Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở qua thực tiễn huyện hoài đức, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 127 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH DUNG

THựC HIệN PHáP LUậT Về HòA GIảI ở CƠ Sở QUA THựC TIễN HUYệN HOàI ĐứC, THàNH PHố Hà NộI

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2017


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH DUNG

THựC HIệN PHáP LUậT Về HòA GIảI ở CƠ Sở QUA THựC TIễN HUYệN HOàI ĐứC, THàNH PHố Hà NộI
Chuyờn ngnh: Lý lun v lch s nh nc v phỏp lut
Mó s: 60 38 01 01

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: GS.TS HONG TH KIM QU

H NI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong


bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Dung


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT HÒA
GIẢI Ở CƠ SỞ .................................................................................. 8
1.1.
Khái niệm, các hình thức và vai trò thực hiện pháp luật hòa
giải ở cơ sở .......................................................................................... 8
1.1.1. Hòa giải cơ sở và khái niệm pháp luật hòa giải ở cơ sở ...................... 8
1.1.2. Khái niệm, các hình thức của thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở ....... 19
1.1.3. Vai trò thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở ..................................... 29
1.2.
Đặc điểm thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở ............................. 35
1.3.
Các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở .... 45

1.3.1. Yếu tố chính trị .................................................................................. 45
1.3.2. Yếu tố pháp lý ................................................................................... 47
1.3.3. Yếu tố xã hội ..................................................................................... 48
1.3.4. Yếu tố ý thức pháp luật, văn hóa pháp luật của đội ngũ hòa giải viên ..... 49
1.4.
Các điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở ...... 51
1.4.1. Trình độ, năng lực, phẩm chất chính trị và đạo đức của hòa giải viên..... 51
1.4.2. Ý thức pháp luật của các chủ thể trong thực hiện pháp luật về
hòa giải ở cơ sở.................................................................................. 52
1.4.3. Các đảm bảo về cơ sở vật chất .......................................................... 53
1.4.4. Chất lượng của hệ thống pháp luật .................................................... 54
1.4.5. Bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng cho đội ngũ hòa giải viên ................ 55
1.4.6. Xây dựng đạo đức nghề nghiệp trong hòa giải ở cơ sở ..................... 56
1.4.7. Công tác quản lý nhà nước, chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn
nghiệp vụ ........................................................................................... 57
1.4.8. Sự tham gia, hưởng ứng và vào cuộc tích cực của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong
công tác hòa giải ở cơ sở ................................................................... 58


Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT HÒA GIẢI
Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HOÀI ĐỨC, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI ................................................................................... 60
2.1.
Những đặc điểm của huyện Hoài Đức có tác động đến thực
hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở ....................................................... 60
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên ............................................................................. 60
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội .................................................................. 61
2.1.3. Tình hình thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở trên địa bàn
huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội từ năm 2014 - 2016 ................. 64

2.2.
Ƣu điểm, hạn chế và nguyên nhân trong thực hiện pháp
luật hòa giải ở cơ sở của huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội .... 70
2.2.1. Ưu điểm và nguyên nhân................................................................... 70
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân ................................................................... 78
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
HOÀI ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI .....................................................84
3.1.
Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở
trên địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội......................... 84
3.2.
Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở trên
địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội ................................. 92
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về hòa giải ở cơ sở ........................... 93
3.2.2. Nâng cao nhận thức pháp luật nói chung và pháp luật về hòa
giải ở cơ sở ...................................................................................... 100
3.2.3. Kiện toàn tổ chức và hoạt động của công tác hòa giải ở cơ sở ....... 103
3.2.4. Đảm bảo các điều kiện vật chất cho công tác hòa giải ở cơ sở ....... 107
3.2.5. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và phối hợp hoạt động của
các cơ quan nhà nước, các tổ chức đoàn thể với những người có
uy tín trong cộng đồng dân tộc, chức sắc tôn giáo trong công tác
hòa giải ở cơ sở................................................................................ 109
3.2.6. Đánh giá sự hài lòng, đóng góp ý kiến của người dân về công
tác hòa giải ở cơ sở .......................................................................... 112
KẾT LUẬN .................................................................................................. 114
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 117
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 122



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hòa giải ở cơ sở là nét đẹp truyền thống đạo lý của dân tộc Việt Nam,
là hoạt động mang tính tự nguyện, tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc. Hoạt
động hòa giải ở cơ sở về bản chất là hướng dẫn, giúp đỡ thông qua việc thuyết
phục, vận động các bên đi đến thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các
mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật dựa trên nguyên tắc tôn trọng ý chí,
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên; quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác; không xâm phạm lợi ích của nhà nước và lợi ích công cộng. Vì vậy, hòa
giải ở cơ sở đã khẳng định vai trò to lớn, ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã
hội, góp phần tăng cường tình đoàn kết trong cộng đồng dân cư, giữ gìn, phát
huy bản sắc văn hóa của dân tộc, kịp thời ngăn ngừa các hành vi vi phạm
pháp luật, góp phần bảo đảm ổn định, trật tự, an toàn xã hội, giảm bớt các vụ
việc phải chuyển đến Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải
quyết, tiết kiệm thời gian, kinh phí cho Nhà nước và nhân dân, từ đó góp phần
thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Những mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội có thể giải
quyết bằng nhiều hình thức khác nhau như tự thỏa thuận giữa các bên; đơn
phương chấm dứt xung đột theo phương châm “một câu nhịn, chín câu lành”;
nhờ sự can thiệp của chính quyền địa phương thông qua hòa giải ở cơ sở; khiếu
kiện ra Tòa án nhân dân. Thực tiễn cho thấy rất ít trường hợp sau khi xảy ra
tranh chấp mà các bên tự dàn xếp thỏa thuận được, hoặc một bên chấp nhận từ
bỏ lợi ích của mình để đơn phương chấm dứt xung đột, vì thế thường thì phải
nhờ đến sự can thiệp của một bên thứ ba mới có thể giải quyết được mâu thuẫn.
Nếu vụ việc bị đưa ra tòa án thì sẽ càng phức tạp hơn vì phải tuân theo một

1


trình tự thủ tục tố tụng chặt chẽ, cả người đi kiện và người bị kiện chắc chắn sẽ

mất rất nhiều thời gian và công sức để theo đuổi vụ kiện đến cùng. Vì thế trong
các hình thức trên, hòa giải ở cơ sở là một phương pháp hữu hiệu được sử dụng
vì nó vừa hợp đạo lý, tâm lý của người Việt Nam.
Nhằm nâng cao vị trí, vai trò của hoạt động hòa giải ở cơ sở đối với xã
hội, ngày 20 tháng 6 năm 2013 tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII đã thông qua Luật hoà giải ở cơ sở, có hiệu
lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2014. Là cơ sở pháp lý quan trọng cho
tổ chức và hoạt động của hoà giải ở cơ sở. Trong điều kiện đẩy mạnh cải cách
tư pháp, phát huy dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
việc phát huy tác dụng của hoạt động hoà giải ở cơ sở càng trở lên có ý nghĩa
đối với đất nước nói chung với huyện Hoài Đức nói riêng. Mặc dù đã có
nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về hoạt động hoà giải cơ sở,
nhưng thực tiễn công tác hoà giải ở cơ sở trên địa bàn huyện Hoài Đức chưa
phát huy được vai trò, ý nghĩa vốn có của nó, thậm chí còn có nhiều đơn vị
không chú trọng đến hoạt động này. Thực tiễn huyện Hoài Đức cho thấy ở
những đơn vị làm tốt công tác hòa giải ở cơ sở thì tình hình an ninh, trật tự
được giữ vững, tạo đà cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống người
dân. Ngược lại, ở những nơi còn coi nhẹ công tác hòa giải, tình hình mâu
thuẫn, tranh chấp có chiều hướng tăng, dẫn đến mất trật tự, trị an xã hội.
Thông thường, những mâu thuẫn, va chạm trong cuộc sống, lúc đầu đơn giản,
nhưng do không được quan tâm giải quyết kịp thời cho nên đã nhanh chóng
trở thành phức tạp, thậm chí là nguyên nhân xuất hiện những điểm nóng về
khiếu kiện.Vì lẽ đó, việc lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Thực hiện pháp luật về
hòa giải ở cơ sở - qua thực tiễn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội” có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

2


2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Những năm gần đây, vấn đề hòa giải nội dung, thực hiện pháp luật
về hòa giải cơ sở ở nước ta nói riêng được quan tâm nghiên cứu với nhiều
gốc độ khác nhau.
Đối với lĩnh vực hòa giải ở cơ sở, trong những năm gần đây cũng được
quan tâm nhiều hơn với một số công trình nghiên cứu khoa học như:
- Sách “Công tác hòa giải ở cơ sở” của luật gia Nguyễn Đình Hảo (chủ
biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
- Sách “Những điều cần biết về công tác hòa giải ở cơ sở” của luật gia
Trần Đông Tùng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
- Sách: “Cẩm nang công tác hòa giải ở cơ sở” của luật gia Dương Bạch
Long, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.
- Sách “Hòa giải ở cơ sở” của Nguyễn Phương Thảo, Nhà xuất bản Tư
pháp, Hà Nội, 2007.
- Sách “Hỏi đáp về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở” của Minh
Anh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.
- Để góp phần nâng cao năng lực cho cán bộ tư pháp thực hiện quản lý
công tác hòa giải ở cơ sở và đội ngũ hòa giải viên trên toàn quốc, Bộ Tư pháp
đã tiến hành xây dựng Bộ tài liệu tập huấn thống nhất về Công tác hòa giải ở
cơ sở dành cho cán bộ tư pháp và các hòa giải viên, ấn hành năm 2007, gồm
hai tập sau:
- Tập 1: Hướng dẫn quản lý công tác hòa giải, giới thiệu nghiệp vụ
quản lý công tác hòa giải, hướng dẫn cán bộ tư pháp địa phương về phương
pháp tập huấn, bồi dưỡng để tập huấn cho các hòa giải viên.
- Tập 2: Cẩm nang bồi dưỡng cho hòa giải viên, cung cấp cho các hòa
giải viên, cán bộ tư pháp các kiến thức pháp luật cần thiết trong hòa giải,
hướng dẫn nghiệp vụ hòa giải, phổ biến kinh nghiệm hòa giải.

3



- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường: “Nâng cao hiệu quả công tác
hòa giải ở cơ sở trên địa bàn huyện Châu Thành tỉnh An Giang từ nay đến
năm 2015”, Trường Chính trị Tôn Đức Thắng, năm 2009, chủ nhiệm đề tài:
Th.S Trần Hùng Điệp.
- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Bích Thủy với đề tài:
“Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hòa giải cơ sở trên địa bàn huyện
Thường Tín, thành phố Hà Nội”, (Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2012).
- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Đặng Thị Lan Phương với đề tài:
“Hòa giải cơ sở qua thực tiễn tỉnh Hải Dương”, (Đại học Quốc gia Hà Nội,
năm 2015)
Ngoài ra còn có một số bài báo như: “Sự ra đời của Luật Hòa giải ở cơ
sở là một bước tiế n quan trọng cho hoạt động hòa giải ở cơ sở” , Tạp chí Dân
chủ pháp luật ngày 28/9/2014; “Thực hiê ̣n tố t công tác hòa giải ở cơ sở” Tạp
chí Dân chủ pháp luật ngày 28/9/2014, tác giả Minh Hiếu...
Các công trình trên nghiên cứu vấn đề hòa giải ở cơ sở dưới nhiều góc
độ khác nhau, có ý nghĩa rất lớn đối với khoa học nói chung. Tuy nhiên trong
các công trình khoa học trên chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề
thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở - qua thực tiễn huyện Hoài Đức. Bên
cạnh đó, trong tình hình mới hiện nay, nhất là từ khi Luật Hòa giải ở cơ sở
năm 2013 ra đời đã quy định thêm những điểm mới mà các các công trình
nghiên cứu nêu trên chưa đề cập đến. Do đó, công tác hòa giải ở cơ sở cũng
cần cập nhật những vấn đề thực tiễn mới. Mặt khác, bản thân Học viên là một
cán bộ Tư pháp, công tác tại UBND cấp xã thì việc tổ chức, thực hiện các quy
định của pháp luật về hoạt động hòa giải ở cơ sở là một trong những nhiệm vụ
quan trọng. Qua thực tiễn nghiên cứu thực hiện pháp luật về hòa giải cơ sở
trên địa bàn, cần nhận thấy phải phát huy hơn nữa những kết quả đạt được
đồng thời phải tiếp tục nghiên cứu nhằm tìm ra những giải giáp đảm bảo
nhằm nâng cao chất lượng hòa giải ở cơ sở trên địa bàn huyện Hoài Đức.
4



3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận cơ bản của thực hiện pháp
luật hòa giải ở cơ sở và đánh giá thực trạng của công tác thực hiện pháp luật
về hòa giải ở cơ sở - qua thực tiễn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội, luận
văn đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần đảm bảo thực hiện pháp
luật về hòa giải ở cơ sở - qua thực tiễn huyện Hoài Đức trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận của việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở
cơ sở để thấy được tầm quan trọng của công tác hòa giải ở cơ sở.
- Khẳng định quan điểm của Đảng và những cơ sở pháp lý của Nhà
nước để bảo đảm cho việc thực hiện tốt hơn về pháp luật hòa giải ở cơ sở.
- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở - qua thực
tiễn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội bao gồm những kết quả đạt được, mặt
mặt còn hạn chế, xác định nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế đó.
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật hòa giải
ở cơ sở - qua thực tiễn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật về hòa giải cơ
sở - qua thực tiễn tại huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội. Từ đó lấy làm căn cứ
lý luận trực tiếp cho việc đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện
pháp luật hòa giải cơ sở trên địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu việc thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở trên địa bàn
huyện Hoài Đức thời gian từ năm 2014 đến năm 2016.

5



5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà
nước và pháp luật nói chung, về thực hiện pháp luật về hòa giải cơ sở nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin,
các phương pháp như phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương
pháp lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích tổng hợp… Ngoài ra, còn sử dụng
một số phương pháp của các bộ môn khoa học khác như phương pháp so
sánh, thống kê kết hợp với khảo sát thực tế, phân tích tài liệu thứ cấp.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu việc thực hiện
pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên phạm vi cấp huyện Hoài Đức, thành phố Hà
Nội. Vì vậy, luận văn có một số điểm mới, cụ thể:
- Phân tích và góp phần làm rõ thêm các vấn đề lý luận có liên quan
đến đề tài như: khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của thực hiện pháp luật
về hòa giải ở cơ sở.
- Khái quát được những ưu điểm và hạn chế của thực hiện pháp luật
hòa giải cơ sở trên địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
- Đề xuất những giải pháp phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương.
Thông qua đánh giá thực trạng, luận văn góp phần tổng kết thực tiễn 05
năm thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn huyện Hoài Đức, từ
đó làm giàu thêm vốn lý luận bằng những kinh nghiệm thực tiễn mới, đồng
thời vận dụng những lý luận đó vào thực tiễn công tác để càng nâng cao hơn
nữa hiệu quả của hoạt động.


6


Trên cơ sở những giải pháp đề tài nêu ra, có thể không chỉ áp dụng cho
huyện Hoài Đức mà còn có thể áp dụng chung cho cả thành phố Hà Nội. Luận
văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cấp ủy, chính quyền ở huyện Hoài
Đức trong việc xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức và hoạt động hòa giải ở
cơ sở; hoặc dùng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu, tập huấn cho hòa giải
viên ở cơ sở và tổ chức tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về hòa giải
cơ sở ở địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương.
Chương 1. Cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở.
Chương 2. Thực trạng thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa
bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
Chương 3. Quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật hòa
giải ở cơ sở trên địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.

7


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT HÒA GIẢI
Ở CƠ SỞ
1.1. Khái niệm, các hình thức và vai trò thực hiện pháp luật hòa
giải ở cơ sở
1.1.1. Hòa giải cơ sở và khái niệm pháp luật hòa giải ở cơ sở
1.1.1.1. Khái niệm hòa giải ở cơ sở
Trong lý luận khoa học cũng như trong thực tiễn, tùy theo cách tiếp cận

khác nhau mà có nhiều quan niệm về hòa giải.
Theo Đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý (chủ biên) thì hòa giải là:
“làm cho ổn thỏa tình trạng mâu thuẫn xích mích giữa hai bên” [59, tr.815].
Quan niệm này chỉ đưa ra một cách hiểu chung nhất về hòa giải mà chưa nêu
được cách thức và đặc trưng pháp lý của nó.
Theo từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học thì hòa giải là:
“thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung đột hoặc xích mích một cách ổn
thỏa” [58, tr.430]. Quan niệm này nêu lên phương thức và mục đích hòa giải
nhưng lại chưa khái quát được bản chất, nội dung và các yếu tố cấu thành các
loại hình hòa giải.
Về mặt pháp lý, theo từ điển Luật học thì hòa giải là:
Tự chấm dứt việc xích mích, tranh chấp giữa các bên bằng sự
thương lượng với nhau hoặc qua sự trung gian của một người khác.
Hòa giải thành thì giữ gìn được sự đoàn kết giữa các bên, tránh
được việc kiện tụng kéo dài, tốn kém và những trường hợp chỉ vì
mâu thuẫn nhỏ mà biến thành việc hình sự [28, tr.208].
Quan niệm này không phân biệt được phương thức thương lượng tự
giải quyết với phương thức hòa giải.

8


Một số luật gia lại cho rằng, hòa giải là chế định pháp luật về hòa giải,
coi hòa giải như là một quy định, một trình tự, thủ tục để giải quyết các tranh
chấp về dân sự, hôn nhân gia đình, đất đai… Cách tiếp cận này thiên nhiều về
tố tụng trong khi hòa giải có thể được tiến hành cả trong tố tụng và ngoài tố
tụng. Các nhà hoạt động thực tiễn thì coi hòa giải là hành vi thuyết phục các
bên tranh chấp xóa bỏ những mâu thuẫn, bất đồng.
Trên thực tế, có nhiều loại hình hòa giải trong đời sống xã hội, mỗi loại
hình có phạm vi điều chỉnh và đối tượng điều chỉnh riêng, cũng như có nội

dung, thủ tục tiến hành, chủ thể tham gia và các đặc trưng pháp lý riêng. Vì
thế khó có thể đưa ra một khái niệm hòa giải chung cho tất cả các loại hình
hòa giải. Mặc dù vậy các hình thức hòa giải cũng có một số điểm chung giống
nhau, đó là có sự tham gia của bên thứ ba độc lập nhằm giúp các bên tranh
chấp giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn xảy ra trong đời sống. Trên cơ sở đó,
có thể rút ra một định nghĩa tổng quát về hòa giải như sau:
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong đời sống
xã hội, trong đó có sự tham gia của bên thứ ba độc lập do hai bên cùng chấp
nhận hay chỉ định làm vai trò trung gian để hỗ trợ các bên trong quá trình
giải quyết tranh chấp, nhằm tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giải
quyết xung đột và chấm dứt các tranh chấp, bất hòa.
Hòa giải nói chung mang tính tự nguyện, tùy thuộc vào sự lựa chọn của
các bên nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật và không trái với
truyền thống đạo đức xã hội. Có thể thấy hòa giải là phương thức giải quyết
tranh chấp được Ủy ban nhân dân, Tòa án, Trọng tài và các tổ chức, cá nhân…
sử dụng thường xuyên trong giải quyết tranh chấp.
Theo pháp luật nước ta hiện nay có những hình thức hòa giải như: hòa
giải tại tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự, hòa giải về tranh chấp lao động của
hội đồng hòa giải lao động, hòa giải về tranh chấp đất đai của Ủy ban nhân

9


dân, hòa giải về tranh chấp thương mại, hòa giải theo thủ tục tố tụng trọng tài,
hòa giải trong cộng đồng dân cư ở cơ sở… Về cơ bản, có thể chia các hình
thức hòa giải trên thành 2 loại, đó là hòa giải trong tố tụng và hòa giải ngoài
tố tụng. Hình thức hòa giải tại tòa án và trọng tài là hòa giải trong tố tụng, các
hình thức khác là hòa giải ngoài tố tụng.
Hình thức hòa giải trong cộng đồng dân cư đã có từ lâu ở Việt Nam, trước
khi Pháp lệnh về Tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở (ngày 25/12/1998) được

ban hành, và cũng được gọi là “hòa giải ở cơ sở”.
Hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt
được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi
phạm pháp luật theo quy định của Luật hòa giải ở cơ sở. Khác với các hình
thức hòa giải tại tòa án và tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đều mang
tính thủ tục, bắt buộc thì hoạt động hòa giải ở cơ sở mang tính tự nguyện, tự
quản xã hội; xuất phát từ đặc điểm lịch sử, truyền thống, tâm lý dân tộc, lối
sống cộng đồng, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái.
Điều 1 Pháp lệnh số 09/1998/PL-UBTVQH về Tổ chức và hoạt động
hòa giải ở cơ sở quy định:
Hoà giải ở cơ sở là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các
bên đạt được thoả thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những việc
vi phạm và tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân
dân, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an
toàn xã hội trong cộng đồng dân cư [51, tr.1].
Điều 2 Nghị định số 160/1999/NĐ-CP ngày 18/10/1999 của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải
cơ sở cũng đưa ra khái niệm về hòa giải ở cơ sở:
Hoà giải ở cơ sở là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên tranh
chấp đạt được thoả thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những việc vi phạm

10


pháp luật và tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân,
củng cố, phát huy những tình cảm và đạo lý truyền thống tốt đẹp trong gia
đình và cộng đồng dân cư, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm
trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư [8, tr.1].
Các bên được đề cập ở đây có thể là các thành viên trong một hộ gia
đình, các hộ gia đình với nhau hoặc các cá nhân với nhau. Thuật ngữ “cơ sở”

theo quy định của Pháp lệnh về Tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở và
Nghị định này là thôn, xóm, bản, ấp, tổ dân phố và các cụm dân cư khác như
các chợ cố định, tụ điểm du lịch, vui chơi giải trí. Ở đây nhấn mạnh đến “cơ
sở” là nơi trực tiếp xảy ra tranh chấp.
Đến Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013, tại Điều 2 quy định thì Hòa giải ở
cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự
nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo
quy định của Luật này.
Như vậy, hòa giải ở cơ sở là hoạt động của một bên trung gian để
hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên tranh chấp đạt được thoả thuận, tự
nguyện giải quyết với nhau những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ
nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân; củng cố, phát huy những tình
cảm và đạo lý truyền thống tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng dân cư;
phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội ở
thôn, xóm, bản, ấp, tổ dân phố và các cụm dân cư khác như các chợ cố định,
tụ điểm du lịch, vui chơi giải trí theo quy định của pháp luật.
1.1.1.2. Pháp luật hòa giải ở cơ sở
Pháp luật hòa giải ở cơ sở là những quy định của pháp luật dùng để
điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình hoạt động hòa giải ở cơ sở.
Pháp luật hòa giải ở cơ sở được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tổng thể
các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thầm quyền ban

11


hành có chứa đựng các quy phạm pháp luật về hòa giải ở cơ sở, từ văn bản
cao nhất là Hiến pháp cho đến văn bản luật và các văn bản dưới luật khác.
Hòa giải ở cơ sở là một trong hình thức hòa giải có vai trò rất tích cực,
thiết thực để giúp các bên tự nguyện, giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp một
cách nhẹ nhàng, hiệu quả, có lý, có tình, vừa hạn chế khắc phục được hậu

quả, vừa giữ gìn được tình làng, nghĩa xóm, tình đoàn kết tương thân, tương
ái trong cộng đồng.
Hòa giải ở cơ sở có ưu điểm cơ bản là giải quyết kịp thời ngay từ đầu
các mâu thuẫn, tranh chấp không để tranh chấp trở nên gay gắt, “chuyện bé xé
ra to” bằng các biện pháp giải quyết vừa có lý vừa có tình. Những người thực
hiện và tham gia hòa giải là những người gần gũi, quen biết, hàng ngày cùng
lao động, sinh hoạt, dễ tạo sự thông cảm giữa các bên. Hòa giải ở cơ sở được
thực hiện tốt sẽ góp phần hạn chế các vụ, việc khiếu kiện vượt cấp, giảm bớt
các vụ việc phải đưa ra cơ quan có thẩm quyền hoặc Tòa án giải quyết, tiết
kiệm thời gian, tiền bạc của nhân dân và nhà nước.
Hòa giải ở cơ sở còn trực tiếp tác động đến việc nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật của nhân dân. Khi hòa giải (dù là hình thức nào), hòa giải viên
đứng ra hòa giải đều phải vận dụng các quy định pháp luật để giải thích,
hướng dẫn các bên tranh chấp, giúp họ hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình
để từ đó xử sự phù hợp với quy định pháp luật, chuẩn mực đạo đức xã hội.
Nhận thức vị trí, vai trò và ý nghĩa của hòa giải ở cơ sở, Đảng và Nhà
nước ta rất quan tâm đến công tác hòa giải ở cơ sở và quy định khá chặt chẽ.
Ngay từ giai đoạn trước cách mạng tháng 8/1945, dưới chế độ phong
kiến rồi đến chế độ thực dân nửa phong kiến, do tính tự quản của làng, xã khá
cao, việc giải những mâu thuẫn nhỏ trong nội bộ nhân dân chủ yếu do các
hương ước, khoán ước của mỗi làng quy định. Nghiên cứu hương ước của
một số làng, cho thấy vấn đề hòa giải được quy định khá chặt chẽ.

12


Lấy ví dụ như trong khoán ước lập ngày 21 tháng 01 năm Vĩnh Hựu
(1739) đời Lê Ý Tông của xã Dương Liễu, huyện Đan Phượng, phủ Quốc Oai
(nay thuộc huyện Đan Phượng, Hà Nội), ở điều khoản thứ 10 có ghi như sau:
“Bản xã có người nào đánh nhau, chửi nhau, cho phép trình báo các chức sắc

hàng xã để khuyên giải phân xử phải trái. Nếu như người nào không làm theo
như thế, mà đem bẩm báo lên nha môn, khi xét xử thấy đúng như lời khuyên
phân xử của làng, thì bắt phạt người ấy ba quan tiền cổ. Nếu ai không trình
báo với các hàng chức sắc ở xã để phân xử phải trái, lại bẩm báo thẳng lên
quan trên thì cũng xử phạt như thế”
Đến giai đoạn từ tháng 8/1945 đến ngày 25/12/1998, sau khi cách mạng
tháng Tám thành công (1945), ngay từ những ngày đầu thiết lập chính quyền
dân chủ nhân dân, Nhà nước ta đã ban hành các văn bản pháp luật quy định về
hòa giải. Các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp
như Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946, Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 do
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký đã quy định: Ban Tư pháp xã có nhiệm vụ hòa giải
tất cả các sự việc về dân sự, thương sự. Việc quản lý hoạt động hòa giải giai
đoạn này thuộc nhiệm vụ của ngành Tư pháp.
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1975), Hiến pháp
năm 1980 được ban hành đã ghi nhận một quy định có ý nghĩa rất quan trọng
đối với việc giải quyết tranh chấp trong nhân dân: "Ở cơ sở, thành lập các tổ
chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những việc vi phạm pháp luật và
tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật" (Điều 128).
Năm 1981, Bộ Tư pháp được tái lập [1], có nhiệm vụ quản lý và hướng
dẫn hoạt động của tổ hòa giải. Ngày 6 tháng 01 năm 1982, Bộ Tư pháp ban
hành Thông tư số 08/TT hướng dẫn xây dựng và kiện toàn tổ chức hệ thống
các cơ quan Tư pháp địa phương, trong đó quy định Ban Tư pháp cấp xã có
nhiệm vụ hướng dẫn, giúp đỡ các Tổ hòa giải về mặt pháp lý và kinh nghiệm

13


trong hoạt động hòa giải. Các tổ hòa giải đã được thành lập ở khắp các thôn,
xóm, ấp, bản. Hòa giải đã trở thành phong trào quần chúng sâu rộng, góp
phần giữ vững trật tự xã hội, phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm, củng

cố tình đoàn kết trong nhân dân.
Tuy nhiên, vào đầu những năm 1980, do tình hình kinh tế - xã hội có
nhiều khó khăn, tổ chức và hoạt động hòa giải cũng như phong trào hòa giải ở
nhiều địa phương bị giảm sút, có nơi gần như tan rã. Lúc này các hợp tác xã
nông nghiệp, các đội sản xuất vốn từ lâu gắn liền với thôn xóm, tổ hòa giải đã
thay đổi cách thức tổ chức và hoạt động. Giữa những năm 1980, cơ chế quản
lý kinh tế thay đổi, cơ cấu kinh tế cũng bắt đầu thay đổi, sự quan tâm của
người dân đến hòa giải không còn được như trước đó. Bộ máy nhà nước lại
thu gọn, tinh giảm biên chế. Có thời điểm tổ chức các cơ quan tư pháp địa
phương, là cơ quan quản lý công tác hòa giải có nhiều biến động: bộ máy của
Sở Tư pháp cấp tỉnh bị thu gọn lại không còn các phòng, ban chuyên môn;
Phòng Tư pháp cấp huyện bị giải thể, sáp nhập vào Văn phòng Ủy ban nhân
dân cùng cấp [2]...; Tư pháp xã không có cán bộ chuyên trách, công tác hòa
giải thiếu sự chỉ đạo, hướng dẫn về nghiệp vụ của cơ quan chuyên trách của
Nhà nước. Bên cạnh đó, một vài địa phương như thành phố Hà Nội, Thành
phố Hồ Chí Minh còn duy trì đủ hệ thống tư pháp từ tỉnh đến xã thì tổ chức
hoạt động hòa giải vẫn ổn định.
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VII (1991) đề ra nhiệm vụ: “Phát huy vai trò nhân dân tham gia quản lý nhà
nước, vừa nâng cao chất lượng chế độ dân chủ đại diện, vừa mở rộng và phát
huy chế độ dân chủ trực tiếp, nhất là ở cơ sở. Củng cố và phát triển các tổ
chức tự nguyện của nhân dân”. Đó là cơ sở quan trọng để củng cố và tăng
cường hoạt động của tổ hòa giải. Hiến pháp năm 1992 được ban hành tiếp tục
ghi nhận quy định: "Ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để

14


giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân
theo quy định của pháp luật". Điều 2, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm

1992 cũng quy định: "Ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân
để giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân
dân". Với sự chỉ đạo, lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, sự nỗ lực của các
cơ quan quản lý Nhà nước, của Mặt trận Tổ quốc các cấp, sự sáng tạo của cơ
sở, từ năm 1992, tổ chức và hoạt động hòa giải dần dần được khôi phục, củng
cố và phát triển. Ở Trung ương, Bộ Tư pháp được Chính phủ giao nhiệm vụ
quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, tổng kết hoạt động của các Tổ hoà giải
(Điều 2, Nghị định số 38/CP ngày 4 tháng 6 năm 1993 của Chính phủ). Ở địa
phương, các cơ quan Tư pháp (Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, Ban tư pháp)
được giao nhiệm vụ quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động các Tổ hoà giải
trong phạm vi địa phương (Thông tư liên bộ số 12/TTLB ngày 26 tháng 7
năm 1993 của Bộ Tư pháp và Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ).
Tháng 8 năm 1994, Bộ Tư pháp tổ chức Hội nghị chuyên đề về tư pháp
xã và Tổ hoà giải để tổng kết, đánh giá tình hình tổ chức và hoạt động hoà
giải toàn quốc, đề ra những biện pháp tiếp tục kiện toàn tổ chức và nâng cao
hiệu quả hoà giải ở các địa phương trong thời kỳ mới - thời kỳ hệ thống các
cơ quan tư pháp được tổ chức hoàn chỉnh từ Trung ương đến địa phương.
Năm 1997, cả nước đã xây dựng và kiện toàn được hơn 85.000 tổ hoà giải với
tổng số gần 400.000 hoà giải viên. Nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương đã xây dựng được hàng nghìn tổ hoà giải. Hằng năm, trung bình ở mỗi
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các tổ hoà giải đã hoà giải được 3.000
đến 4.000 vụ, việc với tỉ lệ hoà giải thành công từ 70- 80% vụ việc xảy ra ở
cơ sở. Công tác hòa giải có những chuyển biến mới sau khi có Nghị quyết
Hội nghị Trung ương lần thứ 8 khoá VII, trong đó xác định “Coi trọng vai
trò hòa giải của chính quyền kết hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể ở

15


cơ sở”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khoá VIII, trong đó nêu

rõ: "Tổ chức và hướng dẫn các hình thức nhân dân tự quản ở cơ sở và khu
vực dân cư đối với những việc dân tự làm hoặc do Nhà nước uỷ thác do dân
làm với sự hỗ trợ của Nhà nước như: hoà giải mâu thuẫn, tranh chấp trong nội
bộ nhân dân, bài trừ tệ nạn xã hội, bảo vệ trật tự an ninh…". Tiếp đó, Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về đổi mới
và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn đã yêu
cầu: "Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thúc đẩy việc thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở…; tham gia hoà giải các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, bày tỏ
thái độ đối với những khiếu kiện của dân để góp phần giải quyết từ gốc".
Thể chế hóa chủ trương của Đảng về tăng cường hòa giải ở cơ sở, ngày
25 tháng 12 năm 1998, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh về
Tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở. Ngày 18 tháng 10 năm 1999, Chính
phủ ban hành Nghị định số 160/1999/NĐ-CP quy định chi tiết một số Điều
của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở. Đây là hai văn bản
pháp luật có hiệu lực pháp lý cao quy định đầy đủ và đồng bộ các vấn đề về tổ
chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở, thể hiện tính kế thừa truyền thống hoà
giải ở nước ta, tạo cơ sở pháp lý cho việc tiếp tục củng cố tổ hoà giải, xây
dựng và củng cố đội ngũ hòa giải viên, tăng cường vai trò, trách nhiệm của
các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội khác, cơ quan nhà nước, đơn vị
lực lượng vũ trang và công dân đối với công tác hoà giải ở cơ sở. Theo Pháp
lệnh Tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở và Nghị định số 160-CP thì:
Hòa giải ở cơ sở là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các
bên tranh chấp đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau
những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn đoàn
kết trong nội bộ nhân dân, củng cố, phát huy những tình cảm và đạo
lý truyền thống tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng dân cư, phòng

16



ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội
trong cộng đồng dân cư [8].
Đây là hai văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao quy định đầy đủ
và đồng bộ các vấn đề về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở, thể hiện tính
kế thừa, tính liên tục của truyền thống hòa giải ở nước ta, tạo cơ sở pháp lý
cho việc tiếp tục củng cố tổ chức, xây dựng đội ngũ hòa giải viên và tăng
cường vai trò, trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội
khác, cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang và công dân đối với công
tác hòa giải ở cơ sở.
Ngoài Pháp lệnh hòa giải ở cơ sở, một số văn bản quy phạm pháp luật
khác cũng có những quy định về hòa giải ở cơ sở. Quyết định số 06/2008/QĐBTP ngày 26/5/2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành biểu mẫu
thống kê về tổ chức và hoạt động của Tổ hòa giải ở cơ sở; Chương trình phối
hợp số 1285/CTPH-BTP-BTTUBTƯMTTQVN ngày 24/4/2009 giữa Bộ Tư
pháp và Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về
tăng cường thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở; Chỉ thị số 03/CT-BTP ngày
27/6/2011 về tăng cường công tác hòa giải ở cơ sở…
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1999 quy định vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam trong tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện
quyền làm chủ, thi hành chính sách pháp luật, tham gia hoạt động hòa giải ở
cơ sở theo quy định của pháp luật về hòa giải; Bộ luật Dân sự năm 1995; Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 có những quy định về việc Nhà nước và xã
hội khuyến khích việc hòa giải tại cơ sở đối với các tranh chấp dân sự, các vụ
việc ly hôn. Luật Đất đai năm 1993, 2003 có các quy định về hòa giải trong
việc giải quyết tranh chấp đất đai ở cấp xã.
Những năm đầu của thế kỷ XXI, chính sách về hòa giải tiếp tục được
khẳng định. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 26 tháng 5 năm 2005 của Bộ

17



Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã đề ra nhiệm vụ “Hoàn thiện
pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế (trọng tài, hoà giải) phù hợp với
tập quán thương mại quốc tế”. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6
năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã
xác định: “Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương
lượng, hoà giải, trọng tài; toà án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải
quyết đó”. Những chủ trương và nhiệm vụ nói trên đã từng bước được triển
khai trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp từ năm 2005 đến
nay với những chế định liên quan đến hòa giải ở cơ sở như Luật Trọng tài
thương mại; Luật thi hành án dân sự, Luật Bảo vệ môi trường...Đỉnh cao của
hoàn thiện thể chế về hòa giải, trong điều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp,
phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xuất phát
từ vị trí, vai trò và ý nghĩa của công tác hòa giải ở cơ sở, để đáp ứng yêu cầu
của thực tiễn, ngày 20/6/2013, tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII đã thông
qua Luật Hòa giải ở cơ sở. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014. Luật
đã thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng về hòa giải các tranh chấp
trong nhân dân. Đây là công trình lập pháp quan trọng thể chế hóa một bước
cơ bản chủ trương của Đảng về tăng cường công tác hòa giải ở cơ sở trong
thời kỳ đổi mới. Để triển khai thi hành Luật hòa giải ở cơ sở, ngày 27/02/2014
Chính phủ đã ban hành Nghị đinh số 15/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật hòa giải ở cơ sở; Ngày 18/11/2014, Chính
phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt nam phối hợp ban hành
Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT-CP-UBMTTQVN hướng dẫn phối
hợp thực hiện một số quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở, cùng với các
văn bản của các cơ quan hữu quan, các văn bản của Ủy ban nhân dân ban
hành đã tạo nên một hệ thống đồng bộ các văn bản pháp luật về tổ chức và
hoạt động hòa giải ở cơ sở.
18



Như vậy, có thể định nghĩa pháp luật hòa giải ở cơ sở như sau:
Pháp luật hòa giải ở cơ sở là tổng thể các quy phạm pháp luật thể chế
hoá đường lối chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân, do cơ quan
Nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong lĩnh vực hòa giải ở cơ sở.
1.1.2. Khái niệm, các hình thức của thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở
1.1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở
Pháp luật là một công cụ quản lý xã hội sắc bén, song pháp luật chỉ có
thể phát huy được vai trò và những giá trị của mình trong việc duy trì trật tự
và tạo điều kiện cho xã hội phát triển khi nó được tôn trọng và thực hiện trong
cuộc sống. Vì vậy, thực hiện pháp luật là hoạt động không thể thiếu.
Nhà nước xây dựng những quy phạm pháp luật nhằm mục đích điều
chỉnh các quan hệ xã hội đáp ứng lợi ích của nhân dân và tiến bộ xã hội. Mục
đích đó chỉ có thể đạt được khi pháp luật được các chủ thể nghiêm chỉnh thực
hiện trong đời sống xã hội. Pháp luật với tầm quan trọng của nó không chỉ
dừng lại bằng các quy phạm pháp luật, vì đó chỉ là pháp luật ở trạng thái “tĩnh”,
vấn đề quan trọng là “pháp luật phải trở thành chế độ pháp chế, được thực hiện
thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân; trở
thành phương thức quản lý xã hội, cho tổ chức đời sống xã hội” [55, tr.225].
Hiện nay đang có nhiều cách định nghĩa về thực hiện pháp luật. Theo
tài liệu học tập và nghiên cứu môn Lý luận chung về Nhà nước và pháp
luật của Khoa Nhà nước và Pháp luật thuộc Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh (nay là Viện Nhà nước - Pháp luật thuộc Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh) thì thực hiện pháp luật được hiểu là “quá trình hoạt
động có mục đích làm cho những qui định của pháp luật trở thành hiện
thực trong cuộc sống, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ
thể pháp luật” [21, tr.270].

19



Theo giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Khoa
Luật của Đại học Quốc gia Hà Nội, thực hiện pháp luật là “hiện tượng, quá
trình có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hoạt động
thực tế của các chủ thể pháp luật” [24, tr.369].
Theo giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật của trường Đại học Luật
Hà Nội: “Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho
những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực
tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật” [24, tr.463].
Theo giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Đại học
Quốc gia Hà Nội “Thực hiện pháp luật là hoạt động, là quá trình làm cho
những quy tắc của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp
luật” [24, tr.344].
Các định nghĩa trên đều có quan niệm tương đối đồng nhất về nội dung
cơ bản đó là: thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm thực hiện
những yêu cầu của pháp luật, thực hiện pháp luật là hoạt động thực tế, hợp
pháp của các chủ thể pháp luật làm cho những quy định của pháp luật trở
thành hiện thực trong cuộc sống.
Xét trong quy trình điều chỉnh pháp luật, thực hiện pháp luật là sự nối
tiếp hoạt động xây dựng pháp luật, gồm toàn bộ các hoạt động nhằm đưa các
quy phạm pháp luật vào đời sống xã hội và sinh hoạt của công dân. Về bản
chất, thực hiện pháp luật là quá trình hiện thực hóa pháp luật, làm bộc lộ và
phát huy những giá trị tiềm năng của pháp luật trong thực tế. Trong thực hiện
pháp luật, những hoạt động có tính chủ động như sử dụng pháp luật, áp dụng
pháp luật đòi hỏi phải có một cơ chế tổ chức và nguồn lực lớn về con người
lẫn vật chất mới có thể bảo đảm thực hiện tốt [21, tr.25].
Tóm lại, thực hiện pháp luật được hiểu là quá trình hoạt động có mục
đích làm cho các qui định của pháp luật trở thành những hoạt động thực tế,
hợp pháp của các chủ thể pháp luật và được thực hiện trong thực tế cuộc sống.

20


×