Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Phân loại nợ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại tỉnh sóc trăng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 114 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
---- K ---

LÝ NGUYỆT TRÂN

PHÂN TÍCH NỢ, TRÍCH LẬP DỰ PHÒNG
RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI TỈNH SÓC TRĂNG

Chuyên nghành:Kinh tế Tài chính – Ngân hàng
Mã số

: 60.31.12

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS.TRẦN HUY HOÀNG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2009


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ALLL

:Dự phòng cho các khoản tổn thất tín dụng và cho thuê tài chính

Agribank

: Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông Thôn

CBTD



:Cán bộ tín dụng

DPRRTD

:Dự phòng rủi ro tín dụng

Đvt

:Đơn vị tính

HĐQT

:Hội đồng tín dụng

HĐTD

:Hợp đồng tín dụng

HTXHTDNB :Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ
NHNN

:Ngân hàng Nhà Nước

NH

:Ngân hàng

NHTM


: Ngân hàng thương mại

NHCV

:Ngân hàng cho vay

MHB

:Ngân hàng Phát triển Nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long

SacomBank

:Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín

SGDCK

:Sở giao dịch chứng khoán

TCTD

:Tổ chức tín dụng

TTGDCK

:Trung tâm giao dịch chứng khoán

TSTC

:Tài sản thế chấp


VCB

:Ngân hàng Ngoại Thương

ii


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng từ 2006-2008
Bảng 2.2:Tình hình dư nợ tín dụng trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng từ 2006-2008
Bảng 2.3:Tình hình phân nhóm nợ theo QĐ 493 và QĐ 18 của các NHTM trên địa
bàn tỉnh Sóc Trăng
Bảng 2.4:Thử nghiệm áp dụng phân loại nợ theo phương pháp định tính tại Ngân
hàng MHB Sóc Trăng tại thời điểm 31/12/2008
Bảng 2.5:Trích lập dự phòng rủi ro tín dụng tại các NHTM trên địa bàn tỉnh Sóc
Trăng
Bảng 2.6:Sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng tại các NHTM trên địa bàn tỉnh Sóc
Trăng
Bảng 2.7:Phân loại nợ theo QĐ 488 và QĐ 493 tại Ngân hàng MHB Sóc Trăng
Bảng 2.8:Chi phí trích lập dự phòng tại các NHTM tỉnh Sóc Trăng

iii


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài:
Trong bất kỳ hoạt động nào, việc phòng tránh rủi ro luôn có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng nhằm tối đa hóa giá trị thu được và kỳ vọng tương lai. Tuy nhiên, rủi ro

là luôn tìm ẩn và trong nhiều trường hợp không thể tránh khỏi, đặc biệt đối với các
hoạt động tài chính tín dụng. Mà tại Việt Nam trong tổng thu nhập ngân hàng thì
thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng đến 84,5% (năm 2008). Kinh doanh
tín dụng là hoạt động tạo ra thu nhập chủ yếu của các ngân hàng trong khi đó môi
trường kinh doanh tín dụng còn nhiều rủi ro. Do đó rủi ro lớn nhất mà các Ngân
hàng thương mại Việt Nam đang gặp phải là rủi ro tín dụng. Vì vậy, phân loại theo
dõi để biết được tình hình sức khỏe của tổ chức tín dụng mình và xử lý rủi ro tín
dụng như thế nào cho kịp thời, có hiệu quả là điều mà mọi tổ chức tín dụng đặc biệt
quan tâm.
Hơn nữa trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, hệ thống tài chính nói chung và
hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam nói riêng không chỉ là huyết mạch của
nền kinh tế quốc dân mà còn mang trong mình vận hội vươn rộng ra khu vực, thế
giới và đang đứng trước những thách thức mới gắn liền với tiềm ẩn rủi ro cao hơn.
Đó cũng chính là yêu cầu đòi hỏi mỗi ngân hàng phải nâng cao năng lực tài chính,
nâng cao sức cạnh tranh, chuẩn hóa quy trình nghiệp vụ phù hợp với thông lệ quốc
tế … Một trong những chuẩn mực quan trọng trong hoạt động ngân hàng hiện nay
là đánh giá phân loại nợ căn cứ vào mức độ rủi ro, trên cơ sở đó đánh giá và phân
loại tổ chức tín dụng, cũng như áp dụng các chính sách dự phòng phù hợp. Chính vì
vậy, trong quý II/2005 Ngân hàng Nhà Nước đã ban hành quy định về phân loại nợ,
trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng
theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà Nước (sau đây gọi là Quyết định 493) và Quyết định số 18/2007/QĐNHNN ngày 25/04/2007 của Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước “Về việc sửa đổi, bổ
sung một số Điều của quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để


2

xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành theo
Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước” (sau đây gọi là Quyết định 18). Hai quyết định này là một bước tiến lớn

so với Quyết định 488/2000/QĐ-NHNN5 ngày 27/11/2000 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước ban hành trước đây, vì đã thể hiện rỏ hơn bản chất của việc phân
loại, trích lập dự phòng trong hoạt động tín dụng. Đã góp phần tác động trực tiếp
đến công tác quản lý, nâng cao chất lượng và giảm thiểu rủi ro, xử lý kịp thời
những tổn thất có thể xảy ra từ hoạt động kinh doanh ngân hàng. Đồng thời tiến dần
đến sự phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
Nếu phân loại nợ tốt thì chất lượng tín dụng, khả năng thanh khoản của ngân
hàng được nâng cao rõ rệt, quá trình này sẽ phản ánh chính xác thực trạng nợ xấu,
để có giải pháp quyết liệt, thích hợp, nhằm hoàn thiện cơ chế chính sách kinh doanh
tín dụng theo hướng an toàn và hiệu quả thay vì tự đánh lừa mình, dẫn đến mất khả
năng kiểm soát khi rủi ro xảy ra. Với lý do trên tác giả chọn nghiên cứu đề tài
“Phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thƣơng
mại tỉnh Sóc Trăng” để đóng góp một số giải pháp giúp hoàn thiện và nâng cao
hiệu quả của việc phân loại nợ, trích lập dự phòng trong hoạt động tín dụng nhằm
kiểm soát chất lượng hoạt động, lượng hoá mức độ rủi ro để có biện pháp xử lý
hiệu quả, hạn chế thấp nhất rủi ro tín dụng là vấn đề sống còn và phát triển của các
Ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và các Ngân hàng thương mại tại Sóc
Trăng nói riêng.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu nhằm đạt ba mục tiêu sau đây:
Thứ nhất: Làm sáng tỏ về mặt lý luận của tín dụng, tín dụng ngân hàng, sự
cần thiết phải phân loại nợ và trích lập dự phòng, kinh nghiệm về vấn đề này của
một số nước trên thế giới và bài học cho Ngân hàng thương mại Việt Nam.
Thứ hai: Phản ảnh và đánh giá thực trạng của việc phân loại nợ, trích lập dự
phòng và xử lý rủi ro tín dụng tại các NHTM tỉnh Sóc Trăng theo QĐ 493 và QĐ
18 và những vướng mắc yếu kém cần phải khải phục.


3


Thứ ba: Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng của việc phân loại nợ, trích lập
dự phòng và xử lý rủi ro tín dụng tại các NHTM tỉnh Sóc Trăng, từ đó đề ra một số
giải pháp nhằm hoàn thiện việc phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
nhằm nâng cao công tác quản trị rủi ro tín dụng tại các NHTM tỉnh Sóc Trăng và hệ
thống ngân hàng nói chung.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tập trung nghiên cứu các giải pháp
nhằm góp phần hoàn thiện phát triển chính sách phân loại nợ, trích lập dự phòng
để xử lý rủi ro tín dụng theo Quyết định 493 và Quyết định 18 của Thống Đốc
Ngân hàng Nhà Nước.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung vào các NHTM tỉnh Sóc Trăng
trừ Ngân hàng Chính Sách Xã Hội (vì Điều 1 Quyết định 493 qui định Ngân hàng
Chính Sách Xã Hội không phải thực hiện việc phân loại và trích lập dự phòng
này). Thời gian nghiên cứu là từ năm 2006 đến năm 2008.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu chủ yếu dựa vào dữ liệu thống kê các hoạt động của các
NHTM tỉnh Sóc Trăng về công tác phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để
xử lý rủi ro tín dụng. Đồng thời xem xét thực tiễn ứng dụng các Quyết định 493 và
Quyết định 18 trong công tác quản trị rủi ro tín dụng tại các NHTM tỉnh Sóc Trăng.
Từ đó thấy được một số vướng mắc và ảnh hưởng của Quyết định 493 và Quyết
định 18 nhằm tạo cơ sở cho việc xây dựng chính sách, đề xuất các giải pháp góp
phần hoàn thiện và phát triển việc phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro tín dụng.
Để phù hợp với nội dung, yêu cầu, mục đích của đề tài đề ra, phương pháp
được thực hiện trong quá trình nghiên cứu gồm phương pháp thống kê, phân tích,
tổng hợp, so sánh kết hợp với phương pháp duy vật biện chứng, phỏng vấn trao đổi
với các chuyên gia. Bên cạnh đó, đề tài cũng vận dụng kết quả nghiên cứu của các
công trình khoa học liên quan để làm phong phú và sâu sắc hơn các cơ sở khoa học
và thực tiễn của đề tài.



4

5. Những đóng góp mới của đề tài:
Qua nghiên cứu thực trạng của việc phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro
tín dụng tại các NHTM tỉnh Sóc Trăng, so sánh giữa hai phương pháp phân nhóm
nợ, luận văn đi sâu đề ra các giải pháp quản lý vi mô dưới góc độ hẹp của một địa
phương để giải quyết những vấn đề có liên quan đến việc nâng cao hiệu quả quản
trị rủi ro tín dụng. Đồng thời kết hợp với các phương pháp vĩ mô cần thiết nhằm
phối hợp phát huy tác dụng đồng bộ.
6. Kết cấu của luận văn:
Nội dung luận văn bao gồm:
Mở đầu
Chương 1: Những vấn đề chung về rủi ro tín dụng ngân hàng và phân
loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro tín dụng.
Chương 2: Thực trạng về phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro tín
dụng tại các Ngân hàng thương mại tỉnh Sóc Trăng.
Chương 3: Giải pháp phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
tại các Ngân hàng thương mại tỉnh Sóc Trăng
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục


5

CHƢƠNG 1:NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ RỦI RO TÍN DỤNG
NGÂN HÀNG VÀ PHÂN LOẠI NỢ, TRÍCH LẬP DỰ PHÒNG ĐỂ
XỬ LÝ RỦI RO TÍN DỤNG
1.1


Tín dụng ngân hàng và vai trò của nó trong nền kinh tế:
1.1.1 Khái niệm tín dụng và tín dụng ngân hàng:
1.1.1.1/ Khái niệm và bản chất của tín dụng:
Tín dụng là quan hệ vay mượn, quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa người đi

vay và người cho vay dựa trên nguyên tắc hoàn trả. Tín dụng là một phạm trù của
kinh tế hàng hóa, có quá trình ra đời tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của
kinh tế hàng hóa. Mặc dù tín dụng có một quá trình tồn tại và phát triển lâu dài qua
nhiều hình thái kinh tế xã hội, với nhiều hình thức khác nhau, song đều có các tính
chất quan trọng sau:
- Tín dụng chỉ là sự chuyển giao quyền sử dụng một số tiền (hiện kim) hoặc
tài sản (hiện vật) từ chủ thể này sang chủ thể khác, chứ không làm thay đổi
quyền sở hữu của chúng.
- Tín dụng bao giờ cũng có thời hạn và phải được “hoàn trả”.
- Giá trị của tín dụng không những được bảo tồn mà còn được nâng cao nhờ
lợi tức tín dụng.
Bản chất của tín dụng là hệ thống quan hệ kinh tế phát sinh giữa người đi
vay và người cho vay, nhờ quan hệ ấy mà vốn tiền tệ được vận động từ chủ thể này
sang chủ thể khác để sử dụng cho các nhu cầu khác nhau trong nền kinh tế.
1.1.1.2/ Khái niệm tín dụng ngân hàng:
Tín dụng Ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân
hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định.
Cũng như quan hệ tín dụng khác, tín dụng ngân hàng chứa đựng ba nội dung:
- Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho người
sử dụng.


6

- Sự chuyển nhượng này có thời hạn hay mang tính tạm thời.

- Sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí.
Trong các loại hình tín dụng, tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng chủ
yếu, chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong việc cung ứng và điều hòa vốn cho nền
kinh tế. Với vai trò là một tổ chức trung gian tài chính, ngân hàng nhận tiền gửi của
các doanh nghiệp và cá nhân dưới nhiều hình thức rồi chuyển nguồn vốn đó đến
các chủ thể khác đang có nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh. Đây là hình thức
tín dụng chuyên nghiệp, hoạt động hết sức đa dạng và phong phú.
1.1.2 Vai trò của tín dụng:
Tín dụng có vai trò hai mặt:
Về mặt tích cực, tín dụng có vai trò to lớn sau đây:
 Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển:
Tín dụng không chỉ là nguồn cung ứng vốn cho các tổ chức kinh tế, là một
trong những công cụ để tập trung vốn một cách hữu hiệu trong nền kinh tế mà còn
là công cụ thúc đẩy tích tụ vốn cho các tổ chức kinh tế. Tất cả đều hợp lực và tác
động lên đời sống kinh tế - xã hội khiến tín dụng tạo ra động lực phát triển rất mạnh
mẽ mà không có công cụ tài chính nào có thể thay thế được.
 Tín dụng góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá cả:
Tín dụng đã góp phần làm giảm khối lượng tiền lưu hành trong lưu thông,
đặc biệt là tiền mặt trong tay các tầng lớp dân cư, làm giảm áp lực lạm phát, nhờ
vậy góp phần làm ổn định tiền tệ. Mặt khác do cung ứng vốn tín dụng, tạo điều kiện
cho các tổ chức kinh tế cung ứng ngày càng nhiều sản phẩm hàng hóa dịch vụ, đáp
ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, nhờ đó tín dụng góp phần làm ổn định thị
trường giá cả trong nước.
 Tín dụng góp phần tạo công ăn việc làm, ổn định đời sống trật tự xã hội:
Tín dụng đã tạo ra khả năng khai thác các tiềm năng sẳn có trong xã hội về
tài nguyên thiên nhiên, về lao động, đất, rừng, … do đó có thể thu hút nhiều lực
lượng lao động của xã hội để tạo ra lực lượng sản xuất mới thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, ổn định đời sống và trật tự xã hội.



7

 Cuối cùng còn có thể nói tín dụng còn có vai trò quan trọng để mở rộng
và phát triển các mối kinh tế đối ngoại và mở rộng giao lưu quốc tế:
Sự phát triển của tín dụng không những ở trong phạm vi quốc nội mà còn
mở rộng ra cả phạm vi quốc tế, nhờ đó nó thúc đẩy mở rộng và phát triển các mối
quan hệ kinh tế đối ngoại, nhằm giúp đỡ và giải quyết các nhu cầu lẫn nhau trong
quá trình phát triển đi lên của mỗi nước, làm cho các nước có điều kiện xích lại gần
nhau hơn và cùng nhau phát triển.
Về mặt tiêu cực:
Trong hoạt động kinh doanh nói chung, hoạt động kinh doanh ngân hàng nói
riêng thì rủi ro là điều không thể tránh khỏi. Tín dụng sẽ phát huy được vai trò tích
cực của nó nếu được phân tích kỹ và đầu tư đúng hướng. Ngược lại, nếu cung cấp
tín dụng một cách tràn lan, thiếu định hướng sẽ dẫn đến những hiện tượng tiêu cực
trong tín dụng là không thu hồi được vốn cho vay, ngân hàng mất khả năng chi trả,
gia tăng lạm phát và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống kinh tế xã hội.
1.2

Rủi ro tín dụng Ngân hàng:
1.2.1 Khái niệm chung về rủi ro:
Mọi người đều phải thừa nhận rằng môi trường sống của chúng ta đầy rẫy

những rủi ro. Rủi ro có thể xuất hiện trong mọi ngành, mọi lĩnh vực. Rủi ro có thể
xuất hiện một cách bất ngờ ở mọi lúc, mọi nơi. Tùy theo cách tiếp cận, ta có những
cách định nghĩa khác nhau về rủi ro. Nhưng nhìn chung có thể chia làm hai quan
điểm:
- Theo quan điểm truyền thống: Rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy
hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn hoặc điều không chắc
chắn có thể xảy ra cho con người.
Xã hội loài người càng phát triển, hoạt động của con người cũng ngày càng

nhiều và đa dạng, xuất hiện những rủi ro mới, chưa từng có trong quá khứ.
- Theo quan điểm trung hòa: Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được. Rủi
ro vừa mang tính tích cực vừa mang tính tiêu cực: Rủi ro có thể mang đến cho con
người những tổn thất, mất mát, nguy hiểm, nhưng cũng có thể mang đến những cơ


8

hội, thời cơ. Nếu tích cực nghiên cứu, nhận dạng đo lường rủi ro, chúng ta có thể
tìm ra được những biện pháp phòng ngừa, hạn chế những tiêu cực và phát huy được
những cơ hội tích cực mang lại từ rủi ro.
1.2.2 Rủi ro tín dụng Ngân hàng:
Rủi ro tín dụng là “lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi cấp tín dụng cho một
khách hàng” hay nói cách khác “Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra do khách hàng
không thực hiện trả nợ theo các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng”
Đây là loại rủi ro lớn nhất và thường xuyên xảy ra trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Vì vậy, “việc đánh giá rủi ro là trách nhiệm của nghề ngân
hàng”. Rủi ro trong tín dụng xảy ra khi bên đi vay, trong một giao dịch, không thực
hiện được việc thanh toán tiền vay theo thời hạn và điều kiện trong hợp đồng làm
cho người cho vay phải gánh chịu tổn thất tài chính.
Vậy từ đây có thể đưa ra một khái niệm đầy đủ về rủi ro tín dụng: “Rủi ro tín
dụng là những thiệt hại, mất mát mà ngân hàng phải gánh chịu do người vay vốn
hay người sử dụng vốn của ngân hàng không trả đúng hạn, không thực hiện đúng
nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng tín dụng với bất kỳ lý do nào”
Rủi ro tín dụng có muôn hình muôn vẻ, với nhiều hình thái, màu sắc, cung
bậc khác nhau, chúng luôn tìm ẩn trong suốt quá trình trước, trong và sau khi cho
vay và biểu hiện ra bên ngoài là món vay không thu hồi được, nợ quá hạn, nợ khó
đòi, mất vốn …
1.2.3 Hậu quả của rủi ro tín dụng:
Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, rủi ro tín dụng sẽ gây thiệt hại

cho ngân hàng về lợi nhuận và tài sản, chẳng hạn như:
- Giảm lợi nhuận của ngân hàng: việc chậm trả lãi vay sẽ làm giảm thu nhập
của ngân hàng so với dự kiến lúc cho vay. Mặt khác, việc chậm trả kể cả vốn và lãi
làm chi phí quản lý của ngân hàng cho khoản vay này tăng lên vì kéo dài thời hạn.
- Không cân đối được nguồn vốn: nợ khó đòi làm động vốn của ngân hàng,
có thể gây khó khăn cho ngân hàng trong việc quản lý nguồn vốn và sử dụng vốn,
khả năng thanh toán bị giảm thấp sẽ dẫn đến thiệt hại tài sản của ngân hàng. Nếu


9

các khoản nợ khó đòi chiếm tỷ lệ lớn và kéo dài sẽ làm mất lòng tin của khách
hàng, làm giảm đi nguồn vốn huy động, thậm chí có thể đưa ngân hàng đến bờ vực
phá sản vì không còn khả năng thanh toán.
- Mất cơ hội ký kết hợp đồng mới: do không thu được nợ đúng kế hoạch làm
cho vốn của ngân hàng không được giải phóng theo dự định và như vậy ngân hàng
có thể bỏ qua cơ hội ký kết những hợp đồng tín dụng mới.
- Trong một số trường hợp khi khách hàng cố tình không trả nợ thì ngân
hàng phải khởi kiện ra Tòa và sẽ phải mất thêm phần chi phí cho khiếu kiện, xử án,
thi hành án, …
- Chi phí cho các khoản nợ khó đòi thường rất cao, song các khoản nợ này
lại không có khả năng trả lãi. Điều đó làm cho ngân hàng bị thua lỗ và thiệt hại về
tài sản.
1.3

Đánh giá rủi ro tín dụng:
Các chỉ số thường được sử dụng để đánh giá rủi ro tín dụng là :
1.3.1 Tỷ lệ nợ quá hạn:
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =


X 100%

(1.1)

Tổng dư nợ cho vay

Quy định hiện nay của NHNN cho phép dư nợ quá hạn của các NHTM
không được vượt quá 5%, nghĩa là trong 100 đồng vốn ngân hàng bỏ ra cho vay thì
nợ quá hạn tối đa chỉ được phép là 5 đồng.
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã
quá hạn. Một cách tiếp cận khác, nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn
trả đúng hạn, không được phép và không đủ điều kiện để được gia hạn nợ. Để đảm
bảo quản lý chặt chẽ, các khoản nợ quá hạn trong hệ thống NHTM Việt Nam được
phân loại theo thời gian và được phân chia theo thời hạn thành 03 nhóm:
- Nợ quá hạn dưới 90 ngày – Nợ cần chú ý.
- Nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày – Nợ dưới tiêu chuẩn.
- Nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày – Nợ nghi ngờ.


10

- Nợ quá hạn trên 361 ngày – Nợ có khả năng mất vốn.
Do việc phân loại chất lượng tín dụng được tính theo thời gian như vậy, nên
những khoản tín dụng ở Việt Nam tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Vì rằng có những khoản
nợ còn trong hạn nhưng khách hàng kinh doanh không hiệu quả, khả năng trả nợ
mong manh nhưng vẫn chưa được xếp vào loại nợ xấu để tiến hành những biện
pháp phòng ngừa.
1.3.2 Tỷ trọng nợ xấu / Tổng dƣ nợ cho vay:
Nợ xấu: là những khoản nợ quá hạn 90 ngày mà không đòi được và không

được tái cơ cấu.
Tại Việt Nam, nợ xấu bao gồm những khoản nợ quá hạn có hoặc không thể
thu hồi, nợ liên quan đến các vụ án chờ xử lý và những khoản nợ quá hạn không
được Chính Phủ xử lý rủi ro.
Nợ xấu (hay nợ có vấn đề, nợ không lành mạnh, nợ khó đòi, nợ không thể
đòi,…) là những khoản nợ mang các đặc trưng:
- Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các cam
kết này đã hết hạn.
- Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn đến có
khả năng ngân hàng không thu hồi được cả vốn lẫn lãi.
- Tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) được đánh giá là giá trị phát
mãi không đủ trang trãi nợ gốc và lãi.
- Thông thường về thời gian là các khoản nợ quá hạn ít nhất là 90 ngày.
Theo Quyết định 149/QĐ-TTg ngày 05/01/2001 thì nợ xấu có thể chia
thành 03 nhóm:
Nhóm 1: Nợ xấu có tài sản đảm bảo, gồm có: Nợ tồn đọng ngân hàng đã
thu giữ tài sản dưới hình thức gán, xiết nợ; Nợ tồn động ngân hàng chưa thu giữ tài
sản như nợ có tài sản liên quan đến vụ án chờ xét xử, nợ có tài sản đảm bảo đã quá
hạn trên 360 ngày.
Nhóm 2: Nợ xấu không có tài sản đảm bảo và không có đối tƣợng để
thu, gồm có: Nợ xóa thiên tai chưa có nguồn và còn hạch toán nội bảng; nợ khoanh


11

doanh nghiệp đã giải thể, phá sản; nợ khoanh doanh nghiệp thuộc các vụ án; nợ
khoanh do thiên tai của hộ sản xuất …
Nhóm 3 : Nợ xấu không có tài sản đảm bảo nhƣng con nợ vẫn còn tồn
tại, đang hoạt động, gồm có: Nợ khoanh doanh nghiệp khó thu hồi; nợ tín dụng
chính sách còn có khả năng thu hồi; nợ quá hạn trên 360 ngày.

Ngoài ra còn có nhóm nợ phát sinh sau ngày 31/12/2000, là những khoản nợ
không thu được nhưng không đủ điều kiện để khoanh, xóa.
Cũng từ cách phân loại nợ quá hạn theo thời gian như vậy nên phần lớn nợ
quá hạn ở nước ta đều là nợ xấu. Các khoản nợ xấu tồn tại hiện nay ở các NHTM
bao gồm:
+ Nợ quá hạn từ 90 ngày trở lên.
+ Nợ liên quan đến các vụ án, nợ đã khởi kiện nhưng chưa thể thu hồi chờ
xử lý, nợ có tài sản đảm bảo nhưng không hợp lệ.
+ Những khoản nợ quá hạn, nợ trả thay không còn đối tượng để thu.
Theo Quyết định 493 và Quyết định 18, nợ xấu của tổ chức tín dụng bao
gồm các nhóm nợ như sau:
● Nhóm nợ dƣới tiêu chuẩn (Nợ nhóm 3): Các khoản nợ được TCTD
đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này
được TCTD đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi. Bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều
chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2;
+ Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng
trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;
+ Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3.
● Nợ nghi ngờ (Nợ nhóm 4): Các khoản nợ được TCTD đánh giá là khả
năng tổn thất cao, bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;


12

+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;

+ Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4.
● Nợ có khả năng mất vốn (Nợ nhóm 5): Các khoản nợ được TCTD đánh
giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn, bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên
theo thời hạn trả nợ đã được cơ cấu lại lần đầu;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn
trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị
quá hạn hoặc đã quá hạn;
+ Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý;
+ Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5.
Theo quy định hiện nay, tỷ lệ này phải nằm trong khoản từ 3% đến 5%.
Như vậy, với QĐ 493 thì khái niệm về nợ xấu của Việt Nam đã gần sát với
chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, vẫn còn có sự khác biệt là các ngân hàng lớn trên
thế giới phân loại nợ xấu gắn liền với nguyên nhân xảy ra để xác định mức độ rủi
ro, trong khi các NHTM VN phân loại nợ xấu căn cứ vào thời hạn mà bỏ qua việc
đánh giá lại tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng vay
vốn.
1.3.3 Hệ số rủi ro tín dụng:
Tổng dư nợ cho vay
Hệ số rủi ro tín dụng =
Tổng tài sản có

X 100%

(1.2)

Hệ số này cho thấy tỷ trọng của khoản mục tín dụng trong tài sản có, khoản
mục tín dụng trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ lớn nhưng đồng thời rủi ro



13

tín dụng cũng rất cao. Thông thường, tổng dư nợ cho vay của ngân hàng được chia
thành 03 nhóm:
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng xấu: là những khoản
cho vay có mức độ rủi ro lớn nhưng có thể mang lại thu nhập cao cho ngân hàng.
Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng tốt: là những khoản cho
vay có mức độ rủi ro thấp nhưng có thể mang lại thu nhập không cao cho ngân
hàng. Đây là khoản tín dụng cũng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của
ngân hàng.
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng trung bình: là những
khoản cho vay có mức độ rủi ro có thể chấp nhận được và thu nhập mang lại cho
ngân hàng là vừa phải. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng áp đảo trong tổng dư
nợ cho vay của ngân hàng nên ta có công thức sau:
Tổng dư nợ của các khoản cho
vay có chất lượng trung bình
X 100%

Hệ số rủi ro tín dụng =

(1.3)

Tổng tài sản có
1.3.4

Tỷ lệ xoá nợ:
Các khoản xoá nợ ròng


Tỷ lệ xoá nợ =

X 100%

(1.4)

Tổng tài sản có
1.4

Biện pháp quản lý rủi ro tín dụng:
1.4.1 Nâng cao chất lƣợng công tác thẩm định và phân tích tín dụng:
- Rà soát, chỉnh sửa và hoàn thiện các quy trình nội bộ, ứng dụng công nghệ

thông tin phù hợp với các qui định của pháp luật có liên quan.
- Rà soát, lựa chọn cán bộ có đủ năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức để thực
hiện các hoạt động nghiệp vụ, có cơ chế uỷ quyền, quy định trách nhiệm đối với
cán bộ phụ trách và tác nghiệp, phù hợp với năng lực và kinh nghiệm kinh doanh
của các cán bộ đã được đào tạo, thử thách và cơ sở vật chất hiện có.


14

- Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán nội bộ và ứng dụng công
nghệ mới để kịp thời phát hiện, ngăn ngừa sai phạm, rủi ro.
1.4.2 Chú trọng công tác thu thập thông tin tín dụng:
- Thực hiện việc quản lý dữ liệu tập trung, đảm bảo có sẵn thông tin cho các
nhà quản trị khi ra quyết định cho vay.
- Triển khai việc xếp hạng tín dụng đối với khách hàng vay, nâng cấp, đảm bảo
chính xác và kịp thời hệ thống thông tin báo cáo và quản trị rủi ro.

- Tăng cường việc sử dụng các thông tin liên bộ, liên ngành góp phần hỗ trợ
trong việc đưa ra các quyết định tín dụng chính xác.
1.4.3 Thực hiện chính sách quản lý rủi ro tín dụng, mô hình giám sát rủi ro tín
dụng, phương pháp xác định và đo lường rủi ro tín dụng có hiệu quả, trong đó bao
gồm cách thức đánh giá về khả năng trả nợ của khách hàng, hợp đồng tín dụng, các
tài sản đảm bảo, khả năng thu hồi nợ và quản lý nợ của tổ chức tín dụng.
1.4.4 Thực hiện các quy định đảm bảo kiểm soát rủi ro và an toàn hoạt động tín
dụng.
- Xây dựng và thực hiện đồng bộ một hệ thống quy chế, quy trình nội bộ về
quản lý rủi ro, trong đó đặc biệt chú trọng xây dựng chính sách khách hàng vay
vốn, sổ tay tín dụng, quy định về đánh giá, xếp hạng khách hàng vay, đánh giá chất
lượng tín dụng và xử lý các khoản nợ xấu.
- Mở rộng tín dụng trung và dài hạn ở mức thích hợp, đảm bảo cân đối thời hạn
cho vay đối với thời hạn của nguồn vốn huy động.
- Thực hiện đúng quy định về giới hạn cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính,
chiết khấu, … đối với một khách hàng và các tỷ lệ an toàn hoạt động kinh doanh.
1.4.5 Đối với các trường hợp chây ỳ trả nợ vay, cần áp dụng các biện pháp kiên
quyết, đúng pháp luật để thu hồi nợ vay, kể cả việc xử lý TSTC, cầm cố và bảo
lãnh, khởi kiện lên cơ quan tòa án.
1.4.6 Bảo hiểm tiền vay, nghĩa là ngân hàng chuyển toàn bộ rủi ro cho cơ quan
bảo hiểm chuyên nghiệp.


15

1.4.7 Trích lập dự phòng rủi ro theo quy định của NHNN: chấp hành tốt các
quy định của NHNN về tỷ lệ an toàn trong hoạt động của TCTD theo Quyết định số
457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005, quy định về phân loại nợ và trích lập dự
phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động Ngân hàng của các TCTD theo Quyết định số
493 và Quyết định 18 của Thống Đốc NHNN ban hành và các qui định liên quan về

đảm bảo tiền vay.
1.5

Sự cần thiết phải phân loại và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng:
Trong xu thế cạnh tranh hội nhập hiện nay cam kết quốc tế các NHTM

nhanh chóng hoàn thành theo lộ trình đã đề ra. Các NHTM phải thực hiện hệ thống
quản trị ngân hàng theo tiêu chuẩn quốc tế mà kỷ thuật phân loại nợ và trích lập dự
phòng rủi ro được xem là một trong những biện pháp hiệu quả quản trị rủi ro tín
dụng được áp dụng hầu hết các nước trên thế giới. Tuy nhiên do mới bắt đầu triển
khai trong những năm gần đây kể từ khi có QĐ 493, sau đó là QĐ 18 ban hành
nhằm sửa đổi một số điều của QĐ 493, sau sửa đổi vẫn tiếp tục còn nhiều khó khăn
vướng mắc khác trong cách phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro tín dụng tại các
NHTM Việt Nam nói chung và trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng nói riêng. Vì vậy, rất
cần những giải pháp đưa ra nhằm hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả của việc
phân loại nợ, trích lập dự phòng trong hoạt động tín dụng.
Ngoài ra, trích lập dự phòng rủi ro tín dụng là một trong những biện pháp để
quản lý rủi ro tín dụng. Đây là một biện pháp thực hiện sau khi đã quyết định cấp
tín dụng cho khách hàng. Sau đó tiến hành giám sát khoản tín dụng đã cấp để có cơ
sở phân loại vào nhóm rủi ro tương ứng với tỷ lệ trích lập tương ứng với nhóm rủi
ro. Việc giám sát tín dụng là một quá trình thu thập, xử lý những thông tin tài chính
cũng như phi tài chính của khách hàng và đưa ra các giải pháp. Theo tinh thần
Quyết định 493, việc giám sát tín dụng thực sự trở nên hết sức cấp thiết, đặc biệt nó
sẽ là cơ sở để ngân hàng thực hiện việc xếp hạng rủi ro với khách hàng. Từ đó,
ngân hàng có thể xây dựng những biện pháp phòng ngừa hạn chế cũng như trích lập
và sử dụng hiệu quả quỹ dự phòng rủi ro tín dụng.


16


Chính vì vậy, hàng năm các NHTM được phép và cần phải trích lập quỹ bù
đắp rủi ro hạch toán vào chi phí hoạt động kinh doanh. Qui mô quỹ bù đắp rủi ro
căn cứ vào mức độ và khả năng rủi ro. Nếu rủi ro thấp thì hiệu quả kinh tế sẽ tăng
và ngược lại hay nói khác đi thì hiệu quả kinh doanh của NHTM tỷ lệ nghịch với
mức độ rủi ro của doanh nghiệp. Cho nên, để đo lường mức độ rủi ro đó biết được
sức khoẻ của TCTD mình đang ở mức nào thì rất cần thiết phải có những giải pháp
tốt nhất nhằm quản trị được rủi ro có thể xảy ra và hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro
tín dụng là vấn đề sống còn của các cấp lãnh đạo, quản lý điều hành.
Sau đây là một số yếu tố dẫn đến việc phải phân loại và trích lập dự
phòng rủi ro tín dụng:
1.5.1 Tác động của Luật Ngân hàng Nhà Nƣớc:
Theo luật Ngân hàng Nhà Nước 1997, thì NHNN có quyền kiểm soát hoạt
động tín dụng tại các NHTM. Với yêu cầu kiểm soát nên NHNN đã ban hành các
văn bản pháp luật nhằm thực thi vấn đề quản lý nào đó. Quyết định 493 được ban
hành nhằm nâng cao công tác quản trị rủi ro tín dụng tại các NHTM cũng là một
yêu cầu cấp bách nhằm chấn chỉnh hoạt động tín dụng và trong sạch tình hình tài
chính, giúp các Ngân hàng chủ động hơn trong việc xử lý nợ tồn động nâng cao sức
cạnh tranh và năng lực tài chính. Vì vậy, dưới tác động của Luật NHNN Quyết định
493 ra đời là phù hợp với tình hình thực tế.
1.5.2 Tác động của Luật các TCTD:
Điều 82 Luật các TCTD qui định: TCTD phải dự phòng rủi ro trong hoạt
động ngân hàng và được hạch toán vào chi phí hoạt động. Việc phân loại tài sản
“có”, mức trích, phương pháp lập khoản dự phòng và sử dụng khoản dự phòng để
xử lý các rủi ro trong hoạt động ngân hàng do Thống Đốc NHNN qui định sau khi
thống nhất với Bộ trưởng Bộ Tài Chính.
Vậy khi thành lập và đi vào hoạt động TCTD phải tuân thủ các nguyên tắc
do luật đưa ra, có nghĩa là trong hoạt động cần phải có các khoản dự phòng để xử lý
rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Với rủi ro tín dụng là một dạng xuất hiện thường
xuyên và phải trích lập dự phòng là điều cần thiết.



17

1.5.3 Yếu tố chủ quan: để xử lý nợ tồn đọng, có nhiều biện pháp để xử lý nợ
tồn đọng như khoanh nợ, xóa nợ, phát mãi tài sản … nhưng giải pháp trích lập dự
phòng và sử dụng nó để xử lý các khoản nợ xấu, tồn đọng là tiết kiệm thời gian và
hiệu quả nhanh. Đây là cách xử lý mang tính chất lâu dài và ổn định nhất được cụ
thể hóa bằng qui định.
1.5.4 Yếu tố khách quan: phù hợp với thông lệ quốc tế
Phân loại nợ và hạch toán nợ theo tiêu chuẩn quốc tế để minh bạch tình hình
tài chính phải quán triệt đúng tiêu chí và cấu trúc phân loại nợ. Đối với các nước
phát triển họ cho rằng bản chất của tín dụng luôn có rủi ro, do vậy ngay khi phát
sinh cho vay hay cam kết bão lãnh thì lập tức họ tiến hành trích lập ngay dự phòng,
khoản này có thể được lập khi các khoản nợ có dấu hiệu suy giảm hay chưa suy
giảm. Việc trích lập đã được các nước áp dụng từ lâu, là một trong các chỉ tiêu đánh
giá mức độ an toàn và hiệu quả hoạt động ngân hàng qui định trong hệ thống Basel
II. Mặc dù các tiêu chuẩn này khó được áp dụng trong điều kiện của các NHTM
Việt Nam, tạo ra thách thức to lớn và không thể giải quyết trong ngắn hạn nhưng là
tiền đề để các NHTM Việt Nam nghiên cứu và triển khai thực hiện trong dài hạn.
1.6

Quy định trích lập dự phòng rủi ro theo chuẩn mực kế toán Quốc tế
(IAS 39):
Sau đây là phương pháp trích lập dự phòng rủi ro theo các chuẩn mực kế

toán quốc tế, để so sánh với cách làm của các TCTD Việt Nam và lý do tại sao các
TCTD Việt Nam chưa áp dụng giống như các chuẩn mực của IAS 39.
1.6.1 Phƣơng pháp chiết khấu luồng tiền:
1.6.1.1 Khái niệm chiết khấu luồng tiền:
Chiết khấu luồng tiền là một phương pháp sử dụng để phân tích luồng tiền

thu được trong tương lai và đưa các luồng tiền đó về giá trị hiện tại theo một tỷ lệ
chiết khấu nhất định. Để đánh giá mức độ tổn thất của một khoản cho vay, người ta
sẽ so sánh giá trị hiện tại của các dòng tiền sẽ thu hồi được trong tương lai liên
quan đến khoản vay và phần chênh lệch này với giá trị đầu tư ban đầu của dự án
chênh lệch dương sẽ là cơ sở xác định cơ hội đầu tư.


18

Cơ sở lý luận của phương pháp: phương pháp chiết khấu luồng tiền được
xây dựng trên cơ sở tính thời gian của tiền tệ, 1 đồng tiền hôm nay sẽ có giá trị lớn
hơn 1 đồng tiền của ngày mai.
1.6.1.2 Công thức chiết khấu luồng tiền:
CF1
PV =

CF2

Trong đó:

(1.5)

+…+

+
(1+r)1

CFn

(1+r)2


(1+r)n

CFn: luồng tiền ước tính thu được trong năm thứ n
r : tỷ lệ chiết khấu

1.6.1.3 Tỷ lệ chiết khấu:
Tỷ lệ chiết khấu là lãi suất bình quân gia quyền của các hợp đồng tín dụng
còn dư nợ tại thời điểm hiện tại.
1.6.1.4 Ứng dụng trong trích lập dự phòng rủi ro tín dụng:
Phương pháp chiết khấu luồng tiền được sử dụng để xác định giá trị hiện tại
của các luồng tiền ước tính thu được trong tương lai của Ngân hàng từ các
khoản cho vay đối với một khách hàng (luồng tiền bao gồm cả gốc, lãi và
giá trị ước tính có thể thu hồi từ tài sản bảo đảm), với lãi suất chiết khấu
chính là lãi suất thực tế của các hợp đồng tín dụng.
Giá trị hiện tại của luồng tiền ước tính này sẽ được so sánh với tổng dư nợ
vay tại thời điểm đánh giá để xác định mức tổn thất ước tính. Chênh lệch âm
giữa giá trị hiện tại với tổng dư nợ vay tại thời điểm đánh giá chính là tổn
thất ước tính của khoản vay và là mức dự phòng cần phải trích lập cho các
khoản cho vay đối với khách hàng đó.
Việc chiết khấu luồng tiền được thực hiện riêng cho từng loại hợp đồng
(ngắn hạn hoặc trung/dài hạn) và từng loại tiền tệ (VNĐ hoặc ngoại tệ), do
đó luồng tiền sẽ được phân loại về 4 nhóm sau:
- Vay ngắn hạn bằng VNĐ


19

- Vay ngắn hạn bằng ngoại tệ
- Vay trung dài hạn bằng VNĐ

- Vay trung dài hạn bằng ngoại tệ
Lý do để thực hiện chiết khấu riêng cho các luồng tiền trên vì với mỗi nhóm có
thể có các mức lãi suất khác nhau và/hoặc nguồn trả nợ khác nhau.
1.6.2 Trích lập dự phòng theo phƣơng pháp chiết khấu luồng tiền áp
dụng lãi suất chiết khấu là lãi suất thực tế của các hợp đồng tín
dụng hay giấy nhận nợ:
Dự phòng rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc tế: chỉ bao gồm dự phòng cụ thể
được xác định đối với các khoản nợ thuộc đối tượng cần phải được trích lập dự
phòng, căn vứ vào dấu hiệu rủi ro do Ngân hàng đánh giá. Dự phòng cụ thể bao
gồm dự phòng xét riêng cho từng khoản nợ và dự phòng cụ thể khi đánh giá theo
nhóm các khoản nợ có cùng đặc điểm rủi ro tín dụng.
Các khách hàng được phân loại vào nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) không phải là
đối tượng được trích lập dự phòng cụ thể nhưng sẽ được tiếp tục xem xét khả
năng giảm giá trị khi đánh giá theo nhóm.
Các khách hàng được phân loại vào nhóm 2, 3, 4 và 5 sẽ phải lập dự phòng cụ
thể. Dự phòng cụ thể sẽ được xác định là phần chênh lệch giữa giá trị ghi sổ và
giá trị hiện tại của các dòng tiền ước tính thu được trong tương lai áp dụng
phương pháp chiết khấu dòng tiền sử dụng lãi suất thực tế của các hợp đồng tín
dụng. Dòng tiền ước tính thu hồi từ tài sản bảo đảm cũng được xem xét khi xác
định dòng tiền để chiết khấu. Các khách hàng được phân loại vào nhóm 2 đến
nhóm 5 sẽ không phải tiếp tục xem xét khả năng giảm giá trị theo nhóm.
Cách xác định dự phòng:
Luồng tiền ước tính thu hồi từ gốc và lãi vay:
Luồng tiền ước tính ở đây sẽ được xác định dựa trên lịch trả nợ và theo ước tính
của CBTD đối với từng khoản vay của từng khách hàng căn cứ vào tình hình kinh
doanh, lưu chuyển tiền tệ, thiện chí trả nợ của khách hàng ... Việc xác định luồng


20


tiền trả nợ của khách hàng do đó đòi hỏi sự hiểu biết sâu sắc của CBTD đối với
hoạt động kinh doanh của khách hàng.
Dự phòng rủi ro được xác định bằng phương pháp chiết khấu luồng tiền như
sau:
Mức trích lập dự phòng cần thiết lúc này sẽ được xác định bằng:
Dự phòng cần
=

trích lập

Giá trị hiện tại của
=khoản vay (PV)

Tổng dư nợ của khách hàng
-

tại thời điểm đánh giá

(1.6)

* Đơn cử một số lý do tại sao các TCTD Việt Nam chƣa áp dụng giống nhƣ các
chuẩn mực của IAS 39:
 Số DPRRTD được ghi nhận theo tiêu chuẩn kế toán Việt Nam (VAS) thường
nhỏ hơn số DPRRTD theo IAS 39. Điều này làm cho việc trích lập dự phòng
ít => ít ảnh hưởng đến thu nhập của các TCTD.
 Việc xác định số DPRRTD theo IAS39 tại các NHTM VN hiện nay có những
hạn chế nhất định do tình trạng thông tin bất cân xứng, hệ thống chấm điểm
tín dụng nội bộ chưa hoàn thiện và chương trình phần mềm tin học của các
ngân hàng chưa đáp ứng được việc tính toán luồng tiền chiết khấu theo lãi
suất thực tế của từng khế ước nhận nợ, từng HĐTD.

 Những thông tin sẵn có của một số NHTMVN không đáp ứng đầy đủ những
yêu cầu về trình bày báo cáo tài chính theo chuẩn mực báo cáo tài chính
quốc tế nên không cung cấp được đầy đủ các thông tin cần thiết cho người
sử dụng báo cáo tài chính theo chuẩn mực quốc tế …
1.7 Kinh nghiệm trích lập dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng tại một số nƣớc
và bài học cho Ngân hàng thƣơng mại Việt Nam:
1.7.1 Kinh nghiệm trích lập dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng tại một số
nƣớc:
1.7.1.1 Tại nước Anh:
Phương pháp trích lập dự phòng thực hiện theo qui định của Hiệp hội Ngân
hàng Anh như sau:


21

- Số tiền của một khoản dự phòng cụ thể phải là ước tính của ngân hàng về số
tiền cần thiết để cắt giảm giá trị khoản vay tại thời điểm khởi tạo (giá trị ban đầu)
trừ đi bất cứ số dự phòng nào đã được trích lập xuống còn giá trị ròng dự tính cuối
cùng mà có thể thu hồi được.
- Không có một nguyên nhân cụ thể nào dẫn đến việc trích lập dự phòng – nó
thường là một sự kiện vỡ nợ nhưng các khoản dự phòng phải được xác lập bất cứ
khi nào có thông tin về sự giảm sút chất lượng các khoản vay.
- Các khoản dự phòng chung phải được trích lập cho những khoản vay đã giảm
sút về chất lượng nhưng vẫn chưa được xác định một cách cụ thể. Việc đánh giá
cho dự phòng chung là mang tính “chủ quan một cách tất yếu” nhưng phải tính đến
kinh nghiệm quá khứ và các điều kiện kinh tế hiện tại.
Mặc dù trong thực tế, một số ngân hàng đã xây dựng các chính sách trích lập
dự phòng với nhiều yếu tố hướng về tương lai nhằm bù đắp một lượng tổn thất nào
đó trong suốt thời hạn của một khoản tín dụng, các khoản dự phòng chung chỉ
chiếm một phần khá nhỏ trong tổng dự phòng. Điều này một phần là vì các khoản

dự phòng chung là khoản được giảm trừ thuế và Hiệp ước vốn của Basel (1998) đã
giới hạn số dự phòng chung được đưa vào trong vốn dự trữ bắt buộc tối thiểu ở
mức 1,25% tổng tài sản có rủi ro.
1.7.1.2 Tại nước Pháp:
Các chuẩn mực quản trị rủi ro luôn đo lường rủi ro tín dụng thông qua bản chất
của tín dụng, theo đó tín dụng luôn có rủi ro dù khoản cho vay có suy giảm hay
chưa suy giảm về khả năng thanh toán. Vì vậy, các hướng dẫn đều đưa ra phương
pháp trích lập ngay từ khi khoản cho vay được bắt đầu. Đây là khoản dự phòng tích
cực được trích lập cho khoản dư nợ tín dụng cho mỗi thời kỳ kế toán phù hợp với
mức tổn thất dự tính dài hạn. Tỷ lệ trích lập nâng dần với thời gian vay và khả năng
suy giảm khoản nợ, ban đầu khởi tạo mức trích lập tối thiểu là 5% của hiệu số
khoản nợ và tài sản đảm bảo.


22

1.7.1.3 Tại nước Mỹ:
Cũng giống như của Anh, các khoản dự phòng chỉ dành cho các khoản tổn thất
tín dụng đã xảy ra. Theo các chuẩn mực kế toán được chấp thuận rộng rãi của Mỹ
(GAAP), “không được công nhận các khoản tổn thất trước khi cho rằng chúng có
thể xảy ra, kể cả khi dựa vào kinh nghiệm quá khứ để có thể cho rằng các khoản
tổn thất sẽ phát sinh trong tương lai”.
Các ngân hàng Mỹ trích lập và duy trì đầy đủ “dự phòng cho các khoản tổn thất
tín dụng và cho thuê tài chính” (ALLL) để bù đắp các khoản tổn thất tín dụng dự
tính hiện có, mặc dù người ta thừa nhận rằng việc quyết định mức ALLL này được
căn cứ nhiều vào sự đánh giá chủ quan của các ngân hàng. Để đảm bảo tính hợp lý
của ALLL, các nhà thanh tra ngân hàng nhìn vào hệ thống quản lý và phương pháp
đo lường rủi ro tín dụng của các ngân hàng và thực hiện các phân tích định lượng
đối với ALLL như một phần của sự đánh giá toàn diện danh mục cho vay và các
yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ của danh mục đó. Khi các nhà thanh tra

kết luận rằng mức ALLL của một ngân hàng thấp hơn so với mức thích hợp, ngân
hàng này phải trích lập thêm dự phòng.
1.7.2 Bài học cho Ngân hàng thƣơng mại Việt Nam:
Các tiêu chí phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro mà các nước đang áp
dụng khá rỏ ràng, vấn đề còn lại của một NHTM Việt Nam là phải theo thông lệ
quốc tế và ứng dụng việc trích lập vào thực tiễn. Điều này đòi hỏi các NHTM Việt
Nam phải vận dụng đúng tinh thần Quyết định 493 và Quyết định 18, đồng thời
cũng phải học hỏi cách thức và tiêu chí trong đánh giá chất lượng nợ và có những
ứng xử khác nhau về xử lý nợ. Trong vận dụng cần sáng tạo hơn, minh bạch hơn
khi đánh giá vấn đề nợ suy giảm hoặc nợ có dấu hiệu nghi ngờ. Lựa chọn thời điểm
thích hợp để trích lập ngay cả khi nợ chưa suy giảm cũng là một cách làm cần học
hỏi.
Tuy nhiên, kinh nghiệm ở các nước trên đây nằm ở những khu vực có thị
trường tài chính vững mạnh, không nên áp dụng cứng nhắc vào tình hình Việt Nam
vì có thể làm sai biệt cấu trúc nợ, tỷ lệ an toàn trong hoạt động theo các quy định


×