Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (926.84 KB, 90 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ BẢO NGỌC

HỢP ĐỒNG VÌ LỢI ÍCH CỦA NGƢỜI THỨ BA
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2017
1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ BẢO NGỌC

HỢP ĐỒNG VÌ LỢI ÍCH CỦA NGƢỜI THỨ BA
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số
: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. VƢƠNG THANH THÚY

Hà Nội – 2017


2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận vănlà công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Lê Bảo Ngọc

3


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................................... 7
Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG VÌ LỢI ÍCH CỦA NGƢỜI THỨ
BA. ................................................................................................................................................... 12
1.1. Khái quát về hợp đồng và hiệu lực tƣơng đối của hợp đồng..................................................... 12
1.1.1. Khái quát về hợp đồng. .......................................................................................................... 12

1.1.2. Khái quát về hiệu lực tương đối của hợp đồng. ..................................................................... 16
1.2. Khái niệm và các đặc tính của hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba. ...................................... 20
1.2.1. Khái niệm hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba.................................................................... 20
1.2.2. Các đặc tính của hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba. ........................................................ 21
1.3. Các vấn đề pháp lý liên quan tới hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba. ................................... 26
1.3.1. Chủ thể của hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba. ................................................................ 26
1.3.2. Người thứ ba hưởng lợi trong hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba. ................................... 27
1.3.3. Điều kiện của hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba. ............................................................. 30
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................................................. 37
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG VÌ LỢI ÍCH CỦA
NGƢỜI THỨ BA ........................................................................................................................... 38
2.1. Nguồn của chế định hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba ....................................................... 38
2.2. Các quy định của pháp luật về hợp đồng và hiệu lực tƣơng đối của hợp đồng......................... 39
2.3. Các quy định về hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba ............................................................. 43
2.3.1. Thực hiện hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba. ................................................................... 43
2.3.2. Sửa đổi, hủy bỏ hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba ........................................................... 44
2.3.3. Quyền từ chối của người thứ ba trong hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba........................ 47
2.4. Giải quyết tranh chấp hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba. .................................................... 50

4


2.5. Những bất cập trong quy định của pháp luật về Hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba............ 65
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................................................. 70
Chƣơng 3 ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH PHÁP LUẬT HỢP
ĐỒNG VÌ LỢI ÍCH CỦA NGƢỜI THỨ BA .............................................................................. 71
3.1. Định hƣớng. .............................................................................................................................. 71
3.1.1. Bổ sung định nghĩa pháp lý về "người thứ ba". ..................................................................... 71
3.1.2. Hoàn thiện quy định về quyền từ chối và trách nhiệm của người thứ ba. ............................. 75
3.1.3. Sửa đổi quy định về thực hiện hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba..................................... 77

3.2. Giải pháp. .................................................................................................................................. 80
3.2.1. Giải pháp về lập pháp ............................................................................................................ 80
3.2.2. Giải pháp về tư pháp. ............................................................................................................. 82
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3................................................................................................................. 84
KẾT LUẬN ..................................................................................................................................... 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 87

5


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
BLDS:

Bộ luật dân sự

BLTTDS:

Bộ luật tố tụng dân sự

TNHH:

Trách nhiệm hữu hạn

6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Hợp đồng dân sự nói chung và hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba là
một trong những chế định pháp lý cổ xƣa nhất, xuất hiện sớm nhất trong pháp

luật dân sự. Từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới, một loại các văn bản
pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng đã ra đời nhƣ: Pháp lệnh hợp đồng
kinh tế (1989); Pháp lệnh hợp đồng dân sự (1991) và trong hai pháp lệnh về
chuyển giao công nghệ và sở hữu trí tuệ cũng có phần quy định về vấn đề hợp
đồng. Đến khi Bộ luật dân sự 1995 ra đời và đƣợc sửa đổi, bổ sung tại Bộ luật
dân sự 2005 thì hợp đồng dân sự đã đƣợc xem xét, quy định một cách đầy đủ,
toàn diện hơn. Cho đến Bộ luật dân sự 2015 đƣợc Quốc hội thông qua ngày
24/11/2015, có hiệu lực ngày 01/01/2017 tạo ra một hành lang pháp lý quan
trọng cho giao lƣu dân sự, thể hiện một bƣớc tiến cao hơn trong tƣ duy lập
pháp, hành pháp và tƣ pháp của những nhà làm luật. Trong khi đó, hợp đồng
vì lợi ích của ngƣời thứ ba có ý nghĩa hết sức quan trọng trong đời sống xã
hội, đặc biệt là trong xã hội phát triển và nhu cầu bảo hiểm về mọi mặt của
các đối tƣợng trong xã hội ngày càng tăng.
Về lý luận, hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba mang bản chất của
một giao dịch dân sự, trong đó các bên của hợp đồng đều có nghĩa vụ ngƣời
thứ ba đƣợc hƣởng lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ đó. Trong đó, BLDS
2015 quy định các nội dung cơ bản về hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba
nhƣ: Khái niệm, thực hiện hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba…
Về thực tiễn, dù chỉ qua một thời gian ngắn kể từ khi có hiệu lực thi
hành, BLDS năm 2015 đã phát huy tác dụng trong việc điều chỉnh các quan
hệ xã hội thuộc đối tƣợng điều chỉnh của luật dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho các chủ thể trong giao lƣu dân sự, góp phần làm ổn định các
quan hệ xã hội. Tuy nhiên, để xác định những vấn đề pháp lý và giải quyết

7


thực tiễn về hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba không hề đơn giản. Bên
cạnh đó, các vụ việc phát sinh từ tranh chấp hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ
ba ngày càng tăng cả về số lƣợng và tính chất, mức độ,… Cùng với quá trình

xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hƣớng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu đảm bảo công bằng xã hội, các
quan hệ dân sự đƣợc mở rộng và có nhiều biến đổi, đòi hỏi những quy định
của pháp luật về vấn đề này cần đƣợc đổi mới và hoàn thiện hơn nữa.
Với những lý do trên, em đã lựa chọn đề tài: “Hợp đồng vì lợi ích của
người thứ ba theo pháp luật Việt Nam” để làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ
chuyên ngành Luật Dân sự và Tố tụng dân sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Các công trình nghiên cứu liên quan đến hợp đồng vì lợi ích của ngƣời
thứ ba hiện nay còn tƣơng đối hạn chế. Trên phƣơng diện tổng quan, mới chỉ
có một số nội dung nghiên cứu nhƣ cuốn Dân luật Việt Nam lƣợc khảo của
GS. Vũ Văn Mẫu và một số bài trên các tạp chí, gồm có: “Hợp đồng vì lợi ích
của ngƣời thứ ba trong pháp luật dân sự Việt Nam” của tác giả Bùi Thị Thu
Hằng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tƣ pháp, số 9 + 10/2001;“Hợp
đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba”, tác giả Nguyễn Ngọc Khánh, Tạp chí Tòa
án nhân dân, Tòa án nhân dân Tối cao, số 10/2011; “Hợp đồng dịch vụ vì lợi
ích của ngƣời thứ ba theo pháp luật dân sự hiện hành” của tác giả Kiều Thị
Thùy Linh trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 4/2014; “Một số kiến nghị về
chế định hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba trong Dự thảo Bộ luật dân sự
(sửa đổi)”, Ngô Quốc Chiến, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật, Viện Nhà nƣớc
và pháp luật, Số 8/2015; ,… bên cạnh những nội dung, thông tin còn rất ít ỏi
nằm rải rác trong các tài liệu khác.
Trong khi đó, thực tiễn vấn đề thực hiện hợp đồng vì lợi ích của ngƣời
thứ ba và việc giải quyết các tranh chấp phát sinh xung quanh nó biến đổi

8


không ngừng. Những năm trở lại đây chƣa có công trình nào nghiên cứu
chuyên sâu về vấn đề này để làm rõ tính khả thi của các quy định pháp luật

đối với xã hội hiện hành. Bên cạnh đó, tác giả luôn có ý thức kế thừa, học hỏi
những kết quả mà các công trình khoa học đã đạt đƣợc cũng nhƣ các kinh
nghiệm thực tiễn có liên quan đến đề tài đang nghiên cứu để có đƣợc cái nhìn
toàn diện, khái quát và đƣơng thời nhất.
3. Mục tiêu nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
cũng nhƣ nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về hợp đồng vì lợi
ích của ngƣời thứ ba trên những khía cạnh cơ bản và quan trọng nhất. Bên
cạnh đó, luận văn còn nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng
pháp luật về hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba ở Việt Nam, bao gồm cả
việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa các quy định của pháp luật hiện hành và
những điểm thiếu sót, chồng chéo, mâu thuẫn, bất cập, đánh giá thực trạng.
Luận văn còn nhằm mục đích đƣa ra phƣơng hƣớng hoàn thiện các quy định
của pháp luật về nội dung này để góp phần vào việc giúp các chủ thể thực
hiện và bảo đảm các quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia hợp đồng vì lợi
ích của ngƣời thứ ba, đồng thời cơ quan áp dụng pháp luật, các nhà nghiên
cứu nhận thức đúng đắn và toàn diện khi giải quyết các tranh chấp xảy ra.
3.1. Mục tiêu tổng quát.
Làm rõ các vấn đề lý luận về hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba cũng
nhƣ thực tiễn của vấn đề tại Việt Nam trong những năm gần đây. Từ đó đề
xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao tính khả thi, tính thực tiễn
của các quy định pháp luật về hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba.
3.2. Mục tiêu cụ thể.
Một số mục tiêu cụ thể cần đạt đƣợc của luận văn nhƣ sau:

9


- Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ
ba

- Phân tích các quy định tƣơng ứng của pháp luật về hợp đồng vì lợi ích
của ngƣời thứ ba
- Phân tích thực trạng của việc thực hiện và giải quyết các tranh chấp phát
sinh từ hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba.
- Kiến nghị và đƣa ra các giải pháp hoàn thiện những quy định của pháp
luật dân sự về hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài.
Vấn đề giao kết, thực hiện và đảm bảo quyền lợi trong hợp đồng vì lợi
ích của ngƣời thứ ba ngày càng thu hút sự quan tâm của xã hội bởi tính bức
thiết của nó. Trong khi đó, thực tiễn luôn vận động và biến đổi không ngừng
khiến cho các vụ việc ngày càng có tính chất phức tạp. Do đó, đề tài nghiên
cứu về hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba nhìn từ khía cạnh pháp luật dân
sự cùng với việc phân tích thực tiễn áp dụng trong những năm gần đây sẽ
mang đến cho độc giả cái nhìn sâu sắc mang tính thời sự về mặt tích cực,
những hạn chế và có đƣợc kiến thức chuyên sâu, mới mẻ hơn về vấn đề này.
Bên cạnh đó, luận văn cũng nhằm góp phần tìm ra các giải pháp để tháo gỡ
vƣớng mắc, hoàn thiện hệ thống các quy định của Bộ luật Dân sự 2015 về các
vấn đề pháp lý có liên quan tới đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của mình.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tƣợng nghiên cứu mà luận văn hƣớng tới là nghiên cứu những vấn
đề pháp lý về hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba, bao gồm các nội dung
nhƣ: khái niệm pháp lý, giao kết hợp đồng, hiệu lực, vai trò, ý nghĩa và những
yếu tố pháp lý quan trọng theo pháp luật dân sự hiện hành, những vấn đề đúc
rút từ thực tiễn thực hiện để đƣa ra những giải pháp quan trọng hoàn thiện và
nâng cao hiệu quả áp dụng của hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba.

10


Phạm vi nghiên cứu của đề tài “Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba

theo pháp luật Việt Nam” tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận cũng
nhƣ những quy định của Bộ luật Dân sự 2015, bên cạnh đó là các văn bản
hƣớng dẫn thi hành và văn bản pháp luật hiện hành có liên quan đến loại hợp
đồng này.
6. Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu.
6.1. Nội dung nghiên cứu.
Luận văn đi sâu vào nghiên cứu các quy định của pháp luật dân sự hiện
hành về hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba. Luận văn cũng phân tích thực
tiễn áp dụng các quy định này của pháp luật để rút ra những kiến nghị nhằm
hoàn thiện hơn nữa và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về nội dung này.
6.2. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Luận văn đƣợc trình bày trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về
nhà nƣớc và pháp luật. Nội dung của luận văn đƣợc nêu, phân tích trên cơ sở
lý luận và nội dung các quy định pháp luật của nhà nƣớc, các văn bản hƣớng
dẫn sử dụng một số phƣơng pháp chủ yếu sau: phƣơng pháp phân tích lý
thuyết - tổng hợp, so sánh pháp luật, khái quát hóa, quy nạp, diễn dịch…
7. Kết cấu của Luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ
ba.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp đồng vì lợi ích của
ngƣời thứ ba.
Chương 3: Định hƣớng và giải pháp hoàn thiện chế định pháp luật hợp
đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba.

11


Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG VÌ LỢI ÍCH CỦA
NGƢỜI THỨ BA.
1.1. Khái quát về hợp đồng và hiệu lực tƣơng đối của hợp đồng.
1.1.1. Khái quát về hợp đồng.
Hợp đồng là công cụ pháp lý quan trọng và phổ biến để con ngƣời thực
hiện các giao dịch nhằm thỏa mãn các nhu cầu chính đáng của mình. Hơn thế
nữa, hợp đồng là một chế định cơ bản, mang những đặc trƣng rõ nét nhất của
quan hệ pháp luật dân sự mà chỉ ngành luật này mới điều chỉnh, làm cho nó
khác biệt với những quan hệ pháp luật khác nhƣ quan hệ pháp luật hình sự,
quan hệ pháp luật hành chính. Vì vậy, khái niệm về hợp đồng cần đƣợc xem
xét dƣới nhiều góc độ khác nhau.
Trong lịch sử lập pháp, để tìm ra đƣợc một thuật ngữ có thể sử dụng
thay thế cho khái niệm hợp đồng là một vấn đề không dễ dàng. Nhiều luật gia
cho rằng thuật ngữ “hợp đồng” (contractus) đƣợc hình thành từ động từ
“contrahere” trong tiếng Latinh, có nghĩa là “ràng buộc”, và xuất hiện lần đầu
tiên ở La Mã vào khoảng thế kỷ V – IV TCN [9, tr.29; 31, tr.162]. Mặt khác,
sự tiếp cận khái niệm hợp đồng trong các hệ thống pháp luật cũng khác nhau.
Theo pháp luật của các nƣớc thuộc hệ thống Civil Law, hợp đồng đƣợc xem
nhƣ một kết quả phức hợp của ý chí tự do cá nhân cùng nhiều nguyên tắc
pháp lý cơ bản của Luật tƣ: Theo đó, "Khái niệm hợp đồng trong hệ thống
Civil law bị chi phối bởi ba nguyên tắc. Thứ nhất, hợp đồng đƣợc xem là kết
quả chung của sự gặp gỡ ý chí của các bên. Thứ hai, đó là pháp luật do các
bên lập ra để ràng buộc chính các bên trong hợp đồng. Vì sự ràng buộc của
hợp đồng không chỉ là hiệu lực pháp lý đƣợc dự liệu bởi các bên, mà đó còn
là hiệu lực đƣợc đảm bảo bởi pháp luật, bởi tập quán hoặc bởi yêu cầu của

12


nguyên tắc thiện chí, nhằm xác lập trách nhiệm thực thi hợp đồng phù hợp với

bản chất của hợp đồng. Nguyên tắc thứ ba là tự do hợp đồng: các bên đƣợc tự
do, trong phạm vi giới hạn của luật công và trật tự công cộng, để tạo ra loại
hợp đồng mà họ muốn, thậm chí điều đó có thể là vô lý theo cách nhìn nhận
của ngƣời khác" [32, tr.278]. Khác với quan niệm của các nƣớc theo hệ thống
Civil Law, trong hệ thống Common Law, ban đầu ngƣời ta xem hợp đồng nhƣ
là kết quả của các cam kết đơn giản, thể hiện bằng những hành vi pháp lý cụ
thể của mỗi bên. Sau này,“các thẩm phán theo chủ nghĩa thực dụng
(pragmatic) ở Anh đã xem xét hợp đồng nhƣ là một nghĩa vụ đƣợc tạo ra bởi
sự gặp gỡ ý chí giữa các bên” [32, tr.283 - 284].
Các quốc gia trên thế giới cũng có những quy định khác nhau về hợp
đồng, nhƣ: Điều 1101 Bộ luật dân sự Pháp 1804 quy định: "Hợp đồng là sự
thỏa thuận giữa hay hai nhiều bên về việc giao vật, làm hay không làm một
việc" [34]; Điều 420 Bộ luật dân sự Nga 1994 quy định: "Hợp đồng là sự thỏa
thuận giữa hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự" [33]. Điều 1378 Bộ luật dân sự Canada quy định: "Hợp đồng là
một sự thỏa thuận của các ý chí mà bởi nó một hoặc một số ngƣời tự ràng
buộc mình với một hoặc một số ngƣời khác để thực hiện một cam kết". Ở
Việt Nam, trong thực tế đời sống có nhiều thuật ngữ khác nhau đƣợc sử dụng
để chỉ về hợp đồng: khế ƣớc, giao kèo, văn tự, văn khế, cam kết, tờ giao ƣớc,
tờ ƣng thuận… Các luật gia Việt Nam thƣờng hiểu khái niệm “hợp đồng”
theo hai nghĩa: nghĩa khách quan và nghĩa chủ quan. Theo nghĩa khách quan,
“hợp đồng” là một bộ phận của chế định nghĩa vụ trong Luật dân sự, bao gồm
các quy phạm pháp luật đƣợc quy định cụ thể trong BLDS nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội (chủ yếu là quan hệ tài sản) trong quá trình dịch chuyển
các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau. Theo nghĩa chủ quan, hợp đồng
là sự ghi nhận kết quả của việc cam kết, thỏa thuận giữa các chủ thể giao kết

13



hợp đồng, từ đó làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ dân
sự của các chủ thể nhất định. Đó chính là kết quả của việc thỏa thuận, thống
nhất ý chí của các bên, đƣợc thể hiện trong các điều khoản cụ thể về quyền và
nghĩa vụ mỗi bên để có cơ sở cùng nhau thực hiện [25, tr.19].
Điều 385 BLDS 2015 định nghĩa hợp đồng nhƣ sau: “Hợp đồng là sự
thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự”. Nhƣ vậy, hợp đồng là một loại quan hệ pháp luật hình thành trên
cõ sở sự thỏa thuận thống nhất ý chí của các bên với nhau trong quan hệ đó
nhằm thỏa mãn mục đích nào đó. Chính thỏa thuận đó làm phát sinh, thay đổi
hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ nhất định. Mặt khác, hợp đồng phải
đƣợc điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nƣớc có thẩm
quyền ban hành. Có thể thấy, BLDS 2015 đã đƣa ra một định nghĩa vừa cơ
bản, vừa khái quát về hợp đồng trong với lịch sử pháp luật Việt Nam trƣớc
đó. Nếu nhƣ Điều 394 BLDS 1995 và Điều 338 BLDS 2005 đƣa ra định
nghĩa về hợp đồng với tên gọi đầy đủ là "hợp đồng dân sự" thì BLDS 2015 đã
đƣa khái niệm này trở về đúng bản chất của nó, chỉ gồm hai từ "hợp đồng".
Hoặc nhƣ Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991 lại mô tả khái niệm này trên
cơ sở liệt kê những quan hệ cụ thể nhƣ sau: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa
thuận giữa các bên về xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của
các bên trong mua bán, thuê, vay mƣợn, tặng cho tài sản, làm hoặc không làm
một việc, dịch vụ hoặc thỏa thuận khác mà trong đó một hoặc các bên đáp
ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng” (Điều 1). Cách quy định khái niệm của
Pháp lệnh hợp đồng dân sự 1991 chƣa đủ độ khái quát, thậm chí tạo ra sự hạn
hẹp trong việc xác định nhƣ thế nào đƣợc coi là một hợp đồng.
Xét về bản chất, hợp đồng đƣợc tạo ra bởi sự thỏa thuận của các bên, là
kết quả của quá trình thƣơng thảo và thống nhất ý chí giữa các bên để làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ đối với nhau, trừ những

14



quyền và nghĩa vụ mà pháp luật có quy định là không thể thay đổi hoặc chấm
dứt bằng thỏa thuận của các bên. Định nghĩa trên của BLDS 2015 khá hợp lý
vì nội dung ngắn gọn, chuẩn xác đồng thời mang tính khái quát cao, phản ánh
đúng bản chất của hợp đồng, vừa thể hiện rõ vai trò của hợp đồng nhƣ là một
căn cứ pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân
sự của các bên.
Hợp đồng là một nội dung khá hoàn chỉnh và bao quát, dù đƣợc hình
thành trong hoàn cảnh xã hội nào, nó đều mang những đặc điểm nhất định.
Đối với hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam thể hiện các đặc
trƣng pháp lý cơ bản sau:
Thứ nhất, hợp đồng đƣợc hình thành từ sự thỏa thuận trên cơ sở tự do ý
chí, tự nguyện giữa các chủ thể có địa vị pháp lý độc lập và bình đẳng.
“...thỏa thuận là sự trùng hợp ý muốn của các bên về một điều gì đó mà các
bên mong muốn đạt đƣợc” [26, tr.10]. Nhƣ vậy, trong quan hệ hợp đồng ít
nhất phải có hai bên trở lên có thể là cá nhân, pháp nhân. Đây cũng là một đặc
trƣng để phân biệt hợp đồng với hành vi pháp lý đơn phƣơng (là sự biểu lộ ý
chí đơn phƣơng của một bên chủ thể). Hợp đồng phải xuất phát và đƣợc hình
thành trên cơ sở thỏa thuận – vừa là nguyên tắc tối cao, vừa là đặc trƣng cơ
bản của hợp đồng. Có thể nói, “yếu tố thỏa thuận của các chủ thể là tiền đề
của hợp đồng và đƣợc xem là tuyệt đối” [25, tr.20].
Thứ hai, sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng phải hƣớng tới đối
tƣợng nhất định, có thể là tài sản, thực hiện hoặc không thực hiện một công
việc nào đó. Đồng thời, tùy từng loại đối tƣợng của hợp đồng mà phải thỏa
mãn những điều kiện nhất định do pháp luật quy định. Ví dụ, đối tƣợng của
hợp đồng là hàng hóa thì phải là loại tài sản đƣợc phép lƣu thông; đối tƣợng
của hợp đồng là công việc cần thực hiện thì công việc đó không đƣợc trái
pháp luật và đạo đức xã hội.

15



Thứ ba, hợp đồng là cơ sở làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các
quyền và nghĩa vụ pháp lý. Tức là việc thỏa thuận của các chủ thể trong hợp
đồng bao giờ cũng phải nhằm tạo ra một hậu quả pháp lý nhất định mà biểu
hiện của nó là các quyền và nghĩa vụ. "hợp đồng có thể đƣợc xem là một
phƣơng thức mà theo đó ngƣời này thƣơng lƣợng với ngƣời khác để có thể
tạo ra sự bảo đảm rằng những lời hứa hay cam kết của họ có đời sống lâu dài
hơn so với những trạng thái dễ thay đổi trong suy nghĩ của họ" [6, tr.13].
Thông thƣờng, các quyền và nghĩa vụ này chỉ đƣợc xác định đối với những
bên tham gia giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp, ví dụ
đối với hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba, nó cũng là cơ sở làm phát sinh
các quyền và nghĩa vụ nhất định của ngƣời thứ ba – không phải là chủ thể của
hợp đồng. Mặt khác, các bên có quyền và nghĩa vụ đối lập với nhau, việc thực
hiện quyền của bên này là cơ sở phát sinh nghĩa vụ của bên kia và ngƣợc lại.
Hợp đồng từ lâu đã đƣợc coi là một thuật ngữ khá phổ biến và dần dần
trở thành chế định đặc trƣng, quan trọng hàng đầu của ngành luật dân sự. Việc
tiếp cận khái niệm này về các phƣơng diện khách quan và chủ quan cũng nhƣ
gắn liền với các đặc điểm của nó là tiền đề quan trọng để đi sâu nghiên cứu
những vấn đề lý luận và pháp lý tiếp theo liên quan tới nội dung này.
1.1.2. Khái quát về hiệu lực tương đối của hợp đồng.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, hiệu lực của hợp đồng dân
sự là "giá trị bắt buộc thi hành đối với các chủ thể tham gia giao kết hợp
đồng" [tr.65]. Điều 1134 BLDS Pháp quy định: “Hợp đồng đƣợc giao kết hợp
pháp có giá trị là luật đối với các bên”, “chỉ có thể bị hủy bỏ trên cơ sở có
thỏa thuận chung, hoặc theo những căn cứ do pháp luật qui định” và “phải
đƣợc thực hiện một cách thiện chí”. Bản chất của thuật ngữ này gồm hai dấu
hiệu: giá trị pháp lý của hợp đồng và hiệu lực ràng buộc mang tính cƣỡng chế
của hợp đồng đối với các bên. Tuy nhiên, để xem xét một cách toàn diện và


16


đầy đủ, hiệu lực của hợp đồng cần trả lời đƣợc ba câu hỏi: Hợp đồng ràng
buộc ai? Ràng buộc cái gì? Ràng buộc nhƣ thế nào? [6, tr. 369]. Trả lời cho
câu hỏi "Hợp đồng ràng buộc ai?", pháp luật các quốc gia trên thế giới đều
ghi nhận trƣớc hết, hợp đồng có giá trị ràng buộc chính các bên giao kết, thực
hiện hợp đồng. Đây là những chủ thể cốt yếu có liên quan trực tiếp tới hiệu
lực của hợp đồng. Các chủ thể này rất đa dạng, có thể là cá nhân, pháp nhân
hoặc chủ thể khác theo quy định của pháp luật mỗi quốc gia. Thông thƣờng,
các bên chủ thể hợp đồng ràng buộc nhau bởi những quyền và nghĩa vụ mà họ
thỏa thuận, quyền của bên này tƣơng ứng với nghĩa vụ của bên kia và ngƣợc
lại. Bởi lẽ, chính họ là các chủ thể dùng ý chí của mình một cách tự do, tự
nguyện thỏa thuận và giao kết với nhau làm phát sinh những quyền và nghĩa
vụ nhất định. Thông thƣờng, các bên chủ thể nhân danh chính mình để xác lập
hợp đồng, tuy nhiên pháp luật quy định còn cho phép các chủ thể giao kết hợp
đồng thông qua ngƣời đại diện của mình. Ngƣời đại diện này đƣợc xác định
theo quy định pháp lý hoặc bằng ý chí của các chủ thể thông qua hợp đồng ủy
quyền. Trong trƣờng hợp này, việc xác lập, giao kết hợp đồng không là cơ sở
pháp lý phát sinh các quyền và nghĩa vụ cho ngƣời đại diện mà ngƣời đƣợc
đại diện mới đích thực là chủ thể của hợp đồng đó. Hợp đồng đƣợc giao kết
bởi ngƣời đại diện đem lại quyền và nghĩa vụ cho ngƣời đƣợc đại diện và hiệu
lực của hợp đồng cũng ràng buộc chính họ. Tuy nhiên, trong nhiều trƣờng
hợp, ngoài các bên là chủ thể giao kết thì hợp đồng còn đem lại nghĩa vụ cho
những ngƣời kế quyền của họ và các trái chủ thƣờng; cũng nhƣ có hiệu lực
ràng buộc đối với ngƣời thứ ba không phải là ngƣời kế quyền [22, tr. 273].
Đây cũng chính là nội dung của nguyên tắc hiệu lực tƣơng đối của hợp đồng.
Các ngoại lệ của nguyên tắc này đƣợc thể hiện một cách căn bản nhƣ sau:
Thứ nhất, hợp đồng còn đem lại nghĩa vụ cho những ngƣời kế quyền
và các trái chủ của các bên trong hợp đồng.


17


(i) Ngƣời kế quyền, hay còn gọi là ngƣời kế vị pháp lý, gồm có: Ngƣời
thừa kế, ngƣời đƣợc chỉ định hƣởng toàn bộ di sản, ngƣời đƣợc chỉ định
hƣởng một phần di sản và ngƣời đƣợc hƣởng một quyền nhất định từ ngƣời
khác (có thể là một vật quyền hoặc một trái quyền nào đó). [22, tr. 273 - 276].
Đối với những ngƣời đƣợc hƣởng di sản, do họ đƣợc hƣởng một phần hoặc
toàn bộ di sản mà ngƣời chết để lại nên họ cũng có những nghĩa vụ nhất định
phát sinh từ việc nhận di sản của họ, phổ biến nhất là nghĩa vụ thanh toán.
Nghĩa vụ này giới hạn trong phạm vi di sản mà họ đƣợc nhận, ngoại trừ các
nghĩa vụ gắn liền với nhân thân. Tuy nhiên, những ngƣời này sẽ không phải
chịu sự ràng buộc của hợp đồng nếu họ từ chối hƣởng di sản hoặc thuộc
trƣờng hợp đƣợc ngƣời chết di tặng. Đối với ngƣời đƣợc chỉ định hƣởng một
quyền nhất định từ ngƣời khác, họ phải tuân thủ theo các hợp đồng mà ngƣời
đó đã giao kết, bao gồm tất cả các quyền lợi và nghĩa vụ phát sinh từ hợp
đồng. Mặt khác, cũng cần xem xét phạm vi quyền hay nghĩa vụ mà họ nhận
chuyển giao, "không ai có quyền chuyển cho ngƣời khác nhiều quyền lợi hơn
chính mình có" (nguyên tắc "Nemo plus juris ad alium transferre poslest
quam ipse habet" [22, tr. 276]. Tuy nhiên, điều này chỉ đúng trong các hợp
đồng có đối tƣợng là tài sản không gắn liền với nhân thân. Mặt khác, các bên
trong hợp đồng có thể thỏa thuận về việc giới hạn hiệu lực của hợp đồng đối
với ngƣời kế quyền, hoặc giới hạn phạm vi kế quyền bởi những điều kiện nhất
định, hoặc không cho phép kế quyền.
(ii) Về hiệu lực của hợp đồng đối với các trái chủ. Thông thƣờng, các
trái chủ không bị chi phối bởi những hợp đồng mà ngƣời thụ trái của họ xác
lập, trừ ba trƣờng hợp ngoại lệ, đó là: hợp đồng do thụ trái của họ lập ra vì
mục đích làm thiệt hại đến quyền lợi của họ; trƣờng hợp hợp đồng do thụ trái
lập ra liên quan tới bất động sản đang là tài sản bảo đảm cho nghĩa vụ của họ

đối với trái chủ; và các hợp đồng do thụ trái ký kết khi bị tuyên bố phá sản có

18


liên quan trực tiếp tới tài sản của họ nhằm đảm bảo sự thanh toán cho các chủ
nợ theo thứ tự ƣu tiên mà pháp luật quy định [22, tr. 277].
Thứ hai, hiệu lực của hợp đồng đối với ngƣời thứ ba không phải là
ngƣời kế vị pháp lý. Giá trị pháp lý của hợp đồng đối với ngƣời thứ ba này
đƣợc xem xét trên phạm vi rộng mà thông thƣờng là lợi ích của ngƣời thứ ba,
bởi lẽ họ không thể bị ràng buộc về mặt nghĩa vụ đối với những hợp đồng họ
không tham gia giao kết và cũng không phải là ngƣời kế vị pháp lý của những
chủ thể giao kết, thực hiện hợp đồng. Hiệu lực của hợp đồng đối với những
ngƣời này phát sinh từ thỏa thuận của các bên chủ thể hoặc theo quy định của
pháp luật trong những trƣờng hợp nhất định. Có hai trƣờng hợp hiệu lực của
hợp đồng có ảnh hƣởng tới ngƣời thứ ba ngoại cuộc này là hợp đồng ký kết
thay cho ngƣời thứ ba và hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba.
(i) Đối với trƣờng hợp hợp đồng ký kết thay cho ngƣời thứ ba, ngoại lệ
này chỉ phát sinh khi ngƣời ký kết đã vƣợt quá phạm vi đại diện hoặc không
có tƣ cách đại diện cho ngƣời thứ ba mà đã nhân danh họ để ký kết hợp đồng
với chủ thể khác. Hợp đồng vẫn sẽ phát sinh hiệu lực ràng buộc đối với ngƣời
thứ ba này khi thỏa mãn các điều kiện: Ngƣời thứ ba đƣợc thông báo và tuyên
bố chấp nhận hợp đồng, ngƣời thứ ba biết và không phản đối hợp đồng hoặc
bên chủ thể kia của hợp đồng ngay tình - pháp luật quy định họ có thể không
biết và không buộc phải biết bên kia vƣợt quá phạm vi đại diện hoặc không có
tƣ cách đại diện.
(ii) Hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba là một loại hợp đồng trong đó
các bên giao kết hợp đồng đều phải thực hiện nghĩa vụ và ngƣời thứ ba là
ngƣời đƣợc hƣởng lợi ích từ việc thực hiện các nghĩa vụ đó. Mặc dù không
phải là chủ thể của hợp đồng, song ngƣời thứ ba cũng có mối liên hệ nhất

định với hiệu lực ràng buộc của hợp đồng, họ có quyền từ chối hƣởng lợi ích

19


từ hợp đồng, quyền độc lập yêu cầu ngƣời dự hứa thực hiện nghĩa vụ đối với
mình cũng nhƣ đồng ý hay không đồng ý việc sửa đổi, hủy bỏ hợp đồng.
Nhƣ vậy, hợp đồng không chỉ hoàn toàn có giá trị ràng buộc đối với
chính các chủ thể giao kết, thực hiện nó mà trong một số trƣờng hợp, nguyên
tắc hiệu lực tƣơng đối của hợp đồng còn có những ngoại lệ nhất định. Khi đó,
hợp đồng còn có hiệu lực ràng buộc ở một mức độ nhất định đối với các chủ
thể khác không phải các bên xác lập và thực hiện hợp đồng.
1.2. Khái niệm và các đặc tính của hợp đồng vì lợi ích của ngƣời
thứ ba.
1.2.1. Khái niệm hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba.
Trong lịch sử lập pháp thế giới, hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba
còn đƣợc tồn tại với tên gọi "khế ƣớc đem lại quyền lợi cho đệ tam nhân"
hoặc "cấu ƣớc cho tha nhân". Theo Vũ Văn Mẫu, "cấu ƣớc cho tha nhân là
một khế ƣớc trong đó một ngƣời kêu là ngƣời cấu ƣớc thỏa hiệp với một
ngƣời khác, kêu là ngƣời dự hứa rằng ngƣời này sẽ làm một việc gì có lợi cho
một đệ tam nhân kêu là ngƣời thụ lợi" [22, tr. 284]. Về mặt pháp lý, khái niệm
hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba đƣợc ghi nhận tại khoản 5 Điều 402
BLDS 2015, “Hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba là hợp đồng mà các bên
giao kết hợp đồng đều phải thực hiện nghĩa vụ và ngƣời thứ ba đƣợc hƣởng
lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ đó”. Khái niệm pháp lý đƣợc Bộ luật dân sự
hiện hành đƣa ra trên cơ sở tổng quát đặc trƣng cơ bản nhất của loại hợp đồng
này. Trƣớc hết, nó mang bản chất của một hợp đồng dân sự, tức là xuất phát
từ quan hệ thỏa thuận giữa các bên trên cơ sở những nguyên tắc chung của
pháp luật dân sự, hơn thế nữa, không giống nhƣ các loại hợp đồng dân sự
thông dụng gồm có hợp đồng song vụ (cả hai bên trong quan hệ hợp đồng đều

có nghĩa vụ đối với nhau) và hợp đồng đơn vụ (chỉ một bên trong quan hệ hợp
đồng có nghĩa vụ, còn bên kia chỉ có quyền), cả hai bên trong hợp đồng vì lợi

20


ích của ngƣời thứ ba đều phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định nào đó,
đồng thời xuất hiện thêm một khái niệm “ngƣời thứ ba”, đƣợc điều luật xác
định là ngƣời đƣợc hƣởng các lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ của hai bên
trong quan hệ hợp đồng kia.
Để hiểu đƣợc khái niệm và bản chất của hợp đồng vì lợi ích của ngƣời
thứ ba, việc tiếp cận khái niệm ngƣời thứ ba, hay còn gọi là đệ tam nhân hoặc
tha nhân là không thể thiếu. Đây đƣợc xem là một thuật ngữ pháp lý khá đặc
biệt. Trong nhiều quan hệ pháp luật cũng có đề cập tới đối tƣợng ngƣời thứ
ba, tuy nhiên trong từng hoàn cảnh nhất định mà nó đƣợc hiểu theo những
nghĩa khác nhau. Riêng đối với hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba, ngƣời
thứ ba không phải là bất cứ bên chủ thể nào tham gia hợp đồng nhƣng lại là
yếu tố không thể thiếu của loại hợp đồng này.
Trên cơ sở những vấn đề lý luận và pháp lý về khái niệm hợp đồng và
các đặc trƣng cơ bản của ngƣời thứ ba hƣởng lợi, có thể hiểu hợp đồng vì lợi
ích của ngƣời thứ ba một cách khái quát nhƣ sau: Hợp đồng vì lợi ích của
ngƣời thứ ba là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự; trong đó xác định ngƣời thứ ba đƣợc hƣởng lợi ích
phát sinh từ việc thực hiện hợp đồng.
1.2.2. Các đặc tính của hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba.
Về loại hợp đồng này có thể thấy những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên trong hợp đồng
vì lợi ích của ngƣời thứ ba không chỉ làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ cho
chính các bên trong hợp đồng mà còn là cơ sở phát sinh các quyền, lợi ích cho
ngƣời thứ ba - một "ngƣời đặc biệt" xuất hiện trong hợp đồng mà không tham

gia giao kết hợp đồng. Bản chất của nó là việc một bên trao quyền lợi mà lẽ ra
họ đƣợc hƣởng từ hợp đồng cho một ngƣời thứ ba còn bên kia phải thực hiện
nghĩa vụ đối với ngƣời thứ ba đó làm cho ngƣời thứ ba luôn luôn là ngƣời

21


đƣợc hƣởng lợi ích từ việc thực hiện hợp đồng. Đây là đặc điểm mang tính
bản chất của hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba. Ngƣời thứ ba có thể song
song cùng với một bên trong hợp đồng đƣợc hƣởng lợi ích phát sinh từ hợp
đồng. Đó có thể là bên mua trong hợp đồng mua bán, bên thuê dịch vụ trong
hợp đồng dịch vụ,... Thậm chí, sự thỏa thuận giữa các bên còn có thể dẫn tới
việc xác định ngƣời thứ ba là ngƣời thụ hƣởng duy nhất các lợi ích từ hợp
đồng trong khi các bên giao kết hợp đồng đều phải thực hiện nghĩa vụ đối với
họ. Đó có thể là các lợi ích về mặt vật chất hoặc tinh thần nhất định, tùy thuộc
vào từng loại đối tƣợng của hợp đồng.
Đặc điểm thứ hai của loại hợp đồng này đó là, ngƣời thứ ba hƣởng lợi
ích từ hợp đồng trong phạm vi các điều kiện do hợp đồng quy định. Theo đó,
họ có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ, có quyền từ chối
hƣởng lợi ích và cho phép các bên trong hợp đồng sửa đổi, hủy bỏ hợp đồng.
Đây cũng là một quyền năng của ngƣời thứ ba trong loại hợp đồng này đƣợc
pháp luật quy định để phân biệt với các thuật ngữ "ngƣời thứ ba" trong các
chế định khác của luật dân sự. Chỉ trong hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba,
ngƣời thứ ba mới có các quyền này và khi họ thực hiện các quyền này có thể
tác động đến nội dung, hiệu lực hoặc thậm chí dẫn tới việc hợp đồng bị hủy
bỏ. Bởi lẽ, "khi ngƣời thứ ba đã tuyên bố chấp nhận lợi ích từ hợp đồng, thì
lợi ích này coi nhƣ thuộc khối tài sản riêng của họ và do đó không thể thu hồi
lại đƣợc nữa" [7, tr.1].
Đặc điểm thứ ba của hợp đồng đƣợc giao kết vì lợi ích của ngƣời thứ
ba đó là, ngƣời thứ ba phải là một ngƣời đƣợc xác định rõ trong hợp đồng.

Đây cũng là một trong những dấu hiệu của ngƣời thứ ba hƣởng lợi. Họ không
nhất thiết phải đang tồn tại vào thời điểm hợp đồng đƣợc xác lập mà chỉ cần
đƣợc xác định về mặt đặc tính hay những thông tin nhất định. Tuy nhiên, vào
thời điểm thực hiện hợp đồng, bắt buộc ngƣời thứ ba này phải tồn tại thì bên

22


thực hiện nghĩa vụ với họ mới có thể thực hiện đúng những cam kết trong hợp
đồng.
Những đặc điểm của hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba vừa là dấu
hiệu để phân biệt loại hợp đồng này với những hợp đồng thông thƣờng, nhất
là những hợp đồng có liên quan đến thuật ngữ ngƣời thứ ba - nhƣng đƣợc sử
dụng với ý nghĩa khác trong các quan hệ dân sự. Bên cạnh đó, đây cũng chính
là cơ sở quan trọng về mặt lý luận để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho ngƣời
thứ ba trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Để hiểu đƣợc rõ nét hơn về các đặc trƣng pháp lý của hợp đồng vì lợi
ích của ngƣời thứ ba, cần xem xét nó trong mối tƣơng quan với một số quan
hệ pháp luật có nét tƣơng đồng, đó là hành vi pháp lý đơn phƣơng, thực hiện
công việc không có ủy quyền và chế định đề nghị giao kết hợp đồng.
Trƣớc hết, xem xét Hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba trong mối
tƣơng quan với chế định hành vi pháp lý đơn phƣơng. Ở cả hai loại quan hệ
pháp luật này, đều xuất hiện một chủ thể chỉ có quyền mà không có nghĩa vụ,
quyền của chủ thể này xuất phát từ sự tự cam kết của chủ thể có nghĩa vụ.
Tuy nhiên, giữa Hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba và hành vi pháp lý đơn
phƣơng khác nhau ở chỗ, đối với hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba, ngƣời
thứ ba chính là đối tƣợng đƣợc hƣởng quyền do cam kết thực hiện nghĩa vụ
của chủ thể khác; lợi ích này cũng xuất phát từ thỏa thuận giữa một vài chủ
thể nhất định, thể hiện dƣới dạng một hợp đồng. Trong khi đó, ngƣời hƣởng
lợi ở chế định hành vi pháp lý đơn phƣơng lại chƣa đƣợc xác định rõ tại thời

điểm phát sinh quan hệ pháp luật này, đồng thời lợi ích của họ xuất phát từ ý
chí đơn phƣơng của một chủ thể nhất định.
Thứ hai, xem xét hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba trong tƣơng
quan với quan hệ pháp luật thực hiện công việc không có ủy quyền. Điều 574
BLDS 2015 quy định: “Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một

23


ngƣời không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhƣng đã tự nguyện thực hiện
công việc đó vì lợi ích của ngƣời có công việc đƣợc thực hiện khi ngƣời này
không biết hoặc biết mà không phản đối”. Trong cả hai loại quan hệ pháp luật
này, đều xuất hiện một chủ thể mặc dù không thông qua sự thỏa thuận nhƣng
vẫn đƣợc chủ thể khác thực hiện nghĩa vụ vì lợi ích của mình, và việc hƣởng
những lợi ích đó không phải chịu bất cứ một sự ràng buộc nào phát sinh trƣớc
đó, vì quan hệ pháp luật này vẫn có thể đƣợc thực hiện ngay cả khi ngƣời thứ
ba hay ngƣời có công việc không biết. Tuy nhiên, nếu trong hợp đồng vì lợi
ích của ngƣời thứ ba, việc hƣởng lợi ích của ngƣời thứ ba xuất phát trên cơ sở
một hợp đồng, có sự thỏa thuận và thống nhất ý chí giữa các chủ thể cam kết
thực hiện nghĩa vụ để ngƣời thứ ba hƣởng lợi mà ngƣời thứ ba không phải
thực hiện bất cứ một nghĩa vụ gì trƣớc và sau khi hƣởng lợi ích. Trong khi đó,
đối với thực hiện công việc không có ủy quyền, chủ thể thực hiện công việc
đó hoàn toàn tự nguyện và vì lợi ích của ngƣời có công việc không thông qua
sự ủy quyền của ngƣời có công việc, cũng không thông qua bất cứ một thỏa
thuận nào trƣớc đó. Tuy nhiên, việc thực hiện công việc của ngƣời không có
ủy quyền lại có thể làm phát sinh những trách nhiệm của ngƣời có công việc
sau khi công việc đó đƣợc thực hiện. Điều 576 BLDS 2015 quy định, ngƣời
có công việc đƣợc thực hiện phải tiếp nhận công việc khi ngƣời thực hiện
công việc không có ủy quyền bàn giao, không chỉ vậy, việc thực hiện công
việc đó còn làm phát sinh nghĩa vụ thanh toán của ngƣời có công việc, bao

gồm chi phí hợp lý khi ngƣời đó thực hiện công việc trên mà không phụ thuộc
vào mức độ và kết quả thực hiện công việc đồng thời phải trả một khoản thù
lao nhất định trong trƣờng hợp công việc đã đƣợc thực hiện chu đáo, có lợi
trừ trƣờng hợp ngƣời này từ chối nhận.
Thứ ba, hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba trong mối tƣơng quan với
chế định đề nghị giao kết hợp đồng. Lời đề nghị trong pháp luật dân sự là một

24


chế định mà trong đó, một bên đƣa ra lời đề nghị với bên kia với mục đích
nào đó. Khoản 1 Điều 386 BLDS 2015 định nghĩa: “Đề nghị giao kết hợp
đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề
nghị này của bên đề nghị đối với bên đã đƣợc xác định hoặc tới công
chúng...” Nhƣ vậy, các yếu tố của đề nghị giao kết hợp đồng bao gồm: thể
hiện rõ ý định giao kết hợp đồng; thể hiện ý chí của bên đề nghị muốn đƣợc
ràng buộc nếu bên kia chấp nhận nó; đề nghị đƣợc gửi tới đối tƣợng xác định
cụ thể. Đề nghị giao kết hợp đồng đƣợc xem là bƣớc đầu tiên trƣớc khi các
bên giao dịch dân sự thông qua việc giao kết hợp đồng, khi đó ngƣời đề nghị
thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của
mình đối với ngƣời đƣợc đề nghị. Trong mối tƣơng quan với chế định lời đề
nghị, hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba là một quan hệ pháp luật dân sự
theo đó, một bên cũng đƣa ra lời đề nghị đối với bên kia, nhƣng lời đề nghị đó
lại có nội dung về việc ngƣời đƣợc đề nghị cam kết phải thực hiện một công
việc theo chủ định của ngƣời đƣa ra đề nghị vì lợi ích của một chủ thể khác
(gọi là ngƣời thứ ba). Mặt khác, xem xét hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba
trên cơ sở chế định lời đề nghị cho thấy, đề nghị giao kết hợp đồng có điểm
tƣơng đồng với Hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba ở chỗ ngƣời cam kết và
ngƣời thứ ba đều có thể rút lại lời đề nghị giao kết hợp đồng hoặc hủy bỏ đề
nghị hƣởng lợi (Điều 389, 417), và lời đề nghị giao kết hợp đồng cũng nhƣ

hợp đồng vì lợi ích của ngƣời thứ ba đều chấm dứt hoặc không có hiệu lực
khi ngƣời thứ ba hoặc ngƣời đƣợc đề nghị giao kết hợp đồng không chấp
nhận. Tuy nhiên, quan hệ pháp luật này lại có điểm khác so với chế định lời
đề nghị ở chỗ, không chỉ có sự thỏa thuận của bên đề nghị và bên đƣợc đề
nghị mà còn cần sự chấp nhận của ngƣời thứ ba – ngƣời hƣởng lợi từ giao
dịch dân sự này, khi đó thì cam kết mới có hiệu lực. Đồng thời, thông qua sự

25


×