Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Thơ nôm tứ tuyệt từ hồ xuân hương đến trần tế xương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 110 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

NÔNG VĂN MƢU

THƠ NÔM TỨ TUYỆT TỪ HỒ XUÂN HƢƠNG
ĐẾN TRẦN TẾ XƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thái Nguyên, năm 2017


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

NÔNG VĂN MƢU

THƠ NÔM TỨ TUYỆT TỪ HỒ XUÂN HƢƠNG
ĐẾN TRẦN TẾ XƢƠNG

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Ngô Gia Võ

Thái Nguyên, năm 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả
nghiên cứu là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2017
Tác giả luận văn

Nông Văn Mƣu

i


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin gửi lời cảm ơn trân trọng Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau
Đại học, các giảng viên Khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên
cùng gia đình, bạn bè đã động viên, tạo điều kiện cho tôi trong thời gian học
tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và cảm ơn sâu sắc đến TS. Ngô
Gia Võ, người đã hết sức tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên
cứu và hoàn thành luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2017
Tác giả

Nông Văn Mƣu

ii


MỤC LỤC
Trang

TRANG BÌA PHỤ
LỜI CAM ĐOAN................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... ii
MỤC LỤC ......................................................................................................... iii
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề đề tài ..........................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề ...................................................................................................3
3. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................11
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .....................................................................................11
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ......................................................................11
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................12
7. Dự kiến đóng góp của luận văn ......................................................................12
8. Cấu trúc luận văn ............................................................................................13
PHẦN NỘI DUNG........................................................................................... 14
Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .......................................................... 14
1.1. Quan niệm về thơ tứ tuyệt ...........................................................................14
1.1.1. Về thuật ngữ tứ tuyệt ............................................................................... 14
1.1.2. Hình thức của một bài tứ tuyệt ................................................................ 17
1.2. Thơ Nôm tứ tuyệt trước Hồ Xuân Hương ...................................................18
1.2.1. Thơ Nôm tứ tuyệt trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi .................... 19
1.2.2. Thơ Nôm tứ tuyệt trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm... 22
1.3. Hoàn cảnh lịch sử - văn hóa - xã hội, thời đại Hồ Xuân Hương và Trần
Tế Xương ..................................................................................................23
1.3.1. Hoàn cảnh lịch sử - văn hóa – xã hội, thời đại Hồ Xuân Hương ............ 23
1.3.2. Hoàn cảnh lịch sử - văn hóa – xã hội, thời đại Trần Tế Xương .............. 25
* Tiểu kết chương 1 ............................................................................................26

iii



Chƣơng 2 SỰ VẬN ĐỘNG VỀ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG TƢ
TƢỞNG TRONG THƠ NÔM TỨ TUYỆT TỪ HỒ XUÂN HƢƠNG
ĐẾN TRẦN TẾ XƢƠNG ................................................................................ 28
2.1. Quy mô số lượng .........................................................................................28
2.1.1. Quy mô số lượng thơ Nôm tứ tuyệt Hồ Xuân Hương ............................. 28
2.1.2. Quy mô số lượng thơ Nôm tứ tuyệt Trần Tế Xương............................... 29
2.2. Hệ thống đề tài chủ đề .................................................................................31
2.2.1. Hệ thống đề tài, chủ đề trong thơ Hồ Xuân Hương ................................ 31
2.2.2. Hệ thống đề tài chủ đề trong thơ Trần Tế Xương ................................... 33
2.3. Giá trị nội dung tư tưởng .............................................................................37
2.3.1. Giá trị nội dung tư tưởng trong thơ Nôm tứ tuyệt Hồ Xuân Hương ....... 37
2.3.2. Giá trị nội dung tư tưởng trong thơ Nôm tứ tuyệt Trần Tế Xương ......... 47
* Tiểu kết chương 2 ............................................................................................63
Chƣơng 3 SỰ VẬN ĐỘNG VỀ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT TRONG
THƠ NÔM TỨ TUYỆT TỪ HỒ XUÂN HƯƠNG ĐẾN TRẦN TẾ
XƯƠNG ............................................................................................................ 64
3.1. Cấu trúc bài thơ, các vấn đề về niêm, vần, luật, nhịp trong thơ Nôm tứ
tuyệt Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương .............................................. 64
3.1.1. Cấu trúc bài thơ, các vấn đề về niêm, vần, luật, nhịp trong thơ Nôm tứ
tuyệt Hồ Xuân Hương ............................................................................. 64
3.1.2. Cấu trúc bài thơ, các vấn đề về niêm, vần, luật, nhịp, kết cấu trong thơ
Nôm tứ tuyệt Trần Tế Xương .................................................................. 68
3.2. Nghệ thuật ngôn ngữ trong thơ Nôm tứ tuyệt Hồ Xuân Hương và Trần
Tế Xương ................................................................................................. 72
3.2.1. Nghệ thuật ngôn ngữ trong thơ Nôm tứ tuyệt Hồ Xuân Hương ............. 72
3.2.2. Nghệ thuật ngôn ngữ trong thơ Nôm tứ tuyệt Trần Tế Xương ............... 76
3.3. Nghệ thuật trào phúng trong thơ Nôm tứ tuyệt Hồ Xuân Hương và Trần
Tế Xương ..................................................................................................82

iv



3.3.1. Nghệ thuật trào phúng trong thơ Nôm tứ tuyệt Hồ Xuân Hương ........... 82
3.3.2. Nghệ thuật trào phúng trong thơ Nôm tứ tuyệt Trần Tế Xương ............. 86
* Tiểu kết chương 3 ............................................................................................93
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. 100

v


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề đề tài
Diện mạo thơ tứ tuyệt từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX có một quá trình phát
triển lâu dài và tồn tại ở cả hai bộ phận chữ Hán và chữ Nôm. Ở chặng đường
đầu, thơ tứ tuyệt chỉ được viết bằng chữ Hán, đến chặng sau mới xuất hiện
thơ tứ tuyệt chữ Nôm, nội dung cũng chuyển dần từ cảm quan Phật giáo sang
các vấn đề khác như chính trị, triết học và đời sống thế tục...
Khác biệt với thơ chữ Hán, bộ phận thơ tứ tuyệt chữ Nôm đã tạo nên bảng
màu sắc rực rỡ, mới mẻ cả về nội dung và hình thức nghệ thuật. Trong tiến trình
phát triển, hai tác giả tiêu biểu cho thể thơ tứ tuyệt viết bằng chữ Nôm không thể
không nhắc đến là Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương. Đây là hai tác giả có số
lượng thơ Nôm tứ tuyệt vào loại nhiều nhất trong lịch sử văn học thời kỳ Trung
đại, chứng tỏ họ đã dành nhiều tâm huyết và tài năng sáng tạo cho thể thơ này và
họ đã rất thành công khi dùng thể thơ tứ tuyệt để trào phúng.
Từ những đặc điểm nội dung và hình thức đặc thù của thể thơ tứ tuyệt,
qua việc sử dụng hiệu quả từ ngữ giản dị nhưng hàm súc của phép lặp từ, lặp
cấu trúc trong đối liên và tiểu đối, của thủ pháp tỉnh lược, các yếu tố chỉ chủ
thể, các động từ, hư từ, câu thơ tứ tuyệt có thể đạt được yêu cầu nén chặt
thông tin, để mỗi chữ đều có sức nặng tư tưởng, sức ám ảnh, góp phần tạo
nên thành công của các bài tứ tuyệt. Chính sự giản dị của lời thơ, sự chân

thành của tình cảm và tài năng nghệ thuật của các nhà thơ đã góp phần quan
trọng làm cho các bài thơ tứ tuyệt có được sức sống lâu bền trong tâm hồn
người đọc. Bởi vậy, thể thơ này đã được nhiều thế hệ người đọc đón nhận và
yêu thích.
Thơ tứ tuyệt là một thể thơ được coi là “cao diệu” trong thơ Đường
đồng thời cũng là mảng thơ thành công nhất của Hồ Xuân Hương và Trần Tế
Xương. Những sáng tác của Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương về thơ Nôm
tứ tuyệt đã đánh dấu quá trình phát triển rực rỡ của thể loại thơ Nôm Đường

1


luật, khẳng định một bước tiến quan trọng của thơ ca dân tộc. Đồng thời, đây
cũng là mảng thơ quan trọng trong việc khẳng định cá tính sáng tạo và vị thế
của “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương cũng như tài năng nghệ thuật độc
đáo của Trần Tế Xương. Vì vậy, chúng tôi nhận thấy đây là một đề tài thú vị
có thể có những đóng góp nhất định để góp phần khám phá những đặc điểm
độc đáo trong sự nghiệp sáng tác của cả hai nhà thơ.
Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy bộ phận thơ Nôm tứ
tuyệt đã xuất hiện từ thời Nguyễn Trãi và kéo dài đến hết thời kỳ trung đại,
với các tác giả lớn như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, tạo thành một
dòng chảy riêng biệt và có những đóng góp độc đáo về phương diện nội dung
tư tưởng cũng như hình thức nghệ thuật. Qua quan sát và khảo sát bước đầu,
kết quả cho thấy hai tác giả Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương có số lượng
thơ Nôm tứ tuyệt nhiều nhất. Bên cạnh việc dùng thơ Nôm tứ tuyệt sáng tác
theo các đề tài, chủ đề truyền thống, hai tác giả này còn dùng thơ Nôm tứ
tuyệt để trào phúng, mở ra nhữngphương diện mới về khả năng chiếm lĩnh và
phản ánh hiện thực của thơ Nôm tứ tuyệt. Đặc biệt, giá trị trào phúng trong
thơ Nôm tứ tuyệt của Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương, được hình thành từ

những điều kiện lịch sử - văn hoá - xã hội đặc thù cũng như thân thế và cá
tính sáng tạo của hai tác giả. Đi tìm hiểu hành trình thơ Nôm tứ tuyệt từ Hồ
Xuân Hương đến Trần Tế Xương, rất có thể ta phát hiện ra những quy luật
vận động, phát triển của thể thơ này trong giai đoạn từ cuối thế kỷ XVIII đến
đầu thế kỷ XX. Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu
chuyên sâu về thơ Nôm tứ tuyệt của hai nhà thơ Hồ Xuân Hương và Trần Tế
Xương, để từ đó có cái nhìn tổng quát hơn và chỉ ra được những điểm tương
đồng, điểm khác biệt giữa hai tác giả, cũng như những đóng góp của họ trong
tiến trình phát triển của thơ Việt Nam thời kỳ Trung đại. Mặc dù vấn đề
nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương không còn là điều mới

2


mẻ, những sáng tác của họ đã có rất nhiều tác giả, nhiều công trình đề cập đến
nhưng tiến trình phát triển của thơ Nôm tứ tuyệt từ Hồ Xuân Hương đến thơ
Nôm tứ tuyệt Trần Tế Xương vẫn chưa trở thành đối tượng nghiên cứu chính
của bất cứ công trình nào. Do vậy, đề tài luận văn Thơ Nôm tứ tuyệt từ Hồ
Xuân Hương đến Trần Tế Xương sẽ tổng hợp và đánh giá toàn diện tiến
trình phát triển của thơ Nôm tứ tuyệt từ Hồ Xuân Hương đến Trần Tế Xương,
khẳng định thành tựu nghệ thuật đặc sắc của hai tác giả quan trọng này.
Người viết hi vọng luận văn này sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho việc
nghiên cứu, giảng dạy và học tập văn học Trung đại nói chung và thơ văn Hồ
Xuân Hương cũng như Trần Tế Xương nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề
Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương là hai nhà thơ lớn của dân tộc bởi
vậy việc sưu tầm, dịch thuật, nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của
họ là vấn đề được quan tâm chú ý nhiều năm qua. Do đó, từ đầu thế kỷ XX
đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về hai tác giả này.
2.1. Tác gia Hồ Xuân Hƣơng

Hồ Xuân Hương nổi tiếng với những sáng tác bằng chữ Nôm. Đã có
nhiều công trình và nhiều bài viết về thơ Hồ Xuân Hương ngay từ trước Cách
mạng, có thể kể đến những tác giả như Tản Đà, Nguyễn Hữu Tiến, Trương
Tửu, Nguyễn Văn Hanh…
Sau cách mạng tháng Tám, rất nhiều công trình nghiên cứu công phu
về Hồ Xuân Hương đã xuất hiện. Nhà nghiên cứu Trương Tửu cho rằng: “Hồ
Xuân Hương là một thiên tài đặc biệt của Việt Nam và bình dân. Thiên tài ấy
phát hiện ra ở ba đặc tính là trữ tình, trào phúng, huê nguyệt”[52, tr.78].
Theo Trương Tửu, “Trong ba đặc tính ấy cái dâm là căn bản não trạng Hồ
Xuân Hương. Hai đặc tính kia cũng nảy nở dưới ánh sáng của cái dâm đó. Ta
cũng có thể nói như thế này: cái nhãn quan độc nhất của Hồ Xuân Hương về
sự vật là một nhãn quan dâm”[52, tr.78]. Sau đó, tác giả kết luận: “Cái cười

3


của Hồ Xuân Hương cũng tết bằng hình tượng giao hợp. Cái cười, cái giận,
cái nhớ ở thi sỹ đều có tính cách tiếu lâm, câu đố, ca giao huê nguyệt và đều
chống đối tục lệ hay ý thức hệ cá nhân phong kiến”[52, tr.84]. Trong những
đánh giá trên, Trương Tửu đã gắn liền Hồ Xuân Hương và thơ Hồ Xuân
Hương với cái dâm. Tác giả cũng đánh giá rất cao thơ trào phúng của bà.
Tác giả Nguyễn Sĩ Tế thì cho rằng: “Khuynh hướng thi ca của Hồ Xuân
Hương là khuynh hướng tình cảm trào phúng”[43, tr.90]. Cũng theo Nguyễn
Sĩ Tế thì ở Hồ Xuân Hương: “Thơ tình cảm và thơ trào phúng phối hợp chặt
chẽ đến nỗi nếu tách rời nhau thì thơ Hồ Xuân Hương đổi hẳn bộ dạng,
không còn là thơ Hồ Xuân Hương nữa”[43,tr.89]. Sau khi đã đưa ra những
dẫn chứng về thơ trào phúng trong cuộc sống, trong văn chương nói chung và
trong văn chương bác học nói riêng, ông đã khẳng định: “Thơ trào phúng
không còn là điều mới lạ. Cái mới lạ của nó trong câu chuyện này là nó đã
kết phát nhằm đúng một con người mà không ai ngờ tới, một người đàn bà,

vào một thời mà người đàn bà chỉ được xã hội giành cho một “chỗ ngồi” nhỏ
bé riêng trong gia đình Hồ Xuân Hương. Có thể nói Hồ Xuân Hương là phần
tử nữ giới đầu tiên đã làm thơ để chế giễu đời ở nước ta”[43, tr.101].
Tác giả Phạm Thế Ngũ lại bàn luận về những đặc sắc trong thơ Hồ
Xuân Hương, đề cập tới vấn đề “hình ảnh dâm tục” và viết: Đọc thơ Hồ Xuân
Hương, Tản Đà có phê một câu là: “Thi trung hữu quỷ”: “Thật vậy, trong hầu
hết nếu không phải là toàn thể các bài thơ của Hồ Xuân Hương, người đọc
đều có thể tìm ra một cảnh tượng dâm tục gây ra sự quyến rũ ma quái. Tác
giả thường đem hình ảnh của cái giống (lesexe) hoặc cử động tính giao (Iacte
sexuel) mà gửi gắm bóng gió vào đó những bài tả đồ vật, vịnh sử việc hay
phong cảnh”[27, tr.112]. Phạm Thế Ngũ cũng một phần đồng ý với quan
niệm Trương Tửu khi gắn hình ảnh “dâm tục” là một trong những đặc điểm
của thơ Hồ Xuân Hương.

4


Tác giả Nguyễn Hồng Phong cũng đã đánh giá rất cao thơ trào phúng
Hồ Xuân Hương : “Thi sĩ Xuân Hương là một thi sĩ châm biếm trào lộng và
trữ tình, mà châm biếm trào lộng là chủ yếu. Ngay những lúc trữ tình tha thiết
nhất, nàng cũng vẫn cười cợt, mỉa mai. Với những cái vũ khí ấy, Xuân Hương
đánh cho đẳng cấp phong kiến những đòn tinh thần rất sâu cay độc địa, cái
độc địa của một thứ thuốc đắng. Tất cả những gì mà xã hội phong kiến
thường đề cao, thường cho là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, thường quét
một lớp vàng son lộng lẫy bên ngoài thì trong thơ nó đều trở thành những cái
tầm thường, lố bịch, tục tĩu, những cái nhỏ bé đáng thương hại” [33, tr.124].
Tác giả khẳng định tài năng nghệ thuật độc đáo của Hồ Xuân Hương: “Xuân
Hương chơi chữ là để trào lộng hoặc mỉa mai châm biếm, làm cho câu thơ
trở nên duyên dáng vô cùng. Xuân Hương là nhà thơ thi sĩ độc nhất dùng
những lời nói rất thông thường nôm na, giản dị vào trong thơ mà dùng một

cách rất khéo léo, rất táo bạo. Xuân Hương cũng là nhà thi sĩ độc nhất có
ngòi bút tả thực một cách sắc sảo, có một bút pháp tả thực và trào lộng bậc
thầy. Về bút pháp tả thực trừ Nguyễn Du, tất cả các nhà thơ dưới thời phong
kiến không ai có thể sánh với Hồ Xuân Hương”[33, tr.134]. Tác giả Nguyễn
Hồng Phong rất khâm phục tài thơ của Hồ Xuân Hương đặc biệt là tài trào
lộng mỉa mai và châm biếm vào “bậc thầy” và “độc nhất” của văn học Việt
Nam trung đại.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc nói về Hồ Xuân Hương: “Thơ Hồ Xuân
Hương một mặt thông cảm, bênh vực phụ nữ, đề cao ngời phụ nữ, mặt khác
đả kích tất cả những nhân vật tiêu biểu của xã hội phong kiến từ đám sĩ tử,
nhà sư, đến bọn quan lại, những hiền nhân quân tử và trên tất cả là bọn vua
chúa. Bà vạch trần lối sống đạo đức giả, trái tự nhiên của bọn chúng. Hồ
Xuân Hương kế thừa truyền thống của truyện tiếu lâm dân gian thường dùng
cái tục làm phương tiện đả kích. Nghệ thuật đả kích của bà sắc bén “đánh
một cái chết tươi”[22, tr.28]. Tác giả dành một phần lớn trong công trình của

5


mình để đi sâu tìm hiểu thơ trào phúng và khẳng định thơ Hồ Xuân Hương là
sản phẩm của một “đầu óc tỉnh táo, một lí trí lành mạnh”,“bà là một nghệ sĩ
chân chính”, “chứ không thể coi là một nhà thơ dâm đãng được”[22, tr.285286]. Có thể nói, Nguyễn Lộc là một trong những người đánh giá khá toàn
diện và đúng mực giá trị thơ trào phúng của Hồ Xuân Hương.
Trong cuốn Ba thi hào dân tộc, nhà thơ Xuân Diệu đã xếp Hồ Xuân
Hương là một thi hào bên cạnh những tên tuổi lớn của dân tộc như Nguyễn
Trãi, Nguyễn Du. Điều này cho thấy Xuân Diệu rất đề cao Hồ Xuân Hương.
Hơn nữa, với cách cảm nhận thơ và cách đánh giá của một thi sĩ, Xuân Diệu
đã tôn bà là “Bà chúa thơ Nôm” và viết “Chúa đây là một cách nói như „hoa
hồng là chúa hoa‟ chứ không phải là ông hoàng, bà chúa. Thơ Hồ Xuân
Hương đã làm cho chữ „nôm na‟ không đồng nghĩa với „mách qué‟ nữa, mà

nôm na là đồng nghĩa với thuần tuý, trong trẻo, tuyệt vời. Bà chúa thơ Nôm là
chúa cả nội dung và hình thức”[4, tr.486]. Xuân Diệu cũng đã phân tích rất
nhiều tác phẩm thơ Nôm Hồ Xuân Hương để khẳng định tài năng độc đáo của
bà, đặc biệt là tài năng sáng tác thơ Nôm trào phúng. Với năng lực bình thơ
tinh tế, Xuân Diệu đã để lại những trang viết tài hoa và đầy ấn tượng về thơ
Hồ Xuân Hương.
Tác giả Ngô Gia Võ tập trung công sức nghiên cứu và đã có rất nhiều
bài viết về thơ Hồ Xuân Hương. Tác giả khẳng định: “Hồ Xuân Hương đả
kích phê phán để mà ca ngợi, khẳng định và bênh vực. Đó là giá trị nhân đạo
quan trọng nhất trong tác phẩm của bà. Và giá trị này là ngọn nguồn quan
trọng nhất khiến cho thơ Hồ Xuân Hương tươi thắm với thời gian, vượt qua
biên giới, hấp dẫn cả những bạn bè xa gần trên thế giới”[56, tr.72]. Tác giả
còn góp phần lí giải hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương [89], và cho rằng: “hiện
tượng cái tục trong thơ Hồ Xuân Hương có nguyên nhân tổng hợp từ nhiều
điều kiện cụ thể” trong đó có điều kiện “hoàn cảnh lịch sử- thời đại”, điều
kiện “cảnh đời và cá tính sáng tạo”, điều kiện “ảnh hưởng trực tiếp của văn

6


học dân gian”, điều kiện “sản phẩm của một trào lưu nhân văn” và điều kiện
“sản phẩm của tư duy trung đại”. Đặc biệt, tác giả đã có một công trình
nghiên cứu rất công phu về thơ Hồ Xuân Hương với nhan đề: Hồ Xuân
Hương với dòng thơ Nôm Đường luật trào phúng, trong đó tác giả đã đề cập
đến đối tượng trào phúng, nguồn gốc cảm hứng trong thơ trào phúng chống
phong kiến của Xuân Hương. Từ đó đưa ra nhận xét: “Thứ nhất Hồ Xuân
Hương đề cao tài năng, trí tuệ và đặc biệt là yêu cầu hạnh phúc tình dục,
chống lại sự phủ định nhu cầu tình dục và tình dục tự do. Thứ hai, bà chống
lại sự lí tưởng hoá đối với những quyền uy trung đại như cường quyền, thần
quyền và nam quyền trên các phương diện danh vị xã hội, thực chất khả năng

trí tuệ… Thứ ba Hồ Xuân Hương chống lại những tập tục phong kiến khắc
nghiệt, vô nhân đạo đối với người phụ nữ”[55, tr.125]. Tác giả còn cho rằng:
“Trong tiến trình văn học viết dân tộc, Hồ Xuân Hương đã sử dụng đầy sáng
tạo một phương tiện nghệ thuật “đặc dị” là cái “tục” để xây dựng tiếng cười
trào phúng độc đáo của mình. Đây là một phương tiên nghệ thuật lớn bao
hàm trong nó nhiều phương diện nghệ thuật khác ở cấp độ nhỏ hơn như ngôn
ngữ, kết cấu, hình ảnh…”[55, tr.133]. Sau đó, tác giả đi sâu khám phá nghệ
thuật trong thơ Nôm Đường luật của Hồ Xuân Hương, đặc biệt là nghệ thuật
cái tục trong thơ bà và đưa ra kết luận “Một lần nữa cần khẳng định Hồ Xuân
Hương là một tác giả trào phúng lớn đã kết tinh tổng hợp và phát triển những
thành tựu trào phúng đa dạng từ trước đó qua hai nguồn văn học dân gian và
văn học viết, đặc biệt là qua thơ Nôm Đường luật trào phúng”[54, tr.188], và
“Hồ Xuân Hương là một đỉnh cao của dòng thơ Nôm Đường luật trào phúng
Việt Nam”[55, tr.193].
2.2. Tác gia Trần Tế Xƣơng
Tú Xương là người suốt đời lận đận trong con đường “hoạn lộ” mà vẫn
không thành danh, do đó văn chương của ông đương thời ít được ghi chép lại.
Vì thế, việc nghiên cứu thơ Tú Xương giai đoạn trước 1945 cũng chưa được

7


đặt ra đúng mức. Tuy nhiên, nghiên cứu văn học giai đoạn này vẫn đạt được
những thành tựu nhất định. Cuốn Trông dòng sông Vị (Trần Thanh Mại 1935) đã khẳng định Tú Xương là nhà thơ trào phúng, trong đó những bài thơ
giả giọng phong lưu chiếm một phần quan trọng nhất trong cuộc đời sáng tác
của ông. Đó là những tiếng cười gàn “Cười ra nước mắt”. Có thể nói, đây là
tập phê bình văn học đầu tiên về Tú Xương có tính công phu, hệ thống nhất ở
giai đoạn này.
Việc sưu tầm nghiên cứu, phê bình thơ văn Tú Xương còn có tác giả:
Vũ Đăng Văn với Thân thế và thơ văn Tú Xương (1951- NXB Cây Thông,

Hà Nội), tác giả Nguyễn Duy Diễn với Luận đề Trần Tế Xương (1953), ông
đã đề cao và coi Tú Xương là ông tổ trào phúng Việt Nam.
Việc nghiên cứu thơ Tú Xương thực sự phát triển mạnh mẽ kể từ sau
1954, đặc biệt từ lễ kỉ niệm 50 năm ngày mất của nhà thơ (29/1/1907 29/1/1957). Nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại được xem là một trong những
người có công phát hiện và nghiên cứu sớm nhất về Tú Xương, người có
nhiều bài viết nhất về Tú Xương trong đó có bài tiểu luận Đấu tranh chống
lại quan điểm sai lầm về Tú Xương. Trong bài viết này, ông đã kiên quyết
bảo vệ nhà thơ trước những cách hiểu sai lạc và tiếp tục khẳng định Tú
Xương là một nhà thơ lớn. Cũng trong năm này, công trình nghiên cứu, giới
thiệu văn thơ Tú Xương do Hoàng Ngọc Phách - Lê Thước - Đỗ Đức Hiểu
biên soạn giới thiệu (NXB Bộ Giáo dục, HN, 1957) có tác động tích cực
trong việc nghiên cứu Trần Tế Xương. Vấn đề nghiên cứu thơ văn Tú Xương
càng được nhấn mạnh hơn khi các nhà nghiên cứu giảng dạy văn học nhóm
Lê Quý Đôn trong bộ giáo trình văn học sử đã xác định: “Tú Xương là một
tác gia văn học lớn, là nhà thơ có biệt tài là người vận dụng ngôn ngữ một
cách tài tình”, từ đó đi đến kết luận: “Sau Hồ Xuân Hương, trong thời kì văn
học cận đại, Tú Xương là nhà thơ kế nghiệp xứng đáng nhất của văn thơ trào
8


phúng nhân dân cả về phương diện tư tưởng và nghệ thuật” (Đỗ Đức Hiểu,
thơ văn Tú Xương trong sách Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam tập 3,
NXB Xây dựng, HN 1957).
Đến năm 1958, nhà nghiên cứu Văn Tân trong bài: Tính chất và giá trị
nhân văn thơ trào phúng của Tú Xương trong sách Văn học trào phúng Việt
Nam quyển 3 NXB Văn Sử Địa, HN, [41, tr.5-66] đã đặt Tú Xương trong
dòng mạch thơ ca trào phúng dân tộc bên cạnh nhiều đại biểu ưu tú như: Hồ
Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Mỡ…Trong bài viết này, ở phần tính chất
và giá trị thơ văn trào phúng Tú Xương, tác giả đã phân tích một cách sâu sắc
các nội dung: “Cá tính Tú Xương hay những nhân tố tạo thành, ý thức tư

tưởng Tú Xương”, “nội dung tư tưởng Tú Xương”, “Tú Xương với cái túng”,
“Tú Xương với cái tết”. Đặc biệt, tác giả rất chú ý các phương tiện nghệ
thuật: “Tạo ra những hiện tượng không thể có để có cớ mà mỉa mai trào
lộng”, hay “Vạch ra những mâu thuẫn sự vật để giễu cợt, châm biếm, đưa lên
mây xanh để nếm xuống bùn đen, không chửi mà hoá chửi, ít lời nhiều ý, kết
thúc đột ngột bất ngờ, hình ảnh trong thơ Tú Xương…”[41, tr.5-66].
Tiếp đó phải kể đến công trình: Tú xương - con người và thơ văn
(NXB Văn hoá, HN, 1961) của hai tác giả Trần Thanh Mại - Trần Tuấn Lộ là
công trình tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về Tú Xương. Ngoài ra, những nhà văn
nhà thơ quen thuộc với chúng ta như Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân cũng
có những bài viết nghiên cứu về thơ Tú Xương; Nguyễn Công Hoan với bài
“Về việc nghiên cứu thơ Tú Xương”, (Tạp chí Văn học số 3) [14, tr.120-125];
Nguyễn Tuân với bài “Thời và thơ Tú Xương”( Tạp chí văn học số 11/1969)
[50, tr.18], là những bài viết sâu sắc góp phần khai mở cho người đọc hiểu
sâu hơn về thời đại và con người Tú Xương.
Sau khi nước nhà hoàn toàn độc lập thống nhất, việc nghiên cứu thơ
văn Tú Xương tiếp tục phát triển, nhà văn Nguyễn Tuân trong tập sách
chuyện nghề (NXB Tác phẩm mới, HN, 1986) có hai bài: “Giọng cười trong

9


tiếng nói Tú Xương” và “Hiện thực và trữ tình trong thơ Tú Xương”. Nhà
văn đã phát hiện đến tận cùng cái hay, cái đẹp của chữ và nghĩa trong thơ Tú
Xương. Tác giả Nguyễn Đình Chú trong cuốn sách Tú Xương - Tác phẩm và
giai thoại (Hội Văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh xuất bản 1998) khẳng định
Tú Xương là nhà thơ lớn của dân tộc. Ông viết: “Tú Xương xứng đáng là nhà
thơ tiên phong và cũng là tiêu biểu nhất trong việc viết về người thực, việc
thực, ngôn ngữ thơ Tú Xương là ngôn ngữ lấy từ cuộc sống bình thường, trần
trụi từ khẩu ngữ dân gian…”.

Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử với phương thức tiếp cận, cách nhìn nhận,
hướng đánh giá mới, ông nhấn mạnh phương diện ý thức cá nhân và tiếng cười
giải thoát trong thơ Tú Xương: “Tự cảm thấy không phải với vợ và với chính
mình, nhà thơ đã dùng tiếng cười tự trào để giải thoát cho mình, tự khẳng định
nhân cách mình, tạo thành một thế cân bằng mới, Tú Xương đi ngược lại với
truyền thống thơ ngôn chí, làm thơ ra để khẳng định cái chí hướng, ý tưởng của
mình”[37, tr.189].
Sang đầu thế kỷ XX, cuốn Trần Tế Xương - về tác gia và tác phẩm do
Vũ Văn Sỹ - Đinh Minh Hằng - Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu là
một công trình nghiên cứu, sưu tầm về thơ văn Tú Xương một cách quy mô và
khoa học nhất (NXB Giáo dục, Hà Nội, 2001). Công trình này đã sưu tầm và
lựa chọn được những tiểu luận tiêu biểu, giúp cho bạn đọc hình dung rõ hơn toàn
bộ tiến trình nghiên cứu thơ văn Tú Xương với tất cả các giá trị lịch sử cụ thể
của từng giai đoạn.
Về thơ tứ tuyệt cũng có một vài công trình nghiên cứu về thể thơ này như
luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Lê Tuấn với đề tài Thơ tứ tuyệt thời Lý hay
luận án phó tiến sĩ của tác giả Nguyễn Thanh Phúc với đề tài Thơ Nôm Đường
luật, hoặc công trình Thơ tứ tuyệt trong văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế
kỷ XIX của tác giả Nguyễn Kim Châu. Những công trình này đã nghiên cứu khá
kĩ lưỡng về đặc điểm thơ tứ tuyệt của từng thời kỳ của nhiều tác giả.

10


Tóm lại mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về hai tác giả như
vừa điểm qua và một số công trình nghiên cứu về thơ tứ tuyệt. Tuy nhiên cho
đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu về thơ tứ tuyệt
đặc biệt là thơ Nôm tứ tuyệt của hai nhà thơ Hồ Xuân Hương và Trần Tế
Xương. Do vậy thực hiện đề tài này tôi thiết nghĩ việc tìm hiểu hành trình thơ
Nôm tứ tuyệt từ Hồ Xuân Hương đến Trần Tế Xương, rất có thể ta phát hiện

ra những quy luật vận động, phát triển của thể thơ này trong giai đoạn từ cuối
thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài Thơ Nôm tứ tuyệt từ Hồ Xuân Hương đến Trần Tế
Xương trên hai phương diện nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật để
thấy được giá rị nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của những bài thơ
Nôm tứ tuyệt của cả hai tác giả. Đồng thời, qua đó đánh giá, nhận xét để thấy
được sự thay đổi vận động trong sáng tác Nôm tứ tuyệt của hai nhà thơ.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tập hợp những bài thơ Nôm tứ tuyệt của Hồ Xuân Hương và Trần Tế
Xương, nghiên cứu một số vấn đề như: chủ đề, đối tượng, nội dung, bút pháp,
ngôn ngữ nghệ thuật. Trên cơ sở đó, so sánh thơ Hồ Xuân Hương với thơ
Trần Tế Xương để có cái nhìn bao quát và rõ nét về sự vận động tiếp nối và
phát triển của thơ tứ tuyệt từ Hồ Xuân Hương đến Trần Tế Xương, từ đó góp
phần khẳng định thêm vị thế độc đáo của hai nhà thơ trong tiến trình thơ Việt
Nam thời kỳ Trung đại.
5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các bài thơ Nôm tứ tuyệt của hai
nhà thơ Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương trong hệ thống các bài thơ Nôm của
hai tác giả.
- Phạm vi nghiên cứu: Chúng tôi sẽ tìm hiểu, giá trị nội dung tư tưởng và
giá trị nghệ thuật của 15 bài thơ Nôm tứ tuyệt Hồ Xuân Hương và 33 bài thơ

11


Nôm tứ tuyệt của Trần Tế Xương, với những bài cụ thể như sau: Tác giả Hồ
Xuân Hương có các bài: Mời trầu, Dỗ người đàn bà khóc chồng, Bánh trôi
nước, Quả mít,, Khóc Tổng Cóc,Đề đề Sầm Nghi Đống, Sư bị ong châm, Kiếp
tu hành, Mắng học trò dốt I, II. Trách Chiêu Hổ I, II, III, Đồng tiền hoẻn,

Con ốc nhồi. Tác giả Trần Tế Xương có những bài sau: Phố Hàng song, Đùa
ông Phủ, Chế ông đốc học, Đùa ông Hàn, Thành pháo, Hót của trời, Đề ảnh,
Bỡn ông Ấm Điền, Giếu ông Đội, Chế ông huyện, Chữ Nho, Giễu người thi
đỗ, Khoa canh tý, Than sự thi,, Đổi thi, Ông tiến sĩ mới, Ông Cử Nhu, Mừng
ông lang, Sông Lấp, Ba cái lăng nhăng, Ngón trầu, Cái nhớ, Hóa ra dưa, Hát
tuồng, ngày xuân bỡn làng thơ, Chửi cậu Ấm, Sư ở tù, hỏi đùa mình, Thái vô
tích, Chợt giấc, Chiêm bao, Dạ hoài, Thi phúc.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu nhằm phù hợp với
đối tượng và mục đích nghiên cứu như:
- Phương pháp nghiên cứu tác giả: Sử dụng để tìm hiểu về thời đại,
hoàn cảnh sống, hoàn cảnh gia đình riêng của từng tác giả. Qua đó thấy được
sự ảnh hưởng của yếu tố này trong sáng tác của hai nhà thơ.
- Phương pháp thống kê - phân loại: Được sử dụng để liệt kê hệ thống
đề tài, chủ đề, số lượng các bài thơ Nôm tứ tuyệt của Hồ Xuân Hương và
Trần Tế Xương và cả các tác giả đi trước.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu: sử dụng kết hợp với phương pháp
phân tích để làm rõ hơn điểm tương đồng và khác biệt giữa thơ Nôm tứ tuyệt của
Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương.

- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Sử dụng để phân tích khái quát,
đánh giá từ giá trị nội dung đến hình thức nghệ thuật qua đó thấy được sự vận
trong thơ Nôm tứ tuyệt từ Hồ Xuân Hương đến Trần Tế Xương.
7. Dự kiến đóng góp của luận văn
Luận văn được hoàn thành sẽ góp phần nhận thức sâu sắc hơn, chân
dung văn học của hai tác giả, cũng như những đóng góp quan trọng của hai
12


nhà thơ vào trong kho tàng thơ Nôm nói chung và thơ Nôm tứ tuyệt nói riêng,

góp phần mở ra những khía cạnh mới trong việc nghiên cứu thơ Nôm tứ tuyệt,
phục vụ cho việc nghiên cứu giảng dạy, thẩm bình các tác phẩm văn chương
trong nhà trường.
8. Cấu trúc luận văn
- Mở đầu
- Nội dung chính: gồm 3 chương
+ Chương 1. Những vấn đề chung
+ Chương 2. Sự vận động về phương diện nội dung tư tưởng trong thơ
Nôm tứ tuyệt từ Hồ Xuân Hương đến Trần Tế Xương.
+ Chương 3. Sự vận động về phương diện nghệ thuật trong thơ Nôm tứ
tuyệt từ Hồ Xuân Hương đến Trần Tế Xương.
- Kết luận

13


PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Quan niệm về thơ tứ tuyệt
1.1.1. Về thuật ngữ tứ tuyệt
Thơ tứ tuyệt là một thể thơ có từ xa xưa và cho đến ngày nay vẫn có
nhiều nhà thơ sử dụng nó để sáng tác, ký thác tâm sự của mình. Với sức sống
mãnh liệt như thế nhưng cho đến nay quan niệm về thơ tứ tuyệt vẫn chưa được
thống nhất, vẫn có nhiều ý kiến khác nhau về xuất xứ cũng như tên gọi thể thơ
đặc biệt này. Ở cả Trung Quốc và Việt Nam đều có nhiều cách định nghĩa,
nhiều quan niệm về thơ tứ tuyệt cũng như về sự hình thành của thể thơ này.
Ý kiến thứ nhất cho rằng: Tứ tuyệt là kiểu bài chỉ có bốn câu. Số tiếng
trong câu không hạn chế, cách gieo vần tự do không chịu sự ràng buộc của
niêm luật như quan niệm của tác giả Nguyễn Sĩ Đại, ông cho rằng: “Tứ tuyệt

trước hết là một bài thơ bốn câu, không nhất thiết ngũ ngôn hay thất ngôn,
không nhất thiết có niêm luật chặt chẽ”[1, tr.14], chính vì hiểu như vậy mà tất
cả các bài thơ bốn câu đều được cho là thơ tứ tuyệt.
Ý kiến thứ hai cho rằng: “Thơ tứ tuyệt là ngắt lấy bốn câu trong bài bát
cú mà thành” [7, tr.27]. Hoặc “Theo lối này (tức tứ tuyệt) thường ngắt hai câu
đầu, hai câu cuối, hoặc bốn câu cuối của bài bát cú mà thành”[42, tr.69].
Ý kiến thứ ba theo nhà nghiên cứu Phan Văn Nhiễm trong Tìm hiểu các
thể thơ: “Thơ bốn câu gọi là tứ tuyệt, người Trung Quốc gọi là tuyệt cú, tức
là bài thơ hay tuyệt vời, vì chỉ có bốn câu 20 từ hoặc 28 từ mà nói lên được
đầy đủ ý tứ của một đề tài theo đúng luật lệ của thơ Đường”[30, tr.35]
Định nghĩa của Từ điển thuật ngữ văn học: Thơ tứ tuyệt “Nghĩa rộng
là những bài thơ bốn câu, mỗi câu có năm chữ hoặc bảy chữ. Loại câu năm
chữ gọi là ngũ ngôn tuyệt cú, hay ngũ tuyệt. Loại câu bảy chữ gọi là thất
ngôn tuyệt cú hay thất tuyệt. Theo nghĩa hẹp là một dạng của thơ Đường luật,

14


có quy định bằng, trắc, niêm, đối. Loại này còn gọi là luật tuyệt để phân biệt
với cổ tuyệt là những bài thơ tuyệt cú không làm theo thơ Đường luật” [8,
tr.318].
Những ý kiến và định nghĩa trên đưa đến cho chúng ta hai cách hiểu cơ
bản về thơ tứ tuyệt, thứ nhất một bài thơ tứ tuyệt là bài thơ cắt bốn câu của
một bài bát cú mà thành, do đó nó tuân theo niêm luật của một bài bát cú; thứ
hai, bài thơ tứ tuyệt là bài thơ không nhất thiết phải làm theo cổ tuyệt hay luật
tuyệt, mà chỉ cần đáp ứng đó là một bài thơ bốn câu và làm theo thể thơ gì
cũng được. Có thể thấy, cách hiểu thứ hai này thông thoáng và mở rộng hơn
nhiều so với cách hiểu thứ nhất và cách hiểu này hợp lý hơn cả, khi xem bài
thơ tứ tuyệt là một chỉnh thể độc lập về cấu trúc chứ không phải là kết quả của
sự cắt ra từ bài bát cú, và đây là một chỉnh thể nhỏ gọn nhất trong các thể thơ

được sử dụng ở Trung Quốc từ đời Đường về sau cũng như ở Việt Nam thời
trung đại. Chúng tôi cho rằng một bài thơ hay cần phải xúc tích, không cần
phải dài dòng kể lể mà phải có sự cân đối, lời ít ý nhiều, thi ảnh đặc sắc, hình
tượng độc đáo... Tứ tuyệt luôn thể hiện được sự tinh lọc tối đa hình ảnh và
cảm xúc, từ một phạm vi đời sống nhỏ hẹp, có khả năng vươn đến một tầm
nhìn khái quát, toàn vẹn, đặt ra những vấn đề thuộc về bản chất, quy luật
muôn đời. Do vậy, tứ tuyệt thể hiện tốt sự tinh lọc tối đa hình ảnh, tổ chức
chặt chẽ giữa các bộ phận để tạo thành tứ thơ tối ưu, qua đó thể hiện được tài
năng của tác giả trong việc lựa chọn từ ngữ, đặt câu để mỗi bài thơ đều có sức
gợi trong tâm trí người đọc. Thơ càng ngắn thì sức khái quát càng cao mới tạo
ra được một tiểu vũ trụ của nó. Một bài thơ tứ tuyệt hay phải lựa chọn được
những khoảnh khắc dồn nén của đời sống tinh thần, những hiện thực tâm
trạng đặc biệt, những phút thăng hoa của cảm xúc; phải dồn nén biểu cảm để
tính khái quát của triết lý đạt tới cao độ sắc bén nhất. Cũng nhờ sự vận dụng
thể thơ tứ tuyệt thông thoáng này mà những dồn nén của tâm tư cảm xúc, tài
năng tâm lực của tác giả sẽ được gửi gắm trong thơ, qua đó truyền tải được

15


những vấn đề lớn lao, có giá trị và ý nghĩa sâu xa của đời sống. Tứ tuyệt do
ngắn cho nên hình ảnh, sự kiện được cô đọng dễ nhớ, dễ thuộc, dễ truyền
tụng vì thế mà thể thơ này được nhiều người yêu mến, được nhiều nhà thơ sử
dụng trong sáng tác của mình.
Thơ Nôm tứ tuyệt ở Việt Nam thời kỳ trung đại là một thể thơ được
nhiều nhà thơ ưa chuộng sử dụng. So với thơ tứ tuyệt luật Đường, các nhà
thơ trung đại Việt Nam bên cạnh việc tiếp thu nghiêm cẩn nghệ thuật thơ ca
Trung Quốc, họ còn sáng tạo thơ tứ tuyệt theo lối phá cách, kết hợp với
ngôn ngữ Nôm, thứ ngôn ngữ tinh tế, trong sáng giàu giá trị biểu hiện, để tạo
nên “Một lối thơ Việt Nam” đậm vị, sắc nét, linh hoạt biến hóa khôn lường.

Thơ Nôm tứ tuyệt Việt Nam vẫn đảm bảo đặc trưng hàm Súc, cô đọng với
độ dồn nén giàu ý tưởng “ít lời, ý nhiều”, nhưng đồng thời lại có khả năng
thể hiện những tình cảm, cảm xúc, hứng thú bất ngờ không theo một khuôn
hình cứng nhắc.
Như vậy, quan niệm thơ tứ tuyệt là gì còn tùy vào quan điểm của mỗi
người khi tiếp nhận. Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, thơ tứ tuyệt vẫn tồn
tại và phát triển, điều đó cho thấy sức sống diệu kỳ của thể thơ này. Bởi
chính sự giản dị của lời thơ, sự chân thành của tình cảm và tài năng nghệ
thuật của chủ thể trữ tình đã góp phần làm cho các bài thơ tứ tuyệt luôn
chiếm được tình cảm yêu mến của các thế hệ bạn đọc. Trong luận văn này,
chúng tôi sử dụng khái niệm thuật ngữ tứ tuyệt với cách hiểu tương đối rộng,
có khả năng bao quát các trường hợp cụ thể trong thơ tứ tuyệt, để trong quá
trình triển khai đề tài có sự thống nhất và đồng bộ. Qua việc lựa chọn khảo
sát những bài thơ tứ tuyệt của hai tác giả Hồ Xuân Hương và Trần Tế
Xương, chúng tôi tạm đưa ra cách hiểu thơ tứ tuyệt là bài thơ bốn câu,
không nhất thiết phải thất ngôn tứ tuyệt ngắt ra từ bài thất ngôn bát cú; có
thể là ngũ ngôn hoặc thất ngôn xen lục ngôn; cũng có thể là những bài có
câu lục, câu bát xen kẽ. Tất cả những kiểu bài như vậy đều xuất hiện trong
thơ tứ tuyệt Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương.
16


1.1.2. Hình thức của một bài tứ tuyệt
Theo Đặng Đức Siêu và Nguyễn Ngọc San [40, tr.9,10,11], một bài
thơ tứ tuyệt có hình thức như sau:
- Số câu, số chữ: Tứ tuyệt cổ thể hay cận thể đều có bốn câu, mỗi câu
năm chữ hoặc bảy chữ.
- Vần: Vần trong thơ cổ thể nói chung là vần chân, toàn bài có thể dùng
một vần hoặc nhiều vần, vần bằng hoặc vần trắc đều được cả. Trong thơ cổ
thể, không có những quy định chặt chẽ về phối hợp bằng trắc, nhưng cũng có

yêu cầu khá cao về sự hài hòa thanh điệu. Trong thơ cận thể, một bài tứ tuyệt
thường có ba vần gieo ở cuối các câu 1, 2, 4, nhưng cũng có thể chỉ có hai vần
đó là hình thức trốn vần, vần có thể lược bỏ ở câu 1. Từ gieo vần có thể là
thanh bằng (vần bằng), hoặc thanh trắc (vần trắc), thông thường vần bằng
được ưa chuộng hơn vần trắc.
- Bằng trắc, nhịp, niêm, luật: Trình tự sắp xếp các thanh bằng, trắc
trong thơ cận thể được quy định rõ ràng có thể thu gọn lại thành một số mô
thức như sau:
+ Trong thơ ngũ ngôn có thể nêu bốn mô thức tiêu biểu như sau:
I -

b

b

b

t

t

II -

t

t

t

b


b

III -

b

b

t

t

b

IV -

t

t

b

b

t

+ Trong thơ thất ngôn có thể nêu bốn mô thức tiêu biểu sau:
I -


t

t

b

b

b

t

t

II -

b

b

t

t

t

b

b


III -

t

t

b

b

t

t

b

IV -

b

b

t

t

b

b


t

Sự thay đổi trình tự sắp xếp bốn mô thức ở trên sẽ tạo ra bốn dạng thơ
ngũ ngôn hay thất ngôn phổ biến nhất.

17


Bài thơ nào mở đầu bằng hai thanh bằng (Căn cứ vào chữ thứ hai của
câu mở đầu) thì đó là bài thơ luật bằng. Bài thơ nào mở đầu bằng hai thanh
trắc, cũng căn cứ vào chữ thứ hai của câu đầu, thì đó là bài thơ luật trắc.
Để tuân thủ các quy định về bằng trắc được rõ ràng hơn, thi pháp học
cổ điển đưa ra luật lệ “Nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh” nghĩa là
các chữ thứ 1, 3, 5, bằng hay trắc đều được cả, còn các chứ thứ 2, 4, 6, phải
theo quy định bằng, trắc.
- Niêm: Theo quy định, hai câu thơ được gọi là niêm với nhau thì các
chữ 2, 4, 6 ở câu thơ 1 với câu 4 và câu 2 với câu 3 phải cùng thanh với nhau.
- Nhịp: Nhịp thơ thường là chẵn trước, lẻ sau, thơ ngũ ngôn là: 2/3, còn
nhịp thơ thất ngôn là 4/3, hoặc 2/2/3.
- Đối: Là biện pháp tạo ra sự cân xứng nhằm nhấn mạnh sự tương phản,
hoặc tương đồng. Trong thơ cận thể, đối được thể hiện trên các mặt: đối thanh
điệu, đối ý, đối từ loại. Trong thơ tứ tuyệt nói chung, không cần đối, nếu có
thường là câu 1 với câu 2, hoặc câu 3 với câu 4 hoặc cặp câu 1,2 và 3,4 đối
với nhau.
- Kết cấu: Bốn câu trong thơ tứ tuyệt đều có chức năng riêng, chúng
liên kết với nhau tạo thành một chỉnh thể nghệ thuật; câu 1 là câu khai với ý
nghĩa mở đầu, câu 2 là câu thừa với ý nghĩa đã tiếp nối ý triển khai trong câu
1, còn câu 3 gọi là câu chuyển với nhiệm vụ chuyển ý của câu 1 và 2, câu 4 là
câu hợp với ý nghĩa gói gém ý tình làm lời kết của cả bài thơ.
1.2. Thơ Nôm tứ tuyệt trƣớc Hồ Xuân Hƣơng

Trong hệ thống thể loại văn học Việt Nam, thơ Nôm Đường luật, cụ thể
là thơ tứ tuyệt là một trong số các thể loại có lịch sử lâu đời, sự có mặt của nó
được ghi nhận khá sớm từ khi xuất hiện chữ Nôm vào khoảng thế kỷ XIII và
đồng thời thể thơ này cũng được các nhà thơ sử dụng. Tuy nhiên, dựa trên các
văn bản hiện còn, ta chỉ có thể khẳng định rằng, thơ Nôm cùng với thể thơ tứ
tuyệt được đánh dấu mốc cho sự ra đời của nó là tập thơ Quốc âm thi tập của

18


×