Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Điểm mới của một số văn bản Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (57.33 KB, 5 trang )

ĐIỂM MỚI CỦA MỘT SỐ VĂN BẢN LUẬT
1. Luật Dược 2016
Luật Dược 2016 một số điểm mới cơ bản được sửa đổi so với Luật Dược 2005
như sau: Đối với quy định về đăng ký thuốc, nguyên liệu làm thuốc đã bổ sung quy
định hình thức gia hạn giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc thay cho
hình thức cấp lại giấy đăng ký lưu hành, rút ngắn thời hạn cấp giấy theo hình thức này
(từ 6 tháng xuống còn 3 tháng).
Đối với các cơ sở có hoạt động dược không thuộc diện cấp giấy chứng nhận đủ
điều kiện kinh doanh dược bao gồm các cơ sở có hoạt động dược nhưng không vì mục
đích thương mại; cơ sở kinh doanh có tổ chức kệ thuốc; cơ sở nuôi trồng, thu hái dược
liệu; cơ sở y tế thuộc lực lượng vũ trang nhân dân có hoạt động cung ứng thuốc tại
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn. Ngoài ra trong Luật Dược 2016 cũng có quy định mới trong việc
thu hồi thuốc được ban hành gồm: Thu hồi tự nguyện là thu hồi do cơ sở đăng ký
thuốc, cơ sở sản xuất, cơ sở nhập khẩu hoặc ủy thác nhập khẩu thuốc tự nguyện thực
hiện; thu hồi bắt buộc là thu hồi theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong trường hợp thu hồi quy định tại Điều 62 của Luật Dược 2016.
Cũng theo quy định mới, việc xử lý thuốc bị thu hồi được thực hiện theo luật sẽ
do Bộ Y tế ra quyết định thu hồi thuốc trong trường hợp thuốc bị thu hồi bắt buộc và
trường hợp thu hồi tự nguyện khi thuốc vi phạm ở mức độ 1, mức độ 2.Thời gian ra
quyết định thu hồi thuốc không quá 24 giờ kể từ khi có kết luận thuốc thuộc trường
hợp phải thu hồi và mức độ vi phạm của thuốc hoặc có kết luận về việc thu hồi thuốc
tự nguyện không phù hợp với mức độ vi phạm của thuốc. Người đứng đầu cơ sở đăng
ký thuốc, cơ sở sản xuất thuốc trong nước, cơ sở pha chế, chế biến, bào chế thuốc, cơ
sở nhập khẩu hoặc ủy thác nhập khẩu thuốc ra quyết định thu hồi thuốc trong trường
hợp thu hồi tự nguyện thuốc vi phạm ở mức độ 3 sau khi có ý kiến của Bộ Y tế.Thời
gian ra quyết định thu hồi thuốc không quá 24 giờ kể từ khi có ý kiến của Bộ Y tế.
2. Luật bảo hiểm y tế (sửa đổi, bổ sung)
Từ ngày 1/1/2015, khi Luật Bảo hiểm Y tế sửa đổi có hiệu lực, người dân sẽ
phải bắt buộc tham gia BHYT.



Hiện nay, khi đi khám, chữa bệnh đúng tuyến, người dân sẽ được Quỹ BHYT
chi trả 100%; khi đi khám, chữa bệnh trái tuyến, người bệnh sẽ được chi trả ở các mức
30, 50 và 70% chi phí tùy theo loại bệnh viện.
Tuy nhiên, từ năm 2015, BHYT sẽ không chi trả cho người khám vượt tuyến.
Cụ thể, người dân khi đi khám, chữa bệnh tại tuyến xã cũng sẽ được Quỹ BHYT chi
trả 100%; khi khám vượt tuyến, người bệnh chỉ được thanh toán 40% khi nằm viện
điều trị nội trú và sẽ không được thanh toán khi điều trị ngoại trú.
Quỹ BHYT chi trả 100% chi phí khám chữa bệnh đối với: Lực lượng quân đội; công
an; người có công với cách mạng, cựu chiến binh, trẻ em dưới 6 tuổi, người thuộc diện
hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội.
3. Luật thi hành tạm giữ, tạm giam
1- Làm rõ hơn khái niệm người bị tạm giữ, tạm giam so với quy định trong Quy
chế về tạm giữ, tạm giam. Tại quy định cũ thì “Người bị tạm giữ là người bị bắt trong
trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang và đối với họ đã có Lệnh tạm giữ”, trong
khi thực tế Người bị tạm giữ còn bị bắt trong các trường hợp khác như: Truy nã, đầu
thú, tự thú… Luật mới đã cụ thể hoá là “Người bị tạm giữ là người đang bị quản lý tại
cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giữ, gia hạn tạm giữ theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự”. Đối với người bị tạm giam, thực tế cũng có nhiều dạng nhưng quy định
cũ chưa bao gồm hết được, nay cụ thể đầy đủ là “Người bị tạm giam là người đang bị
quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giam, gia hạn tạm giam theo quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự, bao gồm bị can; bị cáo; người bị kết án phạt tù, người bị
kết án tử hình mà bản án chưa có hiệu lực pháp luật hoặc đang chờ thi hành án;
người bị tạm giam để thực hiện việc dẫn độ”.
Thân nhân của người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong Luật thi hành tạm
giữ, tạm giam có phạm vi hẹp hơn so với người thân thích của người bị tạm giữ, người
bị tạm giam trong Bộ luật tố tụng hình sự. Đối tượng là thân nhân được mặc nhiên
thăm gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam; còn những người khác không phải là
thân nhân muốn gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam thì phải được cơ quan đang
thụ lý vụ án đồng ý.



2 - Quy định cụ thể những quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, người bị
tạm giam trong quá trình bị tạm giữ, tạm giam.
Điều 9 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đã quy định cụ thể về những quyền cơ
bản nhất của người bị tạm giữ, người bị tạm giam, còn một số quyền khác được quy
định mang tính nguyên tắc được thực hiện nếu không bị hạn chế bởi Luật này hoặc các
Luật khác có liên quan; trong đó đã bổ sung một số quyền quan trọng cho người bị tạm
giữ, người bị tạm giam như: được phổ biến các quyền và nghĩa vụ của mình (điểm a
khoản 1); Được hướng dẫn, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền tự bào chữa, nhờ
người bào chữa, trợ giúp pháp lý (điểm đ khoản 1); Được gặp người đại diện hợp pháp
để thực hiện giao dịch dân sự” (điểm e khoản 1); Được yêu cầu trả tự do khi hết thời
hạn tạm giữ, thời hạn tạm giam (điểm g khoản 1).
Quy định quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đã có sự phân biệt với người chấp hành án phạt tù,
chẳng hạn như: người chấp hành án phạt tù phải lao động, học tập…; còn người bị tạm
giữ, người bị tạm giam không có các nghĩa vụ này. Người bị tạm giữ, người bị tạm
giam có quyền bầu cử ; người chấp hành án phạt tù không có quyền này…
Điều 19 đã quy định cụ thể về các quyền của người bị tạm giữ, người bị tạm
giam bị hạn chế khi bị tạm giữ, bị tạm giam, theo đó, người bị tạm giữ, người bị tạm
giam bị hạn chế đi lại, giao dịch, tiếp xúc, thông tin, liên lạc, tuyên truyền tín ngưỡng,
tôn giáo. Trường hợp cần thiết thực hiện giao dịch dân sự thì phải thông qua người đại
diện hợp pháp và được sự đồng ý của cơ quan đang thụ lý vụ án.
Điều 22 đã quy định người bị tạm giữ được gặp thân nhân một lần trong thời
gian tạm giữ, một lần trong mỗi lần gia hạn tạm giữ. Người bị tạm giam được gặp thân
nhân một lần trong một tháng; việc thăm gặp do Thủ trưởng cơ sở giam giữ quyết
định. Việc gặp người bào chữa được thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng
hình sự.
Trong quá trình bị tạm giữ, tạm giam, người bị tạm giữ, người bị tạm giam
được mặc quần áo của cá nhân, không bắt buộc phải mặc đồng phục. Nếu người bị tạm

giữ, người bị tạm giam không mang theo quần áo thì cơ sở giam giữ có trách nhiệm
cho mượn để sử dụng.


3- Về quy trình tiếp nhận người bị tạm giữ, tạm giam (Điều 16) và hồ sơ quản
lý tạm giữ, tạm giam (Điều 17). Luật quy định cụ thể hơn so với văn bản pháp luật cũ,
được xem như một bước tiến lớn, tạo điều kiện cho cơ sở giam giữ thực thi pháp luật,
quản lý hồ sơ đầy đủ hơn; đồng thời cũng thuận lợi cho cơ quan quản lý giam giữ,
Viện kiểm sát nhân dân… thuận tiện trong việc kiểm tra, giám sát hồ sơ sổ sách.
4 - Luật quy định một chương riêng (Chương V) về chế độ quản lý đối với
người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai hoặc nuôi
con dưới 36 tháng tuổi ở cùng, về quyền được chăm sóc y tế của người bị tạm giữ,
người bị tạm giam. Theo đó, các đối tượng trên được Luật quy định chi tiết về việc
giam, giữ, chế độ ăn ở, quản lý, sinh hoạt, chăm sóc y tế, gặp gỡ thân nhân…, người bị
tạm giữ, người bị tạm giam là người chưa thành niên được bảo đảm tiêu chuẩn định
lượng ăn được tăng thêm về thịt, cá; người bị tạm giữ, người bị tạm giam được hưởng
chế độ khám bệnh, chữa bệnh, phòng, chống dịch bệnh. Trường hợp bị ốm đau, bệnh
tật, thương tích thì được khám và điều trị tại cơ sở y tế của cơ sở giam giữ, được nhận
thuốc chữa bệnh từ thân nhân... Luật cũng quy định cụ thể hơn về phân loại quản lý
người bị tạm giữ, người bị tạm giam đối với người đồng tính, chuyển giới.
5- Về hệ thống tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý, thi hành
tạm giữ, tạm giam.
Luật quy định cụ thể hơn về hệ thống tổ chức cơ quan quản lý; cơ quan thi
hành tạm giữ, tạm giam với cơ quan điều tra. Theo đó, hệ thống cơ quan quản lý, thi
hành tạm giữ, tạm giam đã tách bạch (tương đối) với cơ quan điều tra, nhất là trong
Công an nhân dân, nhằm bảo đảm tính độc lập của hoạt động quản lý, thi hành tạm
giữ, tạm giam với hoạt động điều tra và tránh bức cung, nhục hình. Quy định rõ hơn về
vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý, thi hành tạm giữ,
tạm giam. Đặc biệt, Luật đề cao trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong việc
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền trong quản lý, thi

hành tạm giữ, tạm giam và thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết
khiếu nại trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam. Theo đó, có 02 điều luật quy định
về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm thực hiện yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị, quyết
định của Viện kiểm sát nhân dân trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam. Đặc biệt,
luật quy định rất rõ về thời hạn giải quyết, trả lời, thông báo… của cơ quan quản lý, thi
hành giam giữ cho Viện kiểm sát được biết, như: Yêu cầu cung cấp hồ sơ, thông báo


tình hình giam giữ, vi phạm pháp luật (là 15 ngày); yêu cầu tự kiểm tra và thông báo
kết quả cho Viện kiểm sát (là 30 ngày); kháng nghị quy định tại điểm đ khoản 2 Điều
42 của Luật phải được giải quyết trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kháng
nghị; kiến nghị quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 42 của Luật phải được xem xét, giải
quyết, trả lời cho Viện kiểm sát trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được kiến
nghị. Điều này, tạo thuận lợi cho cơ quan quản lý, thi hành giam giữ biết được thời
gian cụ thể để chỉ đạo, đôn đốc khắc phục, thực hiện các quy định của pháp luật kịp
thời, đúng theo quy định.
6- Quy định chặt chẽ, bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của người bị tạm giữ,
người bị tạm giam. Luật có 18 điều liên quan tới khiếu nại, tố cáo, thể hiện sự quan
tâm đến quyền con người, đặc biệt là đối tượng đang bị giam giữ. Ngoài ra, so với quy
định cũ thì luật mới quy định rất cụ thể về thời hiệu khiếu nại, tố cáo, thẩm quyền giải
quyết, thời hạn giải quyết, hồ sơ, trình tự thủ tục…
7- Quy định về kỷ luật đối với người bị tạm giữ, tạm giam có nhiều điểm mới
so với quy định trước đây. Cụ thể, quy định cũ không quy định người bị tạm giữ bị xử
lý kỷ luật nếu vi phạm nội quy nhưng luật mới có quy định về trường hợp này. Hoặc
quy định cũ quy định người bị phạt giam ở buồng kỷ luật có thể bị cùm một chân.
Nhưng luật mới, quy định có cân nhắc hơn, chỉ cùm một chân khi người bị cách ly ở
buồng kỷ luật nếu có hành vi chống phá, tự sát, tự gây thương tích cho bản thân…
Ngoài ra, việc cùm chân không áp dụng đối với người chưa đủ 18 tuổi, phụ nữ, người
khuyết tật nặng, người đủ 70 tuổi trở lên.




×