giám
sát bán hàng tại siêu thị (27,8%); tiếp đến là nhân viên tư vấn tín dụng, đầu tư tài chính
(14,6%); kỹ sư cơ khí, bảo trì, thợ hàn, vận hành dây truyền (11,2%); lao động quản lý
chất lượng, thủ kho, nhân viên kỹ thuật (8%).


Các ngành nghề sản xuất và phục vụ nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng,
đánh bắt thủy hải sản cũng chưa được chú trọng đào tạo, trong khi những sản phẩm
xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu thuộc các lĩnh vực này.
Thứ tư, mức lương trả cho người lao động sau khi học nghề.
Báo cáo từ 101 trường nghề cho biết mức lương khởi điểm bình quân cho
học viên sau khi tốt nghiệp đạt từ khoảng 3 đến 3, 5 triệu đồng/tháng. Mức lương
có sự chênh lệch ở các nghề đào tạo, cụ thể, nhóm nghề kỹ thuật có lương bình
quân cao hơn, đạt khoảng 3,5 triệu đồng/tháng. Các nghề dịch vụ như khách sạn,
nhà hàng, lương bình quân thấp, chỉ ở mức 2,2 triệu đồng/tháng.
4 Cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam khi gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN, PGS, TS. Mạc Văn Tiến,Viện
trưởng Viện Nghiên cứu khoa học dạy nghề,
/>

III. Một vài nguyên nhân và giải pháp giải quyết các vấn đề thực trạng về việc
học nghề ở nước ta
1. Nguyên nhân
Nguyên nhân thứ nhất, việc người dân hiện nay tập trung tại các vùng thành
thị, di dời từ quê lên khiến cho việc tổ chức các lớp dạy nghề gặp nhiều khó khăn.
Sự tập trung đông đúc và làm các công việc lao động không qua đào tạo nhiều dẫn
tới việc thiếu nhân công, thiếu người học nghề ở các vùng. Muốn tổ chức lớp học
nghề ở những vùng quê thì cần có một lượng người học nghề nhất định mới có thể
xây dựng các trung tâm dạy nghề công lập. Nếu như mở ra nhưng chỉ có một số ít
người tham gia học sẽ rất lãng phí của nhà nước.
Nguyên nhân thứ hai, hiện trạng chất lượng nguồn nhân lực thấp là do công
tác đào tạo hiện nay chưa phù hợp, chất lượng đào tạo còn hạn chế, chưa thực sự
đáp ứng yêu cầu sử dụng nhân lực và nhu cầu của người học, chưa theo kịp sự
chuyển biến của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng, giữa dạy chữ
với dạy người, dạy nghề…

Mặt khác, hệ thống thông tin của thị trường lao động Việt Nam hiện nay còn
nhiều yếu kém và hạn chế, như bị chia cắt giữa các vùng, miền; khả năng bao quát,
thu thập và cung ứng thông tin chưa đáp ứng được nhu cầu các đối tác trên thị
trường lao động, đặc biệt là người chủ sử dụng lao động và người lao động. Hệ
thống chỉ tiêu về thị trường lao động tuy đã ban hành nhưng chưa hoàn thiện, chưa
đầy đủ, thiếu thống nhất và khó so sánh quốc tế. Do vậy, chưa đánh giá được hiện
trạng của cung - cầu lao động, các “nút thắt” về nhu cầu nguồn nhân lực trong
nước. Ngoài ra, còn thiếu mô hình dự báo thị trường lao động tin cậy và nhất quán,
thiếu đội ngũ cán bộ, chuyên gia làm công tác thống kê, phân tích, dự báo.
Nguyên nhân thứ ba, do sự đánh giá không chính xác về ngành nghề cần
phát triển tập trung hiện nay nên đào tạo nghề chưa thực sự hợp lý. Một số ngành


nghề thiếu nhân lực trầm trọng. Vì thế cũng ảnh hưởng đến tiền lương của người
lao động.
2. Giải pháp
Để nâng cao chất lượng nhân lực trực tiếp trong các ngành nghề, vấn đề cốt
lõi là phải tạo sự đột phá về chất lượng đào tạo nghề nghiệp. Đào tạo nghề cần tập
trung vào định hướng cụ thể sau:
-

Hoàn thiện các quy định pháp luật về việc dạy và học nghề ở nước ta. Tạo

hành lang pháp lý thu hút những nhà tuyển dụng lao động phát triển các trung tâm
dạy nghề, thu hút người dân tham gia vào việc học nghề. Đổi mới chính sách tài
chính về dạy nghề; đẩy mạnh xã hội hóa, đa dạng nguồn lực cho phát triển dạy
nghề; khuyến khích hợp tác và thành lập các cơ sở dạy nghề có vốn đầu tư nước
ngoài cũng như các cơ sở dạy nghề chuyên biệt đối với người khuyết tật, người dân
tộc thiểu số.
-


Tăng cường đào tạo trình độ cao đẳng, trung cấp đáp ứng nhu cầu nhân lực

lao động có trình độ tay nghề cao.
-

Hoàn thiện nội dung, chương trình đào tạo, cơ sở vật chất, trang thiết bị cho

dạy học, đổi mới phương pháp đào tạo, nâng cao trình độ năng lực cho đội ngũ
giáo viên để không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ – công
nhân kỹ thuật cho các doanh nghiệp. Bổ sung cơ chế chính sách để huy động các
doanh nghiệp tham gia vào quá trình đào tạo nghề và phát triển cơ sở dạy nghề tại
doanh nghiệp.
-

Có cơ chế chính sách, cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan Nhà nước về

lao động với đại diện giới chủ- giới thợ, đại diện các hội nghề nghiệp và cơ sở dạy
nghề trong xây dựng nhu cầu của doanh nghiệp về nguồn nhân lực trong những
năm tới và thập kỷ tới.


-

Đổi mới cơ cấu dạy nghề. Chuyển hệ thống dạy nghề khép kín thành hệ

thống đào tạo mở, linh hoạt, liên thông giữa các thành tố của hệ thống và liên thông
với các bậc học khác.
-


Gắn kết giữa dạy nghề với thị trường lao động và sự tham gia của doanh

nghiệp, phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động. Xây dựng các mối quan
hệ chặt chẽ giữa dạy nghề với trị trường lao động, hướng vào việc đáp ứng phát
triển kinh tế xã hội của từng địa phương, từng ngành, đáp ứng nhu cầu của doanh
nghiệp.
-

Tăng cường hợp tác quốc tế về lĩnh vực dạy nghề, đặc biệt là với các nước

trong khu vực để từng bước tiếp cận chuẩn khu vực và chuẩn quốc tế về kỹ năng
nghề.

C. KẾT LUẬN
Việc học nghề của người lao động là yếu tố quan trọng đóng góp đến sự thúc
đẩy tăng trưởng của nền kinh tế. Việc đáp ứng được trình độ nghề về số lượng lao
động và chất lượng luôn cần được quan tâm. Các nhân công đã qua đào tạo nghề
góp phần tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, giải quyết việc làm,
xuất khẩu lao động xóa đói giảm nghèo, và xét trên tổng thể đã góp phần vào nâng
cao chất lượng và hiệu quả chung của nền kinh tế. Việc học nghề giúp cho những
người dân có được công việc kiếm thu nhập, góp phần vào nền kinh tế xã hội, tránh
được các tệ nạn do thất nghiệp mà gây ra… Đảng và nhà nước đã có những chính
sách nhằm thúc đẩy phát triển, khuyến khích người dân tham gia việc học nghề.
Nhằm hướng tới một xã hội phát triển về kinh tế, xã hội, công bằng và văn minh.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật lao động của trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
2. Luật Lao động 2012
3. Luật giáo dục nghề nghiệp 2014

4. Thông tư Số: 42/2015/TT-BLĐTBXH “QUY ĐỊNH VỀ ĐÀO TẠO TRÌNH
ĐỘ SƠ CẤP” của bộ lao động thương binh và xã hội
5. Thông tư số 03/2017/TT-BLĐTBXH Quy định về quy trình xây dựng, thẩm
định và ban hành chương trình; tổ chức biên soạn, lựa chọn, thẩm định giáo
trình đào tạo trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng, của bộ lao động thương
binh và xã hội.
6.

Trang web: />
7. Cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam khi gia nhập cộng đồng kinh
tế ASEAN, PGS, TS. Mạc Văn Tiến,Viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học
dạynghề, />Co-hoi-va-thach-thuc-doi-voi-lao-dong-Viet-Nam-khi-gia-nhap-cong-dongkinh-te-ASEAN/Default.aspx
8.

/>
9.

/>
10.

/>


×