Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Nghiên cứu thực nghiệm về kỳ vọng lạm phát tại việt nam dự báo và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.02 MB, 70 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
---------------------------

NGUYỄN THỊ DUY LINH

NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ KỲ VỌNG
LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM: DỰ BÁO VÀ
ĐÁNH GIÁ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG
Chuyên ngành : Tài chính – Ngân hàng
Mã số

: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. HỒ VIẾT TIẾN

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ KỲ VỌNG
LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM: DỰ BÁO VÀ ĐÁNH GIÁ CÁC YẾU TỐ ẢNH
HƢỞNG” là công trình nghiên cứu của chính tác giả, nội dung đƣợc đúc kết từ quá
trình học tập và các kết quả nghiên cứu thực tiễn trong thời gian qua, số liệu sử
dụng là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng. Luận văn đƣợc thực hiện dƣới
sự hƣớng dẫn khoa học của PGS.TS Hồ Viết Tiến.

Tp. HCM, ngày tháng


năm 2014

Nguyễn Thị Duy Linh


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
I.

CƠ SỞ LÝ LUẬN....................................................................................... 4

1.1

Đƣờng cong Phillips và sự đánh đổi ........................................................... 4

1.2

Kỳ vọng và cách thức hình thành kỳ vọng lạm phát ................................... 6

1.2.1 Kỳ vọng ....................................................................................................... 6
1.2.2 Cách thức hình thành kỳ vọng .................................................................... 11
II.

TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC ĐÂY ................................. 13

III.


PHƢƠNG PHÁP LUẬN VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ......................... 23

3.1

ĐO LƢỜNG KỲ VỌNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM............................... 24

3.1.1 Dữ liệu ......................................................................................................... 25
3.1.2 Mô hình sử dụng: ARIMA (p, d, q) ............................................................ 25
3.2

CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN KỲ VỌNG LẠM PHÁT ..................... 41

3.2.1 Các biến đƣa vào mô hình ........................................................................... 44
3.2.2 Kiểm tra tính dừng của các biến ................................................................. 48
3.2.3 Chọn biến trễ ............................................................................................... 51
3.2.4 Chạy mô hình hồi quy đa biến .................................................................... 52
3.2.5 Kiểm tra hiện tƣợng đa cộng tuyến ............................................................. 53
3.2.6 Kiểm định đồng liên kết (Cointegration test) ............................................. 55
3.2.7 Đánh giá ý nghĩa toàn diện của mô hình ..................................................... 56
IV.

KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM TẠI VIỆT NAM .......................................... 57

V.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................... 60

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ:
1. Hình 3.1: Dữ liệu lạm phát Việt Nam từ quý 1-2014 đến quý 4-2014
2. Hình 3.2: Kiểm định tính dừng của chuỗi CPI
3. Hình 3.3: Đồ thị hàm tự tƣơng quan chuỗi CPI
4. Hình 3.4: Kết quả chạy mô hình ARIMA(2,0,2)
5. Hình 3.5: Kết quả chạy mô hình ARIMA(6,0,2)
6. Hình 3.6: Biểu đồ tự tƣơng quan cho phần dƣ của mô hình ARIMA(2,0,2)
7. Hình 3.7: Biểu đồ thể hiện lạm phát thực tế và lạm phát ƣớc tính
8. Hình 3.8: Kết quả chạy mô hình hồi quy đa biến
9. Hình 3.9: Ma trận hệ số tƣơng quan giữa các cặp biến
10. Hình 3.10: Kết quả kiểm định đồng liên kết
11. Bảng 3.1: Kết quả thống kê một số tiêu chuẩn của 2 mô hình ARIMA(2,0,2),
ARIMA(6,0,2)
12. Bảng 3.2: Tổng hợp kết quả dự báo lạm phát bằng mô hình ARIMA
13. Bảng 3.3: Quyền số dùng tính chỉ số giá tiêu dùng thời kỳ 2009 đến 2014
14. Bảng 4.1: Những yếu tố tác động đến kỳ vọng lạm phát


1

MỞ ĐẦU
Ổn định vĩ mô luôn là vấn đề quan trọng trong định hƣớng chính sách của Việt Nam
cũng nhƣ các nƣớc trên thế giới. Diễn biến lạm phát những năm qua đã cho thấy
nguy cơ lạm phát cao luôn tiềm ẩn và có thể quay trở lại gây ảnh hƣởng đến sự ổn
định và phát triển bền vững kinh tế của Việt Nam. Vấn đề này đặt ra cho Ngân hàng
nhà nƣớc nhu cầu cấp bách đối với việc kiểm soát lạm phát cũng nhƣ tìm kiếm một
cơ chế điều hành chính sách tiền tệ cho phép kiểm soát lạm phát hiệu quả hơn, đảm
bảo vừa kiềm chế đƣợc lạm phát vừa tiếp tục giữ vững tăng trƣởng ở mức hợp lý.

Tuy nhiên, điều đó không dễ dàng thực hiện, thậm chí là ở những nƣớc phát trển bởi
luôn tồn tại sự đánh đổi giữa lạm phát và tăng trƣởng. Vào năm 2007, nền kinh tế
tăng trƣởng nóng với tốc độ tăng trƣởng lên tới trên 8% và năm 2008, lạm phát đã
vƣợt quá 20%. Kể từ năm 2008, Việt Nam đã trải qua những biến động kinh tế vĩ
mô lớn nhƣ lạm phát hai chữ số, thâm hụt tài khóa và thƣơng mại nặng nề. Trong
năm 2010, kinh tế Việt Nam tiếp tục phục hồi nhanh chóng sau khủng hoảng kinh tế
với tốc độ tăng trƣởng GDP là 6,8%, mức tăng trƣởng này đạt đƣợc một phần là do
mức đầu tƣ công tăng mạnh và tín dụng tăng trƣởng nhanh chóng. Tuy nhiên, Việt
Nam đã không thể tiếp tục duy trì chính sách mở rộng này do chính sách đó gây ra
một vòng xoáy lạm phát mới và buộc phải thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt vào
đầu năm 2011. Khi lạm phát bắt đầu tăng cao, lãi suất tăng đến hơn 20% Chính phủ
Việt Nam đã quyết định chuyển sang chú trọng việc ổn định kinh tế vĩ mô và sẵn
sàng chấp nhận cái giá phải trả là tăng trƣởng thấp (đƣợc thể hiện rõ trong nghị
quyết 11/NQ-CP ngày 24/02/2011)
Câu hỏi đặt ra là cần giảm tăng trƣởng bao nhiêu để giảm lạm phát tới mức có thể
chấp nhận đƣợc. Câu trả lời xác đáng vẫn đang đƣợc bỏ ngõ bởi lạm phát vẫn bị
phụ thuộc bởi các yếu tố về tâm lý hơn là kinh tế. Nếu các hộ gia đình cũng nhƣ các
doanh nghiệp đều tin rằng các chính sách của chính phủ sẽ có hiệu quả trong việc
giảm lạm phát, thì mục tiêu giảm lạm phát sẽ đạt đƣợc tƣơng đối nhanh chóng và ít
gây tổn thƣơng cho nền kinh tế. Nhƣng nếu họ không tin tƣởng vào các chính sách


2

này hoặc nghi ngờ chính phủ sẽ thay đổi sang chính sách khác, thì mục tiêu giảm
lạm phát có lẽ sẽ còn kéo dài dai dẳng và tốn nhiều công sức, của cải. Cái giá phải
trả cho việc giảm lạm phát càng cao, thời gian để đạt đƣợc nó càng dài thì các chính
sách của chính phủ lại càng khó đạt đƣợc mục tiêu và các doanh nghiệp cũng nhƣ
kinh tế hộ gia đình lại càng giảm niềm tin rằng chính sách này sẽ thành công. Chính
vì thế, một vòng xoắn trôn ốc luẩn quẩn sẽ vẫn cứ tồn tại.

Do đó, vai trò của Chính phủ trong việc ban hành các chính sách đúng trong từng
thời kỳ lạm phát tất nhiên là rất quan trọng, tuy nhiên việc tính đến yếu tố có tính
quyết định đến chiều hƣớng của lạm phát – kỳ vọng của ngƣời dân trong việc xây
dựng chính sách là điều cần đƣợc xem xét một cách nghiêm túc.
Bài nghiên cứu này không đi vào việc tính toán để cho ra lời giải đáp phải hy sinh
một mức tăng trƣởng bao nhiêu để duy trì lạm phát ở một mức vừa phải mà theo
đuổi một cách tiếp cận nhằm dự báo mức lạm phát trong tƣơng lai và tiếp đến là
nghiên cứu các yếu tố tác động đến kỳ vọng lạm phát. Kết quả thực nghiệm chỉ ra
rằng lạm phát cao và leo thang có thể dễ dàng tác động đến dự đoán của ngƣời dân
về lạm phát trong tƣơng lai. Các chính sách tiền tệ của chính phủ sẽ đạt đƣợc hiệu
quả cao khi hƣớng đến mục tiêu phòng ngừa lạm phát hơn là thực hiện các chính
sách bất ngờ và đột ngột khi nền kinh tế đã đạt đƣợc một mức tăng trƣởng nhất định
Mục tiêu nghiên cứu:
Với tầm quan trọng của kỳ vọng lạm phát, ngƣời viết tiến hành dự báo về
mức lạm phát kỳ vọng trong ngắn hạn tại Việt Nam. Từ đó, nghiên cứu các yếu tố
tác động đến kỳ vọng lạm phát để có một cái nhìn cụ thể hơn về kỳ vọng lạm phát
và đề xuất vài ý tƣởng nhỏ cho chính sách tiền tệ của Việt Nam.
Câu hỏi nghiên cứu:
Công việc dự báo đƣợc thực hiện nhƣ thế nào, công tác thu thập dữ liệu đƣợc
tiến hành ra sao?
Làm thế nào để ƣớc tính đƣợc các yếu tố tác động đến lạm phát kỳ vọng ?


3

Phạm vi nghiên cứu:
Kỳ vọng lạm phát đƣợc dự báo dựa vào dữ liệu lạm phát quá khứ (CPI - chỉ
số giá tiêu dùng) của Việt Nam từ quý 1 năm 2004 đến quý 4 năm 2013. Các chuỗi
dữ liệu khác dùng để đánh giá các yếu tố ảnh hƣởng đến lạm phát kỳ vọng đƣợc
nghiên cứu trong khoảng thời gian từ quý 1 năm 2005 đến quý 4 năm 2013.

Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để dự báo kỳ vọng, ngƣời viết sử dụng mô hình tự hồi quy trung bình trƣợt
ARIMA (Auto Regressive Integrated Moving Average). Mô hình hồi qui đa biến
đƣợc sử dụng trong việc nghiên cứu các tác động ảnh hƣởng đến kỳ vọng lạm phát.
Kết cấu nghiên cứu:
Ngoài phần mở đầu, bài nghiên cứu bao gồm 5 phần:
I.

Cơ sở lý luận

II.

Tổng quan các nghiên cứu trƣớc đây

III. Phƣơng pháp luận và mô hình nghiên cứu
IV. Kết quả thực nghiệm tại Việt Nam
V.

Kết luận và kiến nghị


4

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1

Đƣờng cong Phillips và sự đánh đổi

Đƣờng Phillips ngắn hạn thể hiện sự đánh đổi giữa tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ thất
nghiệp đối với các nhà làm chính sách. Theo quan điểm này, các nhà làm chính sách

có hai lựa chọn: họ có thể chọn lạm phát cao để nhằm giữ tỷ lệ thất nghiệp thấp,
hoặc chấp nhận thất nghiệp cao để giữ lạm phát ở mức kiểm soát. Trong ngắn hạn,
khi giá cả hoặc lạm phát kỳ vọng không thay đổi, việc giảm lạm phát thƣờng đòi hỏi
giảm sản lƣợng và việc làm. Tỷ lệ hy sinh – tỷ lệ của sản lƣợng dự tính để giảm một
điểm phần trăm lạm phát đƣợc xác định bằng hệ số góc của đƣờng cong Phillips
(β):

(1)

β = /ỹ
: tỷ lệ lạm phát
ỹ = (Y - Y*)/Y*: Chênh lệch giữa sản lƣợng thực tế (Y) và sản lƣợng
tiềm năng (Y*).


5

Độ dốc của đƣờng cong Phillips (β) càng nhiều thì chi phí của sự hy sinh về mặt sản
lƣợng và việc làm để đạt mục tiêu ổn định về giá càng cao. Nói cách khác, độ dốc
của đƣờng cong Phillips phụ thuộc phần lớn vào độ cứng nhắc của lƣơng và giá cả:
Hai yếu tố này càng cứng nhắc thì đƣờng cong càng phẳng và tỷ lệ hy sinh càng
cao. Bằng chứng thực nghiệm cho thấy, đƣờng cong Phillips không ổn định ở mọi
thời điểm mà dịch chuyển lên xuống tùy thuộc vào một số yếu tố, trong đó, quan
trọng là tỷ lệ lạm phát kỳ vọng (e) và những cú sốc giá cả ngoại sinh () – sự tăng
hay giảm của giá cả hàng hóa thế giới. Chính vì vậy, đƣờng cong Phillips hiện đại –
đƣờng cong Phillips có bổ sung kỳ vọng đƣợc thể hiện nhƣ sau:

(2)

 = e + β.ỹ + 


Theo đó, một sự tăng (giảm) trong tỷ lệ lạm phát kỳ vọng sẽ gắn liền với sự dịch
chuyển lên (xuống) của đƣờng cong Phillips. Vì vậy, một sự tăng (giảm) trong tỷ lệ
lạm phát kỳ vọng sẽ dẫn tới sự tăng (giảm) của tỷ lệ lạm phát thực tế mà không phụ
thuộc vào khoảng cách sản lƣợng. Cũng nhƣ vậy, một cú sốc giá cả tiêu cực/ tích
cực (ví dụ nhƣ sự tăng hay giảm của giá cả hàng hóa trên thế giới) sẽ dẫn tới mức
lạm phát cao (thấp) hơn, trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi.


6

Trong dài hạn, những cú sốc ngoại sinh về giá là ngẫu nhiên và xê dịch ( = 0),
không có chênh lệch từ sản lƣợng tiềm năng (ỹ = 0) và vì thế  = e và tỷ lệ lạm
phát kỳ vọng sẽ đƣợc điều chỉnh gần với thực tế hay nói cách khác chỉ phụ thuộc
vào tốc độ tăng trƣởng của tiền tệ. Và nhƣ thế trong dài hạn, các nhà làm chính sách
sẽ không còn lựa chọn là giữ tỷ lệ thất nghiệp thấp kể cả là ở mức lạm phát cao.
1.2

Kỳ vọng và cách thức hình thành kỳ vọng lạm phát:

1.2.1 Kỳ vọng1
Kỳ vọng về tƣơng lai đóng vai trò then chốt trong mọi nền kinh tế thị trƣờng, ảnh
hƣởng theo cách này hay cách khác gần nhƣ đến mọi quyết định và giao dịch kinh
tế. Kỳ vọng có thể dẫn dắt hƣớng đi của toàn bộ nền kinh tế và có thể trở thành hiện
tƣợng tự đáp ứng (self-fulfilling). Nếu những ngƣời gửi tiền kỳ vọng một ngân hàng
thất bại, ngân hàng này rất có thể thất bại thật nếu những ngƣời gửi tiền hoảng loạn
bắt đầu đồng loạt rút ồ ạt số tiền gửi của họ. Tƣơng tự, đối với một nền kinh tế nhƣ
một tổng thể, kỳ vọng lạm phát có thể tạo ra trục trặc thực, và nền kinh tế có thể rơi
vào tình trạng suy thoái nếu số ngƣời nghĩ về điều đó đủ lớn và trở nên dao động.
Những dạng kỳ vọng này là mối quan tâm đặc biệt đối với các nhà kinh tế học vĩ

mô.
Kỳ vọng có thể đẩy thực tế kinh tế không chỉ đi vào xu hƣớng tiêu cực mà còn có
thể đi vào xu hƣớng tích cực. Đôi lúc những kỳ vọng thuận lợi này tự chúng xuất
hiện. Những lúc khác, nhiều nhà kinh tế học vĩ mô tin rằng chính phủ phải giúp tạo
ra chúng bằng cách tạo sự tin cậy, tạo niềm tin ở công chúng. Thực tế, quản lý kỳ
vọng có thể là chức năng quan trọng nhất của chính sách kinh tế vĩ mô, ở cả chính
sách tài khóa và chính sách tiền tệ.

1

Chƣơng trình giảng dạy Kinh tế Fulbright, Niên khóa 2011 – 2013, Kinh tế học vĩ mô, Chƣơng 3: Kỳ vọng
(David A. Moss)


7

Kỳ vọng và lạm phát
Một cách tự nhiên, không cá nhân cũng nhƣ doanh nghiệp nào muốn đứng về phía
thiệt hại của lạm phát. Nếu những ngƣời công nhân kỳ vọng giá tiêu dùng tăng
trong thời gian sắp tới, rất có thể họ sẽ yêu cầu có đƣợc tiền lƣơng cao hơn để bảo
đảm tiền lƣơng thực của họ không giảm - đó là thu nhập sau khi điều chỉnh lạm
phát. Cùng một hiện tƣợng, nếu các doanh nghiệp kỳ vọng tiền lƣơng và giá các yếu
tố đầu vào khác tăng, rất có thể họ sẽ cố gắng tăng giá để bảo đảm thu nhập của họ
không giảm. Do vậy, giá và lƣơng trong thực tế sẽ tăng khi các cá nhân và các
doanh nghiệp cố gắng bảo vệ chính mình chống lại sự gia tăng giá kỳ vọng. Theo
cách này, kỳ vọng lạm phát có thể dẫn dắt thực tế một cách hết sức mạnh mẽ.
Một trong những nhiệm vụ chủ yếu của bất kỳ ngân hàng trung ƣơng nào là thuyết
phục công chúng rằng giá cả rất có thể không tăng nhiều trong tƣơng lai – hay nói
theo cách khác là lạm phát sẽ thấp. Muốn nhƣ vậy thì các ngân hàng trung ƣơng
phải thực sự đáng tin cậy. Để cho kỳ vọng lạm phát thấp, công chúng phải tin rằng

ngân hàng trung ƣơng sẽ chống lạm phát một cách hữu hiệu và kiên quyết vào thời
điểm mà giá cả bắt đầu tăng quá mạnh. Ngƣợc lại, một ngân hàng trung ƣơng gánh
chịu sự tin cậy thấp sẽ tìm thấy chính mình trong một mớ hỗn loạn, với áp lực lạm
phát nổ ra ngấm ngầm mọi nơi mọi lúc.
Lý do mà sự tin cậy dạng này khó đạt đƣợc là do việc chống lạm phát có thể phải
trả một cái giá khá đắt, đó chính là sự đánh đổi để có đƣợc một mức lạm phát thấp
vừa phải. Để chống lạm phát, một ngân hàng trung ƣơng thƣờng phải tăng lãi suất
(có thể liên quan đến việc cắt giảm, hay ít nhất là làm chậm tăng trƣởng cung tiền).
Khi lãi suất tăng với chính sách tiền tệ thắt chặt hơn, tiêu dùng và đầu tƣ có thể
chậm lại, vì các khoản vay cho tiêu dùng và kinh doanh trở nên đắt đỏ hơn. Sản
lƣợng tự nó có thể tăng với nhịp độ chậm hơn, hoặc ngay cả việc thu hẹp sản xuất
có thể diễn ra, và thất nghiệp rất có thể tăng lên.
Nếu các nhà làm chính sách kết luận rằng lạm phát cao đang bị dẫn dắt bởi kỳ vọng
lạm phát, thì việc kiểm soát tiền lƣơng và giá cả có lẽ đƣợc xem nhƣ một cách hiệu


8

quả để thay đổi kỳ vọng và vì vậy mà phá vỡ vòng xoắn lạm phát (điều này sẽ đúng
trong trƣờng hợp chính phủ phải đáng tin cậy). Tuy nhiên, kiểm soát giá và lƣơng
có tính kết dính tạo ra những bóp méo không thể tránh khỏi trong nền kinh tế, vì
vậy làm giảm hiệu quả tổng thể. Khi cung một loại hàng hóa giảm, ví dụ nhƣ dầu,
giá của sản phẩm này thƣờng tăng lên, phát tín hiệu đến những nhà sản xuất sản
xuất nhiều hơn và ngƣời tiêu dùng sẽ hoặc là duy trì tối thiểu việc sử dụng dầu,
đồng thời tìm sản phẩm thay thế, hay đơn giản là phải chuẩn bị trả tiền nhiều hơn.
Tuy nhiên, nếu chính phủ cấm tăng giá, ngƣời mua sẽ tiếp tục tiêu dùng dầu chính
xác nhƣ họ đã tiêu dùng trƣớc đây cho đến khi nào nó cạn kiệt, để lại những ngƣời
khác không thể tiếp cận đƣợc với dầu. Nói cách khác, kiểm soát giá có thể trở nên
hữu hiệu một cách tiềm tàng trong việc định hình kỳ vọng, nhƣng lại thƣờng đƣợc
điều hành kém cõi, và ngay cả khi đƣợc điều hành tốt đi nữa, thì cũng có thể tạo ra

tất cả các dạng thiệt hại kinh tế đi kèm.
Một giải pháp rõ ràng và đơn giản là cắt giảm tăng trƣởng tiền, làm cho guồng máy
lạm phát thiếu năng lƣợng cần thiết để vận hành. Nhƣng thật không may, khi lạm
phát cao kéo theo cầu tiền cao, một nỗ lực giảm mạnh cung tiền có thể tiềm tàng
đẩy lãi suất cao vút và do vậy kích hoạt một sự thu hẹp kinh tế khốc liệt.
Kỳ vọng và Sản lƣợng
Dĩ nhiên, kỳ vọng cũng có thể ảnh hƣởng đến sản lƣợng thực. Nhà kinh tế học
ngƣời Pháp J. B. Say đã thừa nhận vào đầu thế kỷ thứ 19 rằng cung tạo ra cầu của
chính nó – một tuyên bố chính thức đƣợc biết đến với tên gọi định luật Say. Vì sản
xuất tạo ra thu nhập bằng với giá trị đầy đủ của sản phẩm đƣợc bán ra, tổng thu
nhập sẽ luôn luôn đủ để mua tất cả sản lƣợng đƣợc sản xuất. Không may là kỳ vọng
tiêu cực đôi lúc xâm nhập vào vòng chu chuyển hạnh phúc của sản xuất và tiêu
dùng này. Nếu các cá nhân dự kiến thời kỳ khó khăn sắp xảy ra ngay ở phía trƣớc,
họ có thể kìm lại các khoản chi tiêu của họ, bao gồm cả tiêu dùng và đầu tƣ, do vậy
tạo ra một hố cách giữa GDP tiềm năng (cung khả thi – feasible supply) và GDP
thực tế (cầu hữu hiệu - effective demand).


9

Kết quả là một vòng xoắn trôn ốc hƣớng xuống hiện rõ: vì lo lắng, ngƣời tiêu dùng
quyết định tiết kiệm nhiều hơn và tiêu dùng ít đi, các doanh nghiệp sa thải công
nhân và giảm đầu tƣ mới vì họ không thể sản xuất ra những hàng hóa và dịch vụ mà
họ không thể bán đƣợc; gia tăng thất nghiệp là giảm thu nhập, từ đó làm cắt giảm
cầu nhiều hơn và do vậy tiếp tục làm nhấn sâu hơn vòng xoắn hƣớng xuống. Dù
năng lực sản xuất vẫn tồn tại, sản lƣợng giảm vì các nguồn lực sản xuất – cả con
ngƣời và máy móc thiết bị - bị rơi vào tình trạng hoạt động cầm chừng để đối phó
với sự suy sụp của phía cầu. Keynes thích gọi hiện tƣợng này là “ nghịch lý của sự
nghèo đói trong sự dƣ thừa” - paradox of poverty in the midst of plent” (Keynes,
General Theory)

Kỳ vọng và chính sách tiền tệ
Để ngăn cản sự sụt giảm sức cầu, để làm sống lại tiêu dùng và đặc biệt là đầu tƣ,
ngân hàng trung ƣơng có thể sẽ dùng đến chính sách tiền tệ mở rộng: ví dụ quyết
định hạ thấp lãi suất (có thể bằng cách mở rộng cung tiền). Một mức lãi suất thấp
hơn có thể khuyến khích tiêu dùng thông qua làm cho tiết kiệm trở nên ít hấp dẫn
hơn (vì tiết kiệm đƣợc lợi ít đi) và – điều quan trọng tƣơng đƣơng - thông qua giảm
chi phí vay tiêu dùng. Một cách tƣơng tự, từ quan điểm kinh doanh, một mức lãi
suất thấp hơn có thể khuyến khích đầu tƣ thông qua nguồn tài chính rẻ hơn cho việc
tạo ra nhà máy và thiết bị mới.
Tuy nhiên, một số các nhà kinh tế đã lo lắng rằng trong một số trƣờng hợp có tính
cực đoan, ngay cả chính sách tiền tệ có tính tăng cƣờng có thể cũng không cung cấp
đủ sự kích thích để đƣa một nền kinh tế đang suy giảm ra khỏi tình trạng khó khăn.
Keynes đã suy đoán rằng đầu tƣ mới có thể không bị hấp dẫn tại bất kỳ mức lãi suất
thực tế khi mà kỳ vọng về sức cầu trong tƣơng lai bị giảm sút nghiêm trọng. Keynes
cũng đã đề nghị rằng các nhà quản lý ngân hàng trung ƣơng có thể không có khả
năng đẩy mức lãi suất xuống thấp nhƣ họ muốn – đó là, mức thấp đủ để kích thích
đầu tƣ – bởi vì tồn tại “bẩy thanh khoản” (liquidity trap). Tại một điểm nào đó, ở
mức lãi suất rất thấp nhƣng vẫn còn cao hơn zero, các cá nhân có thể quyết định


10

rằng việc giữ tiền đƣợc mong muốn nhiều hơn so với việc giữ bất kỳ loại tài sản nào
khác (vì các loại tài sản khác bây giờ có lẽ đƣợc nhận thức là không còn đƣợc trả lãi
đủ để có thể bù đắp cho rủi ro tăng thêm của họ). Càng nhiều tiền mà ngân hàng
trung ƣơng đẩy vào nền kinh tế, thì ngƣời ta lại muốn giữ tiền lại càng lớn. Cầu tiền
lúc đó đang tăng lên nối đuôi cùng với cung tiền, lãi suất sẽ ngừng giảm, ngay cả
khi ngân hàng trung ƣơng bơm khoản tiền lớn hơn vào hệ thống kinh tế. Nhƣ một số
nhà kinh tế đã mô tả về hiện tƣợng này, đẩy nhiều tiền vào lúc này thì cũng giống
nhƣ “đẩy tiền vào thùng không đáy”. Dù khái niệm một cái bẫy thanh khoản vẫn

còn tranh cãi, nó đã đƣa ra đƣợc một ý nghĩa theo đó chính sách tiền tệ có thể bị
thối lui nhiệm vụ của mình trong tình trạng đình đốn.
Một cách lý tƣởng, chính sách tiền tệ sẽ đƣợc quản lý theo một cách nhằm ngăn
chặn giảm phát trầm trọng và cần đƣợc kiểm soát ngay từ ban đầu. Nhƣng nhiều
nhà kinh tế vĩ mô tin rằng một khi giảm phát ở mức cao nhƣ vậy trở thành sự thật,
chính sách tiền tệ xem nhƣ là vô ích trong việc xoay chuyển tình hình.
Kỳ vọng và chính sách tài khóa
Keynes đã lập luận rằng nếu một nền kinh tế đang choáng váng bởi vì kỳ vọng về
sức cầu trong tƣơng lai ảm đạm, chính phủ có thể phát tín hiệu về thời kỳ tốt đẹp
hơn ở phía trƣớc thông qua chi tiêu nhiều hơn. Khi các cá nhân và các hãng nhìn
thấy chính phủ đang tạo ra sức cầu mới một cách mạnh mẽ, kỳ vọng của họ về
tƣơng lai sẽ chuyển theo hƣớng sáng sủa hơn và chính họ có thể bắt đầu chi tiêu trở
lại. Theo cách này, vòng xoắn tiêu cực đang đƣa nền kinh tế đi xuống có thể đƣợc
đảo chiều để mang nền kinh trở lại mức toàn dụng. Theo Keynes và những môn đồ
của ông, vai trò then chốt của chính phủ là phối hợp với kỳ vọng theo hƣớng có
thiện chí thông qua chính sách tài khóa mở rộng. Keynes chính mình đã mô tả cơ
chế này dƣới dạng của một “số nhân” thu nhập. Bởi vì ông ta tin tƣởng rằng một nỗ
lực chi tiêu thâm hụt của chính phủ sẽ kéo theo tiêu dùng và đầu tƣ gia tăng, Keynes
đã kết luận rằng thu nhập quốc gia (GDP) sẽ tăng nhiều hơn số tăng chi tiêu chính
phủ bắt nguồn ban đầu.


11

Kỳ vọng và các biến số vĩ mô khác
Kỳ vọng cũng ảnh hƣởng mạnh đến các biến số kinh tế vĩ mô khác, bao gồm lãi
suất và tỷ giá hối đoái. Ví dụ, nếu một nhà đầu tƣ trái phiếu kỳ vọng lãi suất tăng,
họ có thể quyết định bán trái phiếu nhằm hạn chế thua lỗ (vì các trái phiếu hiện tại
nói chung giảm giá trị khi lãi suất tăng). Nếu một số lƣợng lớn các nhà đầu tƣ trái
phiếu phản ứng theo cách giống nhƣ vậy, lãi suất dài hạn thực tế sẽ tăng.

Tƣơng tự, các nhà đầu tƣ tiền tệ hƣớng tỷ giá hối đoái lên hay xuống trên cơ sở kỳ
vọng (có thể là họ đặt cơ sở kỳ vọng của mình vào các tin tức về dữ liệu kinh tế vĩ
mô). Ví dụ, nếu họ kỳ vọng đồng euro lên giá, họ mua euro (hay bán đôla). Nếu họ
kỳ vọng euro giảm giá, họ bán euro (hay mua đôla). Dù theo cách nào, kỳ vọng của
họ thực tế sẽ dẫn dắt kết quả.
1.2.2 Cách thức hình thành kỳ vọng 2:
Có 3 trƣờng hợp cơ bản cho việc hình thành kỳ vọng.
 Khi lạm phát ở mức thấp trong suốt một khoảng thời gian dài, kỳ vọng sẽ
“tĩnh” nghĩa là các tổ chức cá nhân (hộ kinh doanh và doanh nghiệp) sẽ
không còn lo lắng về lạm phát và làm ngơ trƣớc sự thật rằng mức lạm phát
có thể thay đổi.
 Khi lạm phát ở mức tƣơng đối cao, ngƣời ta đã không thể làm ngơ đƣợc nữa.
Dân chúng có thể đoán lạm phát trong năm tới bằng với lạm phát của năm
vừa rồi hoặc là trung bình của vài năm gần với hiện tại – hay nói cách khác,
khi đó kỳ vọng có khả năng thích ứng, tức là phụ thuộc vào các giá trị quá
khứ (lagged values) của lạm phát. Nếu dự đoán nhƣ vậy thì gọi là kỳ vọng
thích nghi (adaptive expectation).
 Khi những điều kiện cơ bản và chính sách của chính phủ thay đổi nhanh
chóng, kỳ vọng thích ứng sẽ dẫn tới những sai lầm to lớn và đắt giá. Trong
2

James Riedel & Phạm Thị Thu Trà, dự thảo tháng 8/2011. Kỳ vọng và cái giá phải trả cho giảm lạm phát ở
Việt Nam.


12

những tình huống nhƣ vậy, các tổ chức cá nhân sẽ điều chỉnh kỳ vọng không
phải dựa vào quá khứ, mà dựa trên cơ sở nhìn về phía trƣớc và dự đoán các
chính sách mà chính phủ sẽ ban hành trong tƣơng lai. Hay theo cách khác,

các tổ chức cá nhân sẽ bỏ qua kỳ vọng thích ứng và chuyển sang kỳ vọng
hợp lý (rational expectation). Khi các chính sách của chính phủ đƣợc tiên
đoán một cách hoàn hảo thì chúng sẽ chẳng còn tác dụng gì cho nền kinh tế
thực khi kỳ vọng đƣợc hình thành một cách hợp lý. Vì vậy, nếu chính phủ
tuyên bố rằng sẽ tăng chi tiêu để tăng tỷ lệ việc làm, các tổ chức các nhân sẽ
ngay lập tức điều chỉnh tăng tỷ lệ lạm phát kỳ vọng (đƣờng cong Phillips
dịch chuyển lên trên) và chính sách sẽ không có hiệu quả gì ngoài việc làm
tỷ lệ lạm phát tăng cao hơn.


13

II.

TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC ĐÂY

2.1 Michael Debabrata Patra and Partha Ray, 2010, Inflation Expectations and
Monetary Policy in India: An Empirical Exploration
Bài nghiên cứu này theo đuổi một cách tiếp cận tính toán chi tiết để tạo ra lạm phát
trong tƣơng lai, tiếp theo một thăm dò của các yếu tố quyết định của kỳ vọng lạm
phát bằng cách ƣớc tính một loại đƣờng cong Phillips Keynes mới sẽ đƣa vào tài
khoản quốc gia cụ thể đặc điểm, lập trƣờng của chính sách tiền tệ và tài khóa, chi
phí cận biên và chỉ ra những cú sốc ngoại sinh. Kết quả thực nghiệm chỉ ra rằng lạm
phát cao và leo thang có thể dễ dàng tác động vào dự đoán của ngƣời dân về lạm
phát trong tƣơng lai và kéo dài. Chính sách tiền tệ sẽ mang lại hiệu quả cao trong
việc hƣớng đến những chính sách phòng ngừa lạm phát hơn là tác động một cách
bất ngờ và đột ngột khi xã hội đã đạt đƣợc một mức tăng trƣởng nhất định.
Tác giả tiến hành một qui trình gồm hai giai đoạn để nghiên cứu những động cơ của
kỳ vọng lạm phát ở Ấn Độ:
1. Dựa vào các nghiên cứu trƣớc đây là mô hình hóa lạm phát quá khứ, từ đó tạo ra

một chuỗi lạm phát kỳ vọng cho thời kỳ tiếp theo. Dữ liệu đƣợc sử dụng là chuỗi dữ
liệu WPI (Wholesale Price Index) hàng từ tháng 4 năm 1997 đến tháng 12 năm
2008. Tác giả đã sử dụng mô hình ARIMA để dự báo lạm phát kỳ vọng, một mô
hình đƣợc chứng minh là rất hiệu quả trong việc dự báo trong ngắn hạn:

2. Giai đoạn tiếp theo là đánh giá các yếu tố tác động đến kỳ vọng lạm phát bằng
cách sử dụng mô hình hồi qui đa biến với công thức ƣớc tính nhƣ sau:


14

Trong đó: πt-i là lạm phát quá khứ; (yt-i - y*) là chênh lệch giữa GDP thực tế và GDP
tiềm năng; g(EXPN) là sự tăng trƣởng của các khoản chi thực tế của Chính phủ
trung ƣơng; g(REER) là phần trăm thay đổi trong tỷ giá hối đoái thực; πFL và πPR là
phần trăm thay đổi trong giá nhiên liệu và các sản phẩm chính yếu.
Các biến đƣa vào mô hình gồm biến gốc và các biến ở nhiều độ trễ dựa trên phƣơng
pháp “Từ tổng quát đến cụ thể” (Generate-to-specific)
Kết quả nghiên cứu:
 Mô hình ƣớc tính lạm phát kỳ vọng cho thời kỳ tiếp theo đƣợc tổng kết:

 Các yếu tố ảnh hƣởng đến kỳ vọng lạm phát:
Các ƣớc tính cho thấy tổng các hệ số về lạm phát có độ trễ đóng góp gần 50% trong
việc giải thích sự hình thành kỳ vọng lạm phát.
Thay đổi về giá của sản phẩm chính chiếm dƣới một phần ba lạm phát kỳ vọng,
phản ánh tầm quan trọng của giá lƣơng thực.
Thực phẩm và nhiên liệu giải thích khoảng 40% trong biến động của kỳ vọng lạm
phát. Điều này nêu bật tầm quan trọng của các mặt hàng trong rổ hàng tiêu dùng
trung bình của phần lớn dân Ấn Độ. Các vấn đề liên quan đến sự phụ thuộc vào giá
quốc tế, mức độ truyền dẫn và do đó ảnh hƣởng đến lạm phát. Vai trò quan trọng
của giá lƣơng thực và nhiên liệu trong việc ảnh hƣởng đến kỳ vọng lạm phát dễ bị

tổn thƣơng trƣớc những cú sốc cung ngoại sinh
Chênh lệch giữa sản lƣợng thực tế và tiềm năng có quan hệ cùng chiều và có ý
nghĩa khi chiếm gần 14% trong sự thay đổi của lạm phát kỳ vọng và điều đó cũng
chứng minh sự phù hợp trong việc tác giả chọn trƣờng phái Keynes mới để giải
thích quá trình hình thành kỳ vọng lạm phát ở Ấn Độ. Đối với các nƣớc đang phát
triển, lạm phát thƣờng bị dẫn dắt do áp lực dƣ cầu và điều này, đến lƣợt nó sẽ hỗ trợ


15

cho suy luận của tác giả về vai trò của chính sách kinh tế vĩ mô trong việc ổn định
kỳ vọng. Chênh lệch giữa sản lƣợng thực tế và tiềm năng có ý nghĩa thống kê với
độ trễ một kỳ cho thấy tốc độ tổng cầu có thể chuyển thành áp lực lạm phát trong kỳ
vọng của ngƣời dân và nhấn mạnh tầm quan trọng của khoảng thời gian phản ứng
chính sách.
Một phát hiện quan trọng của bài nghiên cứu là sự ảnh hƣởng của lãi suất thực thể
hiện lập trƣờng của chính sách tiền tệ. Hệ số âm cho thấy quan hệ ngƣợc chiều của
lãi suất thực và kỳ vọng lạm phát và đó là minh chứng cho độ tin cậy thu đƣợc của
chính sách tiền tệ trong việc neo kỳ vọng lạm phát trong những năm gần đây. Ý
nghĩa của lãi suất thực tế với độ trễ 12 tháng và với hệ số tƣơng đối thấp cho thấy
khoảng thời gian cần thiết để chính sách tiền tệ tác động kỳ vọng lạm phát.
Kết quả cũng cho thấy việc gia tăng tỷ giá làm giảm áp lực cho kỳ vọng lạm phát.
Điều này cũng phù hợp với kỳ vọng đối với Ấn độ, một nƣớc mà nền kinh tế chủ
yếu dựa vào cầu nội địa.
2.2 Muhammad Abdus Salam, 2006, Forecasting Inflation in Developing
Nations: The Case of Pakistan
Bài nghiên cứu sử dụng các bƣớc nghiên cứu thực nghiệm bằng mô hình ARIMA
để dự báo lạm phát ở Pakistan. Bài viết tập trung chủ yếu vào việc dự báo lạm phát
hàng tháng trong ngắn hạn. Nhiều mô hình ARIMA khác nhau đƣợc đƣa vào thử
nghiệm. Tác giả dựa vào nhiều phép thử, nhiều chỉ tiêu đánh giá để chọn ra mô hình

chính xác và phù hợp nhất để dự báo lạm phát trong ngắn hạn.
Tác giả sử dụng chuỗi dữ liệu là chỉ số lạm phát CPI từ tháng 7 năm 1993 đến tháng
6 năm 2003. Tác giả sử dụng các phần mềm thống kê nhƣ Eviews, SPSS và Excel
để phục vụ việc phân tích dữ liệu. Việc nghiên cứu đƣợc thực hiện theo các bƣớc:
-

Thu thập dữ liệu lạm phát tháng từ các nguồn: Pakistan Economic Survey,

Ngân hàng trung ƣơng Pakistan, International Financial Statistics (IFS), IMF.


16

-

Kiểm tra dữ liệu: kiểm tra tính mùa vụ, tính dừng bằng cả kiểm định Dickey

– Fuller cũng nhƣ đồ thị hàm tự tƣơng quan (ACF) và tự tƣơng quan riêng phần
(PACF)
-

Mô hình ƣớc tính đƣợc cân nhắc sau khi kiểm tra tính ngẫu nhiên của chuỗi

dữ liệu bằng cách sử dụng hàm ACF và PACF, kiểm tra phần dƣ từ mô hình xem có
tính nhiễu trắng hay không.
-

Một số mô hình ARIMA sẽ đƣợc chọn ra để cân nhắc và kiểm tra để có mô

hình cuối cùng phù hợp nhất: dựa vào các chỉ số thống kê: Akaike Information

Criteria (AIC), Schwarz Information Criteria (SIC), Theil Inequality Coefficient
(TIC), Root Mean Square Error (RMSE), Root Mean Square Percent Error
(RMSPE), Mean Absolute Error (MAE).
-

Mô hình ƣớc tính

-

Kết quả sau khi chạy mô hình:


17

2.3 Anil Perera, Central Bank of Sri Lanka, 2010, Inflation Expectations and
Monetary Policy
Bài nghiên cứu đánh giá tầm quan trọng của việc đo lƣờng kỳ vọng lạm phát nhằm
thực thiện hiệu quả chính sách tiền tệ. Ngân hàng trung ƣơng cần phải tính đến kỳ
vọng của ngƣời dân về lạm phát khi thực hiện và xác định lập trƣờng của chính sách
tiền tệ. Đồng thời, ngân hàng trung ƣơng phải liên tục đánh giá độ tin cậy của chính
sách tiền tệ thông qua kỳ vọng lạm phát.
Tác giả đƣa ra bốn yếu tố tác động đến kỳ vọng lạm phát:
-

Lạm phát hiện tại: Lạm phát hiện tại càng cao thì kỳ vọng lạm phát càng cao.
Ví dụ: lạm phát thấp trong một vài năm sẽ giúp làm giảm kỳ vọng lạm phát. Tuy
nhiên, cú sốc cung hoặc các cú sốc bên ngoài có thể làm tăng cao kỳ vọng lạm
phát

-


Lạm phát cảm nhận: Một số cá thể kinh tế, đặc biệt là ngƣời tiêu dùng không
tin tƣởng hoặc không hiểu rõ về các con số thống kê lạm phát. Ví dụ, nhiều
ngƣời cảm thấy mức lạm phát mà cá nhân họ cảm nhận lại có ý nghĩa hơn chỉ số
CPI chính thức

-

Lạm phát chi phí đẩy: Kỳ vọng lạm phát của ngƣời tiêu dùng dựa chủ yếu vào
giá các mặt hàng thiết yếu và họ bớt chú trọng đến chu kỳ kinh tế. Mặc dù ngân
hàng trung ƣơng kỳ vọng việc sắp tới sự tăng trƣởng chậm lại của nền kinh tế sẽ
làm giảm kỳ vọng lạm phát nhƣng có một điều không rõ ràng là ngƣời tiêu dùng
có hiểu đƣợc sự liên kết giữa tăng trƣởng chậm và lạm phát thấp.

-

Mức chênh lệch giữa lợi tức trái phiếu danh nghĩa và lợi tức trái phiếu chỉ
số hóa: Khi ngƣời dân kỳ vọng lạm phát sẽ tăng lên họ sẽ đòi hỏi một mức lợi
tức cao hơn trên trái phiếu danh nghĩa để bù lại mức lạm phát tăng lên. Điều đó
tạo thêm chất xúc tác cho kỳ vọng lạm phát.


18

Đo lƣờng lạm phát kỳ vọng:
-

Thông qua các cuộc khảo sát: tiến hành khảo sát các hộ gia đình, các chuyên gia
dự đoán và các doanh nhân bằng các bảng câu hỏi


-

Thông qua thông tin thị trƣờng tài chính: Thị trƣờng tài chính đã phát triển rất
nhiều công cụ mới phục vụ cho việc đo lƣờng kỳ vọng lạm phát, những phƣơng
pháp đo lƣờng này bắt nguồn từ những công cụ có kết nối với các chỉ số giá: ví
dụ nhƣ tỷ lệ lãi suất thực
Phƣơng pháp

Điểm mạnh

Điểm yếu

- Đo lƣờng trực tiếp lạm - Tầm nhìn hạn chế: đa số
phát
Khảo sát

- Dễ dàng đo lƣờng kỳ
vọng tổng thể thị trƣờng
- Không phụ thuộc vào
các thị trƣờng tài chính

mọi ngƣời kỳ vọng lạm
phát dựa vào lạm phát
quá khứ
- Không thể tiến hành
thƣờng xuyên

cao cấp
- Phƣơng pháp tiên tiến
- Tính sẵn có


- Việc tính toán không
hoàn hảo do chúng bao
hàm rủi ro thanh khoản

Các công cụ thị trƣờng tài
chính

và phần bù rủi ro lạm
phát
- Phụ thuộc vào các thị
trƣờng tài chính cao cấp


19

2.4 Martin Cerisola and R. Gaston Gelos, 2005, What drives inflation
expectations in Brazil?: An Empirical Analysis:
Nghiên cứu này xem xét các yếu tố quyết định kinh tế vĩ mô của cuộc khảo sát kỳ
vọng lạm phát ở Brazil kể từ khi áp dụng lạm phát mục tiêu vào năm 1999. Kết quả
cho thấy khuôn khổ lạm phát mục tiêu đã giúp neo kỳ vọng, với sự lan truyền kỳ
vọng lạm phát giảm đáng kể, đặc biệt là trong thời kỳ bất ổn cao. Bài nghiên cứu
cũng cho thấy rằng ngoài các lạm phát mục tiêu, lập trƣờng của chính sách tài khóa,
cũng là yếu tố hình thành nên kỳ vọng. Tầm quan trọng của lạm phát trong quá khứ
trong việc xác định kỳ vọng tƣơng đối thấp, và bằng chứng thực nghiệm không cho
thấy sự hiện diện đáng kể của quán tính trong quá trình lạm phát.
Tác giả sử dụng phƣơng trình thu gọn (reduced-form equation) để đánh giá các yếu
tố nền tảng và sự thay đổi trong biến động của kỳ vọng lạm phát kể từ khi lạm phát
mục tiêu đƣợc áp dụng năm 1999. Phƣơng trình này đƣợc xây dựng dựa vào các
nghiên cứu trƣớc đây. Tổng kết lại, lạm phát bị chi phối bởi lạm phát quá khứ, lạm

phát tƣơng lai và một yếu tố phản ánh chi phí sản xuất biên thực tế. Mô hình cho
thấy, chi phí sản xuất biên tƣơng lai có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc
dẫn dắt lạm phát kỳ vọng. Đặc điểm của phƣơng trình đo lƣờng lạm phát kỳ vọng là
sử dụng độ lệch giữa của tỷ giá hối đoái thực và tiền lƣơng thực với mức tiềm năng
của nó nhƣ là chi phí cận biên thực.
Do tầm quan trọng của chính sách tài khóa đối với lạm phát nên cán cân tài khóa
cho các khu vực công hợp nhất cũng đƣợc tính đến một cách rõ ràng trong phƣơng
trình ƣớc tính. Lập trƣờng của chính sách tài khóa hiện tại có thể đƣợc sử dụng và
xem nhƣ là một tín hiệu cho cam kết của các chính phủ để ổn định tài chính.
Phƣơng trình ƣớc tính nhƣ sau:

πet

: là tỷ lệ lạm phát kỳ vọng 12 tháng tới

πt-1

: là tỷ lệ lạm phát 12 tháng trƣớc


20

πTt

: tỷ lệ lạm phát mục tiêu 12 tháng tới

pb

: tỷ lệ cán cân tài khóa trong tổng GDP


r

: tỷ lệ lãi suất chính sách thực

reer

: chênh lệch giữa tỷ giá hối đoái thực và tỷ giá hối đoái tiềm năng

wage : chênh lệch giữa tiền lƣơng thực và tiền lƣơng tiềm năng
Trong đó, reer và wage đƣợc ƣớc tính bằng bộ lọc Hodrick-Presscott. Sự lựa chọn
độ trễ cho các biến độc lập chủ yếu đƣợc dựa trên tính sẵn có của dữ liệu tại thời
điểm t
Mô hình kinh tế lƣợng chỉ ra rằng lạm phát mục tiêu và chính sách tài khóa đóng
vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt lạm phát kỳ vọng. Tác giả cũng đƣa thêm 3 mô
hình ƣớc tính kỳ vọng khác (table 1):


21

Kết quả cho thấy, tƣơng tự nhƣ các kết quả nghiên cứu thực nghiệm khác về lạm
phát mục tiêu ở các nền kinh tế mới nổi. Ý nghĩa của lạm phát trong quá khứ trong
việc xác định những kỳ vọng tƣơng đối thấp, với ƣớc tính dao động quanh mức
0,18-0,29. Mục tiêu lạm phát là một trong những yếu tố quyết định quan trọng nhất
của kỳ vọng lạm phát, với ƣớc tính khác nhau từ mức thấp 0,66 đến mức cao nhất là
1,00. Nếu mục tiêu lạm phát là hoàn toàn đáng tin cậy, ngƣời ta sẽ mong đợi hệ số
của mục tiêu là một.
Kết quả cũng khẳng định một yếu tố quan trọng khác trong việc xác định kỳ vọng là
lập trƣờng của chính sách tài khóa. Đúng nhƣ kỳ vọng, một sự gia tăng trong thặng
dƣ tài khóa dẫn đến kỳ vọng lạm phát thấp hơn: mức thặng dƣ trên GDP tăng một
phần trăm sẽ dẫn đến giảm 1% kỳ vọng lạm phát. Chi phí cận biên cũng có ý nghĩa

trong việc giải thích lỳ vọng lạm phát. Chênh lệch tiền lƣơng có tác động cùng
chiều cho thấy tác động của áp lực cầu gia tăng. Lãi suất thực cũng có tác động
cùng chiều, điều này phù hợp với quan điểm một sự giảm giá trong tỷ giá hối đoái
thực hàm ý dẫn đến một sự gia tăng trong chi phí nhập khẩu đầu vào và sự truyền
dẫn giữa điều này đến lạm phát trong thời gian tới.
Kết quả thực nghiệm ủng hộ quan điểm về kinh nghiệm áp dụng lạm phát mục tiêu
thành công ở Brazil. Các phân tích thực nghiệm chỉ ra rằng lạm phát kỳ vọng trở
nên ít phụ thuộc vào quá khứ và neo chặt hơn vào lạm phát mục tiêu trong những
năm gần đây và quán tính lạm phát là khá nhỏ. Tuy nhiên, kết quả ƣớc tính cũng
cho thấy vẫn còn khoảng trống cho việc gia tăng độ tin cậy trong khuôn khổ lạm
phát mục tiêu bởi vì hệ số ƣớc tính của lạm phát mục tiêu trung bình vẫn nhỏ hơn
một
Chính vì vậy, một số lựa chọn đang đƣợc xem xét bởi các nhà chức trách Brazil để
tăng hơn nữa cƣờng hiệu quả của các khuôn khổ lạm phát mục tiêu. Một lựa chọn
quan trọng là trao quyền tự chủ hoạt động đầy đủ cho ngân hàng trung ƣơng. Phù
hợp với những phát hiện trong lý thuyết, hỗ trợ quan điểm cho rằng độ tin cậy của
chính sách tiền tệ đƣợc tăng cƣờng sẽ cung cấp cho các ngân hàng trung ƣơng sự


×