Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Chế định che giấu tội phạm trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1015.54 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HỒ THỊ THÙY DUNG

CHÕ §ÞNH CHE GIÊU TéI PH¹M
TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HỒ THỊ THÙY DUNG

CHÕ §ÞNH CHE GIÊU TéI PH¹M
TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN NGỌC CHÍ

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi. Các kết quả trong luận văn chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong khóa luận tốt nghiệp đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật- Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Hồ Thị Thùy Dung


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHE GIẤU TỘI PHẠM
TRONG LUẬT HÌNH SƢ̣........................................................................... 8
1.1.

Khái niệm, đặc điểm của chế định che giấu tội phạm trong
luật hình sự Việt Nam ........................................................................ 8


1.1.1. Khái niệm về che giấu tội phạm và chế định che giấu tội phạm ......... 8
1.1.2. Ý nghĩa của chế định che giấu tội phạm ............................................ 17
1.2.

Phân biệt che giấu tội phạm với một số tội phạm có những
dấu hiệu tƣơng đồng ........................................................................ 18

1.3.

Chế đinh
̣ che giấ u tô ̣i phạm trong pháp luật một số nƣớc ........... 22

Chƣơng 2: QUY ĐINH
CỦ A BỘ LUẬT HÌNH SƢ̣ VỀ CHẾ ĐINH
̣
̣
CHE GIẤU TỘI PHẠM VÀ THƢ̣C TIỄN ÁP DỤNG Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY.........................................................................................28
2.1.

Khái quát lịch sử quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về chế định che giấu tội phạm ......................................................... 28

2.1.1. Giai đoạn từ thời kì nhà Lê đến trước cách mạng tháng 8 năm 1945 ......... 28
2.1.2. Giai đoạn từ sau năm 1945 đến trước khi Bộ luật hình sự năm
1985 được ban hành ........................................................................... 31
2.1.3. Giai đoạn từ sau Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước Bộ luật
hình sự năm 1999 ............................................................................... 35



2.1.4. Giai đoạn sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999...................... 37
2.2.

Quy đinh
̣ của bô ̣ luâ ̣t hin
̣ che giấ u tô ̣i pha ̣m
̀ h sƣ̣ về chế đinh
ở Phần chung .................................................................................... 38

2.3.

Quy đinh
̣ c ủa bộ luật hình sự về tội che giấu tội phạm ở
Phầ n các tô ̣i pha ̣m ............................................................................ 41

2.3.1. Khách thể của tội phạm ...................................................................... 44
2.3.2. Mặt khách quan của tội phạm ............................................................ 45
2.3.3. Chủ thể của tội phạm .......................................................................... 51
2.3.4. Mặt chủ quan của tội phạm ................................................................ 52
2.4.

Thƣ̣c tiễn áp du ̣ng chế đinh
̣ che giấ u tô ̣i pha ̣m ở Viêṭ Nam
hiêṇ nay ............................................................................................. 53

2.4.1. Kế t quả đa ̣t đươ ̣c ................................................................................ 53
2.4.2. Những ha ̣n chế , tồ n ta ̣i và nguyên nhân ............................................. 62
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CHẾ ĐINH
CHE GIẤU TỘI

̣
PHẠM TRONG LUẬT HÌNH SƢ̣ VIỆT NAM ............................ 68
3.1.

Những nội dung sửa đổi, bổ sung của Bộ luật hình sự năm
2015 về chế định che giấu tội phạm ................................................ 68

3.2.

Các đề xuất hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về chế
định che giấu tội phạm ..................................................................... 78

3.3.

Giải pháp nâng cao h iêụ quả áp du ̣ng chế đinh
̣ che giấ u tô ̣i
phạm trong giai đoạn hiện nay ....................................................... 81

3.3.1. Nâng cao hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra ............................ 81
3.3.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động truy tố của Viện kiểm sát ................... 84
3.3.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án ............................... 87
KẾT LUẬN .................................................................................................... 90
DANH MỤC TÀ I LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 92


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT

Ký hiệu


Nguyên nghĩa

1

BLHS

Bộ luật hình sự

2

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

3

CTTP

Cấu thành tội phạm

4

ĐKTT

Đăng kí thường trú

5

PLHS


Pháp luật hình sự

6

TNHS

Trách nhiện hình sự

7

TAND

Tòa án nhân dân

8

VAHS

Vụ án hình sự

9

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC BẢNG BIỂU


Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1. Số liệu khởi tố vụ án và số bị can trên địa bàn cả nước
giai đoạn năm 2011 - 2015

54

Bảng 2.2. Số liệu điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về tội che
giấu tội phạm trên địa bàn cả nước trong giai đoạn
2011 – 2015

55

Bảng 2.3. Số liệu tương quan giữa số vụ khởi tố về tội che giấu
tội phạm với các tội phạm xâm phạm hoạt động tư
pháp nói chung

56

Bảng 2.4. Số liệu tương quan giữa số vụ và bị can khởi tố về tội
che giấu tội phạm với số vụ án và bị can khởi tố trên
địa bàn cả nước

56



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm không chỉ là hoạt động
mang tính bắt buộc của Nhà nước mà đòi hỏi sự tham gia tích cực, chủ động
và rộng rãi của đông đảo quần chúng nhân dân. Trong đó, việc tích cực phát
hiện, tố giác tội phạm của người dân chính là điều kiện cho việc xử lý tội
phạm được nhanh chóng, chính xác góp phần bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nhà nước cũng như người dân.
Trên thực tế, trong những năm qua, bên cạnh một bộ phận người dân
thực hiện tốt nghĩa vụ tố giác tội phạm với cơ quan có thẩm quyền góp phần
đảm bảo an ninh, trật tự xã hội còn có một bộ phận không nhỏ do không am
hiểu pháp luật hoặc có hiểu biết nhưng vì tình cảm nên đã cố tình che giấu
hoặc không tố giác tội phạm, dẫn đến hậu quả khó lường.
Điều này dẫn đến việc hoạt động phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm của
các cơ quan tư pháp rất khó khăn, làm giảm hiệu lực và hiệu quả của công
cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm.
Theo quy định của Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam quy định các quyền và nghĩa vụ của công dân, của các cơ quan và tổ
chức. Đồng thời trong những văn bản pháp luật như: Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 đã tại Điều 25 đã ghi nhận trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân
trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm: 1. Các tổ chức, công dân có quyền và
nghĩa vụ phát hiện, tố giác hành vi phạm tội; tham gia đấu tranh phòng ngừa
và chống tội phạm, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, tổ chức.
Thể hiện cụ thể quy định trong Hiến pháp về nghĩa vụ của công dân
cũng như trong BLTTHS về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong đấu tranh

1



phòng chống tội phạm, Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy đinh
̣ về che giấ u tô ̣i
phạm ở cả Phần chung và Phần các tội phạm . Ở phần chung BLHS năm 1999
quy đinh
̣ ta ̣i Điề u 21 với quy định máng tính định hướng chung làm cơ sở để
quy định về tội che giấu tội phạm được quy định tại Điều 313 BLHS năm
1999. Quy định về chế định che giấu tội phạm trong BLHS năm 1999 đã tạo
hành lang pháp lý rõ ràng và vững chắc để các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền có thể đấu tranh đối với các hành vi che giấu tội phạm xảy ra. Trên
thực tế trong những năm vừa qua, các cơ quan tiến hành tố tụng đã phát hiện,
khởi tố, xử lý hàng trăm vụ án về che giấu tội phạm, từ đó hỗ trợ điều tra, xử
lý đối với các tội phạm nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng được che giấu.
Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng BLHS về che giấu tội phạm cũng đã
bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định như: về mă ̣t lý luâ ̣n, còn nhiều vướng
mắ c khi nghiên cứu về chế đinh
̣ che giấ u tô ̣i pha ̣m . Như nhâ ̣n thức thế nào là
che giấ u tô ̣i pha ̣m , phân biê ̣t che giấ u tô ̣i pha ̣m và không tố giác tô ̣i pha ̣m
phân biê ̣t che giấ u tô ̣i pha ̣m và trường hơ ̣p giúp sức trong đồ ng pha ̣m

,

, viê ̣c

phân hóa trách nhiê ̣m hình sự của những người che giấ u trong tô ̣i che giấ u tô ̣i
phạm và đồng phạm....
Bên ca ̣nh đó , hành vi che giấu tội phạm đã và đang diễn ra, gây cản trở
không nhỏ đến hoạt động phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử các loại tội phạm
của các cơ quan tiến hành tố tụng đã trở thành mối quan tâm , lo ngại của toàn
xã hô ̣i. Chế đinh
̣ che giấ u tô ̣i pha ̣m thể hiê ̣n sự đấ u tranh đố i với hành vi xâm

phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan tiến hành tố tụng gây khó khăn cho
công tác phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử nhằm xử lý người phạm tội và tội
phạm, dẫn tới sai lệch, không đáp ứng được đúng các thời hạn tố tụng theo
quy định của pháp luật, ảnh hưởng đến việc giữ chuẩn mực cán cân công lý,
làm mất uy tín của Đảng và Nhà nước ta, mà còn có ảnh hưởng xấu, xâm
phạm đến trật tự, an toàn xã hội.

2


Thực tiễn xét xử, điều tra, truy tố, xét xử trong những năm qua cho
thấy, một số không ít những cá nhân trong xã hội không những không làm
tròn nghĩa vụ của công dân, thực hiện đấu tranh phòng, chống tội phạm, mà
trái lại có hành vi che giấu, chứa chấp, nuôi dưỡng, cung cấp các điều kiện vật
chất cho người phạm tội để họ trốn tránh khỏi sự phát hiện của các cơ quan
chức năng. Thậm chí, một số người là cán bộ, công chức trong cơ quan nhà
nước, cơ quan tư pháp đã có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để
cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội, dùng quyền hành khống
chế người phát hiện tội phạm, không chịu cung cấp tài liệu có liên quan đến
vụ án hình sự, gây khó khăn cho hoạt động xử lý người phạm tội.
Từ những lý do trên, học viên quyết định chọn đề tài “Chế định che
giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ khi BLHS năm 1999 có hiệu lực, tội che giấu tội phạm cũng đã
được một số tài liệu, bài viết tạp chí đề cập đến và cũng đã được các nhà
nghiên cứu chọn làm đề tài luận văn, luận án.
- Chế định che giấu tội phạm đã được đề cập đến trong một số giáo
trình của các cơ sở đào tạo luật và sách chuyên khảo:
+ “Giáo trình luật hình sự Việt Nam”, tập I, II của Trường Đại học

Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2013;
+“Giáo trình Luật hình sự Việt Nam(phần các tội phạm)” của Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009;
+“Bình luận khoa học Bộ luật hình sự” của Viện Khoa học pháp lý, Bộ
Tư pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001;
+“Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (phần các tội phạm)” của
TS. Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, luật sư ThS. Phạm Thanh Bình,

3


TS. Nguyễn Đức Mai, ThS. Nguyễn Sĩ Đại, ThS. Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội, 2012...
- Bên cạnh đó, chế định này còn được nghiên cứu trong một số đề tài
khoa học cấp Bộ, bài viết đăng trên tạp chí:
+ "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn phục vụ xây dựng Bộ luật hình sự,
sửa đổi”, mã số 95-98-107/ĐT của Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp,
nghiệm thu năm 1998;
+ "Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp", của tác giả ThS. Phạm
Thanh Bình và TS. Nguyễn Vạn Nguyên, nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1997;
+ Luận án phó tiến sĩ luật học của tác giả Nguyễn Tất Viễn đề cập đến
nhóm "Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp" trong Bộ luật hình sự;
+ “Một số bất hợp lý trong các quy định về tội che giấu tội phạm và tội
không tố giác tội phạm" của tác giả Thái Văn Đoàn, Tạp chí Tòa án nhân dân,
tháng 10-2005.
Như vậy, có thể thấy, các công trình nghiên cứu nói trên chỉ tìm hiểu
một phần khía cạnh về chế định che giấu tội phạm, khi đặt nó trong mối quan
hệ với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp nói chung. Hiện nay chưa có một
công trình nghiên cứu mang tính toàn diện, cơ bản, và sâu sắc về chế định che

giấu tội phạm. Chính vì vậy, việc học viên lựa chọn đề tài trên càng cho thấy
ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu một số vấn đề lý luận về chế điṇ h
che giấu tội phạm như khái niệm , đặc điểm, lịch sử hình thành và phát triển
của chế định ; nghiên cứu, phân tích thực tiễn áp dụng BLHS Việt Nam qua
công tác áp du ̣ng chế đinh
̣ này trên thực tế . Qua đó, xác định những ưu điểm,

4


tồn tại, thiếu sót và nguyên nhân của những quy phạm pháp luật hình sự về
chế đinh
̣ che giấu tội phạm trong BLHS năm 1999 từ đó, đề xuất một số giải
pháp góp phần hoàn thiện, tăng khả năng áp dụng trên thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích nghiên cứu trên, đề tài có những nhiệm vụ nghiên cứu
cụ thể như sau:
- Tiếp tục làm sáng tỏ lý luận về che giấu tội phạm, như: khái niệm, đặc
điểm của hành vi che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam;
- Nghiên cứu khái quát sự hình thành và phát triển của quy định chế
đinh
̣ che giấu tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam trong các thời kỳ
lịch sử khác nhau
- Nghiên cứu quy định về che giấu tội phạm trong BLHS của một số
quốc gia trên thế giới.
- Nghiên cứu quy định của BLHS hiện hành về che giấu tội phạm thể
hiện cả ở Phần chung và Phần các tội phạm.

- Phân tích, đánh giá thực trạng áp du ̣ng chế đinh
̣ che giấu tội phạm để
tìm ra một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản.
- Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện quy định của BLHS Việt Nam về chế
đinh
̣ che giấu tội phạm, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng quy định của BLHS Việt Nam về chế đinh
̣ che giấu tội phạm.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu lý luận, phân tích cụ
thể các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về chế định che giấu tội phạm
với thực tiễn thi hành , luâ ̣n văn đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao tính
hiệu quả của việc thực hiện các quy định này trong thời gian tới, cũng như đề
xuất hướng hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam trong thời gian tới.

5


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận về chế định che giấu tội
phạm, thể hiện trong các quy định của pháp luật ở Việt Nam trong các thời kỳ
lịch sử khác nhau.
Về thực tiễn đề tài nghiên cứu trên áp dụng chế định che giấu tội phạm
trên địa bàn cả nước và thời gian nghiên cứu từ năm 2011 – 2015.
5. Phƣơng pháp nghiên cƣ́u
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê
Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về cải cách tư pháp và đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng
như các luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu khoa học, sách

báo pháp lý hình sự.
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học
luật hình sự như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê xã hội
học, điều tra… để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng
các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn này.
6. Nhƣ̃ng điể m mới và đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa nhất
định đối với việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội che giấu tội
phạm ở nước ta. Thông qua kết quả nghiên cứu và các kiến nghị, tác giả mong
muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào việc phát triển lý luận về định tội
danh giúp việc điều tra, truy tố, xét xử các loại tội phạm nói chung và tội che
giấu tội phạm nói riêng được chính xác; tránh truy tố, xét xử oan và tránh bỏ
lọt người phạm tội; giúp cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng có
hiệu quả. Ngoài ra, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật
hình sự nói riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại cơ quan Công
an, Viện kiểm sát, Tòa án.

6


7. Kế t cấ u của đề tài
Ngoài phần mở đầu , kế t luâ ̣n và danh mu ̣c tài liê ̣u tham khảo , luâ ̣n văn
đươ ̣c kế t cấ u thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về che giấu tội phạm trong luật hình sự.
Chương 2: Quy định của bộ luật hình sự về chế định che giấu tội phạm
và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp
dụng chế định che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam.


7


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHE GIẤU TỘI PHẠM
TRONG LUẬT HÌNH SƢ̣
1.1. Khái niệm, đặc điểm của chế định che giấu tội phạm trong luật
hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm về che giấu tội phạm và chế định che giấu tội phạm
1.1.1.1. Che giấu tội phạm
Trong khoa học pháp lý hình sự hiện nay, chưa có khái niệm thống nhất
cụ thể về che giấu tội phạm. Tuy nhiên, qua nghiên cứu có thể thấy rằng, che
giấu tội phạm và tội che giấu tội phạm đã được quy định từ rất lâu trong lịch
sử lập pháp của Việt Nam, với tính chất như chế định mang tính chất không
thể thiếu của pháp luật hình sự.
Theo định nghĩa của từ điển Tiếng Việt thì “che giấu” là một động từ
có nghĩa là hành động không để ai biết, không để lộ điều gì đó cho ai biết. Từ
đó, có thể hiểu một cách đơn giản che giấu tội phạm là không để ai biết được,
hay không để lộ cho ai đó biết về một tội phạm mà người khác đã được thực
hiện mà mình biết. Hành vi che giấu tội phạm được coi là hành vi nguy hiểm
cho xã hội có liên quan đến một tội phạm khác. Tuy người có hành vi che
giấu không trực tiếp gây ra tội phạm đó nhưng người này đã cố ý che đậy,
giấu giếm để hành vi phạm tội và người gây ra tội phạm đó không bị người
khác phát hiện và bị xử lý trước pháp luật. Hành vi che giấu này là gây nguy
hiểm cho xã hội bởi lẽ nó cản trở tới việc pháp hiện kịp thời và xử lý hành vi
nguy hiểm cho xã hội, nhằm đảm bảo sự công minh, khách quan và công
bằng của xã hội, gây cản trở rất nhiều cho việc điều tra khám phá vụ án của
các cơ quan có thẩm quyền.
Người che giấu tội phạm có thể dùng nhiều thủ đoạn và hình thức khác


8


nhau. Tuy không hứa hẹn trước là sẽ che giấu hành vi phạm tội và người
phạm tội, nhưng khi biết được hành vi phạm tội được thực hiện, đã che giấu
người phạm tội, các dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản
trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội, thời điểm là biết sau khi tội
phạm được thực hiện.
Hành vi của người che giấu tội phạm được thực hiện dưới hình thức cố
ý trực tiếp. Bởi lẽ, người đó đã biết rõ về hành vi phạm tội cũng như người
phạm tội nhưng vẫn cố ý giúp người đó che giấu tội phạm đã được thực hiện.
Người có hành vi che giấu hoàn toàn nhận thức được hành vi của mình, biết
hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội tuy nhiên người đó vẫn lựa chọn và
hành động là che giấu cho tội phạm hoặc người phạm tội [17, tr.239].
Mục đích cuối cùng của người che giấu tội phạm là gây cản trở rất
nhiều cho việc điều tra khám phá vụ án của các cơ quan có thẩm quyền làm
cho tội phạm không được phát hiện kịp thời và xử lý hành vi nguy hiểm cho
xã hội, nhằm đảm bảo sự công minh, khách quan và công bằng của xã hội.
Hành vi che giấu tội phạm là một hành vi nguy hiểm gây cản trở tới hoạt
động tư pháp làm cho người phạm tội không bị phát hiện và xử lý kịp thời.
Do nhiều động cơ khác nhau trong từng trường hợp cụ thể thúc đẩy dẫn đến
hành vi che giấu tội phạm ở một người. Có thể do có quan hệ gắn bó về tình
cảm (quan hệ cha me với con cai, ông bà với cháu,…), do chuộc lợi,… mà
người này thực hiện hành vi che giấu cho hành động phạm tội của người
khác. Chính vì vậy theo quan điểm của các nhà lập pháp thì không phải tất
cả các trường hợp này đều bị coi là che giấu tội phạm mà chi có người nào
thực hiện các hành vi che giấu tội phạm được PLHS quy định mới là người
che giấu tội phạm.
Từ những phân tích trên đây ta có thể đưa ra cách hiểu khái quát nhất
về hành vi che giấu tội phạm, như sau:


9


Che giấu tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội của người tuy
không không tham gia vào việc thực hiện tội phạm, nhưng sau khi biết tội
phạm được thực hiện, đã cố ý che giấu người phạm tội, các dấu vết, tang vật
của tội phạm hoặc có hành vi khác nhằm cản trở việc phát hiện, điểu tra xử lý
người phạm tội.
Từ khái niệm trên, chúng ta có thể rút ra những đặc điểm của che giấu
tội phạm như sau:
Thứ nhất, hành vi che giấu tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội có
liên quan tới tội phạm khác. Hành vi che giấu này phải được thực hiện sau khi
tội phạm đã được thực hiện xong. Tức là người phạm tội (tội phạm cần che
giấu) đã thực hiện xong các hành vi để dẫn đến hậu quả của tội phạm [17,
tr.239]. Lúc này mới xuất hiện hành vi của một người khi thực hiện các hành
vi che giấu người phạm tội, xóa dấu vết, tang vật và các hành vi khác cản trở
hoạt động điều tra. Nếu như hành vi phạm tội đang xảy ra, chưa kết thúc mà
người có hành vi che giấu biết được tội phạm đang được thực hiện đã thống
nhất ý chí với người đó để hứa hẹn che giấu tội phạm cho người đó thì sẽ trở
thành người đồng phạm đối với người phạm tội. Điều này phân biệt được che
giấu tội phạm với người thực hiện hành vi giúp sức trong đồng phạm (Sự
phân biệt giữa hai nội dung này nằm ở phần tiếp theo của Luận văn).
Thứ hai, người thực hiện hành vi che giấu tội phạm phải thực hiện các
hành vi trên thực tế là che giấu người phạm tội như: chở đi trốn, đào hầm
cho trốn, cất giấu người phạm tội; hành vi xóa dấu vết, tang vật vụ án như:
giặt quần áo, xóa vết máu, lau rửa xe, cấn giấu xe máy, dao là công cụ,
phương tiện phạm tội, hoặc có hành vi cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý
người phạm tội thì mới phạm tội này. Còn nếu như biết được tội phạm đã
được thực hiện, nhưng không thực hiện hành vi tố giác với cơ quan có thẩm

quyền làm cho quá trình phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm được nhanh

10


chóng, thuận lợi thì chỉ phạm tội không tố giác tội phạm. Hay nói cách khác,
che giấu tội phạm phải là hành động phạm phạm, mang tính chủ động của
người phạm tội. Điều này góp phần phân biệt và làm rõ giữa che giấu tội
phạm và không tố giác tội phạm [17, tr.239].
Thứ ba, hành vi che giấu tội phạm phải được thực hiện một cách cố ý
nhằm che giấu người phạm tội, xóa dấu vết, tang vật gây cản trở hoạt động
điều tra, hoặc phát hiện xử lý tội phạm đối. Như vậy, một người có các hành
vi che giấu đối với những vi phạm pháp luật chưa đến mức độ quy định trong
BLHS là tội phạm như: vi phạm hành chính, vi phạm kỷ luật, vi phạm dân sự
thì không thuộc nội dung của chế định che giấu tội phạm. Điều này cho thấy
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn của hành vi che giấu tội
phạm. Bởi lẽ, chế định che giấu tội phạm được quy định với mục đích bảo vệ
sự đúng đắn trong hoạt động tư pháp (thể hiện ở việc phát hiện, điều tra và xử
lý tội phạm). Đồng thời một trong những trách nhiệm và nghĩa vụ của công
dân đó là việc phải tích cực hỗ trợ, hợp tác với cơ quan nhà nước trong việc
xử lý tội phạm. Đây vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của người dân, bởi vì nếu
tích cực hợp tác với Nhà nước trong phát hiện xử lý tội phạm thì công dân
mới sống trong một môi trường an toàn, lành mạnh mà mọi hành vi phạm tội
đều bị xử lý nghiêm minh. Còn ở những mức độ khác như hành vi che giấu
các vi phạm pháp luật hành chính, kỷ luật thì mới chỉ dừng lại ở khía cạnh
nhỏ chưa nghiêm trọng chưa đủ để xử lý hình sự đối với người che giấu.
Thứ tư, không phải hành vi che giấu tội phạm nào cũng đều coi là tội
phạm. Hành vi che giấu tội phạm chỉ bị xử lý trách nhiệm hình sự nếu che
giấu một số loại tội phạm được quy định trong các trường hợp cụ thể của
PLHS mà không áp dụng đối với tất cả các trường hợp có hành vi che giấu tội

phạm. Điều này cho thấy, tùy thuộc vào mức độ, tính chất nguy hiểm cho xã
hội, nghiêm trọng hay ít nghiêm trọng của loại tội phạm được che giấu mà

11


người có hành vi che giấu mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây là cơ sở
để xác định một người có bị coi là tội phạm – khi thực hiện hành vi che giấu
tội phạm hay không. Cơ sở về kinh nghiệm lập pháp của các quốc gia trên thế
giới đều cho thấy, việc che giấu tội phạm chỉ nên truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với một số loại tội phạm có tính chất, mức độ nguy hiểm nhất định.
Điều này vừa tạo ra sự nghiêm minh của pháp luật nhưng cũng đồng thời thể
hiện việc không truy cứu trách nhiệm hình sự một cách tràn lan mà cần phải
phân hóa các trường hợp khác nhau.
1.1.1.2. Chế định che giấu tội phạm
Nếu như khái niệm “che giấu tội phạm” dùng chỉ hành vi của một
người sau khi biết tội phạm được thực hiện mà đã che giấu người phạm tội,
các dấu vết, tang vật hoặc gây cản trở cho việc phát hiện, điều tra, xử lý người
phạm tội (như đã phân tích ở phần trên) thì “chế định che giấu tội phạm” là
khái niệm pháp lý để chỉ hệ thống các quy phạm pháp lý điều chỉnh vấn đề
che giấu tội phạm trong phạm vi pháp luật hình sự của một quốc gia.
Chế định pháp luật hay định chế pháp luật hoặc chế định là tập hợp một
nhóm quy phạm pháp luật có đặc điểm giống nhau để điều chỉnh nhóm quan hệ
xã hội tương ứng trong phạm vi một ngành luật hoặc nhiều ngành luật. Chế
định có thể được hiểu theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp. Nghĩa chung và rộng là
các yếu tố cấu thành cơ cấu pháp lý của thực tại xã hội, nghĩa hẹp là tổng thể
các quy phạm, quy tắc của một vấn đề pháp lý. Trong các giáo trình Lý luận
chung về nhà nước và pháp luật của các cơ sở đào luật ở Việt Nam cũng đưa
ra định nghĩa về chế định pháp luật: “Chế định pháp luật là nhóm những qui
phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm các quan hệ xã hội cùng loại có liên hệ

mật thiết với nhau” [55, tr.335] hoặc “Chế định pháp luật bao gồm một số quy
phạm có những đặc điểm chung giống nhau, nhằm điều chỉnh một nhóm quan
hệ xã hội tương ứng” [32, tr.99]… Trên cơ sở cách tiếp cận này thì chế định

12


che giấu tội phạm được hiểu là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh
hành vi che giấu tội phạm,bao gồm các quy phạm về khái niệm, cấu thành tội
phạm và chế tài của hành vi che giấu tội phạm. Những quy định này được
pháp luật hình sự quy định rất rõ ràng và cụ thể trong các điều luật tương ứng.
Chế định che giấu tội phạm trong luật hình sự là một vấn đề quan trọng
trong việc phát hiện kịp thời và xử lý hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhằm
đảm bảo sự công minh, khách quan và công bằng của xã hội. Trong lịch sử
lập pháp hình sự vấn đề che giấu tội phạm luôn được các nhà luật gia nghiên
cứu và đặc biệt quan tâm. Thực tiễn cho thấy, trong quá trình giải quyết các
vụ án hình sự có rất nhiều trường hợp cố tình che giấu người phạm tội và
hành vi phạm tội… gây cản trở rất nhiều cho việc điều tra khám phá vụ án của
các cơ quan có thẩm quyền. Chính vì vậy việc ghi nhận chế định này trong
luật hình sự Việt Nam là rất cần thiết nhằm mục đích răn đe người có hành vi
che giấu tội phạm cũng như nâng cao được hiệu quả công tác phòng ngừa tội
phạm. Vậy chúng ta có thể hiểu chế định che giấu tội phạm là gì?
Chế định che giấu tội phạm là một tập hợp các quy định của pháp luật.
Cũng giống như các chế định khác của pháp luật chế định che giấu tội phạm
là tập hợp hay nhóm những qui phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội
cùng loại có liên hệ mật thiết với nhau về hành vi che giấu tội phạm hay có
thể hiểu rằng chế định che giấu tội phạm bao gồm một số quy phạm có những
đặc điểm chung giống nhau, nhằm điều chỉnh các hành vi về che giấu tội
phạm. Trong thực tế, có rất nhiều hành vi che giấu tội phạm khác nhau: hành
vi che giấu tội phạm trong đồng phạm, hành vi che giấu trong trường hợp

không phạm tội, tuy nhiên không phải hành vi che giấu tội phạm nào cũng cấu
thành tội che giấu tội phạm.
Thứ nhất, hành vi che giấu tội phạm trong trường hợp là đồng phạm.
Hành vi che giấu tội phạm trong đồng phạm được cho là hành vi của người

13


giúp sức. Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật
chất cho việc thực hiện tội phạm. Hay nói cách khác, người giúp sức có thể
giúp sức về vật chất hoặc là giúp sức về tinh thần.Trong thực tế, giúp sức về
vật chất có thể là cung cấp công cụ, phương tiện hoặc khắc phục những trở
ngại… để tạo điều kiện cho người thực hành thực hiện tội phạm được dễ
dàng, thuận lợi hơn. Giúp sức về tinh thần có thể là những hành vi cung cấp
những gì tuy không có tính vật chất nhưng cũng tạo cho người thực hành điều
kiện thuận lợi hơn trong việc thực hiện tội phạm như chỉ dẫn, góp ý kiến,
cung cấp tình hình [17, tr.228]… Thông thường, hành vi giúp sức được thực
hiện dưới dạng hành động nhưng cũng có thể có trường hợp dưới dạng không
hành động. Đó có thể là trường hợp của những người có nghĩa vụ pháp lý
phải hành động nhưng đã cố ý không hành động và qua đó đã loại trừ trở ngại
khách quan ngăn cản việc thực hiện tội phạm của người trực tiếp thực hiện tội
phạm, tạo điều kiện cho người đó có thể thực hiện hoặc tiếp tục thực hiện tội
phạm được đến cùng. Dạng giúp sức đặc biệt đã được thực tiễn xét xử từ
trước đến nay thừa nhận và coi là dạng giúp sức tinh thần là giúp sức bằng lời
hứa hẹn trước sẽ che giấu cho người phạm tội, che giấu các tang vật chứng
hoặc sẽ tiêu thụ các vật do phạm tội mà có sau khi tội phạm đã thực hiện
xong. Lời hứa hẹn trước của người giúp sức tuy không tạo ra những điều kiện
thuận lợi cụ thể nhưng cũng có những tác động tích cực vào quá trình thực
hiện tội phạm. Sự tác động này thể hiện ở chỗ đã củng cố ý định phạm tội,
củng cố quyết tâm phạm tội hoặc quyết tâm phạm tội đến cùng của người trực

tiếp thực hiện tội phạm. Hành vi thực hiện tội phạm có thể xảy ra hay không
xảy ra, có thể tiếp tục xảy ra hay dừng lại đều có thể phụ thuộc vào lời hứa
hẹn của người giúp sức. Chính do có sự tác động tinh thần như vậy mà luật
hình sự đã coi hành vi hứa hẹn cũng là giúp sức tinh thần. Lời hứa hẹn của
người giúp sức có thể xảy ra ra trước khi quá trình thực hiện tội phạm bắt đầu

14


nhưng cũng có thể xảy ra khi quá trình đó đang diễn ra. Luật hình sự không
đòi hỏi sự hứa hẹn của người giúp sức phải được thực hiện vì sự thực hiện lời
hứa là những việc làm xảy ra sau khi tội phạm đã thực hiện xong [34, tr.10].
Hành vi hứa hẹn sẽ che giấu tội phạm của người giúp sức không cấu thành tội
che giấu tội phạm.
Thứ hai, hành vi che giấu tội phạm trong trường hợp không phải là tội
phạm. Như đã phân tích ở trên, một hành vi che giấu tội phạm chi được cấu
thành tội che giấu tội phạm khi người đó có hành vi che giấu cho người phạm
tội, hoặc che giấu cho tội phạm. Trường hợp che giấu cho người không phạm
tội hoặc, hành vi không cấu thành tội phạm thì người đó cũng sẽ không phải
chịu trách nhiệm về tội che giấu tội phạm. Không phải hành vi che giấu tội
phạm nào cũng đều coi là tội phạm. Hành vi che giấu tội phạm chỉ bị xử lý
trách nhiệm hình sự nếu che giấu một số loại tội phạm được quy định trong
từng trường hợp cụ thể mà pháp luật quy định là tội che giấu tội phạm mà
không áp dụng đối với tất cả các tội phạm được quy định. Điều này cho thấy,
tùy thuộc vào mức độ, tính chất nguy hiểm cho xã hội, nghiêm trọng hay ít
nghiêm trọng của loại tội phạm được che giấu mà người có hành vi che giấu
mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây là cơ sở để xác định một người có
bị coi là tội phạm – khi thực hiện hành vi che giấu tội phạm hay không. Trong
trường hợp người có hành vi che giấu tội phạm, nhưng tội phạm được che
giấu lại không cấu thành tội phạm, nói là hành vi che giấu cho người không

phạm tội thì người đó cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự
Thứ ba, hành vi che giấu tội phạm trong trường hợp cấu thành tội phạm
che giấu tội phạm. Trong trường hợp này, che giấu tội phạm là hành vi của một
người không hứa hẹn trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện, đã che
giấu người phạm tội, các dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác
cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội. Tội che giấu tội phạm là

15


hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến hoạt động đúng đắn, bình thường
của hoạt động tư pháp, gây cản trở cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
trong quá trình điều tra khám phá, xử lý tội phạm đồng thời còn gây thiệt hại
cho ổn định xã hội. Tội che giấu tội phạm được thực hiện bằng các hành vi: che
giấu người phạm tội, được hiểu là chứa chấp, nuôi giấu trong nhà, tìm địa điểm
cho người phạm tội ẩn náu, giúp người phạm tội bỏ trốn …, che giấu các dấu
vết của tội phạm, đó là tẩy xóa, làm thay đổi, làm mất đi các dấu vết có ý nghĩa
rất quan trọng cho việc chứng minh tội phạm; che giấu tang vật của tội phạm là
hành vi cất giấu, huỷ hoại hoặc làm biến dạng công cụ, phương tiện mà người
phạm tội dùng vào việc thực hiện tội phạm, tiền hoặc tài sản bị can chiếm đoạt
được hoặc hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội.
Cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội cũng chính là không
muốn cho tội phạm bị phát hiện, xử lý theo pháp luật. Những hành vi này được
thực hiện một cách độc lập, sau khi người khác đã thực hiện tội phạm mà
không hứa hẹn trước, vì vậy che giấu tội phạm không phải là đồng phạm, mà là
tội phạm độc lập. Tội che giấu tội phạm được thực hiện dưới dạng hành vi là
hành động, bằng sự chủ động tích cực làm những việc mà Bộ luật Hình sự cấm.
Tội phạm được xem là đã hoàn thành từ khi người phạm tội đã thực hiện hành
vi che giấu tội phạm. Tội che giấu tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý trực
tiếp. Người che giấu tội phạm biết rõ tội phạm đã được thực hiện, biết rõ che

giấu tội phạm là cản trở hoạt động điều tra, xử lý tội phạm, gây khó khăn cho
hoạt động này, tuy nhiên họ mong muốn che giấu người phạm tội cũng như
hành vi tội phạm. Chủ thể tội che giấu tội phạm là bất kỳ người nào có đủ năng
lực trách nhiệm hình sự.
Những qui định pháp luật điều chỉnh các hành vi che giấu tội phạm này
phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện kinh tế, xã hội, pháp lý… thể hiện ý chí
của nhà làm luật. Tùy thuộc vào mức độ, tính chất nguy hiểm cho xã hội,

16


nghiêm trọng hay ít nghiêm trọng của loại tội phạm được che giấu mà người
có hành vi che giấu mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây là cơ sở để xác
định một người có bị coi là tội phạm – khi thực hiện hành vi che giấu tội
phạm hay không. Cơ sở về kinh nghiệm lập pháp của các quốc gia trên thế
giới đều cho thấy, việc che giấu tội phạm chỉ nên truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với một số loại tội phạm có tính chất, mức độ nguy hiểm nhất định.
Điều này vừa tạo ra sự nghiêm minh của pháp luật nhưng cũng đồng thời thể
hiện việc không truy cứu trách nhiệm hình sự một cách tràn lan mà cần phải
phân hóa các trường hợp khác nhau.
Từ phân tích trên có thể định nghĩa chế định che giấu tội phạm như sau:
“Chế định che giấu tội phạm là một chế định độc lập trong PLHS, là tổng hợp
các qui pháp phạm pháp luật hình sự điều chỉnh vấn đề che giấu tội phạm
cùng chế tài xử lý tương ứng phù hợp hành vi che giấu. Các quy phạm pháp
luật điều chỉnh các hành vi che giấu tội phạm này phụ thuộc rất nhiều vào
các điều kiện kinh tế, xã hội, pháp lý… thể hiện ý chí của nhà làm luật ”.
1.1.2. Ý nghĩa của chế định che giấu tội phạm
Che giấu tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội gây cản trở lớn
cho việc phát hiện, điều tra và xử lý tội phạm kịp thời. Hiện nay, số tội phạm
có hành vi che giấu không những gia tăng và có chiều hướng diễn biến vô

cùng phức tạp. Chính vì vậy việc quy định hành vi che giấu tội phạm thành
một chế định độc lập trong PLHS là một việc cần thiết và có ý nghĩa vô
cùng quan trọng. Việc nhận thức thống nhất và đúng đắn bản chất pháp lý
của chế định chế giấu tội phạm sẽ cho ta thấy tác dụng tích cực trên các bình
diện chủ yếu dưới đây:
Thứ nhất, việc quy định về hành vi che giấu tội phạm trong cấu thành
tội che giấu tội phạm, hành vi che giấu tội phạm trong đồng phạm và các
trường hợp che giấu tội phạm không là đồng phạm có ý nghĩa vô cùng to lớn

17


trong việc góp phần bảo vệ pháp chế và tăng cường hiệu quả của công tác đấu
tranh chống tội phạm, trong lĩnh vực tư pháp hình sự, nó sẽ thuận lợi cho các
cơ quan bảo vệ pháp luật và tòa án áp dụng chính xác trong thực tiễn các quy
định của PLHS về các hành vi che giấu tội phạm đối với những trường hợp cụ
thể tương ứng.
Thứ hai, các quy định pháp luật trong chế định che giấu tội phạm góp
phần bảo vệ các quyền con người bằng PLHS, nó góp phần cá thể hóa và
phân hóa TNHS và hình phạt cũng như tha miễn TNHS và hình phạt một cách
công minh, có căn cứ và đúng pháp luật đối với những người có hành vi che
giấu tội phạm trong từng trường hợp cụ thể tương ứng. Việc quy định các
trường hợp có hành vi che giấu không phải tội phạm cũng thể hiện sự nhân
đạo tiến bộ của pháp luật.
Và cuối cùng, dưới góc độ hoàn thiện PLHS hiện hành, chế định che
giấu tội phạm góp phần xây dựng các quy phạm có căn cứ khoa học, phù hợp
với thực tế và khả thi về chế định che giấu tội phạm nói chung và từng trường
hợp cụ thể của hành vi che giấu tội phạm nói riêng.
1.2. Phân biệt che giấu tội phạm với một số tội phạm có những dấu
hiệu tƣơng đồng

* Phân biệt che giấu tội phạm và không tố giác tội phạm
Trong thực tiến áp dụng pháp luật, đôi khi hành vi của tội không
che giấu tội phạm còn bị nhầm lẫn với hành vi không tố giác tội phạm. Có
thể nhận thấy những điểm giống nhau giữa hành vi che giấu tội phạm và
hành vi không tố giác tội phạm trên các mặt khách quan pháp lý và chủ
quan dưới đây:
- Thứ nhất, về mặt khách quan: chúng đều là những hành vi nguy
hiểm cho xã hội ở các mức độ khác nhau và được thực hiện bằng hành
động hoặc không hành động, xâm phạm đến các quan hệ xã hội nhất định
được bảo vệ bởi PLHS.

18


×