Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Bài tập học kì môn sở hữu trí tuệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.88 KB, 13 trang )

ĐỀ BÀI SỐ 7
1. So sánh nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lí.
2. Năm 2010, công ty X (Việt Nam) nộp đơn đăng kí nhãn hiệu MANLI và
hình cho dược phẩm (nhóm 5), tuy nhiên bị từ chối vì bị coi là tương tự với
nhãn hiệu “MANLYX” của công ty Y (Thái Lan) đã được bảo hộ cũng cho sản
phẩm dược phẩm nhóm 5. Bằng lập luận và áp dụng các quy định của pháp luật
sở hữu trí tuệ, hãy đưa ra ra các giải pháp mà công ty X có thể vận dụng để
nhãn hiệu MANLI có thể được chấp nhận.
BÀI LÀM
2. So sánh nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lí
Nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lí đều thuộc nhóm đối tượng có tính thương mại
trong quyền sở hữu công nghiệp. Có thể so sánh hai đối tượng này dựa trên các
tiêu chí như sau:
a) Khái niệm
Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức,
cá nhân khác nhau (Khoản 16 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi bổ
sung năm 2009 – sau đây gọi tắt là Luật sở hữu trí tuệ).
Chỉ dẫn địa lí là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực,
vùng địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể (Khoản 22 Điều 4 Luật sở
hữu trí tuệ).
b) Dấu hiệu
Dấu hiệu được sử dụng làm nhãn hiệu là dấu hiệu nhìn thấy được dưới
dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các
yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc (Khoản 1 Điều 72 Luật sở
hữu trí tuệ).

1


Dấu hiệu được sử dụng làm chỉ dẫn địa lí là tên gọi, biểu tượng hoặc hình
ảnh. Tuy nhiên, khác với nhãn hiệu, dấu hiệu dùng để làm chỉ dẫn địa lí phải là


tên gọi, hình ảnh thuộc về một địa danh có thật trên thực tế và chỉ thuộc về địa
danh đó mà thôi.
c) Chức năng và đối tượng mang dấu hiệu
Nhãn hiệu là thuật ngữ dùng để chỉ chung cho hàng hóa và dịch vụ, có
chức năng chính là phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với
hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể khác. Trong khi đo chỉ dẫn địa lí chỉ dùng cho
sản phẩm hàng hóa, không có chỉ dẫn địa lí của dịch vụ. Chức năng chính của
chỉ dẫn địa lí là giúp người tiêu dùng xác định được nguồn gốc, xuất xứ của sản
phẩm từ một khu vực địa lí cụ thể mà với những nét đặc thù của khu vực đó sản
phẩm có được chất lượng tốt, đặc trưng khác với sản phẩm từ khu vực khác.
d) Điều kiện bảo hộ
Đối với nhãn hiệu, để được bảo hộ phải thỏa mãn hai điều kiện bảo hộ quy
định tại Điều 72 Luật sở hữu trí tuệ:
- Thứ nhất, là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ,
hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng
một hoặc nhiều màu sắc.
- Thứ hai, phải có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu
nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác. Nhãn hiệu có khả năng phân
biệt là các nhãn hiệu được tạo thành từ một hoặc một số dấu hiệu dễ nhận biết,
dễ ghi nhớ hoặc từ nhiều yếu tố kết hợp tạo thành một tổng thể dễ nhận biết, dễ
ghi nhớ và không thuộc các trường hợp nhãn hiệu bị coi là không có khả năng
phân biệt (Điều 74 Luật sở hữu trí tuệ).
- Đồng thời để được bảo hộ, dấu hiệu được sử dụng làm nhãn hiệu còn
không được thuộc vào trường hợp dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa
nhãn hiệu quy định tài Điều 73 Luật sở hữu trí tuệ.
2


Đối với chỉ dẫn địa lí để được bảo hộ phải thỏa mãn các điều kiện bảo hộ
quy định tại Điều 79 Luật sở hữu trí tuệ và không thuộc các trường hợp không

được bảo hộ dưới danh nghĩa chỉ dẫn địa lí quy định tại Điều 80 Luật sở hữu trí
tuệ:
- Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có nguồn gốc địa lý từ khu vực, địa
phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý. Như vậy, để
được bảo hộ là chỉ dẫn địa lí, sản phẩm phải xuất xứ từ khu vực mang chỉ dẫn
địa lí. Khu vực mang chỉ dẫn địa lí phải có ranh giới được xác định chính xác
bằng từ ngữ và bản đồ. Khu vực địa lí có thể là một hay nhiều đơn vị hành
chính, là một quốc gia, một địa danh cụ thể (ví dụ: núi Ngọc Linh là khu vực có
sản phẩm sâm mang chỉ dẫn địa lí Ngọc Linh...); trường hợp khu vực không bao
gồm toàn bộ một đơn vị hành chính, một địa danh cụ thể thì được lập thành khu
vực sản xuất mang chỉ dẫn địa lí cụ thể.
- Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có danh tiếng, chất lượng hoặc đặc tính
chủ yếu do điều kiện địa lý của khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước
tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó quyết định. Danh tiếng và chất lượng của sản
phẩm là tiêu chí khác biệt so với nhãn hiệu, chất lượng sản phẩm không phải là
điều kiện để sản phẩm được mang nhãn hiệu trong khi chất lượng lại là tiêu chi
quan quan trọng để sản phẩm bảo hộ là chỉ dẫn địa lí.


Chất lượng đặc thù sản phẩm mang chỉ dẫn địa lí được thể hiện bằng một hoặc
một số yếu tố như chỉ tiêu định tính, định lượng hoặc cảm quan về vật lí, hóa
học,vi sinh và các chỉ tiêu đó phải có khả năng kiểm tra được bằng phương pháp
kĩ thuật hoặc chuyên gia theo phương pháp thử được xác định cụ thể từ trước



(Khoản 2 Điều 81 Luật sở hữu trí tuệ).
Danh tiếng, uy tín của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lí được thể hiện thông qua sự
biết đến sản phẩm đó một cách rộng rãi trong giới tiêu dùng sản phẩm liên quan




trong quá trình tồn tại và phát triển của sản phẩm đó.
Các điều kiện địa lí liên quan đến chỉ dẫn địa lí bao gồm hai yếu tố cơ bản, đó
là: Yếu tố tự nhiên và yếu tố con người. Chất lượng đặc thù của hàng hóa, bản
3


chất của hàng hóa được quyết định hoàn toàn hoặc ở mức độ nào đó và chủ yếu
bởi điều kiện tự nhiên, con người của môi trường địa lí nơi chúng được sản xuất
ra: Các điều kiện tự nhiên độc đáo về khí hậu, thủy văn, địa chất, địa hình, hệ
sinh thái, các điều kiện tự nhiên khác; các tính chất đặc thù con người như các
yếu tố độc đáo, đặc thù về kĩ năng, kĩ xảo, của người sản xuất, quy trình sản
xuất của địa phương.
e) Đăng kí bảo hộ, cơ sở phát sinh quyền bảo hộ và quyền sở hữu đối với
nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lí
Quyền đăng kí bảo hộ nhãn hiệu được quy định tại Điều 87 Luật sở hữu trí
tuệ, theo đó những chủ thể sau có quyền đăng kí đối với nhãn hiệu:
- Những chủ thể sản xuất hàng hóa hay cung cấp dịch vị trên thị trường;
- Những chủ thể tiến hành hoạt động thương mại hợp pháp cũng có quyền
đăng kí nhãn hiệu cho sản phẩm mình đưa ra thị trường nhưng do chủ thể khác
sản xuất với hai điều kiện sau: Chủ thể sản xuất không sử dụng nhãn hiệu đó
cho sản phẩm và họ đã biết việc đăng kí đó mà không phản đối;
- Tổ chức, tập thể được thành lập hợp pháp có quyền đăng kí nhãn hiệu tập
thể để các thành viên của mình sử dụng theo quy chế nhãn hiệu tập thể;
- Tổ chức có chức năng chứng nhận, kiểm soát chất lượng, đặc tính, nguồn
gốc hoặc tiêu chí khác liên quan đến hàng hóa, dịch vụ có quyền đăng kí nhãn
hiệu chứng nhận với điều kiện không tiến hành sản xuất, kinh doanh dịch vụ đó.
Chủ thể sau khi tiến hành đăng kí nhãn hiệu và được cấp giấy chững nhận
đăng kí nhãn hiệu sẽ trở thành chủ sở hữu nhãn hiệu, có các quyền và nghĩa vụ

của chủ sở hữu nhãn hiệu.
Khác với đăng kí nhãn hiệu, quyền đăng kí chỉ dẫn địa lí của Việt Nam chỉ
thuộc về duy nhất một chủ thể đó là nhà nước. Các cá nhân, tổ chức sản xuất ra
sản phẩm mang chỉ dẫn địa lí, tổ chức tập thể đại diện cho các cá nhân, tổ chức
đó hoặc cơ quan quản lí hành chính địa phương nơi có chỉ dẫn địa lí thực hiện
4


quyền đăng kí chỉ dẫn địa lí nếu được nhà nước cho phép (Điều 88 Luật sở hữu
trí tuệ).
Sau khi đăng kí và được cấp giấy chứng nhận đăng kí chỉ dẫn địa lí các chủ
thể thực hiện quyền đăng kí không trở thành chủ sở hữu chỉ dẫn địa lí mà chủ sở
hữu duy nhất của chỉ dẫn địa lí là nhà nước.
Quyền bảo hộ đối với nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lí đều phát sinh trên cơ sở
được cấp văn bằng bảo hộ.
g) Thời hạn bảo hộ
Hiệu lực của giấy chững nhận đăng kí nhãn hiệu có hiệu lực được xác định
định thời hạn. Cụ thể, giấy chững nhận đăng kí nhãn hiệu có hiệu lực kể từ
ngày cấp đến hết 10 năm kể từ ngày nộp đơn và có thể được gia hạn nhiều lần
liên tiếp, mỗi lần mười năm (Khoản 6 Điều 93 Luật sở hữu trí tuệ).
Hiệu lực của giấy chứng nhận đăng kí chỉ dẫn địa lí theo quy định tại
Khoản 7 Điều 93 Luật sở hữu trí tuệ thì có hiệu lực vô thời hạn kể từ ngày cấp.
Tuy nhiên theo quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 95 Luật sở hữu trí tuệ, khi
các điều kiện địa lí tạo nên danh tiếng, chất lượng, đặc tính của sản phẩm mang
chỉ dẫn địa lí bị thay đổi làm mất danh tiếng, chất lượng, đặc tính của sản phẩm
đó thì giấy chứng nhận đăng kí chỉ dẫn địa lí sẽ bị chấm dứt hiệu lực. Như vậy,
có thể nhận định rằng đối với chỉ dẫn địa lí hiệu lực văn bằng bảo hộ là không
xác định thời hạn.
Sở dĩ có sự khác biệt về hiệu lực của giấy chững nhận đăng kí nhãn hiệu và
hiệu lực của giấy chững nhận đăng kí chỉ dẫn địa lí là vì các lí do sau: Đối với

nhãn hiệu, chức năng chủ yếu là phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể với
nhau, mọi chủ thể có nhu cầu đều có thể đăng kí bảo hộ nhãn hiệu cho sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ mà mình sản xuất, kinh doanh. Chủ sở hữu nhãn hiệu có trách
nhiệm đăng kí, gia hạn hiệu lực giấy chững nhận đăng kí nhãn hiệu nếu có nhu
cầu tiếp tục sử dụng, nếu không gia hạn thì được xem là không có nhu cầu tiếp
5


tục sử dụng nhãn hiệu đó và các chủ thể khác có nhu cầu sử dụng nhãn hiệu đó
có thể đăng kí để được sử dụng. Đối với chỉ dẫn địa lí, việc sản phẩm được
mang chỉ dẫn địa lí hoàn toàn hay chủ yếu được quyết định bởi việc sản phẩm
đó xuất xứ từ một khu vực địa lí cụ thể, tức là chỉ dẫn địa lí chỉ gắn liền với một
khu vực địa lí duy nhất và chủ sở hữu duy nhất là nhà nước nên không cần tiến
hành gia hạn hiệu lực văn bằng. Chính vì vậy, khi các điều kiện địa lí tạo nên
danh tiếng, chất lượng, đặc tính của sản phẩm không thay đổi thì văn bằng bảo
hộ đương nhiên vẫn có hiệu lực mà không cần gia hạn.
h) Hiệu lực không gian của văn bằng bảo hộ
Đối với cả giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu và giấy chứng nhận đăng kí
chỉ dẫn địa lí thì đều có hiệu lực trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

2. Năm 2010, công ty X (Việt Nam) nộp đơn đăng kí nhãn hiệu
MANLI và hình cho dược phẩm (nhóm 5), tuy nhiên bị từ chối vì bị coi là
tương tự với nhãn hiệu “MANLYX” của công ty Y (Thái Lan) đã được bảo
hộ cũng cho sản phẩm dược phẩm nhóm 5. Bằng lập luận và áp dụng các
quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ, hãy đưa ra ra các giải pháp mà công
ty X có thể vận dụng để nhãn hiệu MANLI có thể được chấp nhận.
Đại diện cho công ty X, em xin đưa ra một số lập luận sau:
Trước hết, đi từ khái niệm nhãn hiệu, theo quy định tại Khoản 16 Điều 4
Luật sở hữu trí tuệ: “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch
vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”. Từ định nghĩa này có thể nhận thấy

rằng, chức năng chính của nhãn hiệu là giúp người tiêu dùng nhận biết và phân
biệt sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể khác nhau. Một dấu hiệu có thể
được dùng làm nhãn hiệu nếu có thể thực hiện được hai chức năng này và
không thuộc các trường hợp không được phép sử dụng làm nhãn hiệu theo quy

6


định của pháp luật. Cụ thể tại Điều 72 Luật sở hữu trí tuệ quy định cụ thể điều
kiện để nhãn hiệu được bảo hộ như sau:
- Thứ nhất, là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ,
hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng
một hoặc nhiều màu sắc.
- Thứ hai, phải có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu
nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác.
Về khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của nhãn hiệu, Khoản 1 Điều 74
Luật sở hữu trí tuệ quy định như sau: “Nhãn hiệu có khả năng phân biệt là các
nhãn hiệu được tạo thành từ một hoặc một số dấu hiệu dễ nhận biết, dễ ghi nhớ
hoặc từ nhiều yếu tố kết hợp tạo thành một tổng thể dễ nhận biết, dễ ghi nhớ và
không thuộc các trường hợp nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt” .
Các trường hợp nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt được liệt
kê tại Khoản 2 Điều 74 Luật sở hữu trí tuệ:
“a) Hình và hình hình học đơn giản, chữ số, chữ cái, chữ thuộc các ngôn
ngữ không thông dụng, trừ trường hợp các dấu hiệu này đã được sử dụng và
thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa một nhãn hiệu;
b) Dấu hiệu, biểu tượng quy ước, hình vẽ hoặc tên gọi thông thường của
hàng hoá, dịch vụ bằng bất kỳ ngôn ngữ nào đã được sử dụng rộng rãi, thường
xuyên, nhiều người biết đến;
c) Dấu hiệu chỉ thời gian, địa điểm, phương pháp sản xuất, chủng loại, số
lượng, chất lượng, tính chất, thành phần, công dụng, giá trị hoặc các đặc tính

khác mang tính mô tả hàng hoá, dịch vụ, trừ trường hợp dấu hiệu đó đã đạt
được khả năng phân biệt thông qua quá trình sử dụng trước thời điểm nộp đơn
đăng ký nhãn hiệu;
d) Dấu hiệu mô tả hình thức pháp lý, lĩnh vực kinh doanh của chủ thể kinh
doanh;
7


đ) Dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hoá, dịch vụ, trừ trường hợp
dấu hiệu đó đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa một nhãn
hiệu hoặc được đăng ký dưới dạng nhãn hiệu tập thể hoặc nhãn hiệu chứng
nhận quy định tại Luật này;
e) Dấu hiệu không phải là nhãn hiệu liên kết trùng hoặc tương tự đến mức
gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã được đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc
tương tự trên cơ sở đơn đăng ký có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn
trong trường hợp đơn đăng ký được hưởng quyền ưu tiên, kể cả đơn đăng ký
nhãn hiệu được nộp theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên;
g) Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của
người khác đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi cho hàng hoá, dịch vụ trùng
hoặc tương tự từ trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên trong trường hợp đơn
được hưởng quyền ưu tiên;
h) Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của
người khác đã đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc tương tự mà đăng ký
nhãn hiệu đó đã chấm dứt hiệu lực chưa quá năm năm, trừ trường hợp hiệu lực
bị chấm dứt vì lý do nhãn hiệu không được sử dụng theo quy định tại điểm d
khoản 1 Điều 95 của Luật này;
i) Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu
được coi là nổi tiếng của người khác đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc
tương tự với hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng hoặc đăng ký cho

hàng hoá, dịch vụ không tương tự, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm ảnh
hưởng đến khả năng phân biệt của nhãn hiệu nổi tiếng hoặc việc đăng ký nhãn
hiệu nhằm lợi dụng uy tín của nhãn hiệu nổi tiếng;

8


k) Dấu hiệu trùng hoặc tương tự với tên thương mại đang được sử dụng
của người khác, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể gây nhầm lẫn cho người
tiêu dùng về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ;
l) Dấu hiệu trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ nếu
việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm cho người tiêu dùng hiểu sai lệch về nguồn
gốc địa lý của hàng hoá;
m) Dấu hiệu trùng với chỉ dẫn địa lý hoặc có chứa chỉ dẫn địa lý hoặc
được dịch nghĩa, phiên âm từ chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ cho rượu vang,
rượu mạnh nếu dấu hiệu được đăng ký để sử dụng cho rượu vang, rượu mạnh
không có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý đó;
n) Dấu hiệu trùng hoặc không khác biệt đáng kể với kiểu dáng công
nghiệp của người khác được bảo hộ trên cơ sở đơn đăng ký kiểu dáng công
nghiệp có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn so với ngày nộp đơn, ngày
ưu tiên của đơn đăng ký nhãn hiệu”.
Các trường hợp dấu hiệu không được bảo hộ dưới danh nghĩa nhãn hiệu
được liệt kê tại Điều 73 Luật sở hữu trí tuệ:
“1. Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với hình quốc kỳ,
quốc huy của các nước;
2. Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với biểu tượng,
cờ, huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế, nếu không được cơ
quan, tổ chức đó cho phép;

3. Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thật, biệt
hiệu, bút danh, hình ảnh của lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân của Việt
Nam, của nước ngoài;

9


4. Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với dấu chứng
nhận, dấu kiểm tra, dấu bảo hành của tổ chức quốc tế mà tổ chức đó có yêu cầu
không được sử dụng, trừ trường hợp chính tổ chức này đăng ký các dấu đó làm
nhãn hiệu chứng nhận;
5. Dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa dối
người tiêu dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị
hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ.”
Để xác định dấu hiệu “MANLI” của công ty X có được bảo hộ hay không
thì phải xem xét dấu hiệu này có đủ điều kiện để được bảo hộ hay không, có
thuộc trường hợp không được bảo hộ là nhãn hiệu hay không, có thuộc trường
hợp bị coi là không có khả năng phân biệt hàng hóa hay không? Sau đây là sự
đối chiếu với dấu hiệu “MANLI”:
Thứ nhất, “MANLI” là dấu hiệu từ ngữ được cấu tạo từ 5 chữ cái và được
phát âm thành hai âm tiết “MAN – LI” - cách phát âm theo cách phát âm của
người Việt Nam. Có thể thấy đây là dấu hiệu dễ nhớ, dễ nhận biết.
Thứ hai, dấu hiệu “MANLI” không thuộc vào trường hợp không được bảo
hộ là nhãn hiệu quy định tại Điều 73 Luật sở hữu trí tuệ.
Thứ ba, về khả năng phân biệt hàng hóa. Theo như trả lời từ Cục sở hữu trí
tuệ, dấu hiệu “MANLI” của công ty X bị coi là tương tự với nhãn hiệu
“MANLYX” của công ty Y (Thái Lan) đã được bảo hộ cho cùng một nhóm sản
phẩm (nhóm 5). Như vậy, dấu hiệu “MANLI” chỉ đang bị nghi ngờ là có dấu
hiệu trùng và có thể gây nhầm lẫn với nhãn hiệu “MANLYX” của công ty Y mà
thôi. Tuy nhiên, có thể thấy trong trường hợp này dấu hiệu “MANLI” hoàn toàn

có khả năng phân biệt với nhãn hiệu “MANLYX” của công ty Y, vì căn cứ để
xác định yếu tố tương tự gây nhầm lẫn phải là phạm vi bảo hộ nhãn hiệu, gồm
mẫu nhãn hiệu, và danh mục hàng hóa được xác định trong giấy đăng kí nhãn

10


hiệu của công ty Y đối với nhãn hiệu “MANLYX”. Khi so sánh các yếu tố trên
ta có:
- Về mẫu nhãn hiệu: Nhãn hiệu MANLI của công ty X trên thực tế trùng
4/6 kí tự so với nhãn hiệu MANLYX của công ty Y, đồng thời các ký tự trùng
cũng có cách xắp xếp giống nhau. Tuy nhiên, khi xem xét tổng thể hai dấu hiệu
MANLI và MANLYX có cách đọc khác nhau: MANLI có cách đọc là hai âm
tiết “MAN – LI”; MANLYX có cách đọc hai âm tiết “MAN – LIC” theo cách
đọc của người Việt Nam. Như vậy, hai dấu hiệu này đều chỉ có hai âm tiết trong
khi đó có sự khác nhau về một âm tiết, khi phát âm khó có thể gây nhầm lẫn.
Ngoài ra, cách trình bày, màu sắc, thiết kế là khác nhau, bằng quan sát có thể dễ
dàng phân biệt không thể gây nhầm lẫn.
- Về phạm vi bảo hộ: đối với nhãn hiệu “MANLYX” phạm vi bảo hộ là
tổng thể cho toàn bộ nhãn hiệu, không bảo hộ riêng cho nhóm kí tự trùng
“MANL” vì nhóm kí tự này không có nghĩa. Mặt khác, MANLI và MANLYX
hoàn toàn là hai từ khác nhau, có ý nghĩa khác nhau. Việc công ty X sử dụng
dấu hiệu MANLI cho sản phẩm của mình không phải là sử dụng lại dấu hiệu
của công ty Y mà là sử dụng dấu hiệu mới, khác biệt không thể bị coi là trùng
lặp hay tương tự.
- Về hàng hóa mang nhãn hiệu: Nhóm 5 trong danh mục hàng hóa, dịch vụ
Ni-xơ là nhóm hàng hóa bao gồm các chế phẩm dược, thú y với số lượng các
loại hàng hóa lớn được xếp chung bởi dấu hiệu chung đó là các chế phẩm dươc.
Việc có chung nhóm hàng hóa không thể bị coi là hàng hóa trùng hay tương tự.
- Về kênh phân phối và đối tượng tiêu dùng: sản phẩm dược là sản phẩm

được phân phối bởi các bệnh viện, nhà thuốc, do các bác sĩ, dược sĩ – những
người có trình độ chuyên môn cao trực tiếp kê đơn và bán cho người bệnh.
Chính vì vậy, không thể có chuyện nhầm lẫn khi lựa chọn sản phẩm dược cho
người bệnh, bởi vì chọn sai thuốc sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tính

11


mạng của bệnh nhân. Người bệnh trên thực tế cũng không tự mua thuốc mà mua
theo đơn của bác sĩ hoặc sự hướng dẫn, tư vấn của dược sĩ.
Từ các lí do trên có thể kết luận dấu hiệu “MANLI” mà công ty X muốn
đăng kí hoàn toàn có khả năng phân biệt đối với nhã hiệu “MANLYX” của công
ty Y. Do vậy, việc bác đơn đăng kí nhãn hiệu của công ty X là không có căn cứ,
cần được xem xét lại.

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009;
Nghị định Số: 105/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 nghị định quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sở hữu trí tuệ về bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ;
Nghị định 103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 nghị định hướng
dẫn Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp;
Giáo trình luật sở hữu trí tuệ, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. CAND,
Hà Nội 2009;
Một số nguồn tài liệu khác.


13



×