Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Một số ý kiến về CHính sách bảo hiểm xã hội việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (745.93 KB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

LÊ HỒNG NHUNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2000


Trang 1

GIỚI THIỆU

“Nếu chiếc thang cần có tay vòn để bảo đảm an toàn cho người leo lên thì bảo hiểm xã hội
(BHXH) bảo đảm an toàn cho NLĐ trong nền kinh tế đang trên đường phát triển”. Đó là cách ví
von của ngành BHXH.

Thật vậy khi lên cao người leo thang thường cảm thấy không an toàn nếu không nắm vào tay
vòn, khi nền kinh tế càng phát triển NLĐ càng không thể yên tâm lao động nếu có rủi ro. Họ có
thể tiếp tục cuộc sống hay không ? Họ sẽ ra sao nếu như lỡ gặp tai nạn lao động đến nỗi không
thể làm việc được ? Có ai giúp họ lúc đó không ? Người chủ có thể nào trả lương trong khi họ
không làm việc, khi hết tuổi lao động không? Tay vòn của họ là gì để họ có thể nắm vào đây ?
Nếu cơ quan BHXH làm được việc ấy thì BHXH là ai ? Họ đã làm được gì trong lòch sử ? Có
liên quan gì đến sự phát triển chung của nền kinh tế ? Vai trò của Chính phủ trong việc phát
triển của BHXH như thế nào ? Đó là những vấn đề đã đặt ra cho người viết.

Nhu cầu an toàn của con người là tất yếu, nhưng càng ngày khả năng thực hiện nhu cầu này
càng tăng, người ta đã có khả năng hơn trong việc mua loại hàng hoá khuyến dụng 1 này, người
ta còn có quyền lựa chọn trong nhiều loại bảo hiểm khác nhau cho thân thể mình cho tính mạng


mình; thiết nghó loại hình BHXH càng không giảm đi ý nghóa là một chính sách xã hội lớn của
mỗi quốc gia mà còn tăng hơn nữa ý nghóa này trong quá trình phát triển kinh tế nhất là nền
kinh tế đang chuyển đổi sang kinh tế thò trường của VN. Một đề tài nghiên cứu về chính sách
BHXH nhằm nêu ra những ý kiến góp phần hoàn thiện chính sách BHXH trong bối cảnh nhiều
công ty bảo hiểm tư nhân đang phát triển là điều rất cần thiết trong giai đoạn này.

Luận Văn Cao Học – Một Số Ý Kiến Về Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam


Trang 2

Trong khuôn khổ của tập luận văn này không đề cập đến vấn đề tài chính thu chi của BHXH
và những vấn đề liên quan đến quản lý nguồn quỹ cũng như quản lý tổ chức bộ máy BHXH.
Nội dung và phạm vi nghiên cứu của luận văn là


Phân tích chính sách BHXH ở VN



Một số ý kiến nhằm hoàn thiện chính sách BHXH ở VN .

Luận văn gồm 3 phần chính
Phần I – Trình bày về cơ sở khoa học của đề tài bao gồm


Thống nhất những từ ngữ sử dụng trong luận văn




Kinh nghiệm thực hiện của một số nước trên thế giới.

Phần II – Trình bày về chính sách BHXH ở VN gồm


Đặc điểm hình thành BHXH trong giai đoạn từ khi có BHXH đến nay,



Quá trình vận dụng chính sách BHXH trong nền kinh tế VN.

Phần III – Phương hướng và giải pháp để hoàn thiện chính sách BHXH

Trong luận văn này có sử dụng các từ viết tắt như sau


Bảo hiểm xã hội – BHXH



Tổ chức lao động quốc tế – ILO



Người lao động – NLĐ



Người sử dụng lao động – NSDLĐ




Bảo hiểm y tế – BHYT



Tai nạn lao động – TNLĐ



Bệnh nghề nghiệp – BNN

Luận Văn Cao Học – Một Số Ý Kiến Về Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam


Trang 3

PHẦN I – CƠ SỞ LÝ LUẬN

A – TÓM TẮT LỊCH SỬ VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH BẢO HIỂM XÃ HỘI (BHXH)
Để tồn tại và phát triển, con người trước hết phải đảm bảo nhu cầu về ăn, mặc, ở… vì thế họ
phải lao động sản xuất ; trong thực tế quá trình lao động của mỗi người không phải lúc nào
cũng thuận lợi, suôn sẻ. Có lúc, có nơi họ có thể gặp những rủi ro khiến họ mất khả năng tạo ra
thu nhập, đôi khi mất luôn cả tính mạng. Lúc đó những nhu cầu cần thiết không những không
giảm mà còn tăng lên (như khi ốm đau cần được chữa trò, dưỡng bònh, ăn uống đầy đủ để phục
hồi lại cơ thể khi bò tai nạn lao động…hoặc phải cần có người khác phục vụ chăm sóc) , và gia
đình của họ sẽ hụt hẩng vì mất đi nguồn thu nhập chính, đó cũng chính là vấn đề mà cộng đồng
người từ trước đến nay luôn từng bước giải quyết để giúp đỡ lẫn nhau sao cho thích hợp nhất.
Thời kỳ xã hội nguyên thủy chưa có tư hữu về tư liệu sản xuất, mọi người cùng săn bắn, hái
lượm, những sản phẩm thu được họ tổ chức phân phối đồng đều, ai gặp khó khăn hụt hẩng gì thì

cả cộng đồng cùng nhau san sẻ, cưu mang.
Đến thời kỳ phong kiến xuất hiện phân chia giai cấp, vua quan sống nhờ bổng lộc, thuế má do
dân đóng, còn người dân đa phần là nông dân khi gặp khó khăn trong quá trình lao động họ
nương tựa vào nhau theo những đạo lý xã hội của từng quốc gia, từng thời kỳ.
Trong thời kỳ nền kinh tế hàng hóa xuất hiện và phát triển, vào khoản 800 năm trước, thế kỷ
thứ 12, Hiệp hội thợ thủ công ở Hy lạp đã cùng nhau thành lập quỹ để trợ cấp các trường hợp
ốm đau, tai nạn. Đến thế kỷ 16, những người trồng nho ở thung lũng Anpe (Pháp) cũng thành
lập quỹ dùng cho trường hợp ốm đau, tai nạn. Tuy nhiên những hình thức quỹ như thế chỉ có ý
nghóa giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn, mà không phát triển bền vững.
Khi bắt đầu xuất hiện thuê mướn nhân công của nền công nghiệp lúc đầu chủ trả tiền công cho
thợ căn cứ vào chất lượng và số lượng lao động, nhưng khi giới thợ gặp tai nạn lao động, ốm
đau không làm được việc thì họ mất nguồn thu nhập. Họ và gia đình rơi vào hoàn cảnh khó
khăn nhưng phải tự vượt qua. Cho đến khi đội ngũ công nhân phát triển, họ liên kết lại với
nhau, yêu sách giới chủ là phải trợ cấp những lúc họ gặp khó khăn như ốm đau, thai sản, hoặc
tai nạn. Những yêu sách này ban đầu không được giải quyết nhưng về sau do công nhân đình
công có tổ chức, cuối cùng giới chủ cũng phải nhượng bộ chấp nhận trợ cấp.Vào thời kỳ này
giới chủ vì không lường trước những rủi ro mà công nhân gặp phải nên khi cần trợ cấp, họ phải
chi số tiền quá lớn làm chính họ gặp khó khăn, nên họ tìm cách để không trợ cấp, từ đó lại xảy
ra những cuộc đình công lớn. Trước tình hình trên, Nhà nước ở một số nước phải bắt đầu can

Luận Văn Cao Học – Một Số Ý Kiến Về Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam


Trang 4

thiệp. Quốc gia có Nhà nước can thiệp đầu tiên là Đức, Chính phủ là người trung gian giữa chủ
và thợ quy đònh tùy theo qui mô hoạt động hàng tháng mà giới chủ phải đóng vào bộ phận
trung gian một số tiền nhất đònh để khi phát sinh nhu cầu cần trợ cấp của giới thợ thì bộ phận
trung gian sẽ xem xét và chi trả. Từ đó Bảo hiểm xã hội ra đời, trong đó bộ phận trung gian
tương đương với cơ quan BHXH ngày nay; giới chủ là người sử dụng lao động (SDLĐ) và giới

thợ là NLĐ (NLĐ).
Đạo luật BHXH đầu tiên trên thế giới tại Đức do Bismarck 2 soạn thảo và ban hành năm 1883,
đến năm 1885 Bismarck lại cho ra đời đạo luật tai nạn lao động và đến năm 1888 ông tiếp tục
ban hành chế độ hưu trí. Sau đó những nước khác cũng hình thành hệ thống BHXH như Áo,
Tiệp khắc (1906), Newzealand (1909), Italia (1919), Liên xô (1922), Mỹ (1935) 3 … Hiện nay
hầu hết các nước đều có cơ quan BHXH, BHXH đã trở thành chính sách xã hội của các nước,
không những quỹ BHXH bảo đảm cuộc sống cho NLĐ và gia đình họ lúc hoạn nạn mà còn góp
phần bảo đảm an toàn xã hội và phát triển kinh tế, ổn đònh chính trò. Lúc đầu chỉ có giới chủ
đóng góp, về sau khi BHXH phát triển hơn người ta quy đònh luôn cả sự đóng góp của giới thợ
(việc này có một ý nghóa tiết kiệm cũng như ý nghóa phòng bò rủi ro của chính bản thân NLĐ).
Nguyên tắc hoạt động của BHXH là lấy số đông bù số ít và theo thời gian tích dồn lại để lập
quỹ.
B – MỘT SỐ KHÁI NIỆM
I – BẢO HIỂM XÃ HỘI LÀ GÌ ?
Dựa vào quá trình hình thành BHXH trên thế giới có thể thấy BHXH trước hết là tất yếu khách
quan vì nó là một nhu cầu không thể không có được, kế đến có thể thấy BHXH có tính ngẫu
nhiên, phát sinh không đều theo thời gian và không gian, BHXH vừa mang tính kinh tế vừa
mang tính xã hội lại vừa có tính chất dòch vụ. BHXH chính là việc trả thay lương khi NLĐ bò
mất thu nhập vì một lý do nào đó bất ngờ. Theo ILO BHXH là “thuật chia sẻ rủi ro và tài
chính làm cho BHXH hiệu quả thành một hiện thực ở tất cả các nước trên thế giới. Các
nghiên cứu tính toán về tài chính BHXH xác đònh khả năng rủi ro có thể xảy ra và những chi
phí có liên quan” 4 . Có thể hiểu BHXH là sự tổ chức thành lập một quỹ tiền tệ tập trung tích
lũy theo thời gian do đóng góp từ NLĐ, người SDLĐ và sự tài trợ của Nhà nước nhằm dự trù
sẵn những rủi ro có thể xảy ra như trường hợp bò giảm hoặc mất thu nhập bình thường do ốm
đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, thất nghiệp, hết tuổi lao động theo quy đònh
của pháp luật hoặc chết; tính toán những chi phí liên quan để trợ cấp cho NLĐ và gia đình.
BHXH tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH theo
chiều ngang và theo chiều dọc 5 . BHXH đảm bảo an toàn xã hội gắn chặt NLĐ với xã hội.

Luận Văn Cao Học – Một Số Ý Kiến Về Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam



Trang 5

Ở VN “BHXH là sự bảo trợ bằng nguồn tài chính được đóng góp từ một cộng đồng xã hội đối
với những thành viên của mình trước những rủi ro thâm hụt về kinh tế làm ảnh hưởng rõ rệt
đến nguồn thu nhập của bản thân và gia đình trong các trường hợp ốm đau, thai sản, tàn tật
do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, già yếu hoặc chết” 6 .

Luận Văn Cao Học – Một Số Ý Kiến Về Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam


Trang 6

Tóm lại những nét đặc trưng của BHXH bao gồm
1 – BHXH được thực hiện theo quy đònh của pháp luật
BHXH là một bộ phận của hệ thống bảo vệ chung của các quốc gia đối với NLĐ. Tuỳ theo mức
độ phát triển mà chúng có thể chiếm từ 10% đến 30% GDP 7 , chúng là một cơ chế phân phối lại
thu nhập của nền kinh tế mỗi quốc gia, nên các chế độ BHXH phải được thực hiện như những
điều khoản của luật pháp.
2 – Nguồn tài chiùnh để thực hiện
Là sự đóng góp bắt buộc của người được bảo hiểm, của người SDLĐ nếu có và đóng góp hỗ trợ
của Nhà nước, Nhà nước bảo hộ giá trò tiền trợ cấp khi có tình hình lạm phát. Quỹ BHXH hoạt
động theo nguyên tắc thu trước chi sau, nên nó có trách nhiệm đảm bảo an toàn và phát triển
trong một cơ chế luật pháp và ít rủi ro nhất. Quỹ BHXH thuộc hệ thống tài chính khu vực Nhà
nước, nhưng không phải là Tài chính Chính phủ, mà thuộc các khu vực tài chính công.
3 – Cơ quan BHXH
Cơ quan BHXH của Nhà nước là trung gian tài chính vô vò lợi, hoạt động không vì mục đích lợi
nhuận, mà phục vụ cho chính sách xã hội, vì mục đích và quyền lợi của NLĐ. Những công ty tư
nhân thực hiện chế độ BHXH trên nguyên tắc kinh doanh, thu chi có lãi.

4 – Các chế độ được chi trả và hưởng
Các chế độ chi trả như một quyền hợp pháp, nếu thỏa mãn các điều kiện quy đònh. Các chế độ
hưởng lợi không có mối liên hệ nghiêm ngặt đến tổng số đóng bảo hiểm của cá nhân.
5 – Mục đích chính
Mục đích của BHXH là trợ cấp vật chất cho các trường hợp người được bảo hiểm gặp rủi ro
ngẫu nhiên đã được tiên liệu trước! Theo nguyên tắc san sẻ rủi ro đối với những người có thu
nhập như nhau và phân phối lại thu nhập đối với những người có thu nhập khác nhau.
II – CHÍNH SÁCH BHXH VÀ CHẾ ĐỘ BHXH
1 – Chính sách BHXH
Chính sách BHXH là những qui đònh chung, khái quát về những mục tiêu, phạm vi, đối tượng,
nội dung, các mối quan hệ và những giải pháp lớn về BHXH. Chính sách BHXH là thái độ của
Nhà nước đối với vấn đề BHXH là những qui đònh có tính khái quát như những chủ trương đònh
hướng về BHXH. Chính sách BHXH có thể được biểu hiện dưới nhiều dạng phong phú như :

Luận Văn Cao Học – Một Số Ý Kiến Về Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam


Trang 7

trong các văn bản chung của Đảng và Nhà nước, trong hiến pháp, trong luật pháp, trong kế
hoạch nhà nước.
Riêng ở VN, BHXH là chính sách lớn nên ngay sau khi dành chính quyền 1945 đến nay, Đảng
và Nhà nước đã ban hành và nhiều lần bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với điều kiện kinh tế
chính trò từng thời kỳ 8
2 – Chế độ BHXH
Chế độ BHXH là tên gọi chung của các qui tắc, điều lệ, chế độ vật chất của Nhà nước qui đònh
bằng luật pháp để đảm bảo nhu cầu sinh hoạt cơ bản cho công nhân mất khả năng lao động và
thất nghiệp 9 , đó là sự cụ thể hóa chính sách BHXH. Nói cách khác chế độ BHXH là hệ thống
các qui đònh được pháp luật hóa về đối tượng hưởng, điều kiện hưởng, mức hưởng, thời hạn
hưởng; nghóa vụ và mức đóng góp trong từng trường hợp cụ thể.

Như vậy khi nói thực hiện BHXH là trực tiếp thực hiện các chế độ BHXH qua đó chính sách
BHXH mới được thực hiện. Khi xem xét BHXH của một nước người ta thường chú ý xem xét
thiết chế về BHXH tức là cụ thể các mức chế độ BHXH đã đề ra chứ không phải chính sách
BHXH của nước đó. Tuy nhiên thực tế cuộc sống hết sức phong phú nên thiết chế BHXH dù
chi tiết đến đâu cũng khó có thể bao hàm được đầy đủ mọi chi tiết cụ thể.
Ở VN chế độ BHXH bao gồm 5 chế độ trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản, trợ cấp tai nạn lao
động-bệnh nghề nghiệp, trợ cấp hưu trí và tử tuất 10 .

Luận Văn Cao Học – Một Số Ý Kiến Về Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam


Trang 8

III – PHÂN BIỆT BHXH VỚI BẢO HIỂM KINH DOANH (THƯƠNG MẠI)
Hoạt động bảo hiểm kinh doanh dựa trên các rủi ro do thiên tai hoặc nhân tai. Người được bảo
hiểm không nhất thiết là NLĐ, có thể là mọi đối tượng, họ phải trả một mức phí bao gồm cả
phí quản lý và lãi suất cho cơ quan bảo hiểm. Vậy bảo hiểm kinh doanh có tính chất kinh doanh
rõ rệt.
BHXH hay bảo hiểm kinh doanh nhìn chung đều hướng về một mục đích là ổn đònh đời sống
con người. Những điểm khác nhau của hai loại bảo hiểm này được biểu hiện thông qua bảng
phân tích sau đây:
Bảng 1 – Phân biệt BHXH và Bảo Hiểm Kinh Doanh
NỘI DUNG

BẢO HIỂM XÃ HỘI

BẢO HIỂM KINH DOANH

Đối tượng


Con người (NLĐ, lực lượng vũ Con người
trang, cán bộ phường xã)
Tài sản
Trách nhiệm dân sự

Quan
hiểm

hệ

bảo Quan hệ lâu dài tương đối ổn đònh, Quan hệ có thời hạn tương đối ngắn
tích dồn theo thời gian dựa trên (thường là 1 năm, chuyến hàng, một
quan hệ lao động
chuyến bay, một chuyến tàu)

Nguồn quỹ hình NLĐ đóng góp (ở VN là 5%), Phí đóng góp của người tham gia
thành
NSDLĐ đóng góp (15%), sự hỗ trợ
của Nhà nước và nguồn viện trợ
Tính chất hoạt Mang tính xã hội cao, có hạch toán Hạch toán kinh doanh (lời ăn lỗ
động
nhưng không phải hạch toán kinh chòu)
doanh. Nguồn quỹ phải được bảo
tồn và phát triển nhằm thỏa mãn chi
trả trợ cấp cho đối tượng hưởng
(Nhà nước qui đònh rất chặt chẽ về
sử dụng quỹ BHXH nhàn rỗi, quỹ
phát sinh dành để chi cho BHXH
không nộp ngân sách)
Mục đích chi


Cơ quan
quản

Chi các chế độ BHXH (VN có 5 chế Chi cho bồi thường, chi để ngăn
độ) , Chi cho quản lý, chi cho dự ngừa tai nạn có thể xảy ra, chi cho
phòng
quản lý, chi cho dự phòng, nộp ngân
sách rất lớn.
chủ BHXH Trung Ương , BHXH đòa Tổng công ty BHXH Công ty Bảo
phương (ở VN – BHXH TW, BHXH hiểm, các chi nhánh đại lý Bảo
tỉnh, thành phố, quận , huyện)
Hiểm.

Luận Văn Cao Học – Một Số Ý Kiến Về Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam


Trang 9

IV – ĐỐI TƯNG BHXH
Hiện nay ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đều áp dụng hai loại hình BHXH là BHXH bắt
buộc và BHXH tự nguyện



Loại hình bắt buộc – đối tượng tham gia do pháp luật mỗi nước qui đònh. Đầu tiên các nước
đều thực hiện BHXH bắt buộc đối với công nhân viên chức Nhà nước, sau đó mới mở rộng
dần ra cho NLĐ các thành phần kết cấu như các loại doanh nghiệp sản xuất công, nông
nghiệp, rồi đến lao động phi kết cấu khác.




Loại hình tự nguyện – đối tượng tham gia là những cá nhân tự nguyện, nhất là NLĐ thuộc
lónh vực phi kết cấu, những NLĐ độc lập, nông dân cá thể, buôn bán nhỏ, thợ thủ công… do
công việc nơi làm việc không ổn đònh, nên không được tham gia loại hình BHXH bắt buộc.
BHXH tự nguyện còn là phương pháp chấp nhận được đối với những NLĐ đã từng tham gia
hình thức bắt buộc nay muốn đóng góp vào chế độ dài hạn hơn hoặc có mức hưởng cao
hơn… NLĐ trực tiếp đóng phí BHXH cho cơ quan BHXH hay Công ty BHXH (nếu NLĐ làm
việc cho chủ thường mức này bao hàm cả phần đóng của NSDLĐ). Nhiều nước trên thế
giới không có sự đóng góp của Nhà nước vào nguồn quỹ cho loại hình này, một số nước
Nhà nước tham gia dưới dạng hỗ trợ các loại chi phí quản lý, hoặc cũng có một mức đóng
góp nhất đònh nào đó (Trung Quốc, Mông cổ). Mục đích của loại hình này là để bảo vệ
những NLĐ khó có điều kiện tham gia loại hình bắt buộc, cũng như tạo ra những cơ hội lựa
chọn tốt hơn cho NLĐ nói chung.

Luận Văn Cao Học – Một Số Ý Kiến Về Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam


Trang 10

Một trong những nguyên tắc của BHXH xuất phát từ Báo cáo Beveridge 11 là sự phổ cập của
đối tượng – “BHXH không là nguyện vọng của một tầng lớp xã hội, một nhóm nghề nào đó mà
là sự thống nhất chung như một phần của cộng đồng vì lợi ích của tất cả mọi công dân, vì vậy
cần khuyến khích hình thức tự nguyện để tất cả mọi người có thể tham gia BHXH”. BHXH cũng
phải phát triển dần, tìm ra những phương thức tránh những hạn chế cho loại hình tự nguyện như
khó quản lý, nên khó duy trì. Nhìn chung BHXH tự nguyện không có hiệu quả về mặt xã hội
bằng việc mở rộng các đối tượng cho hình thức bắt buộc vì khi NLĐ tham gia loại hình bắt buộc
họ chỉ đóng một phần trong tổng nguồn thu, nên mức hưởng lúc nào cũng nhiều hơn mức đóng,
còn khi tham gia loại hình tự nguyện hầu như mức hưởng phải thấp hơn mức đóng để trang trải
khoản chi phí bảo hiểm, thậm chí còn nhỏ hơn cả việc nếu họ gửi tiết kiệm 12 .


Luận Văn Cao Học – Một Số Ý Kiến Về Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam


Trang 11

C – CÁC CHÍNH SÁCH BHXH THEO CÔNG ƯỚC 102 CỦA ILO VÀ KINH NGHIỆM
MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI.
Tuy cùng một mục đích là bảo vệ NLĐ, nhưng trên thực tế hệ thống BHXH của mỗi quốc gia
có những chính sách khác nhau. Vì vậy trong hội nghò toàn thể các tổ chức lao động được Hội
đồng Quản trò của Văn phòng Lao động Quốc tế triệu tập tại Genève ngày 4/6/1952 lần thứ 35,
công ước 102 về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội đã ra đời. Ngày 28/6/1952, công ước 102
được ILO thông qua 13 trở thành công ước quốc tế về an toàn xã hội.
Công ước 102 gồm 15 phần với 87 điều; trong đó các phần 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10 đề cập đến
các chế độ BHXH. Công ước này đã tổng hợp kinh nghiệm áp dụng các cơ chế trong các hệ
thống an toàn xã hội của các nước trên thế giới đã nêu ra 9 chế độ bảo vệ NLĐ : Chăm sóc y tế,
trợ cấp ốm đau, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, trợ cấp gia đình, trợ cấp thai sản, trợ cấp tàn tật, trợ cấp tử tuất. Công ước nêu rõ
những nước phê chuẩn Công ước này có quyền chỉ áp dụng một số chế độ, nhưng ít nhất phải
áp dụng 3 chế độ, trong 3 chế độ đó ít nhất phải áp dụng một trong các chế độ sau : trợ cấp thất
nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động–bệnh nghề nghiệp, trợ cấp tàn tật hoặc trợ cấp
tử tuất 14 .
Công ước 102 sử dụng một mức tiền lương đối chiếu để làm căn cứ đặt mức trợ cấp, đó là tiền
lương của người thợ thủ công nam thanh niên. Mức trợ cấp tối đa không thấp hơn tiền lương thợ
lành nghề nam thanh niên hoặc không thấp hơn 125% thu nhập trung bình của tất cả người được
bảo vệ, còn mức tối thiểu thì Công ước 102 có đưa ra Bảng tiêu chuẩn để tính việc chi trả đònh
kỳ 15 và không đòi hỏi áp dụng cứng nhắc theo biểu.

Luận Văn Cao Học – Một Số Ý Kiến Về Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam



Trang 12

1 – Đối tượng bảo hiểm
1.1 – Lao động khu vực tư nhân :
Các nước trong nền kinh tế chuyển đổi đang có xu hướng mở rộng đối tượng ra cho lao động tư
nhân như :


Ở Campuchia – trước năm 1975, hệ thống BHXH đưa ra các chế độ bảo hiểm tuổi già, mất
sức lao động và tử tuất, chế độ trợ cấp gia đình cho người lao động trong cả khu vực nhà
nước lẫn khu vực tư nhân. Đến năm 1979, do không quản lý nổi nên hệ thống BHXH thu
hẹp lại chỉ dành cho NLĐ trong khu vực Nhà nước. Nhưng hiện nay họ lại muốn thực hiện
BHXH cho mọi NLĐ không kể làm việc trong hệ thống chính quyền nhà nước hay bên
ngoài.



Ở Trung quốc – Luật lao động năm 1994 trên nguyên tắc đã mở rộng BHXH đến tất cả
những ngøi làm việc cho các cơ quan kinh tế thuộc khu vực Nhà nước và tư nhân, nhưng
thực tế, đối tượng bảo hiểm bắt buộc hiện nay chỉ mở rộng đến lao động thuộc khu vực tư
nhân và lao động tự tạo việc làm ở thành thò. Còn nông dân thực hiện BHXH tự nguyện có
sự tham gia của Chính phủ hỗ trợ phần chi phí quản lý.



Mông cổ – sửa đổi luật hưu trí vào năm 1990 để mở rộng đối tượng BHXH đến NLĐ trong
các doanh nghiệp tư nhân. Luật BHXH được thông qua năm 1994 và thực hiện tháng 1 năm
1995 tiếp tục bảo hiểm cho đối tượng công chức, viên chức nhà nước và các đối tượng lao
động khác trong cùng một hệ thống BHXH, nhưng quân nhân cảnh sát lực lượng an ninh và

nhân viên cứu hỏa được bảo hiểm xã hội đặc biệt với quan điểm mỗi nhóm áp dụng tuổi
nghỉ hưu khác nhau. 16



Các nước kinh tế thò trường đều có hai loại đối tượng bắt buộc và tự nguyện.

Luận Văn Cao Học – Một Số Ý Kiến Về Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam


Trang 13

1.2 – Người tự tạo việc làm
Phần lớn người tự tạo việc làm là làm nông nghiệp. Quá trình đổi mới kinh tế ảnh hưởng đến số
lượng người tự tạo việc làm theo nhiều cách khác nhau : doanh nghiệp Nhà nước giảm dần, hợp
tác xã, tổ sản xuất phá sản, thất nghiệp tăng lên, NLĐ tự tạo việc làm tăng.


Ở Trung quốc – người tự tạo việc làm ở khu vực nông thôn hầu như không có chế độ
BHXH, tuy nhiên người tự tạo việc làm ở thành thò về nguyên tắc là họ bò bắt buộc tham
gia chế độ hưu trí.



Ở Mông cổ – theo đạo luật BHXH 1994 người tự tạo việc làm là đối tượng bắt buộc tham
gia BHYT theo Luật Bảo hiểm Y tế công dân 1993. Ngoài ra bảo hiểm tự nguyện đối với
đối tượng tự tạo việc làm, mức đóng theo thu nhập và bằng ½ mức đóng của chủ SDLĐ
nhưng rất ít người tham gia từ 1% đến 5% 17 .

2 – Chế độ BHXH

2.1 – Chăm sóc y tế
Đó là việc phải trả chi phí điều trò, thuốc men, cho người được bảo vệ.


Theo công ước 102 của ILO 18 , BHXH phải bảo đảm cung cấp những trợ giúp cho người
được bảo vệ và vợ con khi tình trạng sức khỏe của những người đó cần có sự chăm sóc y
tế. Mục đích của chăm sóc y tế là duy trì, phục hồi hay nâng cao sức khỏe của những người
được bảo vệ, duy trì, phục hồi và nâng cao khả năng làm việc, khả năng tham gia các nhu
cầu cá nhân của họ.

Ở hầu hết các nước, việc chăm sóc y tế được tổ chức trực tiếp hoặc gián tiếp.


Hệ thống trực tiếp sử dụng cơ sở y tế của chính cơ quan BHXH để chăm sóc cho NLĐ.



Hệ thống gián tiếp sử dụng các hợp đồng ký với các cơ sở y tế của tư nhân hay của Nhà
nước như trường hợp của nước Cộng hòa Triều tiên, Philippine, Thái lan…. Một số tổ chức
Bảo hiểm còn thực hiện sự chia sẻ chi phí với bệnh nhân để tăng thu và giảm sử dụng các
cơ sở y tế, như Hàn quốc, Thái lan….

ƒ

Ở Mông Cổå

19

– mức đóng góp 6% thu nhập áp dụng trong trường hợp người đang làm việc,


mức đóng được chia đều cho NLĐ và chủ sử dụng lao động. Đối với người không làm việc
(gồm trẻ em, sinh viên, người hưu trí không có nguồn thu nào khác, người thương tật và
những người sắp tòng quân) thì mức đóng không đổi do Nhà nước đóng, quy đònh là
200Tugrit (tương đương với 2615VNĐ) 20 vào năm 1996. Đối với người tự tạo việc làm, mức
đóng dựa trên mức lương trả cho một NLĐ làm một nghề tương tự tức là mức đóng không
đổi, được áp dụng cho từng dạng người tự tạo việc làm khác nhau. Đối với người chăn nuôi

Luận Văn Cao Học – Một Số Ý Kiến Về Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam


Trang 14

gia súc, Nhà nước đóng góp ở mức thích hợp. Bảo hiểm tự nguyện dành cho những người
không thuộc đối tượng bắt buộc, mức đóng là 500Tugrit (6537 VNĐ) 21 vào năm 1996. Từ
tháng 2/1997 NLĐ phải đóng trực tiếp 10% phí điều trò y tế.
ƒ

Ở Trung quốc – tồn tại hai hệ thống BHYT, một hệ thống giành cho NLĐ ở các doanh
nghiệp và một hệ thống giành cho công chức nhà nước, Đảng viên Đảng Cộng sản, sinh
viên sau đại học và cựu chiến binh tàn tật sống ở vùng nông thôn. Mức đóng của những
người tham gia là 0,5% đến 2% thu nhập năm, quỹ trang trải cho một nửa số chi phí, Chính
phủ cũng hỗ trợ về tài chính để trả lương cho những người làm trong ngành y và các thiết bò
y tế.
Tuy nhiên, công cuộc đổi mới kinh tế những năm 1980 có ảnh hưởng xấu đến khu vực nông
thôn vì chi phí cho các dòch vụ y tế tăng, Chính phủ giảm hổ trợ về tài chính và việc hủy bỏ
hình thức hợp tác xã và tổ sản xuất làm giảm số người tham gia bảo hiểm. Hệ thống bảo
hiểm ở khu vực nông thôn không còn trang trải được chi phí và rất nhiều nơi BHXH bò thâm
hụt nặng.
2.2 – Trợ cấp ốm đau


Đó là việc chi trả thay lương trong thời gian người được bảo hiểm bò ngừng thu nhập, không
làm việc vì ốm đau, hay tai nạn, không liên quan đến nghề nghiệp đã được giám đònh.
Theo ILO 22 các hệ thống BHXH trên thế giới thường phải xác lập những tiêu chuẩn tuỳ theo
điều kiện của các nước xây dựng cho mình phạm vi thích hợp, quỹ của chế độ ốm đau có thể
xác đònh cụ thể hay không tuỳ thuộc cách quản lý của mỗi quốc gia, tuy nhiên tổng số người
được bảo vệ ít nhất chiếm 50% toàn bộ những người làm công ăn lương.


Mức thời gian tối thiểu đóng BHXH – mức này đònh ra để chứng tỏ NLĐ đi làm gần đây có
đóng bảo hiểm hay không, thời gian này có thể 4 tháng tham gia đóng BHXH trong 6 tháng
đi làm chẳng hạn, không yêu cầu quá cao đối với người tham gia BHXH.



Thời gian hưởng chế độ –26 tuần cho từng trường hợp ốm đau và không trả trợ cấp trong 3
ngày khoản thời gian chờ đợi tối đa là 3 ngày. Quy đònh này là để tránh tình trạng phải chi
trợ cấp quá nhiều cho những trường hợp nghỉ ốm nhẹ. Tỷ lệ phần trăm trên thu nhập được
hưởng cũng là mức độ trợ giúp mà hệ thống BHXH phải đưa ra, đó cũng chính là động cơ
thúc đẩy NLĐ làm việc hay không, vì nếu tỷ lệ cao có thể dễ lợi dụng để hưởng trợ cấp ốm
đau nhưng tỷ lệ thấp quá không thể giúp ích cho NLĐ trong lúc đau ốm và phục hồi sức
khỏe ảnh hưởng đến năng suất lao động. Tiêu chuẩn này là 45% tiền lương của thợ thủ
công nam, vào năm 1952 theo Công ước 102 và tăng lên 60% năm 1969 theo Công ước
103 23 .

Luận Văn Cao Học – Một Số Ý Kiến Về Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam


Trang 15

ƒ


Ở Đức – thời gian nghỉ ốm tối đa cho một lầm ốm là 13 tuần (91 ngày) hoặc bệnh nặng đến
26 tuần (182 ngày) /năm.

ƒ

Ở Ấn Độ – cũng có ngoại lệ đối với những trường hợp bệnh hiểm nghèo hoặc những bệnh
phải điều trò dài ngày, ngày nghỉ tối đa được hưởng BHXH là 399 ngày ( trên 52 tuần) 24 .

ƒ

Ở Hàn quốc – toàn bộ công dân Hàn quốc kể cả ngoại kiều sống lâu năm đều là phạm vi
bảo vệ của chế độ ốm đau, thai sản và y tế. Nhưng công chức Nhà nước, những người làm
công trong trường học tư và những người thuộc đối tượng hỗ trợ y tế của chương trình trợ
giúp y tế thì không thuộc đối tượng của chế độ BHXH này. Người được bảo hiểm đóng từ
1% đến 4% tiền lương tháng chuẩn (trung bình là 1,52%). NSDLĐ đóng góp từ 1% đến 4%
quỹ tiền lương tháng của NLĐ. Nhà nước hỗ trợ phần cho quản lý phí và trợ giúp NLĐ độc
lập, lao động trong doanh nghiệp nhỏ và lao động ngắn hạn. Khoản trợ cấp tối thiểu là
75.000 won ( tương đương 951.917VNĐ) 25 . Trợ cấp y tế cho NLĐ bao gồm các chi phí
thăm, khám, điều trò y tế, chi phí thuốc men, chi phí nằm viện, kiểm tra y tế kể cả cai
nghiện. Người bệnh phải chòu chi phí 20% nếu điều trò nội trú và 55% nếu điều trò ngoại trú
ở các bệnh viện Trung ương; 40% nếu điều trò ở các bệnh viện nhỏ và 30% nếu điều trò ở
các phòng khám (trạm y tế). Thời gian được hưởng trợ cấp là 270 ngày /năm (9 tháng)
không giới hạn tuổi tác, sự mất khả năng lao động, bệnh phổi. Tiền tang lễ nếu người ốm
chết (dù là lao động trong khu vực Nhà nước hay độc lập) : 300.000 won (3.807.671VNĐ)
cho NLĐ và 200.000 won (2.538.447VNĐ) cho người phụ thuộc.

ƒ

Ở Philippine – trợ cấp ốm đau bằng 90% tiền lương đang làm việc, thời gian nghỉ ốm tối đa

là 120 ngày/năm với điều kiện đóng BHXH 3 tháng trong 12 tháng làm việc trước khi ốm.

ƒ

Ở Trung Quốc – chế độ ốm đau được hưởng 60% thu nhập đối với người làm việc dưới 2
năm, tăng lên 100% đối với người làm việc từ 8 năm trở lên.

ƒ

Ở Mông Cổ – các mức hưởng khác nhau tùy theo thời gian làm việc. Luật BHXH năm 1994
đã giảm tỷ lệ hưởng tối đa từ 80% xuống còn 70% và tỷ lệ hưởng tối thiểu từ 60% xuống
còn 45%. Việc giảm mức hưởng như thế để nhằm tránh tình trạng gia tăng nghỉ việc để
hưởng trợ cấp. NSDLĐ có trách nhiệm chi trả chế độ ốm đau trong 6 ngày đầu tiên để ngăn
chặn việc lạm dụng. Tổng thời gian hưởng trợ cấp ốm đau là 13 tuần cho mỗi trường hợp
ốm đau và không vượt quá 26 tuần (6 tháng) trong một năm lòch.

Luận Văn Cao Học – Một Số Ý Kiến Về Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam


Trang 16

2.3 – Trợ cấp thất nghiệp
NLĐ được trợ cấp thất nghiệp trong trường hợp gián đoạn công việc do không được thuê trong
tình hình họ có khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc. Tổng số người được bảo vệ ít nhất
chiếm 50% toàn bộ những người làm công ăn lương
Công ước 102 26 nêu rõ phải đòi hỏi một thâm niên nhất đònh để tránh sự lạm dụng. Mức trợ
cấp có thể là 13 tuần trong 12 tháng, nếu người được bảo vệ làm công ăn lương; có thể tăng lên
26 tuần trong 12 tháng nếu người được bảo vệ thường trú mà phương tiện sinh sống khi có bảo
vệ xảy ra không vượt quá giới hạn quy đònh. Có thể trợ cấp thất nghiệp chỉ chi sau khi thất
nghiệp 7 ngày. Mức hưởng là 45% tiền lương chuẩn.

ƒ

Mông cổ – chỉ chi trả cho những người đã tham gia bảo hiểm ít nhất 24 tháng, mức hưởng
từ 45% thu nhập trung bình trong 3 tháng cuối cùng đối với những người có 5 năm làm việc;
mức hưởng 70% đối với những người có 15 năm làm việc trở lên. Do vậy tính đến nay tất
cả những người được hưởng trợ cấp thất nghiệp mới chỉ được nhận mức trợ cấp là 45%. Có
những điều kiện nghiêm ngặt mà người bò thất nghiệp không được phép hưởng trợ cấp nếu
họ không đáp ứng được như những công việc hoặc lớp đào tạo mà phòng BHXH sắp xếp
cho họ. Quỹ thất nghiệp không chỉ chi trả chế độ hưởng bằng tiền, mà còn chi trả cho đào
tạo mặc dù theo điều lệ quy đònh chi cho đào tạo bò hạn chế ở mức chi 15% tổng thu hàng
năm của quỹ từ đóng góp.

ƒ

Ở Trung Quốc – bảo hiểm thất nghiệp được đưa ra vào năm 1986 như là một phần của các
biện pháp đổi mới doanh nghiệp Nhà nước. Điều lệ bảo hiểm quy đònh rằng tất cả các
doanh nghiệp nhà nước đều phải đóng 0,6% quỹ lương cho quỹ thất nghiệp. Trợ cấp thất
nghiệp được chi trả trong thời gian 24 tháng tùy theo thời gian làm việc có tham gia bảo
hiểm, mức hưởng tương đương với 120% đến 150% mức hưởng trợ giúp xã hội.

Luận Văn Cao Học – Một Số Ý Kiến Về Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam


Trang 17

2.4 – Trợ cấp hưu trí
Trong mọi hệ thống BHXH thì chế độ hưu trí là chế độ mà NLĐ rất quan tâm, và mọi quốc gia
đều có trách nhiệm chăm sóc đến người cao tuổi, và trách nhiệm này đã thay đổi dần theo từng
mức độ khác nhau theo thời gian ở mỗi nước tùy theo phong tục tập quán của mình.
Hiện ở nhiều nước vẫn còn tranh cải về hệ thống BHXH theo “quan niệm phân phối” 27 hay

theo “quan niệm giao hoán”. Trợ cấp hưu trí ở hầu hết các nước là theo quan niệm phân phối,
còn chế độ trợ cấp theo quan niệm giao hoán thì hiện nay được một số nước như nước Chi lê,
Malaysia, Singapore ….đang áp dụng.
Theo ILO tuổi nghỉ hưu không được quá 65, tuy nhiên điều 26 Công ước 102 cũng cho rằng … “
có thể ấn đònh một độ tuổi cao hơn, xét theo khả năng làm việc của những người cao tuổi lúc
đó”. NLĐ phải có 30 năm đóng BHXH hay làm việc hoặc 20 năm thường trú thì mức hưởng là
40% tiền lương chuẩn, nếu thâm niên làm việc ít hơn hoặc thời gian thường trú ít hơn vẫn được
hưởng trợ cấp hưu trí khi đến tuổi nhưng mức hưởng thấp hơn. Tổng số người được bảo vệ ít
nhất chiếm 50% toàn bộ người làm công ăn lương.


Ở Hàn quốc – mọi công dân Hàn quốc tham gia BHXH. Từ năm 1998 NLĐ phải đóng BH
hưu trí là 3% tiền lương đối với đối tượng bắt buộc còn đối tượng tự nguyện phải đóng 9%
tiền lương. Người SDLĐ phải đóng 6% quỹ lương. Nhà nước chòu chi phí quản lý. Tuổi nghỉ
hưu là 60 và có 20 năm đóng BHXH trở lên, nếu đến 60 tuổi NLĐ vẫn đi làm việc và có
thu nhập thì vẫn nhận trợ cấp hưu trí nhưng bò giảm,với mức thấp hơn.



Ở Philippine – trợ cấp hưu trí được trả cho thành viên đủ 60 tuổi, không còn làm việc và đã
đóng BHXH ít nhất 120 tháng (10 năm) , hoặc từ 65 tuổi, bất kể còn làm việc hay không
(nếu đã đóng BHXH từ 120 tháng) . Những người có thời gian đóng BHXH dưới 120 tháng
sẽ được nhận trợ cấp 1 lần, được tính bằng tổng số tiền NLĐ đã đóng góp cộng thêm phần
lãi suất. Mức trợ cấp hàng tháng là 300 Peso (tương đương 102.475VNĐ) 28 chung cho mọi
người hưởng trợ cấp hưu trí, cộng với 20% thu nhập bình quân của 5 năm cuối, đối với
người đóng đủ 12 tháng BHXH, cộng thêm 2% thu nhập bình quân nữa cho mỗi năm đối
với những người đóng trên 10 năm, để sao cho mức trợ cấp hưu trí thấp nhất bằng 1000
Peso/tháng, nếu đóng trên 12 tháng mức hưởng là 1200 peso/tháng(409.900VNĐ) 29 . Người
hưởng lương hưu được hưởng lương tháng thứ 13.




Ở Trung Quốc – trợ cấp hưu trí bằng 60% đến 100% lương tiêu chuẩn của tháng cuối cùng.
Do có thêm các thu nhập khác nhau do thò trường mang lại, nên mức lương tiêu chuẩn chỉ
còn là 50 đến 60% tổng thu nhập, do vậy mức trợ cấp hưu trí còn thấp hơn 50% thu nhập
của NLĐ lúc làm việc. Chính phủ gần đây đã đưa ra cách tính là cộng 20% đến 25% thu
nhập trung bình của khu vực với trợ cấp hưu trí tính dựa trên hồ sơ đóng BHXH của từng

Luận Văn Cao Học – Một Số Ý Kiến Về Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam


Trang 18

NLĐ có thể đưa trợ cấp hưu trí lên bằng 60% thu nhập trước đây. Trong hai thập kỷ qua
Trung Quốc đã một vài lần tăng trợ cấp hưu trí lên, nhưng không theo một công thức nào, vì
vậy Trung Quốc quyết đònh trong tương lai sẽ có cơ chế chỉ số để theo kòp với sự vận động
của lạm phát giá cả hoặc lạm phát tiền lương đảm bảo những người nghỉ hưu duy trì được
mức sống.


Ở Mông cổ – tuổi nghỉ hưu là 60 đối với nam và 55 tuổi đối với nữ. Luật BHXH năm 1997
có thay đổi (a) tăng tuổi nghỉ hưu tối thiểu cho nam 55 tuổi và nữ 50 tuổi đối với những
người làm việc ở hầm lò hoặc trong điều kiện nóng bức độc hại; (b) tăng mức độ tàn tật tối
thiểu cho phép hưởng trợ cấp mất sức lao động dài hạn ở mức 50% (c) ngừng chi trả chế độ
dài hạn cho những người dưới tuổi nghỉ hưu quy đònh nếu họ vẫn làm việc; (d) tăng những
chế độ dài hạn được hưởng trước năm 1995 khoảng 30%.
2.5 – Trợ cấp tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp

Tai nạn lao động (TNLĐ) là tai nạn gây ra tổn thương cho bất cứ bộ phận nào của NLĐ hoặc
gây tử vong xảy ra trong quá trình lao động gắn liền với việc thực hiện công việc lao động.

TNLĐ liên quan đến vấn đề an toàn lao động, có tính bất ngờ, những tổn thương do TNLĐ gây
ra dễ nhận thấy và khi giám đònh sức khỏe thường cho kết quả chính xác, TNLĐ đa dạng do
các hoạt động nghề nghiệp khác nhau gây ra. Có nước còn coi những tai nạn xảy ra khi NLĐ
hoạt động cứu hộ, chữa cháy, hoạt động công đoàn, chữ thập đỏ, tuy không liên quan đến công
việc của nghề cũng được coi là TNLĐ
Bệnh nghề nghiệp (BNN) là bệnh phát sinh do điều kiện lao động có hại của nghề nghiệp tác
động đối với NLĐ. BNN liên quan đến vấn đề vệ sinh lao động, từ những chất độc ngấm vào
cơ thể NLĐ và gây bệnh, nhưng thường tổn thương khó nhận ra; khi giám đònh sức khỏe kết
quả khó đạt độ chính xác cao trừ trường hợp nặng tỷ lệ mất sức lao động cao như trường hợp
ung thư tim, gan… BNN thường tuỳ thuộc vào danh mục các BNN của từng quốc gia theo từng
thời kỳ.
Theo ILO, trợ cấp TNLĐ–BNN, gồm cả trợ cấp cho mất khả năng lao động trong thời gian
ngắn, tàn tật và các chế độ tử tuất. Những trường hợp được trợ cấp TNLĐ–BNN là khi tai nạn
xảy ra đúng quy đònh luật pháp hay bệnh do yếu tố độc của nghề nghiệp gây ra theo đúng danh
mục quy đònh của mỗi nước 30 . Mức trợ cấp trong chế độ này là sự chăm sóc y tế của y só điều
trò chung, của chuyên gia cho người nằm viện hoặc không nằm viện, điều dưỡng tại bệnh viện
hoặc tại nhà; Và những bảo vệ về việc phục hồi chức năng lao động bằng các thiết bò y tế cần
thiết, đào tạo lại nghề nghiệp để làm cho người có khuyết tật có thể tái thích ứng với một công
việc thích hợp. Việc chi trả có thể tiến hành đònh kỳ hoặc chi trả một lần. Thường mức trợ cấp

Luận Văn Cao Học – Một Số Ý Kiến Về Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam


Trang 19

BHXH về TNLĐ và BNN cao hơn so với chế độ ốm đau vì nó còn có ý nghóa như sự bồi thường
cho người bò nạn, kể cả việc được hưởng bằng chăm sóc y tế hay trả bằng tiền.
Đối với chế độ mất sức lao động vónh viễn thì phải được hội đồng giám đònh y khoa xác đònh, tỷ
lệ chi trả chế độ dựa vào danh mục bệnh và nghề có thể chi trả cho những người này theo chế
độ dài hạn cụ thể là 50% lương tiêu chuẩn. Nếu những người được chi trả dài hạn cần sự chăm

sóc của người khác cho các nhu cầu hàng ngày thì họ còn được nhận thêm khoản trợ cấp chăm
sóc này. Còn những người chết vì tai nạn lao động thì thân nhân của họ được nhận trợ cấp
tuất. Ngoài ra trợ cấp có thể không được trả trong 3 ngày đầu tiên của mỗi lần gián đoạn thu
nhập. Tổng số người được bảo vệ phải chiếm ít nhất 50% toàn bộ những người làm công ăn
lương…
ƒ

Ở Nhật Bản – Đối tượng bảo hiểm TNLĐ chỉ giới hạn trong việc bảo vệ cho những
NLĐ trong đơn vò sản xuất kinh doanh, (còn công chức được bảo hiểm TNLĐ trong một
chương trình riêng), không phân biệt thời gian làm việc, nghề nghiệp hay quốc tòch. Tuy
nhiên những đơn vò doanh nghiệp dưới 5 người hoặc hoạt động không thường xuyên thuộc
đối tượng tự nguyện, NLĐ hoặc NSDLĐ tự nguyện quyết đònh tham gia bảo hiểm hay
không.

NLĐ được trợ cấp từ ngày thứ tư trở đi, mức trả là 60% thu nhập của một ngày có thể thêm
20% thu nhập một ngày nếu cần, cộng với trợ cấp thương tật đến 313 ngày/ năm, trường hợp
đặt biệt cộng thêm 1 triệu đến 1,4 triệu yên (132.601.000 VNĐ đến 185.641.412VNĐ) 31


Ở Philippine – bồi thường TNLĐ tất cả các chi phí y tế để chữa trò vết thương, các dòch
vụ phục hồi chức năng, dạy nghề, tìm kiếm việc làm mới đều do quỹ BHXH bảo đảm. Trợ
cấp hàng tháng tính trên mức đóng và thời gian đóng góp BHXH. Mức trợ cấp TNLĐ hàng
tháng bằng 115% mức lương hưu nếu cùng một số năm đóng góp và một mức đóng góp.

Ở hầu hết các nước kinh tế thò trường, bảo hiểm TNLĐ có xu hướng là một trong những nhánh
đầu tiên phải có của BHXH. Cả NLĐ và NSDLĐ đều có cùng mối quan tâm chung khi lập chế
độ này : NLĐ thì muốn có một hệ thống công bằng, đáng tin cậy để đền bù khi họ bò TNLĐ,
NSDLĐ thì muốn giảm bớt rủi ro phải trả những khoản tiền lớn mà không xác đònh trước để
đền bù cho lao động của mình khi xảy ra TNLĐ.
ƒ


Ở Mông cổ – cho đến năm 1994, đền bù TNLĐ do Ngân sách Nhà Nước chi trả, trong khi
các doanh nghiệp chòu trách nhiệm về chăm sóc y tế. Tuy nhiên chế độ hưởng bằng tiền
đối với các chế độ thương tật tạm thời, thương tật vónh viễn và tử tuất do hệ thống BHXH
thành lập theo luật 1994 chi trả. Mức hưởng 100% thu nhập đối với thương tật tạm thời và
mất sức lao động vónh viễn. Luật cũng quy đònh quỹ chế độ TNLĐ chi trả trợ cấp phục hồi
chức năng cho NLĐ bò mất 30% khả năng lao động trở lên do TNLĐ hoặc BNN. Mức đóng

Luận Văn Cao Học – Một Số Ý Kiến Về Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam


Trang 20

góp của chủ SDLĐ được xác đònh ở mức 1% quỹ lương, hoặc 2% đối với người làm công
việc nặng nhọc độc hại. Đầu năm 1997, 3% đối với nghề đặc biệt nguy hiểm nằm trong
danh mục.
ƒ

Ở Trung Quốc – Bảo hiểm TNLĐ hiện là một trong những ưu tiên hàng đầu của Chính phủ.
Hiện nay, các doanh nghiệp đơn lẻ vẫn có trách nhiệm đền bù tai nạn bên cạnh chế độ bảo
hiểm thử nghiệm đang tiến hành ở 22 tỉnh
2.6 – Trợ cấp gia đình

Đây là trường hợp được trợ cấp do gánh nặng gia đình : con cái, cha mẹ theo quy đònh. Theo
Công ước 102 việc trợ cấp phải thực hiện đònh kỳ cho mọi người được bảo vệ đã có một thâm
niên theo quy đònh, trợ cấp cho gia đình người được bảo vệ chỉ với điều kiện là phải có 3 tháng
đóng góp hay làm việc hoặc 1năm thường trú. Tổng trợ cấp cho người được bảo vệ bằng 3%
tiền lương chuẩn nhân với số con và phải trả trong suốt thời gian của trường hợp được bảo vệ.
Các nước đang phát triển thường chưa có chế độ này.
2.7 – Trợ cấp thai sản

Trợ cấp này thay tiền lương trong thời gian nghỉ sanh con đối với lao động nữ hoặc nam trong
thời gian nuôi giữ con. Điều này phải nhằm bảo toàn, phục hồi hoặc cải thiện sức khỏe của
người phụ nữ được bảo vệ, và cả khả năng làm việc khả năng ứng phó với nhu cầu cá nhân của
họ.
Theo ILO chế độ thai sản là sự bảo vệ sức khỏe của những bà mẹ đang lao động và con của họ
bằng cách cung cấp những khoản trợ cấp bao gồm việc chăm sóc y tế trước khi sanh, trong và
sau khi sanh do một thầy thuốc hoặc một người đỡ có bằng cấp thực hiện, chi phí cho nằm viện
khi cần thiết.
Thời gian nghỉ thai sản ít nhất là 12 tuần (3 tháng) 32 , trong đó bảo đảm nghỉ ít nhất 6 tuần (1
tháng rưởi) sau khi sanh. Ngoài ra còn tính đến thời gian nghỉ cho con bú. Mức trợ cấp thai sản
bằng tiền không thấp hơn 2/3 mức lương khi làm việc, tiêu chuẩn tối thiểu là 60% tiền lương
chuẩn, được bảo đảm chỗ làm việc sau khi hết hạn nghỉ thai sản, nếu đơn vò có khả năng cho
lao động nữ nghỉ lâu hơn hay ngắn hơn thì mức chi trả có thể kéo dài nhưng không ngắn hơn 12
tuần. Tổng số người được bảo vệ ít nhất chiếm 50% toàn bộ người làm công ăn lương.


Tại Cộng hòa Liên Bang Đức (Luật Lao động 1991) trợ cấp thai sản là 14 đến 18 tuần
(3,5 tháng đến 4,5 tháng)



Còn theo Bộ Luật lao động Liên Bang Nga (1992), khi chuyển sang chính sách kinh tế
thò trường, thời gian nghỉ thai sản là 16 tuần (4 tháng) đối với nữ lao động thể lực, 12 tuần
đối với nữ lao động văn phòng, trí óc.

Luận Văn Cao Học – Một Số Ý Kiến Về Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam


Trang 21




Nhật Bản, Indonesia, Trung quốc – thời gian nghỉ thai sản là 12 tuần



Malaixia, Hàn Quốc, Thái Lan, Đài loan, Singapore – đònh thời gian này là 8 tuần,



Philippine thì thời gian này là 6 tuần.
2.8 – Trợ cấp mất sức lao động hay còn gọi là trợ cấp tàn tật.

Trường hợp được bảo vệ là tình trạng không có khả năng tiến hành hoạt động có thu nhập ở
một mức độ quy đònh, khi tình trạng đó có thể trở thành thường xuyên hoặc vẫn tiếp tục tồn tại
sau khi ngừng trợ cấp ốm đau (chế độ trợ cấp tàn tật không phải là trợ cấp tai nạn nghề nghiệp
cũng không phải bệnh nghề nghiệp)
Mức hưởng mất sức lao động tùy thuộc vào thời gian tối thiểu đóng BHXH, làm việc và cư trú.
Điều kiện cư trú thường được yêu cầu bởi các hệ thống BHXH mà mức hưởng trợ cấp không
phụ thuộc vào sự tham gia đóng góp của NLĐ. Một số hệ thống khác thì thời gian để đủ điều
kiện hưởng trợ cấp mất sức lao động là thời gian đóng BHXH tối thiểu, nhưng có khi lại có
những yêu cầu như phải đủ 60 tháng đóng BHXH trong đó 12 tháng phải được đóng vào 3 năm
trước đây, những điều kiện này nhằm khuyến khích NLĐ thực sự tham gia BHXH, chứ không
phải đến lúc gặp khó khăn mới tham gia đóng dồn cho đủ điều kiện hưởng trợ cấp. Vì thực tế
có những trường hợp thừa kế BHXH một người đã đóng BHXH nhưng không hưởng chế độ mà
muốn nhường cho con cháu mình. Vì vậy có nhiều nước còn quy đònh tuổi khi hưởng chế độ
mất sức lao động. Đối với đại đa số hệ thống BHXH thì thời gian được hưởng BHXH là không
quá 5 năm đóng BHXH, ví dụ 120 ngày làm việc trong vòng 6 tháng trước đó là đủ điều kiện
hưởng BHXH mất sức lao động. Mức hưởng chế độ mất sức lao động tối thiểu theo công ước
102 là 40% tiền lương chuẩn.

2.9 – Trợ cấp tử tuất
Chế độ tử tuất là chế độ đối với thân nhân của người được bảo hiểm khi người được bảo hiểm
chết. Trợ cấp này gồm phần mai táng và trợ cấp gia đình. Theo ILO mục đích của chế độ tử
tuất nhằm cung cấp thu nhập thay thế cho thành viên gia đình của NLĐ được bảo hiểm hoặc
của người hưởng chế độ hưu trí hoặc các loại chế độ dài hạn. Do vậy thường các nước thường
tính tỷ lệ hưởng dựa vào tỷ lệ hưu trí của người chết, trong đó người chồng hoặc người vợ goá
được nhận 40%, mỗi người con được hưởng 20% tiền lương hưu, tối đa được hưởng là 100%.
Những thân nhân khác như bố, mẹ có thể có quyền được hưởng 10%. Điều kiện của người được
bảo vệ phải có 15 năm đóng BHXH hoặc 10 năm thường trú. Có thể đặt điều kiện một thời
gian kết hôn tối thiểu, để người vợ góa không con được suy đoán là không thể tự đài thọ cho
nhu cầu của chính mình, có quyền hưởng tiền tuất. Ngoài ra chế độ tuất chỉ trợ cấp trong thời
gian nhất đònh, như khi con cái quá mức giới hạn tuổi tối đa, hoặc con cái lập gia đình, hoặc vợ

Luận Văn Cao Học – Một Số Ý Kiến Về Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam


Trang 22

hay chồng goá lập gia đình hoặc những người được trợ cấp có thu nhập tăng quá mức qui đònh
hoặc bố, mẹ chết thì phải giảm bớt hoặc chấm dứt trợ cấp.
ƒ

Ở Philippine – trợ cấp hàng tháng được trả cho người thuộc hàng thừa kế thứ nhất với
điều kiện người chết phải đóng đủ 36 tháng (3 năm) BHXH. Nếu không có người thừa kế
thứ nhất thì hàng thứ hai được hưởng nhưng chỉ hưởng một lần.

Luận Văn Cao Học – Một Số Ý Kiến Về Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam


Trang 23


óm lại, hầu hết các quốc gia được nghiên cứu qua về chính sách BHXH đều có những tỷ lệ
T

qui đònh tương đương với qui đònh tối thiểu của công ước 102(1952) hoặc cao hơn.
Điều nổi bật của các nước đang chuyển đổi từ kinh tế Kế hoạch sang kinh tế thò trường là

đang từng bước mở rộng đối tượng BHXH ra những thành phần tự tạo việc làm và phi kết cấu,
cả loại hình bắt buộc và tự nguyện đều đang mở rộng.
Đối với xây dựng và thực hiện các chế độ đang có xu hướng mở rộng những chế độ đang có
nhu cầu cần thiết như tăng cường chế độ thất nghiệp.
Ngoài ra một vấn đề còn tranh cải ở những nước này là quan niệm trợ cấp theo phân phối hay
giao hoán, từ đó dẫn đến căn cứ để tính trợ cấp là tiền lương tối thiểu hay tiền lương đang làm
việc.
Đối với việc chọn tiền lương tối thiểu thì thực hiện được ý nghóa của BHXH một cách rộng rãi
vì nó bao hàm việc san sẽ rủi ro giữa những người có thu nhập ngang nhau cũng như việc phân
phối lại thu nhập giữa những người có thu nhập khác nhau, nhưng trong điều kiện số người
tham gia quá ít thì ý nghóa này không phát huy tác dụng được, còn không đáp ứng được nhu cầu
của người được bảo vệ. Ngược lại nếu chọn tiền lương đang làm việc làm cơ sở tính các khoản
trợ cấp thì có lợi là người được bảo vệ không quá hụt hẩng khi thu hưởng nhưng sẽ dễ dẫn đến
tình trạng bội chi.
Còn các nước kinh tế thò trường, thường NLĐ được BHXH trong cùng một hệ thống không phân
biệt nơi làm việc hay lãnh vực làm việc, nó bảo đảm cho mọi đơn vò lao động cùng đóng góp
một mức bảo hiểm, và hưởng theo mức sống cơ bản của xã hội. Điều này tạo ra một “sân chơi
tiêu chuẩn” dành cho Công ty bảo hiểm tư nhân khi NLĐ muốn hưởng những tiêu chuẩn cao
hơn tiêu chuẩn cơ bản và do vậy nó thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các công ty bảo hiểm.

Luận Văn Cao Học – Một Số Ý Kiến Về Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam



Trang 24

PHẦN II – PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH, CHẾ ĐỘ BHXH Ở VIỆT NAM

A – ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN BHXH VN


Việt Nam dưới thời Pháp thuộc – chính quyền thuộc đòa đã thực hiện BHXH đối với công
chức và quân nhân người VN hưởng lương, phục vụ trong bộ máy hành chính và lực lượng
vũ trang của Pháp khi ốm đau, về hưu, chết. Mọi mức hưởng đều từ ngân sách của chính
quyền thuộc đòa.



Khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập đến thời kỳ thống nhất đất nước –
những văn bản pháp luật về BHXH ra đời cho thấy nhiều thay đổi, những tiến bộ mang
những đặc điểm của từng thời kỳ khác nhau : từ một nước nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu
nhưng có truyền thống nhân ái, giúp đỡ nhau trong hoạn nạn, rủi ro; cùng với việc kế thừa
chế độ BHXH của Pháp trước đó. Từ năm 1945 VN đã có những sắc lệnh nhằm ấn đònh
những điều kiện cho công chức về hưu, những sắc lệnh ấn đònh việc cấp hưu bổng cho công
chức., chủ yếu vẫn là ngân sách Nhà nước đảm bảo cho tiền nghỉ hưu. Đảng và Chính phủ
đã cố gắng tạo điều kiện cho công nhân viên chức Nhà nước yên tâm sản xuất, gắn bó với
chế độ chính trò thông qua nhiều sắc lệnh, nghò đònh, quyết đònh về BHXH… Đến khi có
Hiến pháp 1959 thì VN đã có 6 chế độ BHXH( theo nghò đònh 218/CP ngày 27-11-1961), có
quỹ bảo hiểm nhưng chủ yếu vẫn do ngân sách Nhà nước chi trả là chủ yếu



Thời kỳ thống nhất đất nước (1975 đến nay) – BHXH cũng có những đặc điểm của thời kỳ
này: đối với những NLĐ làm việc ở miền Nam trước giải phóng thì thời gian lao động này

không được coi là thời gian đóng BHXH. Ngược lại NLĐ ở miền Bắc và trong vùng giải
phóng, thời gian lao động trước và sau giải phóng đều được tính liên tục là thời gian lao
động có đóng BHXH, từ đó tạo ra những phân biệt khác nhau về hưởng chế độ BHXH.


Giai đoạn 1975 đến 1985 – đây là giai đoạn cả nước cùng thực hiện chế độ BHXH theo
điều lệ tạm thời 1961, do thực hiện nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung nên hệ thống
BHXH VN thực hiện theo chế độ bao cấp – chính sách BHXH được ngân sách Nhà
nước chi rất lớn 33 ; bên cạnh đó còn nhiều đối tượng NLĐ chưa được bảo hiểm. Khu vực
sản xuất nông nghiệp và ngoài quốc doanh vẫn chưa được BHXH cho đến năm 1982,
đối tượng này mới được tham gia BHXH nhưng do không có sự tham gia hỗ trợ của Nhà
nước nên đến 1989 thì không thực hiện nữa.



Thời kỳ chuyển sang cơ chế kinh tế thò trường – cùng với sự đổi mới các chính sách kinh
tế xã hội, chính sách BHXH đã từng bước được đổi mới, nhằm hòa nhập vào quỹ đạo

Luận Văn Cao Học – Một Số Ý Kiến Về Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam


×