NHÓM 1 – CH18G Vị thế đồng USD qua các giai đoạn
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong những năm gần đây, xu thế toàn cầu hóa đã đẩy mạnh xuất khẩu và
đầu tư ra nước ngoài, dẫn đến những thay đổi về qui mô và quyền lực tài chính giữa
các nước phát triển và đang phát triển.
Trong khi nền kinh tế Mỹ đã đóng vai trò chính trong nền kinh tế thế giới
suốt từ sau thế chiến 2 cho đến những năm 1990, từ cuối thế kỷ qua đã chứng kiến
sự nổi lên của một số nền kinh tế lớn như Ấn Độ, Trung Quốc, Liên bang Nga,
Brazil. Những thay đổi này đã gây tác động đến dòng vốn quốc tế và tỉ giá hối đoái,
từng bước hình thành sự điều chỉnh quốc tế. Thêm vào đó, sự kiện 11/9/2001 và
cuộc chiến chống khủng bố đã tác động xấu đến cán cân thanh toán của Mỹ, mà
đỉnh cao là đổ vỡ tín dụng tại Mỹ và dẫn đến khủng hoảng tài chính toàn cầu. Chính
sự mất cân đối ngân sách kỷ lục tại Mỹ và sự nổi lên của các nền kinh tế mới nổi đã
khiến cho USD mất giá 16% tính từ tháng 3/2009 và trên 20% tính từ năm 2002 và
còn tiếp tục xuống giá. Tỉ trọng USD trong dự trữ thế giới giảm từ 72% vào năm
1999 (đồng euro bắt đầu lưu hành) xuống còn 62,8% vào quí 2/2009.
Cả thế giới đang dõi theo từng biến động của đồng USD và đã đưa ra nhiều
kịch bản cho sự biến động của đồng tiền này. Bởi lẽ, mặc dù đang có chiều hướng
đi xuống nhưng USD vẫn là đồng tiền đóng vai trò chủ đạo trong các giao dịch quốc
tế và kinh tế của Mỹ vẫn chiếm giữ vị trí số 1 của kinh tế toàn cầu. Nhận thấy đây là
một đề tài mang tính thời sự và có “sức nóng”, nhóm tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề
tài: “Vị thế đồng USD qua các giai đoạn. Tác động đối với Việt Nam”. Dưới sự
hướng dẫn nhiệt tình của Giảng viên ..........., nhóm tôi đã rất cố gắng để hoàn thành
đề tài. Tuy nhiên, do thời gian và trình độ có hạn, bài viết của nhóm không thế tránh
khỏi những sai sót. Chúng tôi rất mong sẽ nhận được sự góp ý của cô giáo và các
bạn để bài viết được hoàn thiện hơn.
1
NHÓM 1 – CH18G Vị thế đồng USD qua các giai đoạn
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
2. Mục đích nghiên cứu
Nền kinh tế Mỹ là một nền kinh tế có tầm ảnh hưởng toàn cầu. Những
biến động tài chính của nước này tác động rất lớn đến mọi nền kinh tế, trong đó
có Việt Nam. Do đó, nghiên cứu vị thế của đồng USD qua các giai đoạn để từ
đó hiểu được vai trò cũng như những ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế nước ta
để có những phản ứng chính sách tỷ giá cho phù hợp là mục đích chính của
nhóm tôi khi nghiên cứu đề tài này.
3. Kết cấu đề tài
Đề tài được nghiên cứu theo 3 phần chính:
- Phần I: Sự hình thành và phát triển của đồng USD
- Phần II: Vai trò của USD đối với nền kinh tế thế giới
- Phần III: Những dự báo về đồng USD trong tương lai và các giải pháp hoàn
thiện chính sách tỷ giá đồng
PHẦN I: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐỒNG USD
2
NHÓM 1 – CH18G Vị thế đồng USD qua các giai đoạn
1.1. Khái quát về hệ thống tiền tệ
Các mối quan hệ kinh tế quốc tế nói chung và các quan hệ kinh tế đối ngoại của
các quốc gia nói riêng bằng cách này hay cách khác đều được biểu hiện thông
qua các quan hệ tiền tệ. Từ đây đã hình thành nên hệ thống tiền tệ. Hệ thống tiền
tệ là tập hợp các quy tắc, thể lệ và tổ chức nhằm tác động tới các quan hệ tài
chính - tiền tệ giữa các quốc gia trên thế giới. Do mỗi hệ thống tiền tệ ra đời và
chỉ vận hành có hiệu quả trong những điều kiện thích hợp về kinh tế, chính trị và
xã hội nhất định nên khi những điều kiện này thay đổi sẽ dẫn tới sự sụp đổ của
hệ thống tiền tệ . Cho đến nay đã có năm hệ thống tiền tệ được sử dụng, bao
gồm: chế độ bản vị vàng, hệ thống Giơ – Noa, hệ thống Bretton Woods (còn gọi
là chế độ bản vị USD), hệ thống Giamaica, và chế độ bản vị SDR.
1.2. Phân loại hệ thống tiền tệ
Hệ thống tiền tệ có thể được phân thành hai giai đoạn:
- Giai đoạn trước Đại chiến Thế giới lần thứ hai. Khi đó, hệ thống tiền tệ được
chia thành:
+ Chế độ bản vị vàng (tỷ giá theo ngang giá vàng)
+ Chế độ bản vị hối đoái vàng
+ Chế độ bản vị vàng thoi
- Giai đoạn sau Đại chiến Thế giới lần thứ hai, gồm:
+ Chế độ bản vị USD (chế độ tỷ giá cố định)
+ Chế độ SDR (chế độ tỷ giá thả nổi)
1.3. Quá trình hình thành và phát triển của đồng USD
Đồng đô la Mỹ là đơn vị tiền tệ chính thức của Hoa Kỳ. Hiện nay trên thế
giới ngoài Hoa Kỳ, còn có một vài quốc gia khác cũng dùng đô la Mỹ làm đơn vị
tiền tệ chính thức của mình và nhiều quốc gia khác cho phép dùng đôla Mỹ trong
thực tế (nhưng không chính thức).
1.3.1. Trước Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất
3
NHÓM 1 – CH18G Vị thế đồng USD qua các giai đoạn
Cả thế giới sử dụng chế độ bản vị vàng. USD mới xuất hiện như đồng tiền của
một quốc gia.
1.3.2. Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai
Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, chế độ bản vị vàng sụp đổ. Đến khi
Chiến tranh Thế giới lần thứ hai kết thúc, đồng USD trở thành đồng tiền chủ
chốt của thế giới
1.3.3. Giai đoạn từ 1973 – 1980
Các giao dịch quốc tế dựa trên chế độ tỷ giá thả nổi mới được hình thành. Đồng
USD trở về với vai trò là một đồng tiền quốc gia, nhưng vẫn là một đồng tiền
mạnh.
1.3.4 Giai đoạn đỉnh cao 1980 – 1985
Trong giai đoạn này, USD liên tục tăng giá.
1.3.5 Sau cuộc khủng bố 11/9 và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cho đến
nay
Đồng USD liên tục mất giá sau cuộc khủng bố nhắm vào nước Mỹ và tiếp tục giảm
mạnh sau cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng hiện nay đang có xu hướng tăng trở
lại.
PHẦN II: VAI TRÒ (VỊ THẾ) CỦA ĐỒNG USD ĐỐI VỚI
4
NHÓM 1 – CH18G Vị thế đồng USD qua các giai đoạn
NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI
2.1 Vai trò của đồng USD trong nền kinh tế thế giới qua các giai đoạn
2.1.1. Trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất
Trước Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, nền kinh tế thế giới vận hành theo hệ thống bản vị
vàng (tiền tệ của mỗi nước được qui đổi ra vàng theo một tỷ lệ được định rõ). Hệ thống này dẫn tới các tỷ lệ hối đoái cố
định - tức là, tiền tệ của mỗi nước có thể đổi ra tiền của mỗi quốc gia khác theo một tỷ giá không thay đổi xác định trước.
Tỷ giá hối đoái cố định đã khuyến khích thương mại thế giới phát triển bằng việc xóa đi tính không chắc chắn liên quan
tới các tỷ giá dao động, nhưng lại có hai nhược điểm. Thứ nhất, dưới hệ thống bản vị vàng, các nước có thể không kiểm
soát được các mức cung tiền của chính mình; đúng hơn, mức cung tiền của mỗi nước được xác định bởi dòng tiền vàng
được sử dụng để quyết toán các khoản nợ của mình với những nước khác. Thứ hai, chính sách tiền tệ ở tất cả các nước bị
ảnh hưởng mạnh bởi nhịp độ sản xuất vàng. Trong giai đoạn này đồng USD chỉ đơn thuần đóng vai trò là 1 đồng tiền
quốc gia.
2.1.2 Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai
Các quốc gia đã cố gắng phục hồi lại hệ thống bản vị vàng, nhưng nó đã sụp
đổ hoàn toàn trong cuộc Đại khủng hoảng của những năm 1930. Sự sụp đổ này đã
là cho quan hệ tài chính - tiền tệ quốc tế trở nên rối ren, dẫn đến sự hình thành các
liên minh tiền tệ do một số nước tư bản đầu sỏ cầm đầu. Khu vực đồng đô la do Mỹ
cầm đầu tồn tại bên cạnh các “đối thủ không hơn kém” là khu vực đồng Bảng Anh
và khu vực đồng Phơ-răng Pháp. Nhưng sau Đại chiến thế giới lần thứ II, Mỹ trở
thành một cường quốc mạnh nhất thế giới về ngoại thương, về tín dụng quốc tế và
là nước có dự trữ vàng lớn nhất thế giới (chiếm khoảng ¾ tổng dự trữ vàng của toàn
bộ thế giới tư bản). Đây chính là những yếu tố tạo nên thế mạnh cho đồng đô la Mỹ
trên trường quốc tế, đưa đồng tiền này “lên ngôi” đồng tiền chủ chốt của thế giới.
Tháng 7 năm 1944, Hoa Kỳ đã đứng ra triệu tập Hội nghị tiền tệ - tài chính
quốc tế tại thành phố Bretton-woods với sự tham gia của 44 nước để thoả thuận về
việc thiết lập các quan hệ tài chính tiền tệ quốc tế mới cho thời kỳ sau chiến tranh
thế giới lần II. Được gọi là chế độ tiền tệ Bretton-woods. Nội dung chủ yếu của chế
độ tiền tệ Bretton-woods:
5
NHÓM 1 – CH18G Vị thế đồng USD qua các giai đoạn
- Thừa nhận USD là đồng tiền chuẩn, làm trụ cột cho chế độ tiền tệ này. Nó
được coi là phương tiện dự trữ và thanh toán quốc tế, đóng vai trò chủ chốt trong
các quan hệ tiền tệ, thanh toán và tính dụng quốc tế. Nhiều thập kỷ qua, đồng đôla
vẫn là đồng tiền các nước trên thế giới có xu hướng sử dụng trong kinh doanh. Hầu
hết các ngân hàng trung ương trên thế giới giữ phần lớn lượng dự trữ ngoại tệ bằng
đồng đôla, mặt khác, hầu hết các hàng hóa được giao dịch trên toàn cầu (như dầu
lửa) cũng được định giá bằng đồng tiền của nước Mỹ này.
- Việc sử dụng USD trong thanh toán quốc tế và các quan hệ đối ngoại khác
không hạn chế, các đồng tiền của các nước khác phải liên hệ chặt chẽ với USD theo
chế độ tỷ giá cố định.
- Các nghiệp vụ về vàng được thực hiện theo 1 giá chính thức là 35 USD = 1
ounce vàng. Đô la Mỹ được tự do chuyển đổi ra vàng theo giá đó. Ngân hàng trung
ương của các nước thành viên phải can thiệp vào thị trường vàng để giữ giá vàng
chính thức luôn luôn ở mức 35 USD = 1 ounce vàng.
- Các nước phải thực hiện ngay các biện pháp thiết thực để loại trừ chế độ
kiểm soát và quản chế ngoại hối, đồng thời thiết lập chế độ tiền tệ tự do chuyển đổi.
- Thiết lập một tổ chức tiền tệ quốc tế nhằm điều chỉnh các quan hệ tiền tệ -
tài chính quốc tế theo những nguyên tắc của chế độ tiền tệ Bretton-woods.
2.1.3. Giai đoạn từ năm 1973 đến những năm 1980
Qua 2 lần phá giá USD, năm 1973, Mỹ và các quốc gia khác đã chấp thuận
cho phép tỷ giá hối đoái thả nổi. Chế động tiền tệ Bretton Woods sụp đổ. Hệ thống
tiền tệ thế giới hình thành nên 1 số chế độ tiền tệ mới:
- Chế độ tiền tệ Gia-mai-ca ra đời trên cơ sở Hiệp định được ký kết giữa các
nước thành viên IMF tại Gia-mai-ca vào những năm 1976-1978. Chế độ tiền tệ này
thừa nhận SDR là cơ sở của chế độ tiền của các nước. SDR trở thành một đơn vị
tiền tệ tính toán quốc tế mới. Giá trị của nó được xác định theo phương pháp rổ tiền
6
NHÓM 1 – CH18G Vị thế đồng USD qua các giai đoạn
tệ, lúc đầu rổ tiền tệ gồm 16 đồng tiền mạnh nhất của thế giới. Hiện nay, tham gia
“rổ tiền tệ” là 5 đồng tiền mạnh của những quốc gia có tiềm lực về kinh tế, tài
chính. Như vậy, chế độ tiền tệ Gia-mai-ca thực chất là chế độ bản vị SDR.
- Chế độ tiền tệ châu Âu: Chế độ tiền tệ châu Âu là một chế độ tiền tệ quốc
tế khu vực. Chế độ tiền tệ này ra đời trong bối cảnh mâu thuẫn giữa ba trung tâm
thế lực quốc tế trong lĩnh vực thương mại, tiền tệ, tài chính ngày càng trở nên gay
gắt. Nó được xây dựng trên cơ sở Hiệp định tiền tệ do các nước trên lục địa châu
Âu ký kết vào tháng 3-1979. Chế độ tiền tệ châu Âu dựa vào ECU - một đơn vị tiền
tệ quốc tế khu vực của các nước châu Âu. Giá trị của ECU được đảm bảo bằng dự
trữ vàng và ngoại hối của các nước thành viên.
USD lại trở về vị trí đồng tiền quốc gia. Nhưng do tiềm lực kinh tế của Mỹ
rất lớn, cho nên USD vẫn còn là một đồng tiền mạnh, đồng thời nó vẫn chiếm 1 tỷ
trọng đáng kể trong quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia của các nước.
2.1.4. Giai đoạn 1980 – 1985
Trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 1980 đến tháng 3 năm 1985 đồng
USD không ngừng tăng giá, tỷ giá danh nghĩa của USD tăng gần 50% và tỷ giá thực
cũng tăng với một tỷ lệ tương tự. Một trong những nguyên nhân chính khiến cho
đồng USD lên giá mạnh là vì Chính phủ Mỹ áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ
nhưng nới lỏng chính sách tài khoá dẫn đến thâm hụt ngân sách (từ 16 tỷ $ năm
1979 lên 204 tỷ $ năm 1986). Tuy nhiên việc USD liên tục lên giá làm phát sinh
nhiều mối quan tâm lớn đó là ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu và gây thâm hụt cán cân
vãng lai.
2.1.5. Sau sự kiện khủng bố 11/09 và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cho đến nay
Sau sự kiện khủng bố tại Mỹ và sự ra đời chính thức của đồng Euro, đồng
USD liên tục mất giá so với các các ngoại tệ khác và vàng (trong 05 năm qua, đồng
USD đã mất giá 25%). Đồng euro ngày càng được các công ty cũng như các chính
phủ từ Trung Quốc đến Trung Đông chấp nhận nhiều hơn như một ngoại tệ dự trữ .
7
NHÓM 1 – CH18G Vị thế đồng USD qua các giai đoạn
Đồng đô la Mỹ có lúc trồi sụt, gây thiệt hại kinh tế, mất an toàn cho nền tài chính
tiền tệ các nước và nhiều nước chủ trương thay thế vị trí độc tôn của USD bằng
euro. Theo Quỹ Tiền tệ thế giới (IMF), dự trữ ngoại tệ toàn cầu trong quí 1 -2006
xấp xỉ 4,34 ngàn tỷ USD. Trong số đó, đồng USD chiếm 66,3% và đồng euro
24,8%. Kinh tế toàn cầu, vốn đang bị tác động bởi cuộc khủng hoảng thị trường tài chính và sự suy giảm kinh tế của
Mỹ, hiện đang đứng trước mối nguy hiểm, với đồng USD giảm giá và vượt khỏi tầm kiểm soát. Thêm vào đó là mối lo sợ
các ngân hàng trung ương đột ngột tung nguồn dự trữ USD không lồ của họ ra để mua các phương tiện dự trữ khác thay
thế và các nước Trung Đông có thể từ bỏ chế độ tỷ giá gắn kết với USD.
Sự kiện 11/9/2001 và cuộc chiến chống khủng bố đã tác động xấu đến cán cân thanh toán của Mỹ, mà đỉnh cao
là đổ vỡ tín dụng tại Mỹ và dẫn đến khủng hoảng tài chính toàn cầu. Chính sự mất cân đối ngân sách kỷ lục tại Mỹ và sự
nổi lên của các nền kinh tế mới nổi đã khiến cho USD mất giá 16% tính từ tháng 3/2009 và trên 20% tính từ năm 2002 và
còn tiếp tục xuống giá. Tỉ trọng USD trong dự trữ thế giới giảm từ 72% vào năm 1999 (đồng euro bắt đầu lưu hành)
xuống còn 62,8% vào quí 2/2009.
Trong thời gian qua, thị trường tiền tệ thế giới có nhiều biến động với
việc đồng USD giảm giá kỷ lục so với các đồng tiền chủ chốt cũng như so với các
đồng tiền châu Á khác. Trong giai đoạn từ tháng 7 đến tháng 9/2007, giá trị đồng
USD đã giảm 5,4% so với đồng Euro và giảm 6,8% so với đồng Yen Nhật. Kể từ
đầu năm 2007 tới nay, đồng USD nhìn chung đã mất giá khoảng 16%.
Đồng USD liên tục xuống dốc không phanh trong những tháng cuối năm
2007. Đồng USD đã thực sự đạt được một dấu mốc khi nó vượt cả mức thấp nhất so
với đồng Mark Đức hồi đầu năm 1995, tương đương với khoảng 1,455-1,457
USD/Mark và đồng Euro tăng lên với 1 Euro đổi được 1,48 USD. Đồng đôla
Canada (CAD) đã tăng lên mức cao nhất trong gần nửa thế kỷ qua so với đồng
USD, tương đương với 1 CAD đạt xấp xỉ 1,05 USD. Đồng Bảng Anh đã có lúc tăng
lên 2,0317 USD/bảng Anh - mức cao nhất kể từ năm 1981.
Trên các thị trường châu Á, đồng USD liên tục giảm giá so với đồng baht
Thái Lan và đạt ngưỡng 34 Baht/USD - mức thấp nhất kể từ sau cuộc khủng hoảng
tài chính năm 1997-1998. Kể từ đầu năm 2007, giá của đồng Baht đã tăng 7%, sau
khi tăng 12% vào năm 2006. Đồng Peso của Philippines cũng đã tăng lên mức cao
8
NHÓM 1 – CH18G Vị thế đồng USD qua các giai đoạn
nhất trong 7 năm qua so với đồng USD, trong khi đồng đôla Singapore tăng cao
nhất kể từ 10 năm nay. Tại Ấn Độ, đồng Rupee tăng 12% so với đồng USD trong
năm. Còn đồng Rupiah của Indonesia, đồng Won của Hàn Quốc, đồng đôla Đài
Loan đều tăng mạnh so với đồng USD. Đồng Nhân dân tệ (NDT) của Trung Quốc
liên tục lập các mức cao kỷ lục mới trong nhiều phiên giao dịch liên tiếp. Nếu tính
từ đầu năm đến nay, đồng NDT đã 67 lần lập mức cao kỷ lục và tăng tổng cộng trên
4%. Đồng đôla Australia (AUD) cũng đã tăng lên 0,9023 USD/AUD - mức cao nhất
trong 23 năm qua.
Các nguyên nhân khiến cho đồng USD giảm giá:
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến giá các đồng tiền, đặc biệt là tầm ảnh hưởng của
chính sách lãi suất trên khắp thế giới, sự mất cân đối thương mại, những điểm khác
biệt về tăng trưởng kinh tế và chính sách kiểm soát tiền tệ.
- Đồng USD đã chịu sức ép trong 4 năm qua do tình trạng thâm hụt tài khoản vãng
lai của Mỹ và quyết định giảm lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) trong
năm 2007. Và gần đây là những lo ngại về lĩnh vực cho vay thế chấp yếu, gây tác
động tiêu cực đến nền kinh tế lớn nhất thế giới này. Mất cân bằng trong cán cân
thanh toán là vấn đề đáng lo ngại trong vòng 10 năm trở lại đây đối với nhiều nước.
Theo thống kê của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), mức thâm hụt cán cân buôn bán của
Mỹ trong năm 2006 tương đương 6% GDP, mức cao chưa từng có trong lịch sử
nước này. Trong khi đó, một số nước châu Á như Trung Quốc và Nhật Bản lại đạt
thặng dư thương mại ngày càng lớn. Năm 2006, thặng dư thương mại của Nhật Bản
đạt 3,9% GDP, trong khi con số này của Trung Quốc là 9,4% GDP. Các số liệu Hải
quan Trung Quốc cũng cho biết khối lượng thặng dư mậu dịch của nước này trong 9
tháng đầu năm đã lên tới 185,7 tỷ USD, vượt qua cả số lượng thặng dư mậu dịch
của cả năm 2006 (177,47 tỷ USD). Dự đoán thặng dư thương mại năm 2007 của
Trung Quốc sẽ tăng lên 250 - 300 tỷ USD. Xu hướng thâm hụt thương mại kéo dài
đã tạo nên áp lực khiến đồng USD tiếp tục giảm giá.
9
NHÓM 1 – CH18G Vị thế đồng USD qua các giai đoạn
- Một nhân tố khác cũng có tác động đồng thời lên đồng USD là đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI). Đồng USD yếu đã kích thích luồng vốn lớn từ nước ngoài đổ vào
Mỹ. Nhờ vào việc đồng Euro có sức mua mạnh, các doanh nghiệp trong khu vực
Eurozone và Anh có thể đẩy mạnh chuyển hướng đầu tư và mua lại các công ty Mỹ.
Năm 2000, khi người ta bắt đầu đề cập tới vấn đề đồng Euro yếu, châu Âu đã đầu tư
125 tỷ USD vào Mỹ dưới dạng FDI. Năm 2006, con số này đã giảm xuống chỉ còn
122 tỷ USD và trong 6 tháng đầu năm 2007 mới chỉ có 12,1 tỷ USD được giải ngân
trong lĩnh vực này. Trong khi đó, luồng FDI từ Mỹ sang châu Âu đã tăng từ 77 tỷ
USD năm 2000 lên 127 tỷ USD năm 2006, và trong 6 tháng đầu năm 2007, con số
này cũng đã đạt 85 tỷ USD. Như vậy, tính từ năm 2006 đến nay, dòng vốn FDI có
xu hướng chảy từ Mỹ sang châu Âu. Và xu hướng này cũng đã được kiểm chứng
trên phạm vi toàn cầu khi mà trong 6 tháng đầu năm 2007, lượng vốn FDI vào Mỹ
là 85 tỷ USD, trong khi lượng vốn chạy ra khỏi Mỹ lại lên tới 150 tỷ USD. Thêm
vào đó là cán cân tài khoản vãng lai bị thâm hụt từ năm 1989 khiến cho các luồng
tài chính phải chịu sức ép không thuận lợi của việc đồng USD mất giá.
Đồng USD ngay lập tức bị ảnh hưởng sau khi vài quan chức ngân hàng Trung Quốc
phát biểu rằng Trung Quốc có thể thay đổi cơ cấu tiền tệ của kho dự trữ ngoại hối
khổng lồ. Tính đến cuối tháng 9/2007, dự trữ ngoại tệ của quốc gia này đã lên tới
1.430 tỷ USD, tăng 45,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Nhiều đối tác làm ăn của
Trung Quốc cho rằng các kho dự trữ ngoại tệ này tăng từ 40-50 tỷ/tháng trong 6
tháng đầu năm nay khiến cho đồng NDT bị đánh giá thấp hơn giá trị thật của nó.
- Tiền tệ luôn có xu hướng di chuyển qua biên giới để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn.
Bởi vậy, tiền tệ sẽ tăng khi thị trường kỳ vọng vào triển vọng kinh tế khả quan và
giảm khi kinh tế suy giảm. Sự mạnh lên hay yếu đi về kinh tế được thể hiện trong
thu nhập từ trái phiếu và lãi suất trái phiếu của quốc gia đó. Vào thời điểm này, thị
trường cho rằng nền kinh tế Mỹ đang phát triển chậm lại. Bởi vậy, các nhà đầu tư
đã liên tục từ đồng USD sang các loại tiền tệ khác cho lãi cao hơn.
10
NHÓM 1 – CH18G Vị thế đồng USD qua các giai đoạn
- Tuy nhiên, các nhân tố kinh tế vĩ mô này cũng chưa giải thích toàn bộ các vấn đề
trên thị trường ngoại hối. Theo quan điểm của IMF và bộ trưởng tài chính các nước
G7, sự định giá quá thấp của các đồng tiền châu Á, đặc biệt là đồng NDT của Trung
Quốc và đồng Yen Nhật, là nguyên nhân chính khiến đồng tiền chủ chốt trong thanh
toán quốc tế này giảm giá. Để hạn chế sự mất cân bằng thương mại hiện nay, Trung
Quốc và Nhật Bản cần phải kích thích tiêu dùng nội địa và không định hướng chính
sách tăng trưởng kinh tế dựa vào xuất khẩu. Để làm được điều đó, không có gì thích
hợp hơn là áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi để cho đồng nội tệ tự định giá.
Đối với Trung Quốc, biện pháp này không những có thể giúp họ kiềm chế xuất
khẩu và hạn chế những tác động do lạm phát gây ra, mà việc tăng giá đồng NDT
còn tạo điều kiện cho người dân Trung Quốc có thể mua được nhiều hàng hóa của
Mỹ và châu Âu hơn. Kịch bản này cũng nên được Nhật áp dụng và nếu điều đó
thành hiện thực, thâm hụt thương mại của Mỹ sẽ giảm bớt và đồng USD khi đó sẽ
có thể tăng giá trở lại.
Những tác động tiềm tàng
Đồng USD mất giá đang là bài toán hóc búa cho giới quản lý các kho dự trữ ngoại
tệ lớn của thế giới. Đối với các nước, như Trung Quốc và các nước vùng Vịnh vốn
gắn tỷ giá đồng nội tệ với đồng USD, thì sức ép của nguy cơ lạm phát có thể gây ra
các vấn đề nghiêm trọng cho kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, bất kỳ động thái nào
nhằm gỡ bỏ mối liên hệ với đồng USD cũng sẽ ảnh hưởng lên thị trường tiền tệ, gây
tổn thất về giá trị tài sản cho các kho dự trữ ngoại tệ của các nước này. IMF cho biết
các kho dự trữ ngoại tệ trên toàn cầu hiện tăng từ 2.000 tỷ USD trong quý II/2002
lên 5.700 tỷ USD đến quý II/2007. Hơn thế nữa, 2/3 trong tổng số quỹ dự trữ ngoại
tệ trên toàn thế giới nằm trong tay 6 nền kinh tế như Trung Quốc, Nhật Bản, Đài
Loan, Hàn Quốc, Nga và Singapore.
Theo các chuyên gia kinh tế, việc nhiều đồng tiền của các nước châu Á tăng giá so
với đồng USD trong năm nay đã khiến cho hàng hóa xuất khẩu trở nên đắt đỏ hơn
11
NHÓM 1 – CH18G Vị thế đồng USD qua các giai đoạn
và lượng ngoại tệ dự trữ bị giảm giá trị. Giá trị đồng USD sụt giảm sẽ khiến cho các
mặt hàng xuất khẩu của các nước châu Á trở nên đắt đỏ hơn đối với người tiêu dùng
ở Mỹ. Ấn Độ và Thái Lan là những nước đáng lo ngại nhất, vì tỷ giá hối đoái sẽ tạo
lợi thế cho hàng hóa của Trung Quốc so với hàng hóa của hai nước này trên thị
trường thế giới. Tuy nhiên, chính phủ các nước châu Á không quá lo ngại đối với
vấn đề giá cả hàng hóa xuất khẩu đắt đỏ hơn, một phần vì đa số các đồng tiền trong
khu vực đều tăng giá so với đồng USD. Các chuyên gia cho rằng, sự sụt giảm lượng
hàng hóa xuất khẩu sang Mỹ có thể bù lại bằng việc xuất khẩu sang châu Âu, châu
Phi và Mỹ Latinh. Bên cạnh đó, chính phủ các nước châu Á được hưởng lợi từ việc
đồng nội tệ tăng giá vì điều này sẽ giúp họ mua dầu mỏ - được bán với giá tính bằng
USD - rẻ hơn. Nhiều nước cũng mua được hàng hóa của Mỹ với giá rẻ hơn, giúp
những nước phụ thuộc vào nhập khẩu như Singapore có thể bù đắp lại sự gia tăng
giá cả của một số mặt hàng nhập khẩu.
Đồng USD yếu khiến các mặt hàng được giao dịch bằng USD như dầu thô trở nên
rẻ hơn đối với những khách hàng sử dụng đồng tiền có giá trị hơn và do đó khuyến
khích nhu cầu tiêu thụ. Điều này giúp bù đắp giá dầu đang ở mức cao kỷ lục trên thị
trường thế giới. Tuy nhiên, đồng USD yếu sẽ làm giảm giá trị doanh thu từ xuất
khẩu dầu của các nước khai thác dầu thô lớn. Thực tế này khiến Tổ chức các nước
Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) không vội vã tăng sản lượng một lần nữa, mặc dù
nguồn cung trên thị trường thế giới đang eo hẹp. Cho đến nay, nền kinh tế Khu vực
đồng Euro vẫn chưa phải hứng chịu tác động của sự bất ổn về tỷ giá hối đoái,
nhưng các rủi ro đang tăng lên. Đồng USD tiếp tục giảm giá là mối lo ngại lớn bởi
nó làm cho hàng hóa và các dịch vụ của châu Âu trở nên đắt đỏ hơn so với hàng hóa
và dịch vụ của Mỹ. Nhiều nhà hoạch định chính sách châu Âu đang lo ngại đồng
USD sẽ kìm hãm đà tăng trưởng của Eurozone.
Đồng USD yếu sẽ khiến hàng hóa Mỹ cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới. Thâm
hụt thương mại của Mỹ sẽ giảm khi xuất khẩu tăng, hạn chế ảnh hưởng của thâm
hụt đối với tăng trưởng. Đồng USD yếu cũng giúp cải thiện tình hình việc làm vì
12
NHÓM 1 – CH18G Vị thế đồng USD qua các giai đoạn
các công ty đa quốc gia sẽ chọn thuê người Mỹ với chi phí thấp hơn. Khi đồng USD
giảm giá, hàng nhập khẩu sẽ đắt lên, đẩy giá cả đắt đỏ lên theo và như vậy sức ép
lạm phát sẽ tăng. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng nền kinh tế quá lớn và cạnh
tranh đến mức phần lớn các công ty không có cơ hội tăng giá bán.
2.2. Vai trò của đồng USD so với các đồng tiền khác
Một số quốc gia ngoài Hoa Kỳ sử dụng đồng đô la Mỹ làm đơn vị tiền tệ
chính thức như Ecuador, El Salvador và Đông Timor, các cựu thành viên trong
nhóm Lãnh thổ Tín nhiệm Các đảo Thái Bình Dương (Trust Territory of the Pacifi
Islands), kể cả Palau, Micronesia và Quần đảo Marshall... Thêm vào đó, đơn vị tiền
địa phương của Bermuda, Bahamas, Panama và một số quốc gia khác có thể hoán
đổi với đồng USD với tỷ giá 1:1. Đơn vị tiền tệ của Barbados được hoán đổi với tỷ
giá 2:1. Argentina đã dùng tỷ giá hoán đổi 1:1 giữa đồng peso Argentina và đô la
Mỹ từ 1991 đến 2002. Tại Lebanon, 1 đô la được đổi thành 1500 lira Lebanon, và
cũng có thể được sử dụng để mua bán như đồng lira. Tại Hồng Kông, đồng đô la
Mỹ và đô la Hồng Kông đã được ràng buộc với giá HK$7,8/USD từ năm 1983.
Đồng Pataca của Macao, được ràng buộc với đô la Hồng Kông với giá
MOP1,03/HKD, được gián tiếp hoán đổi với đô la Mỹ với tỷ giá khoảng
MOP8/USD. Đồng Nhân dân tệ của CHND Trung Hoa đã được ổn định giá với đô
la Mỹ từ giữa thập niên 1990 với giá Y8,28/USD cho đến ngày 21 tháng 7,
2005.Malaysia cũng đã ổn định giá của đồng ringgitt với giá MR3,8/USD từ 1997.
Ngày 21 tháng 7, 2005, cả hai quốc gia đã thả giá tiền họ để theo giá thị trường.
Đồng đô la còn được dùng làm đơn vị tiêu chuẩn trong các thị trường quốc tế
cho các mặt hàng như vàng và dầu hỏa. Ngay cả các công ty ngoại quốc ít buôn bán
tại Hoa Kỳ, như Airbus, liệt kê và bán sản phẩm của họ bằng đô la (tuy trong trường
hợp này một số người cho rằng lý do là vì các doanh nghiệp Hoa Kỳ đang thống trị
ngành hàng không).
13
NHÓM 1 – CH18G Vị thế đồng USD qua các giai đoạn
Vào thời điểm này, đồng đô la Mỹ vẫn là đơn vị tiền dự trữ hàng đầu, hầu
hết trong đơn vị $100. Phần đông tiền giấy Hoa Kỳ đang ở ngoài Hoa Kỳ. Theo
kinh tế gia Paul Samuelson, nhu cầu cho tiền đô la cho phép Hoa Kỳ giữ sự thiếu
hụt trong xuất-nhập khẩu mà không dẫn đến sự suy sụp của đồng tiền.
Không lâu sau khi đồng euro (€; mã ISO 4217 EUR) được ra mắt như tiền
mặt trong năm 2002, đồng đô la đã bị từ từ giảm giá trên thị trường quốc tế. Sau khi
đồng euro lên giá trong tháng 3 năm 2002, việc thiếu hụt trong chi tiêu và thương
mại của Hoa Kỳ ngày càng gia tăng. Đến Giáng Sinh năm 2004 đồng đô la đã tụt
giá thấp nhất đối với các đơn vị tiền quan trọng khác, đặc biệt là đồng euro. Đồng
euro lên giá cao hơn $1,36/€ (dưới 0,74€/$) lần đầu tiên cuối năm 2004, khác hẳn
với đầu năm 2003 ($0,87/€). Bắt đầu từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 6 năm 2005
đồng đô la lại lên giá nhanh chóng so với đồng euro sau khi nền kinh tế các nước
châu Âu đang ứ đọng và Hiến pháp Liên minh châu Âu không được phê chuẩn
trong cuộc trưng cầu dân ý ở hai nước Pháp và Hà Lan. Trong khi tỷ lệ thất nghiệp
tại các nước sử dụng euro và sự phát triển kinh tế bị chậm lại tại các nước thuộc
Liên Minh, đồng euro có thể bị xuống giá so với đồng đô la, tuy đồng euro vẫn giữ
sức mạnh.
Hiện tượng trên bắt nguồn từ ba nguyên nhân chính
- Thâm hụt cán cân thương mại và ngân sách quốc gia và kèm theo đó là tăng
nợ của Mỹ.
- Chuyển đổi trong dự trữ ngoại tệ của các quốc gia như Trung Quốc, Ấn
Độ, Nhật, Nga và các quốc gia khác.
- Các nước xuất khẩu dầu mà trước tiên là Nga ngày càng sẵn sàng chấp
nhận đồng Euro như là phương tiện thanh toán cho dầu mỏ.
Về cơ bản, logic kinh tế của việc dự trữ bằng USD, dù không mạnh như
trước đây, vẫn còn đúng. Nó tiếp tục khiến nhiều nước tích lũy bằng loại ngoại tệ
14