Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (682.16 KB, 54 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
------------------------

NGUYỄN THỊ HẢI YẾN

GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2007


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
VÀ RỦI RO TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1

Tổng quan về tín dụng ngân hàng (TDNH)

1.1.1 Quá trình ra đời và phát triển của hoạt động tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng (TDNH) ra đời và phát triển do yêu cầu phát triển của nền kinh
tế tư bản chủ nghĩa. TDNH ra đời từ các nguồn gốc sau:
Thứ nhất, từ sự ra đời của các hiệp hội tín dụng. Các nhà tư bản công, thương
nghiệp không thể tranh thủ được nguồn tín dụng nặng lãi từ các tổ chức kinh doanh tiền
tệ thời trung cổ, đã hợp tác với nhau để lập nên các những hiệp hội tín dụng với mục đích
hỗ trợ nhau về vốn kinh doanh... Sau đó các hiệp hội tín dụng này mở rộng phạm vi hoạt
động và trở thành những ngân hàng thực sự. Những ngân hàng này ra đời ở Italya vào
cuối thế kỷ thứ 16 và ở Hà Lan đầu thế kỷ thứ 17
Thứ hai, từ những tổ chức kinh doanh tiền tệ thời trung cổ chuyển hướng kinh


doanh cho phù hợp với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Do sự ra đời của các hiệp
hội tín dụng đã làm cho các tổ chức kinh doanh tiền tệ bị mất đi sự độc quyền trong cho
vay và để cạnh tranh với các hiệp hội tín dụng buộc các tổ chức này phải giảm lãi suất
cho vay và dần dần họ hoạt động như những nhà ngân hàng thực sự và trở thành ngân
hàng cho vay.
Thứ ba, do yêu cầu về thanh khoản của những người nắm giữ thương phiếu, kỳ
phiếu (chủ yếu là có kỳ hạn), TDNH đã tạo điều kiện thuận lợi cho mua, bán chịu và lưu
thông thương phiếu, kỳ phiếu phát triển. Nhờ có TDNH, các thương phiếu, kỳ phiếu được
chiết khấu dễ dàng, được chuyển thành tiền mặt, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh,
cho việc nhận kỳ phiếu làm phương tiện lưu thông và thanh toán. Các kỳ phiếu thương
nghiệp cũng là cơ sở để ngân hàng phát hành giấy bạc ngân hàng.
Khái niệm TDNH:
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng thương mại và khách
hàng (doanh nghiệp, dân cư, ngân sách nhà nước) thông qua hình thức cấp tín dụng bằng
tiền.
Bản chất kinh tế của TDNH:


Tín dụng ngân hàng chỉ là sự chuyển giao quyền sử dụng một số tiền (hiện kim) từ
chủ thể này sang chủ thể khác, chứ không làm thay đổi quyền sở hữu chúng. Điều này thể
hiện ở chỗ vốn tín dụng sau một thời gian chuyển giao quyền sử dụng lại được “hoàn trả”
lại cho người sở hữu với một giá trị lớn hơn giá trị ban đầu (phần giá trị tăng thêm gọi là
lợi tức tín dụng).
1.1.2 Chức năng của tín dụng ngân hàng
- Một là, chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ trên cơ sở có hoàn trả
+ Ở mặt tập trung vốn tiền tệ: nhờ sự hoạt động của hệ thống TDNH mà các nguồn
tiền nhàn rỗi trong xã hội được tập trung lại, bao gồm tiền của dân chúng, doanh nghiệp
và các tổ chức đoàn thể, xã hội...
+ Ở mặt phân phối lại vốn tiền tệ, đó là sự chuyển hóa các nguồn vốn đã tập trung
được để đáp ứng nhu cầu sản xuất lưu thông hàng hóa cũng như nhu cầu tiêu dùng trong

toàn xã hội.
Cả hai mặt tập trung và phân phối lại vốn đều được thực hiện theo nguyên tắc hoàn
trả, vì vậy TDNH có ưu thế rõ rệt, nó kích thích mặt tập trung vốn, nó thúc đẩy việc sử
dụng vốn có hiệu quả.
- Hai là, chức năng tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội
+ Hoạt động TDNH, tạo điều kiện cho sự ra đời của các công cụ lưu thông tín dụng
như thương phiếu, kỳ phiếu ngân hàng, các loại séc, các phương tiện thanh toán hiện đại
như thẻ tín dụng, thẻ thanh toán... cho phép thay thế một số lượng lớn tiền mặt lưu hành,
giảm bớt các chi phí in tiền, vận chuyển, bảo quản tiền...
+ Với sự hoạt động của TDNH mở ra một khả năng lớn trong việc mở tài khoản và
giao dịch thanh toán thông qua ngân hàng dưới các hình thức chuyển khoản hoặc bù trừ
cho nhau.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của TDNH cho phép giải quyết nhanh chóng các
mối quan hệ kinh tế, vừa thúc đẩy quá trình ấy, tạo điều kiện cho nền kinh tế - xã hội phát
triển.
+ Nhờ hoạt động của TDNH mà các nguồn vốn đang nằm trong xã hội được huy
động để sử dụng cho các nhu cầu của sản xuất và lưu thông hàng hóa sẽ có tác dụng tăng
tốc độ chu chuyển vốn trong phạm vi toàn xã hội.
- Ba là, chức năng phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế
Sự vận động của vốn TDNH phần lớn là sự vận động gắn liền với sự vận động của
vật tư, hàng hóa, chi phí trong các xí nghiệp, tổ chức kinh tế, vì vậy qua đó TDNH không


những là tấm gương phản ánh hoạt động kinh tế của doanh nghiệp mà còn thông qua đó
thực hiện việc kiểm soát các hoạt động ấy nhằm ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực lãng
phí, vi phạm pháp luật... trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
1.1.3

Vai trò của tín dụng ngân hàng
- Một là, TDNH góp phần thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hóa phát triển

Do bản chất của tín dụng ngân hàng là có thời hạn và phải được hoàn trả với một

giá trị lớn hơn vốn tín dụng ban đầu. Điều này buộc người vay (nhà đầu tư) phải sử dụng
vốn tín dụng sao cho có hiệu quả nhất như: lựa chọn ngành nghề đầu tư, tăng năng suất
lao động, cải tiến kỹ thuật công nghệ, giảm chi phí, đẩy nhanh vòng quay vốn... Do đó
đứng trên phạm vi toàn xã hội, tín dụng ngân hàng làm tăng hiệu suất sử dụng vốn đồng
thời thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hóa phát triển.
- Hai là, TDNH góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá cả
Trong khi thực hiện chức năng thứ nhất là tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ,
TDNH đã góp phần làm giảm khối lượng tiền lưu hành trong nền kinh tế, đặc biệt là tiền
mặt trong tay các tầng lớp dân cư, làm giảm áp lực lạm phát, nhờ vậy góp phần làm ổn
định tiền tệ. Mặt khác, do cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh... làm cho sản xuất kinh doanh
ngày càng phát triển, sản phẩm hàng hóa dịch vụ làm ra ngày càng nhiều, đáp ứng được
nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, chính nhờ đó mà TDNH góp phần làm ổn định thị
trường giá cả trong nước...
- Ba là, TDNH góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm và ổn định trật tự
xã hội.
Một mặt, do TDNH có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển, sản xuất hàng hóa
và dịch vụ ngày càng gia tăng có thể thỏa mãn nhu cầu đời sống của người lao động. Mặt
khác, do vốn TDNH cung ứng đã tạo ra khả năng trong việc khai thác các tiềm năng sẵn
có trong xã hội về tài nguyên thiên nhiên, về lao động... do đó có thể thu hút nhiều lực
lượng lao động của xã hội để tạo ra lực lượng sản xuất mới để thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế.
Một xã hội phát triển lành mạnh, đời sống được ổn định, ai cũng có công ăn việc
làm... đó là tiền đề quan trọng để ổn định trật tự xã hội.
- Bốn là, TDNH còn có vai trò quan trọng để mở rộng và phát triển các mối quan
hệ kinh tế đối ngoại và mở rộng giao lưu quốc tế.



Sự phát triển của TDNH không những ở trong phạm vi quốc nội mà còn mở rộng
ra cả phạm vi quốc tế, nhờ đó thúc đẩy mở rộng và phát triển các quan hệ kinh tế đối
ngoại, nhằm giúp đỡ và giải quyết các nhau cầu lẫn nhau trong quá trình phát triển đi lên
của mỗi nước, làm cho các nước có điều kiện xích lại gần nhau và cùng phát triển.
1.1.4

Các hình thức tín dụng ngân hàng
Phân loại tín dụng ngân hàng:

Hoạt động cấp tín dụng trong tín dụng ngân hàng bao gồm:
-

Cho vay: là nghiệp vụ cấp tín dụng của ngân hàng thương mại theo đó ngân hàng

sẽ cho khách hàng vay một số vốn nhất định với một mức lãi suất và thời gian hoàn trả
nhất định.
-

Chiết khấu thương phiếu và các chứng từ có giá: là việc ngân hàng mua thương

phiếu và các chứng từ có giá chưa đến hạn thanh toán của khách hàng. Người sở hữu các
chứng từ này sẽ bán cho ngân hàng sẽ nhận một số tiền bằng mệnh giá trừ đi lợi tức chiết
khấu do ngân hàng quy định.
-

Bảo lãnh: là nghiệp vụ ngân hàng đứng ra cam kết với bên thứ ba là sẽ có trách

nhiệm thanh toán cho bên thứ ba nếu như khách hàng (bên được bảo lãnh) không thực
hiện đúng cam kết với bên thứ ba.
-


Cho thuê tài chính: là việc ngân hàng đứng ra mua tài sản của nhà cung cấp để

cho thuê đối với người có nhu cầu sử dụng (người đi thuê).
Trong đó cho vay và chiết khấu là chủ yếu..
Nếu căn cứ thời han cho vay, tín dụng ngân hàng có 2 hình thức:
-

Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng mà thời hạn cho vay đến 12 tháng và được sử

dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu
ngắn hạn của các cá nhân.
-

Tín dụng trung dài hạn: là loại tín dụng mà thời hạn cho vay trên 12 tháng và

được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công
nghệ.
Nếu căn cứ vào tính chất luân chuyển vốn:
-

Cho vay vốn lưu động: là loại cho vay để bổ sung nguồn vốn lưu động của khách

hàng vay vốn như cho vay mua nguyên vật liệu, chi phí nhân công, điện, nước...
-

Cho vay vốn cố định: là loại cho vay để đầu tư mua sắm tài sản cố định hoặc đổi

mới thiết bị công nghệ.
Nếu căn cứ vào tính chất đảm bảo. Có 2 loại:



-

Cho vay bằng tín chấp: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo

lãnh của bên thứ ba, mà việc cho vay chủ yếu dựa vào uy tín của bản thân khách hàng.
-

Cho vay có đảm bảo bằng tài sản (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh): là loại cho vay dựa

trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp, cầm cố hoặc phải có bảo lãnh của bên thứ ba.
Nếu căn cứ vào mối quan hệ giữa các chủ thể, có 2 loại:
-

Cho vay trực tiếp: người đi vay và người trả nợ là một chủ thể.

-

Cho vay gián tiếp: người đi vay và người trả nợ khác nhau.
Nếu căn cứ vào phương pháp cấp tiền vay và thu nợ:

-

Cho vay luân chuyển: là loại cho vay nhằm bổ sung vốn lưu động của các tổ chức

kinh tê.ú
-

Cho vay từng lần: là loại cho vay mà mỗi lần vay khách hàng và ngân hàng phải


ký lại hợp đồng tín dụng.
Nếu dựa vào mục đích sử dụng vốn, có 2 loại:
-

Cho vay SXKD: là loại tín dụng cho vay hỗ trợ vốn cho việc sản xuất kinh doanh

của các doanh nghiệp và cá thể.
-

Cho vay tiêu dùng: là loại tín dụng sinh hoạt, cho vay để mua hàng tiêu dùng

1.2

Các loại hình rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại

1.2.1. Khái niệm rủi ro
Rủi ro là những biến cố không mong đợi khi xảy ra dẫn đến sự tổn thất về tài sản của
ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi
phí để có thể hoàn thành được một nghiệp vụ tài chính nhất định.
Nhận xét:
-

Rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng là hai đại lượng đồng biến với nhau

trong một phạm vi nhất định.
-

Khi đề cập đến rủi ro người ta thường đề cập đến hai yếu tố mang tính đặc trưng:


+ Biên độ rủi ro: thể hiện mức độ thiệt hại do rủi ro gây ra.
KP
+ Tần suất xuất hiện rủi ro = -------P
KP: số trường hợp thuận lợi để rủi ro xuất hiện
P: số trường hợp đồng khả năng
-

Rủi ro là một yếu tố khách quan cho nên người ta không thể nào loại trừ được hẳn

mà chỉ có thể hạn chế sự xuất hiện của chúng cũng như những tác hại do chúng gây ra.


1.2.2. Các loại hình rủi ro
1.2.2.1.

Rủi ro thiếu vốn khả dụng

Để thu được lợi nhuận cực đại, các ngân hàng tích cực thực hiện các chức năng chuyển
hóa các phương tiện tiền tệ theo kiểu “vay ngắn hạn và cho vay dài hạn”. Rủi ro thiếu
vốn khả dụng xuất phát từ chức năng chuyển hóa các kỳ hạn sử dụng vốn và nguồn vốn
của ngân hàng. Thông thường các kỳ hạn sử dụng vốn dài hơn kỳ hạn các nguồn vốn, nên
ngân hàng có thể vấp phải hai tình huống khó khăn: không thể đáp ứng các cam kết ngắn
hạn của mình, có nguồn vốn kỳ hạn ngày càng ngắn lại trong khi sử dụng vốn vẫn theo
kỳ hạn không đổi.
Trong tình huống thứ nhất gọi là thiếu vốn khả dụng tức thời. Ngân hàng không có khả
năng đáp ứng việc rút vốn ồ ạt và ngoài dự kiến của khách hàng hay của các tổ chức tín
dụng khác. Tình huống thứ hai gọi là rủi ro chuyển hóa vốn, được giám sát qua hệ số
chuyển hóa vốn. Hệ số chuyển hóa vốn là hệ số giữa vốn tự có và nguồn vốn thường
xuyên ổn định, nhằm mục đích hạn chế sử dụng quá nhiều các nguồn vốn ngắn hạn ổn
định cho vay dài hạn.

1.2.2.2.

Rủi ro lãi suất

Lãi suất cho vay của ngân hàng khác với lãi suất của các công cụ trên thị trường tiền tệ ở
chỗ là chúng được đàm phán giữa người đi vay và ngân hàng. Do đó mức lãi suất cho vay
của các ngân hàng thường không đồng nhất. Lãi suất cũng thay đổi so với mức độ rủi ro
tín dụng trên hàng loạt các yếu tố: tiền cho vay, thời gian, quy mô cho vay, chi phí thực
hiện và giám sát khoản vay...
Lãi suất có thể cố định hoặc biến đổi. Rủi ro lãi suất là rủi ro mà các ngân hàng phải chịu
khi có các khoản cho vay hoặc nợ theo lãi suất cố định, do diễn biến lãi suất về sau gây
ra. Rủi ro này ảnh hưởng đến tình hình của ngân hàng theo 2 cách:
Cách thứ nhất là mối quan hệ trái ngược giữa lãi suất - giá trị một tài sản tài chính. Nếu ta
coi bảng cân đối ngân hàng như một bộ chứng khoán tài chính, thì mỗi chứng khoán phản
ứng khác nhau, thuận lợi hoặc bất lợi đối với sự biến động về lãi suất.
Cách thứ hai dẫn ra sự sai lệch lâu dài về thu nhập của sử dụng vốn và chi phí của nguồn
vốn trong tài khoản kết quả tài chính.
Vậy rủi ro lãi suất của ngân hàng là chi phí nguồn vốn trở nên cao hơn thu nhập từ sử
dụng vốn. Rõ ràng là các khoản sử dụng vốn theo lãi suất cố định và nguồn vốn không
mất tiền hoặc theo lãi suất cố định không chịu ảnh hưởng của biến động lãi suất. Tùy theo
cơ cấu bảng cân đối giữa sử dụng vốn theo lãi suất cố định và có thay đổi, giữa nguồn


vốn không phải trả lãi và phải trả lãi, mỗi ngân hàng có độ nhạy cảm khác nhau về thực
thu nghiệp vụ ngân hàng đối với biến động lãi suất.
1.2.2.3.

Rủi ro hối đoái

Các rủi ro trong việc giao dịch ngoại hối xuất phát từ tỷ giá hối đoái của các loại tiền tệ

khác nhau do tác động của nền kinh tế và chính trị của một đất nước.
Việc duy trì nắm giữ một ngoại tệ của một quốc gia nào đó là mạo hiểm vì nó khiến ngân
hàng phải gánh chịu một rủi ro hối đoái phát sinh từ biến động tỷ giá ngoại tệ thể hiện các
khoản vay nợ và nợ so với đồng nội tệ. Một ngân hàng giao dịch ngoại hối, phải giới hạn
việc tham gia vào các loại tiền tệ khác nhau và thực hiện một khối lượng kinh doanh vừa
đủ để các thiệt hại có thể bù đắp bằng các lợi tức. Hơn nữa, ngân hàng phải cảnh giác
không chỉ với những thay đổi về tỷ giá hối đoái, mà cả các nguyên nhân của các thay đổi
ấy để có thể áp dụng các biện pháp giảm thiểu rủi ro. Về các loại tiền tệ chủ yếu, các
ngân hàng hay các khách hàng có thể giảm bớt rủi ro với các giao dịch trong thị trường tỷ
giá hối đoái có kỳ hạn. Rủi ro hối đoái và rủi ro lãi suất thường đan xen nhau vì trong
một giao dịch hối đoái có kỳ hạn, giai đoạn đầu là bán ngoại tệ giao ngay làm phát sinh
rủi ro hối đoái và giai đoạn hai là đem đầu tư số nội tê hay ngoại tệ trên thị trường vốn
làm phát sinh rủi ro lãi suất.
1.2.2.4.

Rủi ro trong tín dụng quốc tế và trong tín dụng ngoại thương
Rủi ro trong tín dụng quốc tế

Về nhiều phương diện, việc cho vay nước ngoài cũng tương tự như việc cho vay trong
nước. Ngoài những yếu tố cơ bản trong tín dụng nói chung, còn ba yếu tố khác đóng vai
trò rất quan trọng trong việc cung ứng tín dụng cho vay nước ngoài: tiền tệ, quốc gia và
các rủi ro pháp lý:
-

Về tiền tệ: Rủi ro tín dụng xuất hiện khi khả năng chuyển đổi và tính ổn định của

đơn vị tiền tệ quốc gia của người vay.
-

Rủi ro đất nước là những rủi ro chắc chắn sẽ xảy ra từ phát triển kinh tế và chính


trị ảnh hướng đến khả năng trả nợ của người vay.
-

Rủi ro pháp lý: Những rủi ro về pháp lý ở nước ngoài là việc một quốc gia sẽ áp

đặt hay thay đổi mạnh các yêu cầu dự trữ, tỷ lệ vốn trên tích sản và nhiều quy định khác
cản trở hoạt động của ngân hàng.
Rủi ro trong tín dụng ngoại thương
Những khoản cho vay ngoại thương không giống như các khoản cho vay trong nước khi
gặp trường hợp tranh chấp. Các khoản cho vay trong nước thường được đảm bảo bằng


một hợp đồng có thể cưỡng chế và thường được phán quyết bởi tòa án trong nước. Các cơ
chế cưỡng chế pháp lý này khiến một hệ thống tín dụng trong nước có hiệu lực.
Cách xử lý có tính pháp lý như vậy không tồn tại trong tín dụng quốc tế. Quốc gia có
quyền cao nhất trong việc cho vay hay đi vay không nằm trong giới hạn điều hành của
toàn án. Những khoản cho vay quốc tế thường không được bảo đảm bởi tài sản thế chấp,
cầm cố và không thể yêu cầu một cưỡng chế của toà án. Các khoản cho vay ngoại thương
khi xảy ra tranh chấp thì rủi ro thường nghiêng về phía ngân hàng cho vay khi phải đối
diện với các rủi ro sau: không có tài sản đảm bảo, phải áp dụng luật quốc tế và được phán
quyết bởi toà án quốc tế...
1.2.2.5.

Rủi ro mất khả năng thanh toán

Rủi ro mất khả năng thanh toán là rủi ro riêng có của ngân hàng và liên quan đến sự sống
còn của ngân hàng, được phân tích thông qua các chỉ tiêu sau:
-


Mức độ vốn tự có: là số vốn tự có liên quan đến các rủi ro dự đoán.

-

Mức độ vốn lưu động nhằm kiểm tra mức độ các tài sản cố định được bù đắp

bằng nguồn vốn thường xuyên ra sao.
-

Hệ số khả năng thanh toán (cuối cùng) là nhằm đánh giá khả năng đáp ứng toàn

bộ các cam kết của một ngân hàng.
Một ngân hàng có khả năng thanh toán nhiều hơn nếu số dư tiền gửi ở ngân hàng trung
ương cao hơn, hay tài sản có đều dễ dàng chuyển sang tiền hay khả năng tăng vốn nhanh
từ các nguồn khác khiến nó có thể đáp ứng nhanh nhu cầu thanh khoản cho các nhu cầu
rút tiền, nhu cầu tín dụng bất ngờ. Khi ngân hàng không thể đáp ứng một cách nhanh
chóng các nhu cầu trên thì sẽ có nguy cơ lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Khi
một nhu cầu rút tiền của một khách hàng không được đáp ứng hoặc đáp ứng một cách trì
trệ thì một phản ứng dây chuyền xảy ra, sẽ có nhiều người đồng loạt rút tiền. Do đó ngân
hàng sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
1.2.2.6.

Rủi ro tín dụng

Đó là rủi ro gắn liền với hoạt động ngân hàng, cho vay bao giờ cũng bao gồm rủi ro và
xảy ra mất mát vốn. Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay, mà còn bao
gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của ngân hàng như: bảo lãnh, cam
kết, chấp thuận tài trợ thương mại, tín dụng thuê mua, đồng tài trợ...
1.2.3. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro
Có 3 nhóm nguyên nhân dẫn đến rủi ro:



-

Những nguyên nhân thuộc về năng lực quản trị của ngân hàng:

+ Do không quản lý chặt chẽ thanh khoản dẫn đến thiếu khả năng chi trả.
+ Cho vay và đầu tư quá liều lĩnh, cụ thể trong cho vay ngân hàng tập trung nguồn vốn
quá nhiều vào một doanh nghiệp hoặc một ngành kinh tế nào đó, trong đầu tư ngân hàng
chỉ chú trọng đầu tư vào một loại chứng khoán có rủi ro cao.
+ Do thiếu am hiểu thị trường, thiếu thông tin hoặc phân tích thông tin không đầy đủ dẫn
đến cho vay và đầu tư không hợp lý.
+ Do hoạt động kinh doanh trái pháp luật, tham ô...
+ Do cán bộ ngân hàng thiếu đạo đức nghề nghiệp, yếu kém về trình độ nghiệp vụ.
-

Các nguyên nhân thuộc về phía khách hàng:

+ Do khách hàng vay vốn thiếu năng lực pháp lý.
+ Sử dụng vốn vay sai mục đích, kém hiệu quả.
+ Do kinh doanh thua lỗ liên tục, hàng hóa không tiêu thụ được.
+ Quản lý vốn không hợp lý dẫn đến thiếu thanh khoản.
+ Chủ doanh nghiệp vay vốn thiếu năng lực điều hành, tham ô, lừa đảo.
+ Do mất đoàn kết trong nội bộ Hội đồng quản trị, ban giám đốc.
-

Các nguyên nhân khách quan có liên quan đến môi trường hoạt động kinh doanh:

+ Do thiên tai, hỏa hoạn.
+ Tình hình an ninh, chính trị trong nước, trong khu vực không ổn định.

+ Do khủng hoảng hoặc suy thoái kinh tế, lạm phát, mất thăng bằng cán cân thanh toán
quốc tế dẫn đến tỷ giá hối đoái biến động bất thường.
+ Môi trường pháp lý không thuận lợi, lỏng lẻo trong quản lý vĩ mô.
1.3

Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của NHTM

1.3.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Theo Thomas P.Fitch: Rủi ro tín dụng là loại rủi ro xảy ra khi người vay không thanh
toán được nợ theo thỏa thuận hợp đồng dẫn đến sai hẹn trong nghĩa vụ trả nợ. Cùng với
rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng là một trong những rủi ro chủ yếu trong hoạt động cho vay
của ngân hàng (Dictionary of Banking Terms, Barron’s Edutional Series, Inc, 1997).
Theo Timothy W.Koch: Một khi ngân hàng nắm giữ tài sản sinh lợi, rủi ro xảy ra khi
khách hàng sai hẹn - có nghĩa là khách hàng không thanh toán vốn gốc và lãi theo thỏa
thuận. Rủi ro tín dụng là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị giá của vốn xuất
phát từ việc khách hàng không thanh toán hay thanh toán trễ hạn (Bank Management,
University of South Carolina, The Dryden Press, 1995, page 107).


Theo Hennie Van Greuning ... Sonja Brajovic Bratanovic: Rủi ro tín dụng được định
nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không thể chi trả tiền lãi, hoặc hoàn trả vốn gốc so với
thời hạn đã ấn định trong hợp đồng tín dụng. Đây là thuộc tính vốn có của hoạt đồng
ngân hàng. Rủi ro tín dụng tức là việc chi trả bị trì hoãn, hoặc tồi tệ hơn là không hoàn trả
được toàn bộ. Điều này gây ra sự cố đối với dòng chu chuyển tiền tệ và ảnh hưởng tới
khả năng thanh khoản của ngân hàng (The World Bank).
Từ các định nghĩa trên chúng ta có thể rút ra các nội dung cơ bản về rủi ro tín dụng như
sau:
-

Rủi ro tín dụng khi người đi vay sai hẹn (default) trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ


theo hợp đồng, bao gồm vốn gốc và/ hoặc lãi. Sự sai hẹn có thể là trễ hạn (delayed
payment) hoặc không thanh toán (nonpayment).
-

Rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến tổn thất về tài chính, tức là giảm thu nhập ròng và giảm

giá trị thị trường của vốn. Trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến thua lỗ, hoặc ở
mức độ cao hơn có thể dẫn đến phá sản.
Đối với các nước đang phát triển, các ngân hàng thiếu đa dạng trong kinh doanh các dịch
vụ tài chính, vì vậy tín dụng được coi là dịch vụ sinh lời chủ yếu và thậm chí gần như duy
nhất, đặc biệt đối với các ngân hàng nhỏ. Vì vậy rủi ro tín dụng cao hay thấp sẽ quyết
định hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Rủi ro tín dụng được phân thành các loại sau:
RỦI RO TÍN DỤNG

Rủi ro
giao dịch

Rủi
ro
lựa
chọn

Rủi
ro
đảm
bảo

Rủi ro

danh mục

Rủi ro
nghiệp
vụ

Rủi ro
nội
tại

Rủi ro
tập
trung


Rủi ro tín dụng bao gồm rủi ro danh mục và rủi ro giao dịch. Rủi ro danh mục
được phân ra hai loại rủi ro nội tại và rủi ro tập trung. Rủi ro nội tại xuất phát từ các yếu
tố mang tính riêng biệt của mỗi chủ thế đi vay hoặc ngành kinh tế. Rủi ro tập trung là
mức dư nợ cho vay được dồn vào cho một số khách hàng, một số ngành kinh tế hoặc một
số loại cho vay hoặc một khu vực địa lý.
Rủi ro giao dịch có 3 thành phần: rủi ro lựa chọn, rủi ro đảm bảo và rủi ro nghiệp
vụ. Rủi ro lựa chọn là rủi ro liên quan đến thẫm định và phân tích tín dụng. Rủi ro đảm
bảo xuất phát từ các tiêu chuẩn đảm bảo, như các điều khoản trong hợp đồng vay, các
loại tài sản bảo đảm và mức an toàn của nó. Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến quản
trị hoạt động cho vay như xây dựng và thực hiện chính sách tín dụng để định hướng cho
việc thực hiện cho vay và kiểm soát danh mục cho vay, tái xét và giám sát danh mục cho
vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản cho
vay có vấn đề.
1.3.2. Đánh giá rủi ro tín dụng
Dư nợ quá hạn

- Hệ số nợ quá hạn = ------------------------------ x 100 (%)
Tổng dư nợ
Quy định hiện nay của ngân hàng nhà nước cho phép dư nợ quá hạn của các ngân
hàng thương mại không được vượt quá 5% có nghĩa là trong 100 đồng vốn bỏ ra cho vay
thì nợ quá hạn tối đa chỉ được phép là 5%.
Để đảm bảo quản lý chặt chẽ, nợ quá hạn được phân theo thời hạn:
+ Nợ quá hạn đến 180 ngày, có khả năng thu hồi
+ Nợ quá hạn từ 181-360 ngày, có khả năng thu hồi
+ Nợ quá hạn từ 360 ngày trở lên (nợ khó đòi).
Tổng dư nợ cho vay
- Hệ số rủi ro tín dụng = ---------------------------Tổng tài sản có


Hệ số này cho ta thấy tỷ trọng của khoản mục tín dụng trong tài sản có, khoản mục
tín dụng trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ lớn nhưng rủi ro tín dụng cũng rất
cao.
- Phân loại nợ quá hạn, nợ xấu tại Việt Nam
a>

Nợ xấu (Bad debt)

Theo tiêu chuẩn quốc tế, “nợ xấu” là những khoản nợ quá hạn 90 ngày mà không
đòi được và không được tái cơ cấu.
Ở Việt Nam, nợ xấu bao gồm những khoản nợ quá hạn có hoặc không thể thu hồi,
nợ liên quan đến các vụ án chờ xử lý và những khoản nợ quá hạn không được Chính phủ
xử lý rủi ro.
Nợ xấu (hay các tên gọi khác của chúng như nợ có vấn đề, nợ khó đòi...) là các
khoản nợ có các đặc trưng sau:
+ Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các cam kết
này đã hết hạn.

+ Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn đến có khả
năng ngân hàng không thu hồi được cả vốn lẫn lãi.
+ Tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) được đánh giá là giá trị phát mãi
không đủ trang trải nợ gốc và lãi.
+ Thông thường về thời gian là các khoản nợ quá hạn ít nhất là 90 ngày.
b>

Nợ quá hạn (non-performing loan)

Nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả đúng hạn, không được phép và
không đủ điều để được gia hạn nợ. Các khoản nợ quá hạn trong hệ thống NHTM Việt
Nam được phân loại theo thời gian và được chia thành 3 nhóm:
+ Nợ quá hạn đến 180 ngày có khả năng thu hồi.
+ Nợ quá hạn từ 181-360 ngày có khả năng thu hồi
+ Nợ quá hạn trên 361 ngày (đây là những khoản nợ được vào vào nợ khó đòi).
1.3.3.

Hậu quả của rủi ro tín dụng
Đối với ngân hàng bị rủi ro

- Về mặt tài chính: Do không thu hồi được nợ (gốc, lãi và các loại phí) làm cho
nguồn vốn ngân hàng bị thất thoát, trong khi ngân hàng vẫn phải chi trả tiền lãi cho
nguồn vốn huy động, làm cho lợi nhuận bị giảm sút. Nếu ngân hàng bị thất thoát vốn vay
với một số lượng lớn thì có thể làm cho ngân hàng bị phá sản.


- Về mặt xã hội: Rủi ro tín dụng ngân hàng có thể dẫn đến ngân hàng mất khả năng
thanh toán, làm mất lòng tin của người gửi tiền và họ ồ ạt rút tiền về gây tâm lý hoang
mất và bất ổn trong xã hội.
Đối với hệ thống ngân hàng

Hoạt động của một ngân hàng trong một quốc gia có liên quan đến hệ thống ngân
hàng và các tổ chức kinh tế, xã hội và cá nhân trong nền kinh tế. Do vậy nếu một ngân
hàng có kết quả hoạt động xấu, thậm chí dẫn đến mất khả năng thanh toán và phá sản thì
sẽ có những tác động dây chuyền ảnh hưởng xấu đến các ngân hàng và các bộ phận kinh
tế khác. Nếu không có sự can thiệp kịp thời từ ngân hàng nhà nước thì tâm lý sợ mất tiền
sẽ lây lan đến toàn bộ người gửi tiền và họ sẽ đồng loạt rút tiền tại các ngân hàng khác
làm cho các ngân hàng khác vô hình chung cũng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh
toán.
Đối với nền kinh tế
Ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với nền kinh tế, là kênh thu hút và bơm tiền cho
nền kinh tế, vì vậy khi rủi ro tín dụng gây nên sự phá sản một ngân hàng sẽ làm cho nền
kinh tế quốc gia bị rối loạn, hoạt động kinh tế bị mất ổn định và ngưng trệ, mất bình ổn
về quan hệ cung cầu, lạm phát, thất nghiệp, tệ nạn xã hội gia tăng, tình hình an ninh chính
trị bất ổn...
Trong quan hệ kinh tế đối ngoại
Làm ảnh hưởng vị thế và hình ảnh của hệ thống ngân hàng trong khu vực và thế
giới.
1.3.4.

Một số mô hình quản lý rủi ro tín dụng được vận dụng tại các NHTM
trên thế giới

Để quản lý rủi ro tín dụng, luận văn xin giới thiệu một số mô hình định tính và định
lượng sau:
Mô hình định tính:
Việc một ngân hàng đánh giá xác suất rủi ro của người vay, trên cơ sở đó định giá
các khoản vay hoặc khoản nợ chính xác đến đâu phụ thuộc vào nguồn thông tin về người
đi vay mà ngân hàng thu thập được. Nói chung, số lượng thông tin cần thu thập cho mỗi
khoản đầu tư phụ thuộc vào quy mô của khoản đầu tư đó và chi phí thu thập thông tin.
Các yếu tố liên quan đến các quyết định đầu tư gồm:

- Nhóm các yếu tố liên quan đến người vay vốn:


+ Uy tín người đi vay: được thể hiện thông qua lịch sử vay, trả của khách hàng. Nếu
trong suốt quá trình đi vay người vay luôn trả đủ và đúng hạn thì sẽ tạo được lòng tin đối
với ngân hàng.
+ Cơ cấu vốn của khách hàng: thể hiện thông qua tỷ số giữa vốn huy động/vốn tự
có. Nếu tỷ lệ càng cao thì xác suất rủi ro càng lớn.
+ Mức độ biến động của thu nhập: Với bất kỳ cơ cấu vốn nào sự thu nhập cũng sẽ
ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của người đi vay.
Chính vì vậy, thường các công ty có lịch sử thu nhập ổn định thường xuyên lâu dài
sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư hơn.
+ Tài sản bảo đảm: là điều kiện chủ yếu trong bất kỳ một quyết định cho vay nào
nhằm khuyến khích việc sử dụng vốn có hiệu quả đồng thời nâng cao trách nhiệm trả nợ
ngân hàng.
- Nhóm các yếu tố liên quan đến thị trường:
+ Chu kỳ kinh tế: Chu kỳ kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến tình hình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Do đó ngân hàng cần phân tích chu kỳ kinh tế nhằm lựa chọn
quyết định nên đầu tư vốn vào ngành nào có mức độ rủi ro thấp.
+ Mức lãi suất: một mức lãi suất cao biểu hiện kết quả của chính sách thắt chặt tiền
tệ, thường gắn với mức độ rủi ro cao. Lý do là do giá vốn đắt nên nhà đầu tư thường bị
hấp dẫn bởi những dự án đầu tư đem lại nhiều lợi nhuận, mà lợi nhuận càng cao thì mức
độ rủi ro càng lớn.
Việc sử dụng mô hình này tương đối đơn giản, song hạn chế của mô hình này là nó
phụ thuộc vào mức độ chính xác của nguồn thông tin thu thập được cũng như trình độ
phân tích, đánh giá của cán bộ tín dụng.
Mô hình định lượng rủi ro tín dụng:
Các mô hình định lượng thường sử dụng các dữ liệu phản ánh đặc điểm của người
của người vay để tín toán xác suất của rủi ro tín dụng hoặc để phân loại khách hàng căn
cứ vào mức độ rủi ro được xác định.

- Mô hình xác suất tuyến tính:
Mô hình này sử dụng các số liệu về tài chính, tình hình chi trả các khoản vay trong
quá khứ làm dữ liệu đầu vào dự đoán xác suất chi trả các khoản vay mới (pi).
Giả sử các khoản vay cũ được chia làm hai nhóm:
+ Nhóm có rủi ro mất vốn: Zi = 1
+ Nhóm không có rủi ro: Zi = 0


Mối quan hệ giữa các nhóm này với các nhân tố ảnh hưởng tương ứng (Xij) được
biểu diễn qua mô hình đường thẳng tuyến tính sau:
Zi =

i ij + Sai số (1)

Trong đó:
i phản ánh mức độ quan trọng của chỉ tiêu thứ j (thí dụ chỉ tiêu cơ cấu vốn) trong
việc giải thích quá khứ chi trả của người vay.
Zi phản ánh xác suất bình quân rủi ro mất vốn của người vay qua công thức:
E(Zi)=(1-pi).
Kỹ thuật này được thể hiện một cách đơn giản khi các số liệu phản ánh đặc điểm
của người vay được cung cấp. Tuy nhiên điểm yếu của nó là ở chỗ xác suất rủi ro mất
vốn rất dễ nằm ngoài khoảng từ 0 đến 1.
- Mô hình logit:
Mô hình giới hạn xác suất cộng dồn của rủi ro mất vốn đối với một khoản tín dụng
nằm trong khoảng từ 0 đến 1. Điều này có nghĩa là: giả sử tại thời điểm t, doanh nghiệp
xin vay khoản vốn vay thứ 4 thì xác suất rủi ro F(Z4) của khoản vốn vay này sẽ bằng
tổng F(Z1) + F(Z2) + F(Z3) và xác suất của từng khoản vay này được phân bố theo dạng
hàm số:
1
F(Z1) = ----------------1 + e2

Trong đó: e là cơ số tự nhiên
F(Z1) là xác suất cộng dồn của mức rủi ro đối với một khoản vay.
Z1 được tính như công thức (1) ở trên.
Hạn chế chủ yếu của phương pháp này là giả thiết rằng xác suất lũy kế của rủi ro
mất vốn được phân bổ theo dạng hàm logit cụ thể..
- Mô hình probit: Mô hình này cũng bị hạn chế là xác suất rủi ro tín dụng dự tính
trong khoản từ 0 đến 1, nhưng nó khác với mô hình logit là ở chỗ giả thiết xác suất của
rủi ro có dạng phân bố chuẩn chứ không phân bổ theo hàm logit.
- Mô hình phân biệt tuyến tính:
Hạn chế các mô hình trên là đều dự tính mức xác suất rủi ro đối với một khoản tín
dụng được cấp. Mô hình này có tác dụng phân loại những người vay căn cứ vào mức độ
rủi ro có liên quan đến các chỉ tiêu (X1) phản ánh các đặc điểm tài chính và kinh doanh
của họ.


Ví dụ: Chúng ta sẽ xem xét mô hình phân biệt của E.I.Altman dành cho các công ty
sản xuất của Mỹ.
= 1.2 X1

1.4X2

3.3X3

0.6X4

1.0X5

Z: Chỉ số biến động đo lường toàn bộ mức độ rủi ro của người vay.
X1: Tỷ lệ vốn lưu động và tổng tài sản Có
X2: Tỷ lệ giữa lợi nhuận tích lũy và tổng tài sản Có

X3: Tỷ lệ lợi nhuận trước thuế và lãi suất trên tổng tài sản Có
X4: Tỷ lệ giữa giá thị trường của cổ phiếu và giá kế toán của các khoản nợ dài hạn
X1: Tỷ lệ giữa doanh thu và tổng tài sản Có
Giá trị của Z càng lớn thì mức độ rủi ro dự tính của người vay càng nhỏ. Giá trị của
Z càng nhỏ hoặc là âm có thể là căn cứ để xếp loại người vay vào nhóm có rủi ro cao.
Theo mô hình này thì bất kỳ khách hàng nào có điểm số Z nhỏ hơn 1,81 sẽ bị xếp
vào khu vực có rủi ro cao. Việc sử dụng mô hình này tương đối đơn giản, tuy nhiên nó
chứa đựng một số nhược điểm sau:
Thứ nhất, nó chỉ cho phép phân loại hai nhóm người vay có rủi ro và không có rủi
ro.
Thứ hai, không có lý do thuyết phục để chứng minh rằng các thông số phản ánh tầm
quan trọng của các chỉ số trong công thức Altman là bất biến, dù trong thời gian ngắn.
Thứ ba, mô hình đã không tính đến một số nhân tố khó định lượng nhưng có thể
đóng một vai trò quan trọng ảnh hưởng đến mức độ rủi ro của khoản vay, chẳng hạn như
danh tiếng của khách hàng. Mặt khác mô hình này cũng hiếm khi sử dụng các thông tin
thị trường như giá cả các tài sản tài chính, giá các khoản nợ hoặc giá cổ phiếu của công ty
khách hàng.
Tóm lại, bốn mô hình trên được sử dụng thích hợp nhất trong trường hợp đánh giá
tính an toàn của các khoản tín dụng cấp cho khách hàng lớn thuộc khu vực công ty.
Qua phân tích các mô hình định tính và một số mô hình định lượng, cho thấy mô
hình định tính được sử dụng thích hợp nhất đối với các ngân hàng thương mại ở Việt
Nam trong điều kiện hiện nay.


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI
2.1.

Khái quát tình hình kinh tế tỉnh Đồng Nai từ năm 2002-2004


2.1.1. Về tốc độ tăng trưởng GDP
Nền kinh tế Đồng Nai tiếp tục tăng trưởng nhanh trong ba năm gần đây. Trong đó mức
tăng GDP các năm như sau:
Năm 2002: GDP của Tỉnh tăng 12,2% so với năm trước. Cơ cấu kinh tế: công nghiệp xây dựng đạt 55,3%, dịch vụ 25,5% và nông lâm nghiệp 19,2%.
Năm 2003: GDP của Tỉnh tăng 13,2% so với năm trước. Cơ cấu kinh tế: công nghiệp xây dựng đạt 56,2%, dịch vụ 26,1% và nông lâm nghiệp 17,7%.
Năm 2004 tổng sản phẩm GDP tăng 13,56% so với năm 2003. GDP bình quân
đầu người theo giá thực tế đạt 11,15 triệu đồng, tăng 17,6% so với năm 2003.
Cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp tiếp tục chuyển dịch đúng hướng với
tỷ trọng GDP ngành công nghiệp - xây dựng đạt 57%; dịch vụ 27% và nông lâm nghiệp
16%.
2.1.2. Về sản xuất công nghiệp
Năm 2002: tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp - xây dựng đạt 16,4%.
Năm 2003: tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp - xây dựng đạt 18,9%.
Năm 2004: Do tập trung đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị, công nghệ, thực hiện các
chính sách ưu đãi đầu tư, tháo gỡ kịp thời khó khăn của doanh nghiệp, đưa thêm nhiều dự
án đi vào hoạt động, tăng thêm một số ngành sản xuất mới (khu vực ngoài quốc doanh),
nên kết quả sản xuất trên toàn địa bàn tỉnh tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng cao 18,8% vượt
mục tiêu nghị quyết. Có 22/23 ngành công nghiệp cấp II tăng so với cùng kỳ, trong đó có
9/22 ngành tăng trên 20%.
2.1.3. Về sản xuất nông nghiệp


Năm 2002: Tốc độ tăng trưởng của ngành nông lâm thủy sản tăng 3,9%
Năm 2003: Tốc độ tăng trưởng của ngành nông lâm thủy sản tăng 5,6%
Năm 2004: nhìn chung phát triển thuận lợi, ước tính giá trị sản xuất nông - lâm - thủy sản
tăng 5,06 vượt mục tiêu nghị quyết (mục tiêu nghị quyết tăng 3-4%); năng suất, sản
lượng thu hoạch hầu hết các loại cây trồng hàng năm và lâu năm đều đạt khá (tăng từ 1,118%). Chăn nuôi gia súc phát triển mạnh, đàn bò tăng 11,7%, đàn heo tăng 25,3%, sản
lượng nuôi trồng thủy sản (cá, tôm...) tăng 8,6%, sản lượng khai thác thủy sản tăng
14,3%; riêng chăn nuôi gia cầm tuy bị ảnh hưởng nặng dịch gia cầm, nhưng do tập trung
khắc phục nên đã phục hồi dần, hiện có trên 6,3 triệu còn bằng 71% so với cùng kỳ.

2.1.4. Về thu hút vốn đầu tư (trong nước và nước ngoài)
Năm 2002: Thu hút được 410 triệu USD vốn đầu tư nước ngoài
Năm 2004: Thu hút vốn đầu tư trong nước có chuyển biến tích cực: cấp đăng ký
kinh doanh 680 doanh nghiệp với tổng vốn trên 1.700 tỷ đồng tăng 36% về số doanh
nghiệp và tăng 61% về vốn đăng ký; trong đó có 12 doanh nghiệp có vốn đầu tư lớn (bình
quân khoảng 10 tỷ đồng/doanh nghiệp) và trên 94% vốn đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp,
xây dựng, thương mại. Ngoài ra có 181 doanh nghiệp đăng ký bổ sung 819 tỷ đồng vốn
kinh doanh. Như vậy năm 2004 tổng vốn đăng ký cấp mới và doanh nghiệp tăng vốn là
2.519 tỷ đồng, vượt mục tiêu nghị quyết. Tính đến nay, toàn tỉnh có 3.100 doanh nghiệp
dân doanh với tổng vốn đăng ký trên 5.890 tỷ đồng.
- Thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Năm 2004 thu hút 1,08 tỷ USD (vượt mục tiêu
nghị quyết), trong đó thu hút mới 95 dự án tăng 9% (chủ yếu là các dự án sản xuất công
nghiệp, phục vụ xuất khẩu) với số vốn 680 triệu USD tăng gấp 2,3 lần và tăng vốn 100
dự án với số vốn gần 400 triệu USD. Đến nay, trên địa bàn tỉnh có 583 dự án còn hiệu
lực, vốn đăng ký hơn 7 tỷ USD, có 310 dự án đã đi vào hoạt động, 120 dự án đang xây
dựng, vốn thực hiện trên 3,4 tỷ USD; tỷ lệ diện tích đất cho thuê chiếm 55,6% số diện
tích đất cho thuê tại 15 khu công nghiệp đã được thủ tướng chính phê duyệt. Ngoài ra đã
tập trung chỉ đạo phát triển nhanh các khu công nghiệp ở địa bàn miền núi.
2.1.5.

Về thương mại - dịch vụ
Năm 2002: tốc độ tăng trưởng của ngành thương mại - dịch vụ là 12%.
Năm 2003: tốc độ tăng trưởng của ngành thương mại - dịch vụ là 14,1%.


Năm 2004: Lưu thông hàng hóa trên thị trường nội địa ổn định, hàng hóa phong
phú, đa dạng, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nhân dân; tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng
19,2%; chỉ số giá tiêu dùng năm 2004 tăng 10%, trong đó chỉ số giá các mặt hàng xăng
dầu, hàng lương thực thực phẩm tăng cao đã ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống nhân
dân. Đã tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước

(Đài Loan, Nhật Bản, Singapore...) tạo tiền đề để thu hút đầu tư, tăng cường quản lý thị
trường, chống buôn lậu, gian lận thương mại; tổ chức nâng cấp, sắp xếp, khảo sát xây
dựng một số chợ; phát triển các loại hình dịch vụ người lao động tại các khu công nghiệp.
Hoạt động ngoại thương, tổng kim ngạch xuất khẩu ước thực hiện 2,45 tỷ USD, tăng
29,4% so với cùng kỳ, vượt mục tiêu nghị quyết, chủ yếu do tăng xuất khẩu các mặt hàng
càfê, hạt điều nhân, bắp hạt, đũa tre, giày dép (khu vực địa phương) và các mặt hàng công
nghiệp (khu vực đầu tư nước ngoài).
2.2.

Thực trạng hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng tại các NHTM trên địa

bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 2000 đến nay
2.2.1. Tổng quan về tình hình hoạt động kinh doanh
Cùng với những tín hiệu khởi sắc của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới,
hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đã
có những bước phát triển khả quan, đã thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu kế hoạch về tín
dụng, về huy động vốn, lợi nhuận, trích lập dự phòng rủi ro... Năm 2004 cũng là năm có
nhiều các ngân hàng ngoài quốc doanh mở thêm chi nhánh tại Đồng Nai như: ACB,
VIBANK, SACOMBANK, VINASIAM BANK...
Trong quá trình xây dựng và trưởng thành, hầu hết các NHTM trên địa bàn tỉnh đã
vượt qua được khó khăn, thử thách, nhanh chóng hội nhập với nền kinh tế thị trường, đã
khẳng định là kênh dẫn vốn quan trọng góp phần đáng kể cho sự phát triển kinh tế của
tỉnh nhà.
Về tình hình cung cấp các loại hình sản phẩm dịch vụ
Trong các năm gần đây cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đời sống vật
chất của người dân không ngừng được nâng cao. Bên cạnh đó đầu tư nước ngoài vào
Đồng Nai tăng mạnh (Đồng Nai đứng thứ 3 trong cả nước về thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài) nên các sản phẩm dịch vụ ngân hàng ngày càng được nâng cao. Hầu hết các



ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh đã đưa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại
như dịch vụ thanh toán thẻ, rút tiền tự động từ máy ATM, phát triển các dịch vụ trả
lương, thu ngân trực tiếp tại doanh nghiệp, chi trực tiếp tiền mặt tại các doanh nghiệp,
dịch vụ nhận và chi trả kiều hối, dịch vụ bảo lãnh, thanh toán chuyển tiền điện tử trong và
ngoài nước nhanh chóng và chính xác. Đặc biệt dịch vụ sử dụng thẻ ATM phát triển
mạnh: đa dạng hóa các loại thẻ ATM như ATM-Ccard, ATM-Gcard phù hợp với nhiều
đối tượng sử dụng thẻ, nhiều tiện ích mới khi sử dụng thẻ thanh toán. Phần lớn các ngân
hàng lớn trên địa bàn như Ngân hàng Công thương Đồng Nai, Ngân hàng Công thương
khu công nghiệp Biên Hòa, Ngân hàng ngoại thương, Ngân hàng nông nghiệp, ngân hàng
đầu tư phát triển và ngân hàng Á Châu... đều có các sản phẩm thẻ ATM của riêng mình.
Tuy nhiên các sản phẩm thẻ của các ngân hàng tính tiện ích chưa cao do còn hạn chế về
phạm vi sử dụng (thẻ của hệ thống nào chỉ sử dụng được trong hệ thống đó, ví dụ thẻ
ATM của ngân hàng công thương thì chỉ được sử dụng tại các máy ATM thuộc hệ thống
ngân hàng công thương mà thôi), số lượng máy ATM còn ít so với nhu cầu, trục trặc kỹ
thuật... tạo tâm lý e ngại cho người sử dụng thẻ.
Mặc dù các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong thời gian qua
đều chú trọng việc phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ nhằm tăng thu nhập từ các sản
phẩm dịch vụ, giảm thiểu rủi ro kinh doanh nhưng thu nhập từ dịch vụ vẫn chiếm tỷ trọng
nhỏ trong tổng thu nhập của các ngân hàng trên địa bàn. Thu nhập từ lãi cho vay vẫn luôn
chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng thu nhập ngân hàng. Đây là điểm hạn chế của các ngân
hàng thương mại nói chung và trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nói riêng, do hoạt động tín
dụng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Để phát triển nguồn thu từ dịch vụ ngân hàng trong thời
gian tới các NHTM phải tập trung phát triển thị trường thẻ ATM bởi Đồng Nai có số
lượng công nhân làm việc trong các khu công nghiệp rất lớn, nhu cầu chi trả lương qua
tài khoản thẻ ATM còn rất cao.


Biểu số 1: Thu nhập của các NHTM giai đoạn 2001-2004
Đơn vị tính: triệu đồng


Mục Chỉ tiêu
1

Tổng thu nhập
Tăng so với năm trước

2

Thu lãi cho vay

3

Thu dịch vụ

4

Tỷ lệ thu dịch vụ:
+ Trên tổng thu nhập

Nàm 2001

Nàm 2002

Nàm 2003

Nàm 2004

1.296.232

2.371.622


2.845.383

3.087.457

-

83%

20%

8,5%

1.256.978

2.329.159

2.796.788

2.957.711

40.254

42.463

48.595

129.746

3,10%


1,8%

1,7%

4,2%

5,5%

14,4%

167%

+ Tăng so với năm trước

5

Tổng chi phí kinh doanh

988.895

1.692.786

1.881.349

2.084.298

6

Lợi nhuận


307.337

678.836

964.034

1.003.159

Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của các NHTM trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
Qua số liệu trên cho thấy mặc dù thu nhập từ dịch vụ có xu hướng tăng dần về cả số
lượng và tỷ trọng song vẫn chiếm một tỷ lệ thấp trong tổng thu nhập của các ngân hàng.
Về tình hình phát triển công nghệ và hiện đại hóa ngân hàng
Từ năm 2003 hầu hết các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh triển khai nhiều
dự án ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng dịch vụ quản lý, phát triển các
sản phẩm dịch vụ mới. Hầu hết các ngân hàng thương mại trên địa bàn đã thực hiện nối
mạng online trong hệ thống riêng của mình và thực hiện các chương trình nối mạng với
ngân hàng nhà nước. Triển khai thành công mạng ATM quản lý, xử lý dữ liệu tập trung,
chương trình bảo mật thanh toán, triển khai hệ thống quản lý thông tin tín dụng trong hệ
thống; triển khai ứng dụng giao dịch theo mô hình ngân hàng hiện đại (giao dịch một
cửa) như:: chương trình ngân hàng bán lẻ RBS của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn; chương trình hiện đại hóa INCAS của NHCT Đồng Nai và NHCT Khu công
nghiệp Biên Hòa; mở rộng cung ứng các sản phẩm ngân hàng hiện đại, phát triển và mở
rộng các sản phẩm về thẻ tín dụng, thẻ thanh toán, thẻ tiền mặt. Đây là chương trình mới


đem lại nhiều tiện ích cho người sử dụng với các dịch vụ của ngân hàng trực tuyến... Đây
là chương trình được tích hợp với hệ thống ATM, quản lý tài khoản khách hàng, quản lý
mẫu dấu chữ ký, xử lý giao dịch tập trung...
2.2.2. Tình hình huy động vốn

Tổng nguồn vốn đến 30/06/2005 đạt 14.136 tỷ đồng, tăng 10,84% so với
31/12/2004 (mục tiêu cả năm tăng 24%). Trong đó nguồn vốn huy động tại chỗ đạt 9.045
tỷ đồng, tăng 12,89% so với cuối năm 2004, chiếm tỷ trọng 64% trong tổng nguồn vốn.
Tiền gửi dân cư đạt 4.811 tỷ đồng, tăng 21,12% so với cuối năm 2004; tiền gửi các tổ
chức kinh tế 4.234 tỷ đồng, tăng 4,8 % so với cuối năm 2004.
Biểu số 2: Tình hình huy động vốn giai đoạn 2000-2005
Đơn vị tính: tỷ đồng
Tổng nguồn vốn
Số tiền
Tỷ
trọng

Trong đó: Nguồn vốn huy động tại chỗ
Nàm
Tiền gửi TCKT
Tiền gửi dân cư
Tổng cộng
Số tiền
Tỷ
Số tiền
Tỷ
Số tiền Tỷ trọng
trọng
trọng
2000
4.397
100% 1.195 27,18%
1.414
32,16
2.609

59,34%
%
2001
6.501
100% 1.442 22,18%
1.806
27,78
3.248
49,96%
%
2002
8.519
100% 2.572 30,19%
2.540
29,82
5.112
60,01%
%
2003
10.429
100% 3.149 30,19%
3.680
35,29
6.829
65,48%
%
2004
12.444
100% 4.010 32,22%
4.177

33,57
8.187
65,79%
%
30/06/200
14.136
100% 4.234 29,95%
4.811
34,03
9.045
63,99%
5
%
Nguồn: Báo cáo của các NHNN Tỉnh Đồng Nai
Từ năm 2003 hầu hết các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh đều đẩy mạnh huy
động vốn tại chỗ, cải tiến và đơn giản thủ tục gửi và rút tiền, trả lãi linh hoạt, thực hiện
đồng bộ các loại hình dịch vụ như kiểm ngân, thu, chi hộ cho khách hàng. Áp dụng nhiều
hình thức khuyến mãi như: tiết kiệm dự thưởng, huy động trái phiếu dài hạn 2 năm, 3
năm, phát hành các loại kỳ phiếu kỳ hạn 6 tháng, 1 năm, mở rộng địa bàn hoạt động
xuống các vùng nông thôn, các khu công nghiệp tập trung... Do đó doanh số huy động
vốn tăng dần qua các năm, trong đó nguồn vốn huy động tại chỗ không ngừng tăng lên cả
doanh số và tỷ trọng. Nguồn vốn huy động tại chỗ từ khu vực kinh tế tư nhân và tiền gửi


của các tổ chức kinh tế cũng tăng đều qua các năm. Điều này chứng tỏ các ngân hàng
thương mại đã không ngừng nỗ lực nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế và
thực sự trở thành kênh dẫn vốn quan trọng trong nền kinh tế.
Tuy nhiên 6 tháng đầu năm 2005 chỉ số giá cả tăng nhanh, khiến lãi suất huy động
vốn không theo kịp tốc độ biến động của giá cả nên rất khó khăn trong việc huy động vốn
tiền gửi của dân cư do người dân có khuynh hướng sử dụng tiền nhàn rỗi sang đầu tư

sang các lĩnh vực khác có lợi hơn. Bên cạnh đó việc huy động công trái, trái phiếu của
chính phủ, tín phiếu kho bạc... đã phần nào thu hút một phần nguồn vốn huy động của
ngân hàng. Từ nguyên nhân trên 6 tháng đầu năm 2005 mặc dù tổng nguồn vốn huy động
tăng 10,84% so với cuối năm 2004 nhưng so với nhu cầu nguồn vốn đáp ứng cho vay nền
kinh tế đảm bảo bền vững thì chưa đạt, chỉ đáp ứng được 65,79% dư nợ cho vay nền kinh
tế trong tỉnh. Riêng chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh có
mạng lưới rộng khắp trong tỉnh nên nguồn vốn huy động đáp ứng 100% nguồn vốn cấp
tín dụng. Còn các ngân hàng khác trên địa bàn vẫn phải sử dụng nguồn vốn điều chuyển
từ hội sở chính ở các địa phương khác để bổ sung nguồn vốn cho vay trên địa bàn.
2.2.3. Tình hình cho vay và đầu tư tín dụng
Đồng Nai là tỉnh giàu tiềm năng của khu vực Đông Nam Bộ, nằm trong khu vực tứ
giác kinh tế Vũng Tàu - Đồng Nai - Thành phố Hồ Chí Minh - Bình Dương, nhưng để
khai thác có hiệu quả các tiềm năng đó cần phải có những động lực thúc đẩy cần thiết.
Một trong những động lực đó là khơi tăng nguồn vốn tín dụng ngân hàng để đáp ứng nhu
cầu đầu tư phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Nhận thức được điều này, thời gian qua các
NHTM trên địa bàn tỉnh đã có nhiều cố gắng thu hút vốn và đầu tư tín dụng vào các chủ
thể kinh tế trên địa bàn tỉnh. Hoạt động tín dụng không ngừng được mở rộng.
Về doanh số cho vay
Trong năm 2003 và 2004 cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của tỉnh Đồng
Nai, nhu cầu vốn đáp ứng cho nền kinh tế cũng không ngừng mở rộng. Bên cạnh đó,
Chính phủ và ngân hàng nhà nước cũng ban hành một số nghị định và cơ chế tín dụng
tháo gỡ cơ bản những vướng mắc về cơ chế cho vay trước đây, trong đó quan trọng nhất
là mở rộng tối đa quyền tự chủ của các tổ chức tín dụng tự quyết định trong việc đầu tư
đối với sự phát triển kinh tế. Nhận thức được thuận lợi do chính sách vĩ mô đem lại, hầu
hết các NHTM trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đã dần chuyển đổi cơ cấu đầu tư tín dụng theo
hướng tăng dần tỷ trọng cho vay khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, cho vay tiêu dùng. Đây là khu vực kinh tế có nhu cầu về vốn rất lớn, kinh


doanh năng động có hiệu quả, tạo ra nhiều việc làm cho xã hội, đem lại nguồn thu ngân

sách lớn cho nhà nước. Mở rộng đối tượng cho vay còn đồng nghĩa với việc phân tán rủi
ro tín dụng, giảm thiểu nguy cơ mất do tập trung vào khu vực kinh tế quốc doanh (hầu
hết các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả). Các ngân hàng đã chủ động tiếp
cận với các doanh nghiệp, hộ nông dân, phát hiện các nhu cầu đầu tư, các chương trình và
dự án sản xuất kinh doanh. Đã đưa vào kế hoạch đầu tư trung, dài hạn, liên hệ với các
ban ngành của tỉnh để kết hợp với nhau trong quá trình đẩy mạnh đầu tư. Các ngân hàng
đã chủ động mở rộng mạng lưới hoạt động, mở thêm các phòng giao dịch, chi nhánh cấp
I và cấp II, đặc biệt là thâm nhập vào các khu công nghiệp tập trung. Rút ngắn thời gian
thẩm định hồ sơ vay vốn, giải quyết cho vay nhanh chóng. Chủ động cùng các doanh
nghiệp xác định hạn mức vốn lưu động để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có điều
kiện vay vốn theo hạn mức phù hợp.
Từ các biện pháp trên hoạt động tín dụng không ngừng được mở rộng, doanh số cho
vay tăng đều qua các năm. Tổng doanh số cho vay năm 2004 đạt 20.380 tỷ đồng, tăng
31,49% so với năm 2003. Trong đó doanh số cho vay ngắn hạn là 16.859 tỷ đồng, tăng
29,69% và chiếm tỷ trọng 82,72% trong tổng doanh số cho vay nền kinh tế; doanh số cho
vay trung dài hạn đạt 3.521 tỷ đồng tăng 40,84% và chiếm tỷ trọng 17,28% trong tổng
doanh số cho vay.
Tổng doanh số cho vay 6 tháng đầu năm 2005 đạt 12.341 tỷ đồng (bằng 60,55%
doanh số cho vay cả năm 2004). Trong đó doanh số cho vay ngắn hạn là 10.291 tỷ đồng
(bằng 61,04% doanh số cho vay ngắn hạn cả năm 2004) và chiếm tỷ trọng 83,39% trong
tổng doanh số cho vay nền kinh tế; doanh số cho vay trung dài hạn đạt 2.050 tỷ đồng
(bằng 58% doanh số cho vay trung dài hạn cả năm 2004) và chiếm tỷ trọng 16,61% trong
tổng doanh số cho vay.
Biểu số 3: Tình hình doanh số cho vay giai đoạn 2000-2005
Đơn vị tính: tỷ đồng
Tổng doanh số cho vay
Nàm
2000
2001
2002

2003
2004

Ngắn hạn
Số tiền
Tỷ trọng
6.602
84,70%
6.897
84,70%
10.218
84,70%
12.999
83,87%
16.859
82,72%

Trung dài hạn
Số tiền
Tỷ trọng
701
15,30%
1.038
15,30%
1.846
15,30%
2.500
16,13%
3.521
17,28%


Tổng cộng
Số tiền
Tỷ trọng
7.303
100,00%
7.935
100,00%
12.064
100,00%
15.499
100,00%
20.380
100,00%


×