Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Lạm phát và ứng dụng mô hình arima để dự báo lạm phát ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
----------

ĐẶNG HỮU THỦY

LẠM PHÁT VÀ ỨNG DỤNG MÔ HÌNH ARIMA
ĐỂ DỰ BÁO LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
----------

ĐẶNG HỮU THỦY

LẠM PHÁT VÀ ỨNG DỤNG MÔ HÌNH ARIMA
ĐỂ DỰ BÁO LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành : Tài chính – Ngân hàng
Mã số

: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


GS.TS NGUYỄN THANH TUYỀN

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ kinh tế: “Lạm phát và ứng dụng mô hình
Arima để dự báo lạm phát ở Việt Nam” là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu khoa
học độc lập của riêng tôi. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn và có tính kế thừa, phát triển từ các tài liệu, tạp chí, các công trình nghiên
cứu đã được công bố. Các chiến lược và giải pháp nêu trong luận văn được rút ra từ
những cơ sở lý luận và quá trình nghiên cứu thực tiễn.
Tp Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 06 năm 2014
Người cam đoan


MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục cụm từ viết tắt
Danh mục hình vẽ, bảng biểu
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………………………..1
2. Mục tiêu nghiên cứu…………………………………………………………………1
3. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………………….1
4. Phạm vi nghiên cứu…………………………………………………………………..1
5. Thời gian nghiên cứu ...…………………………………………………………….. 2
6. Nội dung nghiên cứu…………………………………………………………………2

CHƯƠNG 1: TỒNG QUAN VỀ LẠM PHÁT
1.1. Khái niệm về lạm phát………………………………………………………….. 3
1.2. Đo lường lạm phát………………………………………………………………..4
1.3. Phân loại lạm phát………………………………………………………………..7
1.3.1 Xét về mặt định lượng ................................................................................. 7
1.3.2 Xét về mặt định tính .................................................................................... 9


1.4. Nguyên nhân gây ra lạm phát …………………………………………………….10
1.5 Tác động của lạm phát đến nền kinh tế …………………………………………..12
1.5.1 Hiệu ứng tích cực .......................................................................................... 12
1.5.2 Hiệu ứng tiêu cực .......................................................................................... 13
1.6 Giới thiệu mô hình Arima……………………………………………………… 15
1.6.1. Hàm tự tương quan ACF .............................................................................. 15
1.6.2. Hàm tự tương quan từng phần PACF ........................................................... 16
1.6.3. Mô hình AR(p) ............................................................................................. 20
1.6.4. Mô hình MA(q) ............................................................................................ 20
1.6.5. Sai phân I(d) ................................................................................................. 21
1.6.6. Mô hình ARIMA .......................................................................................... 21
1.6.7. Các bước phát triển mô hình ARIMA .......................................................... 23

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM
2.1. Tình hình lạm phát ở Việt Nam từ năm 2008 tới 2013 …………………………..25
2.1.1. Năm 2008 ..................................................................................................... 25
2.1.2. Năm 2009 ..................................................................................................... 26
2.1.3. Năm 2010 -2011 ........................................................................................... 29
2.1.4. Năm 2012 ..................................................................................................... 35
2.1.5. Năm 2013 ..................................................................................................... 39



2.2. Nguyên nhân lạm phát ở nước ta ……………………………………………….. 41
2.2.1. Tác động của ngoại lực ................................................................................. 41
2.2.2 Tác động nội sinh ........................................................................................... 43
2.3. Biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ trong thời kỳ 2008-2013 …………48
2.3.1. Các giải pháp tình thế ................................................................................... 49
2.3.2. Các giải pháp chiến lược để kiềm chế lạm phát ........................................... 50
2.3.3. Các giải pháp có tính chất quyết định ........................................................... 52
2.3.4. Các giải pháp hỗ trợ ...................................................................................... 53
2.3.5. Các giải pháp đồng bộ................................................................................... 54
2.3.6. Những thành công đạt được và tồn tại trong việc thực hiện chính sách vĩ mô
kiềm chế lạm phát của Chính phủ ........................................................................... 56
CHƯƠNG 3: NHỮNG KIẾN NGHỊ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT. ỨNG DỤNG MÔ
HÌNH ARIMA VÀO DỰ BÁO LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM
3.1. Những kiến nghị góp phần kiểm soát lạm phát nền kinh tế Việt Nam ................. 58
3.2. Ứng dụng mô hình Arima dự báo lạm phát tại Việt Nam ………………………..62
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 72


DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT
AFTA: Khu vực mậu dịch tự do Asean
APEC: Tổ chức hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương
ASEAN: Hiệp hội các nước Đông Nam Á
CP: Chính phủ
CPI: Chỉ số giá tiêu dùng
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
NHTM: Ngân hàng thương mại
NN: Nhà nước
OPEC: Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa
TCTD: Tổ chức tín dụng

TPHCM: Thành phố Hồ Chí Minh
UNDP: Chương trình phát triển của Liên hợp quốc
VN: Việt Nam
WTO: Tổ chức Thương mại Thế giới


DANH MỤC HÌNH VẼ, BẢNG BIỂU
Danh mục hình vẽ
Hình 2.1 - Diễn biến CPI năm 2008 (đơn vị %) ……………………………………...25
Hình 2.2 - Diễn biến CPI năm 2009 ( đơn vị %) ……………………………………..26
Hình 2.3 - Diễn biến CPI năm 2010 (đơn vị %) ……………………………………..29
Hình 2.4 - Diễn biến CPI năm 2011 …………………………………………………..31
Hình 2.5 - Diễn biến CPI năm 2012 …………………………………………………..35
Hình 2.5 - Diễn biến CPI năm 2013 …………………………………………………..39
Hình 3.1 - Đồ thị chỉ số CPI …………………………………………………………..63
Danh mục bảng biểu
Bảng 3.1 - Lược đồ tương quan chuỗi CPI gốc ………………………………………63
Bảng 3.2 - Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị chuỗi CPI gốc ………………………...64
Bảng 3.3 - Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị chuỗi CPI sai phân bậc 1 ……………..65
Bảng 3.4 - Lược đồ tương quan chuỗi CPI sai phân bậc 1 …………………………...66
Bảng 3.5 - Kết quả ước lượng chuỗi CPI mô hình Arima ……………………………67
Bảng 3.6 - Lược đồ tương quan chuỗi phần dư ………………………………………68


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang là một nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, trong những năm qua nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu

khá nổi bật như tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao, giảm tỷ lệ đói nghèo trong dân cư
xuống mức thấp, đời sống của người dân đạt được nhiều cải thiện so với thời kỳ mở cửa
cải cách nền kinh tế cách đây hơn 20 năm. Tuy nhiên thực tế cho thấy nền kinh tế Việt
Nam đang phải đối mặt với nhiều khó khăn như tình trạng lạm phát cao, tình trạng thâm
hụt thương mại và nợ chính phủ cũng như nợ quốc gia tăng cao. Kiểm soát và ổn định
lạm phát là một trong những mục tiêu quan trọng nhất trong chính sách kinh tế vĩ mô của
Chính phủ. Tỷ lệ lạm phát tại Việt Nam luôn ở mức cao so với các nước khác trên thế
giới. Chính vì thế, việc tìm hiểu những nguyên nhân tác động đến lạm phát từ đó đề ra
những giải pháp thích hợp cho thực trạng lạm phát Việt Nam là một vấn đề bức thiết hiện
nay. Điều đó đã thôi thúc tôi nghiên cứu đề tài “Lạm phát và ứng dụng mô hình Arima
để dự báo lạm phát ở Việt Nam”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là trước hết giải quyết mục đích chung như các
nghiên cứu khác về lạm phát đó là nghiên cứu các nguyên nhân, thực trạng và giải pháp
cho lạm phát nói chung. Thông qua đó áp dụng thực tế vào tình hình của Việt Nam để đưa
ra các giải pháp phù hợp nhằm kiểm soát lạm phát với điều kiện thực tế của Việt Nam
trong giai đoạn này. Ứng dụng mô hình Arima để dự báo lạm phát tại Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Bài luận văn sử dụng phương pháp định tính, định lượng, thống kê, so sánh và
tổng hợp nhằm làm rõ những vấn đề cần nghiên cứu. Nghiên cứu định lượng được sử
dụng trong chương 3 là mô hình Arima nhằm dự báo lạm phát tại Việt Nam.


2

4. Phạm vi nghiên cứu
Bài luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu tình hình lạm phát ở Việt Nam từ năm
2008 đến năm 2012. Số liệu dùng để chạy mô hình Arima được lấy từ nguồn IMF từ năm
1998 tới 2013.
5. Thời gian nghiên cứu

Thời gian bài luận văn nghiên cứu lạm phát ở Viêt Nam từ năm 2008 tới năm
2013. Bài nghiên cứu lấy mốc tời gian là năm 2008 do năm 2007 Việt Nam chính thức gia
nhập vào Tổ chức thương mại thế giới WTO đánh dấu bước phát triển hội nhập sâu rộng
vào nền kinh tế thế giới. Số liệu dùng để chạy mô hình Arima được lấy từ nguồn IMF từ
tháng 1 năm 1998 tới tháng 12 năm 2013.

6. Nội dung nghiên cứu
Cấu trúc của luận văn gồm 3 phần chính như sau:
CHƯƠNG 1 : TỒNG QUAN VỀ LẠM PHÁT
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM
CHƯƠNG 3: NHỮNG KIẾN NGHỊ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT. ỨNG DỤNG MÔ
HÌNH ARIMA VÀO DỰ BÁO LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM


3

CHƯƠNG 1 : TỒNG QUAN VỀ LẠM PHÁT
1.1. Khái niệm về lạm phát
Theo N. Gregory Mankiw: Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời
gian của mức giá chung của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị
thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm
phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường
theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh
tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm phát của một loại tiền
tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu. Phạm vi ảnh hưởng của hai thành phần này vẫn là
một chủ đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ mô. Ở cả hai trường hợp, lạm phát
được đo lường như là một tỷ lệ phần trăm thay đổi của chỉ số giá. Ngược lại với lạm phát
là giảm phát. Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi
là sự "ổn định giá cả".
Quan điểm của các nhà kinh tế về các yếu tố xác định tỷ lệ lạm phát vừa phải,

đặc biệt là trong thời gian ngắn, bị thay đổi nhiều. Sự thay đổi của lạm phát đôi khi
phần lớn được cho là những thay đổi trong những thay đổi thực của nhu cầu về hàng
hóa và dịch vụ hay là những sự thay đổi bất thường trong những nguồn hàng cung
cấp (ví dụ như những thay đổi làm khan hiếm), và đôi khi là những thay đổi trong
nguồn cung hay nhu cầu đối với tiền. Giữa thế kỉ 20, có hai trường phái đã bất đồng
gay gắt về nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát (ở mức độ vừa phải): các “nhà tiền
tệ” đã tranh cãi rằng cung tiền có ảnh hưởng lớn đến tất cả các nhân tố khác trong việc
xác định lạm phát, trong khi đó những người theo thuyết kinh tế của Keynes đã phản
đối rằng nhu cầu thực tế thì luôn quan trọng hơn những thay đổi trong cung tiền.


4

1.2. Đo lường lạm phát
Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một lượng
lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa trên dữ liệu được
thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao động và các tạp chí kinh
doanh cũng làm việc này). Giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau
để đưa ra một "mức giá cả trung bình", gọi là mức giá trung bình của một tập hợp các sản
phẩm. Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mức giá trung
bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ số giá cả
là tỷ lệ phần trăm mức tăng của mức giá trung bình hiện tại so với mức giá trung bình ở
thời điểm gốc. Để dễ hình dung có thể coi mức giá cả như là phép đo kích thước của một
quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước của nó.
Thực tế không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị
của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số,
cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép đo phổ
biến của chỉ số lạm phát bao gồm:
- Chỉ số giá sinh hoạt (CLI): là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt của một cá
nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả định một cách xấp

xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay không việc một CPI có thể cao hơn
hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này được xem như là "sự thiên lệch" trong phạm vi
CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để phản ánh những khác biệt
trong giá cả của các hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao động một cách rất lớn từ giá
cả thế giới nói chung).
- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI): đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi "người tiêu
dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp, những sự
thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát thông thường
hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được sử dụng trong việc chuyển trả lương, do
những người lao động mong muốn có khoản chi trả tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ lệ


5

tăng của CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao động có tính đến các điều chỉnh giá cả sinh hoạt,
nó ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của CPI, thông
thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi lạm phát đã
xảy ra). CPI được sử dụng một cách phổ biến trong việc đánh giá mức lạm phát . CPI đo
lường mức giá trung bình của 1 nhóm hàng hoá và dịch vụ cần cho tiêu dùng của các hộ
gia đình trong 1 giai đoạn nhất định. Chỉ số CPI được tính bằng cách so sánh giá trị hiện
tại và giá trị tại kỳ gốc của rổ hang hoá đã được chọn theo quy định:

Ưu điểm: Cho phép so sánh sự biến động mức giá tiêu dùng theo thời gian.
Nhược điểm: Không phản ánh được sự thay đổi trong cơ cầu tiêu dùng ,
đồng thời cũng không phản ánh được sự thay đổi về chất lượng của hàng hoá dịch vụ.
Ở Việt Nam , CPI được tính cho toàn quốc và cho từng địa phương, chỉ số giá
bình quân được thông báo hàng tháng, tổ hợp của nhiều tháng và cho cả năm và được
công bố cùng chỉ số giá vàng và chỉ số đô la Mỹ.
-


Chỉ số lạm phát cơ bản (lõi):

Chỉ số lạm phát cơ bản có cách tính tương tự như chỉ số CPI nhưng loại trừ một số
mặt hàng dễ thay đổi giá như lương thực và năng lượng. Hiện nay trên thế giới có nhiều
phương pháp đo lường lạm phát cơ bản nhưng có thể cho chúng vào 3 nhóm chính:
Nhóm phương pháp cơ học: Việc tính toán theo phương pháp này được thực hiện
bằng cách loại bỏ 1 số mặt hàng khỏi rổ CPI với nguyên tắc loại bỏ những hàng hoá đặc
trưng bởi những cú sốc mạnh ( có tính mùa vụ hay liên quan tới cung và giá cả không
được hình thành bởi thị trường).
Nhóm phương pháp thống kê: Loại bỏ tác động của những thay đổi thái quá của
giá cả ảnh hưởng tới tỷ lệ lạm phát chung. Nhóm mặt hàng bị loại trừ thay đổi theo từng


6

tháng và phụ thuộc vào độ biến động giá cả của hàng hoá đó. Các phương pháp thống kê
phổ biến nhất bao gồm pp bình quân thu gọn và pp bình quân gia quyền cộng dồn.
Nhóm phương pháp hồi quy: Sử dụng mô hình hồi quy trong kinh tế lượng để đưa
các số liệu thực tế của các biến số vào đánh giá lạm phát cơ bản.
- Chỉ số giá sản xuất (PPI): đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không tính
đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi
nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là không
bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển
hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều
người tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm
phát CPI "ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các
chỉ số là khác nhau; một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ.
- Chỉ số giá bán buôn: đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán buôn (thông
thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất giống với PPI.
- Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách có lựa

chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là vàng. Khi
nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc.
- Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội. Nó là
tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP của năm gốc,
từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực.
Chỉ số giảm phát GDP là chỉ số tính theo phần trăm phản ánh mức giá chung của
tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước. Chỉ số điều chỉnh GDP cho biết một
đơn vị GDP điển hình của kỳ nghiên cứu có mức giá bằng bao nhiêu phần trăm so với
mức giá của năm cơ sở.


7

Ưu điểm: Phản ánh được sự thay thế giữa các hàng hoá, dịch vụ với nhau.
Nhược điểm: Chỉ phản ánh mức giá của những hàng hoá sản xuất trong nước (vì
GDP chỉ tính sản phẩm trong nước) không phản ánh được sự giảm sút phúc lợi của người
tiêu dùng trong trường hợp phải tiêu dùng ít hơn một loại hàng nào đó.
1.3. Phân loại lạm phát
Lạm phát thường được phân loại theo tính chất hoặc theo mức độ của tỷ lệ lạm
phát.
1.3.1 Xét về mặt định lượng
Dựa trên độ lớn nhất của tỷ lệ % lạm phát tính theo năm, người ta chia lạm phát ra
thành:
- Thiểu phát :
Thiểu phát trong kinh tế học là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp. Không có tiêu chí chính
xác tỷ lệ lạm phát bao nhiêu phần trăm một năm trở xuống thì được coi là thiểu phát.
Có những đặc trưng không phải con số tỷ lệ giúp xác định thiểu phát, đó là:


Khi giá giảm liên tục và tăng trưởng GDP ở mức âm, nền kinh tế mới rơi


vào tình trạng thiểu phát.


Ngân hàng thương mại gặp khó khăn khi cho vay, đồng thời họ lại đặt ra lãi

suất huy động tiết kiệm thấp- một tình trạng được coi là thị trường tiền tệ trì trệ. Tỷ lệ lạm
phát thấp khiến cho lãi suất thực tế trở nên cao, khiến các nhà đầu tư dè dặt đi vay ngân
hàng. Ngân hàng ứ đọng tiền, nên giảm huy động tiết kiệm bằng cách hạ lãi suất huy động
tiết kiệm.


8



Sản xuất trở nên thiếu sôi động. Lạm phát thấp khiến cho tiền công thực

tế cao hơn. Người lao động vì thế có thể giảm cung lao động và tăng thơi gian nghỉ ngơi
(xem thêm lý luận về đường cung lao động uốn ngược). Mặt khác, giá cả sản phẩm thấp
làm giảm động lực sản xuất.
Thiểu phát đôi khi được coi là tình trạng trước giảm phát (một tình trạng trái ngược
với lạm phát nhưng vẫn nguy hiểm đối với nền kinh tế).
- Lạm phát thấp:
Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ 0.3 đến dưới 10% một năm. Trong
điều kiện lạm phát vừa phải, giá cả tăng chậm và thường xấp xỉ bằng hoặc cao hơn một ít
so với mức tăng tiền lương. Do vậy đồng tiền bị mất giá không lớn, điều kiện kinh doanh
tương đối ổn định, tác hại của lạm phát không đáng kể.
- Lạm phát cao (Lạm phát phi mã):
Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá trong phạm vi hai hoặc ba chữ số một

năm thường được gọi là lạm phát phi mã, nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm phát. Việt Nam và
hầu hết các nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường
đều phải đối mặt với lạm phát phi mã trong những năm đầu thực hiện cải cách.
Nhìn chung thì lạm phát phi mã được duy trì trong thời gian dài sẽ gây ra những
biến dạng kinh tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, đồng tiền sẽ bị mất giá nhanh, cho
nên mọi người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cho các giao dịch hàng ngày. Mọi người
có xu hướng tích trữ hàng hóa, mua bất động sản và chuyển sang sử dụng vàng hoặc các
ngoại tệ mạnh để làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch có giá trị lớn và tích lũy
của cải.
- Siêu lạm phát:
Siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm soát", một tình trạng giá cả tăng nhanh chóng
khi tiền tệ mất giá trị. Không có định nghĩa chính xác về siêu lạm phát được chấp nhận
phổ quát. Một định nghĩa cổ điển về siêu lạm phát do nhà kinh tế người Mỹ Phillip Cagan
đưa ra là mức lạm phát hàng tháng từ 100% trở lên (nghĩa là cứ 31 ngày thì giá cả lại tăng


9

gấp đôi). Nhiều cuộc siêu lạm phát có xu hướng xuất hiện trong thời gian sau chiến tranh,
nội chiến hoặc cách mạng, do sự căng thẳng về ngân sách chính phủ. Vào thập niên 1980,
các cú sốc bên ngoài và cuộc khủng hoảng nợ công đã đóng vai trò quan trọng trong việc
gây ra siêu lạm phát ở một số nước Mỹ La-tinh. Một trường hợp được ghi nhận chi tiết về
siêu lạm phát là nước Đức sau Thế chiến thứ nhất. Giá một tờ báo đã tăng từ 0,3 Mark
vào tháng 1 năm 1922 lên đến 70.000.000 mark chỉ trong chưa đầy hai năm sau. Giá cả
của các thứ khác cũng tăng tương tự. Từ tháng 1 năm 1922 đến tháng 11 năm 1923, chỉ số
giá đã tăng từ 1 lên 10.000.000.000. Cuộc siêu lạm phát ở Đức có tác động tiêu cực tới
nền kinh tế Đức và đời sống của người dân đến mức nó thường được coi là một trong
những nguyên nhân làm nảy sinh chủ nghĩa Đức quốc xã và chiến tranh Thế giới thứ hai.
1.3.2. Xét về mặt định tính
- Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng :

Lạm phát cân bằng: khi nó tăng tương ứng với thu nhập, do vậy lạm phát không
ảnh hưởng đến đời sống của người lao động.
Lạm phát không cân bằng: tỷ lệ lạm phát tăng không tương ứng với thu nhập. Trên
thực tế, lạm phát không cân bằng thường hay xảy ra nhất.
- Lạm phát dự đoán trước và lạm phát bất thường :
Lạm phát dự đoán trước: lạm phát xảy ra trong một thời gian tương đối dài với tỷ
lệ lạm phát hằng năm khá đều đặn, ổn định. Do vậy, người ta có thể dự đoán trước được
tỷ lệ lạm phát cho những năm tiếp sau. Về mặt tâm lý, người dân đã quen với tình hình
lạm phát đó và người ta có những chuẩn bị để thích nghi với tình trạng này.
Lạm phát bất thường: lạm phát xảy ra có tính đột biến mà trước đó chưa hề xuất
hiện. Do vậy, về mặt tâm lý, cuộc sống và thói quen của mọi người đều chưa thích nghi
được. Lạm phát bất thường gây ra những cú sốc cho nền kinh tế và sự thiếu tin tưởng của
người dân vào chính quyền.


10

1.4. Nguyên nhân gây ra lạm phát
Trong một thời gian dài lạm phát thường được giả thiết là một hiện tượng tiền tệ,
trong khi trong khoảng thời gian ngắn và vừa nó bị tác động bởi khả năng co giãn của
tiền lương, giá cả và tỷ lệ lãi suất có liên quan. Theo quan điểm của những người theo
trường phái Keynes, giá cả và tiền lương điều chỉnh ở những tỷ lệ khác nhau, và những
tỷ lệ khác nhau này có ảnh hưởng đối với đầu ra trong dài hạn trở thành quan điểm của
nhiều người trong nền kinh tế. Có rất nhiều quan điểm của các trường phái khác nhau
cho rằng cái gì gây ra lạm phát. Hầu hết có thể chia thành hai mảng: giả thuyết về chất
lượng của lạm phát và giả thuyết về khối lượng của lạm phát. Rất nhiều giả thuyết về
lạm phát kết hợp cả hai. Giả thuyết về chất lượng của lạm phát dựa vào mong đợi của
người mua chấp nhận loại tiền tệ có thể chuyển đổi thành lượng tiền tệ đủ để vào thời
gian sau người mua có thể mua được hàng hóa mong muốn. Giả thuyết về số lượng
lạm phát dựa vào cân bằng lượng cung tiền, tốc độ và những trao đổi của nó. Adam

Smith và David Hume đưa ra giả thuyết về số lượng của lạm phát đối với tiền, và giả
thuyết về chất lượng của lạm phát đối với sản lượng.
Các nguyên nhân chính gây ra lạm phát:
- Lạm phát do cầu kéo: lạm phát xảy ra bởi những gia tăng trong tổng số
cầu, do những gia tăng trong chi tiêu của cá nhân và chính phủ, v.v... Nhà kinh tế học
Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn dụng lao động, thì sẽ
sinh ra lạm phát. Điều này có thể giải thích qua sơ đồ AD-AS. Đường AD dịch sang
phải trong khi đường AS giữ nguyên sẽ khiến cho mức giá và sản lượng cùng tăng.
Trong khi đó, những nhà kinh tế theo chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao
hơn tổng cung, người ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng lên để
đáp ứng. Do đó xảy ra lạm phát.
- Lạm phát do chi phí đẩy: hiện nay được gọi là “lạm phát do cú sốc nguồn
cung”, bị gây ra bởi những suy giảm trong tổng số cung ví dụ như do gia tăng giá cả
đầu vào. Lấy ví dụ một sự suy giảm bất chợt trong cung dầu, sẽ làm gia tăng giá


11

dầu. Với những nhà sản xuất thì dầu có thể là một phần trong chi phí của họ có thể
chuyển nó cho những người tiêu dùng theo cách tăng giá sản phẩm. Từ đó mức giá
chung của toàn thể nền kinh tế tăng lên.
- Lạm phát gắn liền: thường được liên kết với “giá cả/tiền lương gia tăng
dần” bởi vì nó liên quan đến những người công nhân cố gắng gia tăng tiền lương của
họ so với giá cả và sau đó những người chủ chuyển những chi phí cao hơn vào khách
hàng ở mức giá cao hơn như là một phần của “vòng luẩn quẩn”. Lạm phát gắn liền
phản ánh những sự kiện trong quá khứ và do đó có thể được xem như tàn tích của lạm
phát.
- Lạm phát do cơ cấu:
Lạm phát do cơ cấu phổ biến ở nhiều nước đang phát triển. Lạm phát nảy sinh do
sự mất cân đối trong cơ cấu nền kinh tế, mất cân đối giữa tích lũy và tiêu dùng, giữa công

nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ, giữa công nghiệp và nông nghệp, giữa sản xuất và dịch
vụ. Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động. Ngành
kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho người lao động
trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ
tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh vì điều đó.
- Lạm phát do xuất khẩu:
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy
động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến
tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
- Lạm phát do nhập khẩu:
Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập
khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường hợp Tổ chức xuất khẩu
dầu mỏ OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá
bán sản phẩm đó ở trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá
nhập khẩu đội lên.


12

- Lạm phát do tiền tệ:
Cung tiền tăng (chẳng hạn do Ngân hàng Trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho
đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay do Ngân hàng Trung ương mua trái
phiếu theo yêu cầu của Chính phủ) khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là
nguyên nhân gây ra lạm phát.
Lạm phát loại này là do lượng tiền trong nền kinh tế quá nhiều, vượt quá mức hấp
thụ của nó, nghĩa là vượt quá khả năng cung ứng giá trị của nền kinh tế́. Có thể do Ngân
hàng Trung ương lưu thông lượng tiền quá lớn trong nền kinh tế bằng các nghiệp vụ thị
trường mở hay chính sách tiền tệ nới lỏng. Khi lượng tiền lưu thông quá lớn thì sự tiêu
dùng theo đó mà tăng rất lớn. Áp lực cung hạn chế dẫn tới tăng giá trên thị trường, và do
đó sức ép lạm phát tăng lên.

- Lạm phát đẻ ra lạm phát:
Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý đó là tâm lý dự trữ, giá tăng
lên người dân tự phán đoán, tự suy nghĩ là đồng tiền không ổn định thì giá cả sẽ tăng cao
tạo nên tâm lý dự trữ đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung
hàng hóa sẽ càng trở nên khan hiếm kích thích giá lên và gây ra lạm phát.
1.5. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế
1.5.1. Hiệu ứng tích cực
Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát thấp, vừa phải sẽ
có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng từ "dầu bôi trơn" để miêu tả tác động tích cực của lạm
phát. Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế mà nhà sản xuất phải chịu giảm đi.
Điều này khuyến khích nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được tạo thêm.
Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm.
Một mức lạm phát thấp thì thường được xem như có ảnh hưởng khách quan đối
với nền kinh tế. Lạm phát vừa phải khuyến khích chi tiêu và vay mượn trong ngắn hạn
và sẽ khuyến khích đầu tư trong dài hạn. Mặc dù, về lâu dài lạm phát cao có khuynh
hướng gây thiệt hại cho người tiết kiệm. Giảm phát, ngược lại, dẫn đến một sự khuyến


13

khích tiết kiệm nhiều hơn và khuyến khích chi tiêu ngắn hạn ít hơn làm chậm lại sự
phát triển tiềm tàng của nền kinh tế.
Lạm phát cũng được coi là một áp lực rủi ro tiềm tàng đưa ra sự khuyến khích
sử dụng tiết kiệm để đầu tư, thay vì tạo ra sức mua cho những khoản tiết kiệm này để
giảm dần lạm phát. Trong đầu tư, những rủi ro lạm phát thường làm cho các nhà đầu tư
nhận lấy nhiều rủi ro hệ thống hơn, để mà thu được lợi nhuận ở ngay vào lúc lạm phát
có thể xảy ra sắp tới. Lạm phát cũng được sử dụng như là một chỉ số để điều chỉnh
chi phí sinh hoạt và như là một cơ hội cho một số trái phiếu.
1.5.2 Hiệu ứng tiêu cực
Lạm phát cao gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của cải giữa các cá

nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng thường được lập trên lãi suất
danh nghĩa. Khi lạm phát cao hơn dự kiến làm người đi vay được hưởng lợi còn người
cho vay bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ được lợi còn người đi
vay chịu thiệt hại. Lạm phát không dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên tác
động của nó rất lớn. Trong trường hợp thu nhập danh nghĩa không đổi, lạm phát xảy ra sẽ
làm giảm thu nhập thực tế của người lao động. Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị thực
của những tài sản không có lãi (tức là tiền mặt) mà nó còn làm hao mòn giá trị của các tài
sản có lãi, tức là làm giảm thu nhập thực từ các khoản lãi và các khoản lợi tức. Điều đó
xảy ra là do chính sách thuế của nhà nước được tính trên cơ sở của thu nhập danh nghĩa.
Khi lạm phát tăng cao, những người đi vay tăng lãi suất danh nghĩa để bù vào tỷ lệ lạm
phát gia tăng, điều đó làm cho số tiền thuế thu nhập mà người có tiền cho vay phải nộp
tăng cao (mặc dù thuế suất vẫn không tăng). Kết quả cuối cùng là thu nhập ròng và thu
nhập thực mà người cho vay được nhận bị giảm đi, suy thoái kinh tế, thất nghiệp gia tăng,
đời sống của người lao động trở nên khó khăn hơn sẽ làm giảm lòng tin của dân chúng
đối với chính phủ và những hậu quả về chính trị, xã hội có thể xảy ra.
Lạm phát tăng cao còn khiến nhiều người thừa tiền và giàu có đầu cơ hàng hóa, tài
sản . Tình trạng này càng làm mất cân đối nghiêm trọng trong quan hệ cung – cầu hàng


14

hóa trên thị trường, giá cả hàng hóa cũng lên cơn sốt cao hơn. Cuối cùng, những người
nghèo càng trở nên khốn khó hơn. Tình trạng lạm phát như vậy sẽ gây ra những rối loạn
trong nền kinh tế và tạo ra những khoảng cách lớn về thu nhập về mức sống giữa người
giàu và người nghèo.
- Thương mại quốc tế: Nếu như tỷ lệ lạm phát cao hơn, một tỷ lệ hối đoái cố
định sẽ bị hủy hoại và làm suy yếu cân đối thương mại.
- Chi phí đi lại: Bởi vì lạm phát làm suy yếu giá trị của tiền mặt, nó giống như
một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng
với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm cho người ta có khuynh hướng giữ ít tiền mặt hơn

trong suốt thời gian lạm phát. Khi đó họ cần phải thường xuyên đến ngân hàng để rút
tiền. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ "chi phí mòn giày" để chỉ những tổn thất phát
sinh do sự bất tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà người ta phải hứng chịu nhiều hơn so
với không có lạm phát.
- Chi phí thực đơn: lạm phát làm giá cả tăng lên, các doanh nghiệp sẽ phải thay
đổi giá cả thường xuyên hơn làm mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.
- Giá cả có liên quan điều chỉnh không chính xác: Các công ty không thể điều
chỉnh giá đồng thời. Nếu có lạm phát cao hơn, các công ty không thể điều chỉnh giá
của họ quá thấp hơn mức giá ở các công ty khác đã điều chỉnh. Điều này sẽ làm sai đi
các quyết định kinh tế, bởi vì những giá cả có liên quan sẽ không phản ánh được sự
khan hiếm của các hàng hóa khác có liên quan.
- Siêu lạm phát: Nếu lạm phát hoàn toàn mất kiểm soát (theo cách hướng dẫn
trên) nó có thể rất cản trở những hoạt động thông thường của nền kinh tế, tổn hại đến
khả năng cung cấp hàng hóa của doanh nghiệp, khả năng tiêu dùng.
- Ảnh hưởng tài chính cá nhân: lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế
của các cá nhân trái với ý muốn của người làm luật do một số luật thuế không tính đến
ảnh hưởng của lạm phát. Ví dụ: trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay
đổi nhưng thu nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên


15

cả phần chênh lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế.
- Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm thước đo
trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát thước đo này co giãn và vì vậy các
cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình.
- Lạm phát và nợ quốc gia: Lạm phát cao làm cho Chính phủ được lợi do đây là 1
loại thuế ngầm đánh vào người dân, nhưng những khoản nợ nước ngoài sẽ trở nên trầm
trọng hơn. Chính phủ được lợi trong nước nhưng sẽ bị thiệt hại với nợ nước ngoài.
Nguyên nhân là do giá tăng cao và đồng tiền trong nước trở nên mất giá nhanh hơn so với

đồng tiền nước ngoài tính trên các khoản nợ.
Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác động tiêu cực
của lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do lạm phát gây ra là không
đáng kể và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn định và ở mức vừa phải. Như
đã đề cập, một số nhà kinh tế học xem lạm phát ở mức vừa phải như là lợi tức, một số
nhà điều hành kinh doanh xem lạm phát nhẹ như là “bơm mỡ vào bánh xe thương
mại”. Một số nhà kinh tế học tán thành việc giảm lạm phát tới zero như là một mục tiêu
chính sách tiền tệ và một vài người tán thành giảm phát thay vì lạm phát. Khi lạm phát
biến động mạnh, tác động xã hội của nó thông qua việc phân phối lại của cải giữa các cá
nhân một cách độc đoán rõ ràng là rất lớn và do vậy chính phủ của tất cả các nước đều tìm
cách chống lại loại lạm phát này.
1.6. Giới thiệu về mô hình Arima
1.6.1. Hàm tự tương quan ACF
Hàm tự tương quan đo lường phụ thuộc tuyến tính giữa các cặp quan sát y(t) và
y(t+k), ứng với thời đoạn k = 1, 2, …(k còn gọi là độ trễ). Với mỗi độ trễ k, hàm tự tương
quan tại độ trễ k được xác định qua độ lệch giữa các biến ngẫu nhiên Yt. Yt+k so với các
giá trị trung bình, và được chuẩn hóa qua phương sai.
Dưới đây, giả thiết rằng các biến ngẫu nhiên trong chuỗi dừng thay đổi quanh giá
trị trung bình µ với phương sai hằng số δ2


16

Hàm tự tương quan tại các độtrễ khác nhau sẽ có giá trị khác nhau. Chẳng hạn, cho
mỗi chuỗi N điểm, giá trị rk của hàm tự tương quan tại độ trễ thứ k được tính như sau:

Về mặt lý thuyết, chuỗi dừng khi tất cả các r = 0 hay chỉ vài rk khác không. Do
chúng ta xem xét hàm tự tương quan mẫu, do đó sai số mẫu sẽ xuất hiện vì vậy, hiện
tượng tự tương quan khi rk = 0 theo ý nghĩa thống kê.
Khi hàm tự tương quan ACF giảm đột ngột, có nghĩa rk rất lớn ở độ trễ 1, 2 và có ý

nghĩa thống kê (|t| >2). Những rk này được xem là những “đỉnh” và ta nói rằng hàm tự
tương quan ACF giảm đột ngột sau độ trễ k Ckk nếu không có những “đỉnh” ở độtrễ k lớn
hơn k. Hầu hết hàm tự tương quan ACF sẽ giảm đột ngột sau độ trễ 1, 2. Nếu hàm tự
tương quan ACF của chuỗi thời gian không dừng không giảm đột ngột mà trái lại giảm
nhanh nhưng đều : không có đỉnh, ta gọi chiều hướng này là “tắt dần”.
1.6.2. Hàm tự tương quan từng phần PACF
Song song với việc xác định hàm tự tương quan giữa các cặp y(t) và y(t+k), ta xác
định hàm tự tương quan từng phần cũng có hiệu lực trong việc can thiệp đến các quan sát
y(t+1), ..., y(t+k-1). Hàm tự tương quan từng phần tại độ trễ k được ước lượng bằng hệ số


17

liên hệ y(t) trong mối kết hợp tuyến tính bên dưới. Sự kết hợp được tính dựa trên tầm ảnh
hưởng của y(t) và các giá trị trung gian y(t+k).

Giải phương trình hồi quy dựa trên bình phương tối thiểu vì hệ số hồi quy Ckj phải
được tính ở mỗi độ trễ k, với j chạy từ 1 đến k.
Giải pháp ít tốn kém hơn do Durbin phát triển dùng để xấp xỉ đệ quy hệ số hồi quy
cho mô hình ARIMA chuỗi dừng, sử dụng giá trị hàm tự tương quan tại độ trễ k rk và hệ
số hồi quy của độ trễ trước. Dưới đây là phương pháp Durbin sử dụng cho 3 độ trễ đầu
tiên.
Độ trễ 1: Khởi tạo, giá trị của hàm tự tương quan từng phần tại độ trễ 1 có cùng giá
trị với hàm tự tương quan tại độ trễ 1 vì không có trung gian giữa các quan sát kết tiếp :
C11 = r1
Độ trễ 2: Hai giá trị C22 và C21 được tính dựa vào hàm tự tương quan r2 và r1, cùng
với hàm tự tương quan từng phần trước đó.

Độ trễ 3 : Tương tự, ba giá trị C33, C32, C31 được tính dựa vào các hàm tự tương
quan trước r3, r2,r1 cùng với các hệ số được tính ở độ trễ thứ 2: C22 và C21


Tổng quan, hàm tự tương quan từng phần được tính theo Durbin:


×