Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Nhân cách đạo đức của người đảng viên trong ngành ngành y tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.09 KB, 23 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..........................................................................................................2
NỘI DUNG.......................................................................................................4
1. Một số khái niệm.........................................................................................4
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức..................................................7
3. Nhân cách đạo đức của cán bộ ngành y tế hiên nay...............................11
4. Nguyên nhân..............................................................................................17
5. gải pháp......................................................................................................18
KẾT LUẬN....................................................................................................22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................23

1


MỞ ĐẦU
Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy; “Đảng viên đi trước, làng
nước theo sau”, để thúc đẩy công cuộc đổi mới tới những bước tiến và kết quả
cụ thể theo quan điểm thực tiễn, cần phải tổ chức việc giáo dục đạo đức trong
Đảng và trong xã hội sao cho mỗi người thấm nhuần sâu sắc rằng, đạo đức
mới của những người tham gia đổi mới xã hội là đạo đức hành động, đạo đức
trong lao động, trong công việc, trong quan hệ với con người, trong đấu tranh
khắc phục mọi tệ nạn tha hóa để hướng tới sự cao đẹp, hướng tới việc lành
mạnh hóa các quan hệ xã hội.
Đối với người đảng viên, chí phấn đấu cho cá nhân trở nên lương thiện,
giữ gìn phẩm chất cá nhân cho trong sạch là chưa đủ và chưa thể hiện tính
tiên phong gương mẫu. Người đảng viên không thể là người đứng ngoài cuộc
đấu tranh loại trừ cái ác, thờ ơ và lảng tránh trước sự hoành hành của cái ác
trong đời sống. Đạo đức hành động đòi hỏi ở họ dũng khí trong cuộc đấu
tranh chống tham nhũng, độc đoán, chuyên quyền, ức hiếp quần chúng; bảo
vệ sự thật, chân lý, lẽ công bằng và các giá trị dân chủ xã hội vì lợi ích công


dân và vì lợi ích chung của xã hội. Dũng khí đó phải biểu hiện trong đấu tranh
bảo vệ sự trong sạch, vững vàng của Đảng, uy tín của Đảng đối với xã hội;
đồng thời, còn biểu hiện trong đời sống chính trị- xã hội, gắn liền mật thiết
với các sinh hoạt của nhân dân, của xã hội, tích cực bảo vệ pháp luật, kỷ
cương, an ninh trật tự, luân lý đạo đức, văn hóa tinh thần và lối sống lành
mạnh của từng gia đình, từng tập thể đến toàn xã hội.
Không thể được coi là người có đạo đức, là người xứng đáng với danh
hiệu đảng viên nếu người đó chỉ làm tròn nhiệm vụ, bổn phận của mình trong
cơ quan, trong tập thể chi bộ, đảng bộ ở nơi làm việc, nhưng lại thờ ơ với các
sinh hoạt công dân ở địa phương, trước hết ở nơi cư trú. Càng chưa thể có đạo
đức, nếu như mỗi đảng viên không góp phần vào việc hình thành dư luận xã
hội tích cực, phê phán cái tiêu cực, cái ác, cái xấu đang diễn ra hằng ngày
trong đời sống xã hội. trong thực tế, có thể xảy ra những trường hợp và tình
2


huống sau đây: Đảng viên không vi phạm pháp luật, nhưng không bộc lộ thái
độ, quan điểm mang tính phê phán đối với những hiện tượng phạm pháp hay
lợi dụng kẽ hở trong quản lý của nhà nước để làm điều sai trái; đảng viên
không phạm pháp nhưng không hành động, không đấu tranh với các hành vi
phạm pháp, giữ an toàn cho riêng mình, nhưng để mặc nhiên diễn ra sự tổn
hại cho công dân khác, cho xã hội; đảng viên sống lương thiện, nhưng không
đủ dũng khí đấu tranh với mọi sự bất lương. Những biểu hiện đó, tuy là giữ
được mình nhưng lại thiếu tính chiến đấu cách mạng, có thể gọi là tình trạng
bạc nhược về chính trị và đạo đức, ích kỷ trong nhân cách.
Ở mức độ nặng hơn, lại có những cán bộ, đảng viên, thậm chí cả tổ
chức đảng đứng ra bao che cho những hành vi tội lỗi, không ngăn cản mà còn
tham gia vào những hành động tự phát, manh động, vô chính phủ của quần
chúng do bị kích động hoặc kém giác ngộ. Lại có những trường hợp đảng
viên hoặc tổ chức cơ sở đảng tê liệt, mất ý chí chiến đấu, phó mặc cho hoàn

cảnh điều khiển khi những phần tử xấu xuyên tạc, công kích, bôi nhọ đảng và
chế độ. Thái độ dung túng, bao che hoặc đồng lõa, cũng như thái độ im lặng,
bất động như vậy là vô tình hoặc cố ý đồng lõa với tình trạng suy thoái đạo
đức, tinh thần.
Tình hình đó cho thấy, để hình thành những lớp đảng viên có đạo đức
tương xứng với yêu cầu đổi mới, phải tiến hành hết sức công phu, tỷ mỷ việc
giáo dục đạo đức và rèn luyện các tính cách đạo đức thông qua việc làm, hành
động; mà việc kiểm tra, đánh giá những hoạt động đó không chỉ bằng các
phương pháp và nguyên tắc của tổ chức đảng mà bằng cả sự giám sát của toàn
dân. Thực tế cho thấy, hiện nay vẫn còn một số bộ phận không nhỏ cán bộ đảng
viên mờ nhạt về phẩm chất nhân cách đạo đức không đáp ứng được yêu cầu của
công việc. Vì vậy, vấn đề nhân cách đạo đức của người đảng viên cần được chú
trọng hơn nữa. Đặc biệt là đảng viên trong các đơn vị hành chính sự nghiệp như
ngành y tế, luật… thì vấn đề nhân cách đạo đức lại càng được đề cao hơn nữa.
Vì lẽ đó tác giả xin chọn vấn đề “Nhân cách đạo đức của người đảng viên trong
ngành ngành y tế” làm đề tài tiểu luận kết thúc học phần môn học của mình.
3


NỘI DUNG
1. Một số khái niệm
* Khái niệm nhân cách
Các nhà nghiên cứu về tâm lý học nhân cách đã đưa ra nhiều quan niệm
khác nhau về nhân cách, tùy theo khu vực, vùng miền văn hóa mà có những
quan niệm khác nhau.
+ Người phương Tây tôn sùng tiến bộ văn minh vật chất, không quan
tâm nhiều đến phẩm chất.
+ Tư tưởng phương Đông cổ đại về nhân cách cho rằng thể hiện chủ
yếu ở học thuyết Kinh dịch âm dương ngũ hành, học thuyết của Khổng Tử về
Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín…Người phương Đông đánh giá con người qua chất

là chủ yếu, lượng là phụ – lấy “Tâm thiện” là lý tưởng, đề cao tính thiện, tính
nhân, thích sự im lặng, nhẹ nhàng và luôn đề cao sự cân bằng không thái quá.
Mọi tu nhân, xử thế, chính trị đều hướng tới Thiện. Biết đủ là giàu, giản dị ở
vật chất, giản dị trong nội tâm, trong ngôn từ, trong quan hệ với mọi người.
+ Ở Việt Nam, theo tác giả Nguyễn Ngọc Bích trong cuốn Tâm lý học
nhân cách thì chưa có định nghĩa nhân cách nào một cách chính thống. Song
cách hiểu của người Việt Nam về nhân cách có thể theo các mặt sau đây:
1. Nhân cách được hiểu là con người có đức và tài hay là tính cách và năng
lực hoặc là con người có các phẩm chất : Đức, trí, thể, mỹ, lao (lao động).
2. Nhân cách được hiểu như các phẩm chất và năng lực của con người
3. Nhân cách được hiểu như phẩm chất của con người mới: Làm chủ,
yêu nước, tinh thần lao động cống hiến.
4. Nhân cách được hiểu như mặt đạo đức, giá trị làm người của con
người. Theo cách hiểu này, tác giả Nguyễn Quan Uẩn trong cuốn tâm lý học
đại cương (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội) nêu lên định nghĩa nhân cách như
sau:

4


“ Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá
nhân, biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người. Nhân cách là sự tổng
hoà không phải các đặc điểm cá thể của con người mà chỉ là những đặc điểm
quy định con người như là một thành viên của xã hội, nói lên bộ mặt tâm lý –
xã hội, giá trị và cốt cách làm người của mỗi cá nhân.”Đây là định nghĩa về
nhân cách được chấp nhận rộng rãi ở Việt Nam.Có thể nói Nhân cách chính là
“cái tôi, cái bản ngã” của mỗi cá nhân, là đời sống tâm sinh lý, là những năng
lực, những phẩm chất con người có được trong đời sống cộng đồng – với tư
cách chủ thể, giúp họ có khả năng tự ý thức, tự đánh giá, tự khẳng định, tự
điều chỉnh, tự chịu trách nhiệm những hoạt động, những hành vi của chính

mình và hơn nữa tự nhận thức về bản thân mình cả trong hiện tại và tương
lai.Nhân cách là sự thống nhất biện chứng, tổng hoà mối quan hệ giữa con
người và xã hội…Khi bắt đầu bước vào cuộc sống, con người mới chỉ là một
cá nhân chưa phải là một nhân cách. Trong quá trình vận động tồn tại, nhân
cách dần dần được hình thành, phát triển và hoàn thiện.
Những yếu tố sau đây góp phần hình thành phát triển nhân cách :
– Yếu tố di truyền, bẩm sinh, đặc điểm sinh lý giải phẫu của cơ thể và
nhất là hệ thần kinh, nội tiết . Những yếu tố sinh vật này chính là tiền đề, cơ
sở vật chất.
– Yếu tố xã hội môi trường hoàn cảnh sống (như đất đai, sông núi, khí
trời, dân tộc, tôn giáo, kinh tế, chính trị…) đã ảnh hưởng quan trọng
– Yếu tố Giáo dục đóng vai trò chủ đạo
– Ý thức hoạt động cá nhân giữ vai trò quyết định
* Khái niệm đạo đức
Đạo: Đường đi, hướng đi, lối làm việc, ăn ở.
Đức: Theo Khổng Tử, sống đúng luân thường là có Đức. Theo Đạo (Lão
tử) tu thân tới mức hiệp nhất với trời đất, an hoà với mọi người là có Đức.

5


Đạo đức được xem là khái niệm luân thường đạo lý của con người, nó
thuộc về vấn đề tốt-xấu, hơn nữa xem như là đúng - sai, được sử dụng trong 3
phạm vi: lương tâm con người, hệ thống phép tắc đạo đức và trừng phạt đôi
lúc còn được gọi giá trị đạo đức; nó gắn với nền văn hoá, tôn giáo, chủ nghĩa
nhân văn, triết học và những luật lệ của một xã hội về cách đối xử từ hệ thống
này.
Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui
tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với
nhau, với xã hội,với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng như tương lai

chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của
dư luận xã hội.
Đạo đức là một hiện tượng lịch sử và xét cho cùng, là sự phản ánh của
các quan hệ xã hội. Có đạo đức của xã hội nguyên thuỷ, đạo đức của chế độ
chủ nô, đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản, đạo đức cộng sản. Lợi ích của
giai cấp thống trị là duy trì và củng cố những quan hệ xã hội đang có; trái lại,
giai cấp bị bóc lột tuỳ theo nhận thức về tính bất công của những quan hệ ấy
mà đứng lên đấu tranh chống lại và đề ra quan niệm đạo đức riêng của mình.
Trong xã hội có giai cấp, đạo đức có tính giai cấp. Đồng thời, đạo đức cũng
có tính kế thừa nhất định. Các hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau, nhưng
xã hội vẫn giữ lại những điều kiện sinh hoạt, những hình thức cộng đồng
chung. Tính kế thừa của đạo đức phản ánh “những luật lệ đơn giản và cơ bản
của bất kì cộng đồng người nào” (Lênin). Đó là những yêu cầu đạo đức liên
quan đến những hình thức liên hệ đơn giản nhất giữa người với người. Mọi
thời đại đều lên án cái ác, tính tàn bạo, tham lam, hèn nhát, phản bội... và biểu
dương cái thiện, sự dũng cảm, chính trực, độ lượng, khiêm tốn... “không ai
nghi ngờ được rằng nói chung đã có một sự tiến bộ về mặt đạo đức cũng như
về tất cả các ngành tri thức khác của nhân loại” (Ănghen). Quan hệ giữa
người với người ngày càng mang tính nhân đạo cao hơn. Ngay trong xã hội

6


nguyên thuỷ đã có những hình thức đơn giản của sự tương trợ và không còn
tục ăn thịt người. Với sự xuất hiện của liên minh bộ lạc và nhà nước, tục báo
thù của thị tộc dần dần mất đi. Xã hội chủ nô coi việc giết nô lệ là việc riêng
của chủ nô, đến xã hội phong kiến, việc giết nông nô bị lên án. Đạo đức
phong kiến bóp nghẹt cá nhân dưới uy quyền của tôn giáo và quý tộc; đạo đức
tư sản giải phóng cá nhân, coi trọng nhân cách. “Nhưng chúng ta vẫn chưa
vượt được khuôn khổ của đạo đức giai cấp. Một nền đạo đức thực sự có tính

nhân đạo, đặt lên trên sự đối lập giai cấp và mọi hồi ức về sự đối lập ấy chỉ có
thể có được khi nào xã hội đã tới một trình độ mà trong thực tiễn của đời
sống, người ta không những thắng được mà còn quên đi sự đối lập giai cấp”.
Đó là trình độ của xã hội tương lai, xã hội cộng sản chủ nghĩa(Ănghen).
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn luôn quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện phẩm chất đội ngũ đảng
viên. Ngay từ năm 1925, bài giảng đầu tiên của Người cho những cán bộ cách
mạng trẻ tuổi của Việt Nam là vấn đề “tư cách một người cách mệnh”. Nghiên
cứu những bài nói và viết của Người, chúng ta đều thấy mối quan tâm hàng đầu
của Người là xây dựng một đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Sự giác
ngộ lý tưởng cộng sản, lòng trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của
giai cấp công nhân, suốt đời hy sinh phấn đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là phẩm chất hàng đầu mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh đặt ra cho mỗi đảng viên cộng sản.
Người căn dặn mỗi đảng viên "không một phút nào được quên lý tưởng
cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập cho chủ nghĩa xã
hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới"; phải biết đặt lợi
ích của giai cấp, của dân tộc lên trên lợi ích của cá nhân, luôn vững vàng
trước mọi khó khăn, vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của
7


Đảng lên trên hết; nếu khi "lợi ích chung của Đảng mâu thuẫn với lợi ích
riêng của cá nhân thì phải quyết hy sinh lợi ích của cá nhân cho lợi ích của
Đảng". Người chỉ rõ: suốt đời phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân "là phẩm chất
cao quý của người cách mạng. Đó là đạo đức cách mạng. Đó là tính Đảng, tính
giai cấp, nó bảo đảm cho sự thắng lợi của đảng, của giai cấp, của nhân dân".
Người đánh giá rất cao những đảng viên luôn luôn trung thành với sự nghiệp

cách mạng của giai cấp và của dân tộc, suốt đời hy sinh phấn đấu vì độc lập tự
do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, đồng thời phê phán
nghiêm khắc những kẻ lợi dụng địa vị để mưu cầu lợi ích cá nhân làm tổn hại
đến lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lạo động.
Chủ tịch Hồ chí Mình đòi hỏi mỗi đảng viên cộng sản cùng với phẩm
chất cách mạng cao quý còn phải có năng lực, vì có năng lực mới hoàn thành
tốt được nhiệm vụ của Đảng giao cho. Người dạy rằng, "Đảng yêu cầu cán bộ
và đảng viên chẳng những thạo về chính trị, mà còn phải giỏi về chuyên môn,
không thể lãnh đạo chung chung”. Muốn vừa thạo về chính trị, vừa giỏi về
chuyên môn, mỗi đảng viên phải ra sức “học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và
đường lối, chính sách của Đảng, học tập văn hoá, kỹ thuật và nghiệp vụ;
không ngừng nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng và năng lực công tác của
mình”. Bởi vì, có học tập lý luận Mác - Lênin mới củng cố được đạo đức cách
mạng, giữ vững lập trường, nâng cao hiểu biết và trình độ chính trị, mới làm
tốt được công tác Đảng giao cho mình; “có nắm vững đường lối cách mạng
mới hiểu rõ mình phải làm gì và đi theo phương hướng nào để thực hiện mục
đích của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay”. Người cũng chỉ rõ rằng,
muốn học tập có kết quả tốt, phải có thái độ đúng và phương pháp đúng, lý
luận phải liên hệ với thực tế, phải “biến những điều đã học thành hành động
cách mạng thực tế. Học phải đi đôi với hành, chứ không phải học để nói
suông”.

8


Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một yêu cầu quan trọng về phẩm chất
đảng viên là liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy quyền làm chủ tập thể
và sức mạnh sáng tạo to lớn của quần chúng. Bởi lẽ, Đảng là đội tiên phong
của quần chúng, nhưng Đảng chỉ có sức mạnh nếu giữ vững được mối liên hệ
chặt chẽ với quần chúng. Muốn làm cho quần chúng phấn khởi, tin tưởng,

người đảng viên "phải nâng cao tinh thần phụ trách trước Đảng và trước quần
chúng, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Phải yêu kính nhân dân. Phải thật sự
tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được lên mặt “quan
cách mạng” ra lệnh, ra oai. Phải nắm vững quan điểm giai cấp, đi đúng đường
lối quần chúng, thành tâm học hỏi quần chúng, kiên quyết dựa vào quần chúng,
giáo dục và phát động quần chúng tiến hành mọi chủ trương, chính sách của
Đảng và của Nhà nước. Phải thật thà, ngay thẳng, không được giấu dốt, giấu
khuyết điểm, sai lầm. Phải khiêm tốn, gần gũi quần chúng, không được kiêu
ngạo...Phải luôn chăm lo đến đời sống của quần chúng. Phải “chí công, vô tư”
và có tinh thần “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. “Người nghiêm khắc phê
phán những đảng viên “xa rời quần chúng, không muốn học hỏi quần
chúng...ngại làm việc tổ chức, tuyên truyền và giáo dục quần chúng...mắc bệnh
quan liêu, mệnh lệnh. Kết quả là quần chúng không tin, không phục, không
yêu...” và họ không làm nên trò trống gì.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách đảng viên cộng sản luôn nhấn
mạnh vấn đề xây dựng ý thức tổ chức và kỷ luật, phục tùng nghiêm chỉnh kỷ
luật của Đảng, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Bởi lẽ, sức mạnh
vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm. Người
chỉ rõ: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người.
Đó là nhờ có kỷ luật. Kỷ luật của ta là kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự
giác”. Người đòi hỏi mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu về phục tùng kỷ
luật, chẳng những kỷ luật của Đảng mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân
và của cơ quan chính quyền. Trong giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật, người yêu
cầu mọi đảng viên phải ra sức góp phần xây dựng và giữ vững sự đoàn kết
9


nhất trí trong Đảng. Bởi lẽ, đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công.
"Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân,
phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ

chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác". Do đó, tất cả cán bộ, đảng viên, dù ở cương vị khác nhau,
làm công tác khác nhau, cũng đều phải đoàn kết nhất trí để làm tròn nhiệm vụ,
"giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình"
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ những biện pháp thiết thực để mỗi
đảng viên cộng sản phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng nhân cách của mình. Trước
hết, mỗi đảng viên phải ra sức tu dưỡng, rèn luyện để nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Nếu để cho chủ nghĩa cá nhân ám ảnh,
chi phối, người đảng viên sẽ mất dần tư cách, đi tới tự tước bỏ danh hiệu cao
quý của mình. Vì vậy, muốn giữ được tư cách, đảng viên nhất thiết “phải ra
sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến bộ mãi. Nếu không cố gắng để tiến
bộ, thì tức là thoái bộ, là lạc hậu...sẽ bị xã hội tiến bộ sa thải”.
Việc giữ gìn bản chất, tư cách đảng viên cộng sản cần gắn với xây
dựng, củng cố các tổ chức của Đảng, nhất là chi bộ, vì chi bộ “là nền móng
của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt”. Thực tế đã chứng minh rất rõ: ở đâu
chi bộ mạnh, cấp ủy mạnh thì đảng viên mạnh, ở đâu chi ủy, chi bộ rệu rã thì
ở đó cán bộ, đảng viên tê liệt sức chiến đấu, dễ trở thành hư hỏng, thoái hoá.
Cho nên, trong xây dựng tổ chức đảng, xây dựng chi bộ, các cấp ủy đảng phải
thực hiện dân chủ nội bộ, quan tâm đến đời sống của cán bộ, đảng viên, kịp
thời giúp họ giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống và công
tác. Song, phải nghiêm khắc đối với những cán bộ, đảng viên phạm sai lầm,
khuyết điểm; tẩy bỏ những phần tử hủ hoá nhằm giữ gìn nghiêm kỷ luật từ
trên xuống dưới.
Cùng với việc giữ nghiêm kỷ luật, phải “mở rộng phong trào phê bình và
tự phê bình ở trong Đảng, ở các cơ quan, các đoàn thể, trên các báo chí cho đến
10


nhân dân. Phê bình và tự phê bình phải thường xuyên, thiết thực, dân chủ, từ
trên xuống và từ dưới lên”. Người còn vạch rõ: “Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ

sợ phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa. Muốn sửa chữa cho tốt thì phải
sẵn sàng nghe quần chúng phê bình và thật thà tự phê bình”. Đồng thời, Người
yêu cầu phải tăng cường công tác kiểm tra trong Đảng nhằm “thúc đẩy và giáo
dục đảng viên làm trọn nhiệm vụ...,làm gương mẫu cho nhân dân” và xây dựng
Đảng vững mạnh, nâng cao sức chiến đấu của Đảng.
Trong giai đoạn hiện nay, khi cả nước đứng trước những vận hội mới
và thách thức mới, tiếp tục sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, hơn bao giờ hết chúng ta phải giương cao ngọn cờ lãnh đạo của
Đảng, xây dựng các tổ chức chi bộ vững mạnh, rèn luyện tư cách đảng viên
với phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ. Việc nghiên cứu, quán triệt tư
tưởng Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng Đảng nói chung, trong rèn luyện
phẩm chất, tư cách đảng viên cộng sản nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan
trọng nhằm củng cố tổ chức đảng, xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị,
tư tưởng và tổ chức, thực sự xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
3. Nhân cách đạo đức của cán bộ ngành y tế hiên nay
Trong hai cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân, đế quốc và trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, người thầy thuốc - dân y và quân y - đã
hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang của mình một cách xuất sắc. Hàng trăm, hàng
ngàn tấm gương sáng “người thầy thuốc như mẹ hiền” đã được nhân dân ta ca
ngợi. Nhiều bác sĩ như Phạm Ngọc Thạch, Đặng Văn Ngữ, Tôn Thất Tùng...
đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tôn vinh vì đức hy sinh, dũng cảm
trong bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Trong thời kỳ đất nước đổi mới,
do biết kế thừa đạo đức truyền thống, biết làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, biết vận dụng quan điểm định hướng của Đảng về ngành y tế, biết
dựa vào mặt tích cực của nền kinh tế thị trường nên đã xuất hiện nhiều tấm
11


gương sáng của cá nhân, tập thể trong bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Nhiều cá nhân và đơn vị tiên tiến, anh hùng trong ngành y được Đảng, Nhà
nước tuyên dương.
Tuy vậy, chúng ta phải thừa nhận rằng, mặt trái của kinh tế thị trường
đã tác động nhiều đến xã hội nói chung, trong đó có ngành y tế. Chính kinh tế
thị trường đã tác động làm biến đổi quan hệ giữa lợi ích và đạo đức trong
ngành y. Không ít thầy thuốc, đơn vị đã nguyên tắc hóa lợi ích vật chất trong
hoạt động nghề nghiệp. Điều đó dẫn đến hệ quả là, nếu trước đây y đức được
coi là gốc, là cơ sở cho các phẩm chất khác của người thầy thuốc, của đơn vị,
thì nay lợi ích cá nhân, lợi ích cục bộ của đơn vị lại được xem là ưu tiên trước
hết. Nếu trước đây coi nhân cách là thiện chí, thiện tâm, trách nhiệm vì lợi ích
người bệnh, lợi ích xã hội, thì nay coi nhân cách là ở quy mô thu nhập, thành
đạt trong việc thực hiện lợi ích. Nếu trước đây coi trọng sự hợp tác với đồng
nghiệp vì mục tiêu sức khỏe người bệnh thì nay chấp nhận sự cạnh tranh
trong nghề nghiệp. Nguyên tắc hóa lợi ích cá nhân trong nghề nghiệp (trái hẳn
với sự hài hòa lợi ích cá nhân - tập thể - xã hội do Đảng ta định hướng) đã len
lỏi, can thiệp vào các mối quan hệ của y đức, làm cho y đức suy thoái. Sự suy
thoái ấy được biểu hiện rất đa dạng và có nhiều mức từ thấp đến cao:
Trong quan hệ giữa người thầy thuốc với người bệnh, sự suy thoái biểu
hiện ở thái độ thiếu niềm nở, lịch sự trong giao tiếp với bệnh nhân, thiếu tôn
trọng quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của con người, thờ ơ với nỗi đau
của người bệnh... Sự suy thoái nặng hơn nữa là viện cớ chế độ chính sách y tế
còn nhiều bất cập mà gây phiền hà, vô trách nhiệm trong thăm khám và điều
trị, là lôi kéo người bệnh về chữa trị tại phòng khám tư của mình, kê đơn
thuốc đắt tiền và móc nối với hiệu thuốc để hưởng hoa hồng, vòi vĩnh quà cáp
và tiền của người bệnh.

12


Trong chuyên môn, một số thầy thuốc do không chấp hành nguyên tắc

của bệnh viện, quy chế của chuyên môn đã để xảy ra những sai sót về kỹ thuật
gây tai biến cho người bệnh.
Trong quan hệ với đồng nghiệp, sự suy thoái của y đức biểu hiện ở tinh
thần thiếu hợp tác vì mục đích chung, ở sự thiếu tôn trọng chuyên môn và sự
đóng góp của đồng nghiệp trong thăm khám, điều trị, ở sự ít chia sẻ thông tin
với đồng nghiệp về chuyên môn.
Trong quan hệ với xã hội, sự suy thoái của y đức biểu hiện ở sự thiếu
nhiệt tình trong hỗ trợ tuyến dưới, khi tham gia chống dịch bệnh, trong hoạt
động truyền thông giáo dục sức khỏe, trong khám chữa bệnh miễn phí, thiếu
gương mẫu trong nếp sống, trong sinh hoạt tập thể...
Trong lịch sử y học, Lê Hữu Trác đã nhìn thấy sự biểu hiện đa dạng,
nhiều cấp độ khác nhau của y đức, nên ông đã cho rằng muốn trở thành người
thầy thuốc có lòng nhân ái thì phải dày công rèn luyện theo tám đức (nhân,
minh, trí, đức, lượng, thành, khiêm, cần) và chống tám tội (lười, keo, tham,
lừa dối, bất nhân, hẹp hòi, thất đức, dốt). Trong công cuộc đổi mới, Bộ Y tế đã
quy định về Tiêu chuẩn đạo đức của người làm công tác y tế kèm theo Quyết
định số 2088/BYT-QĐ ngày 6-11-1996 gồm 12 điều y đức. Năm 1999, Bộ Y
tế tiếp tục ban hành bản tiêu chuẩn cụ thể phấn đấu về y đức gồm ba phần:
tiêu chuẩn y đức đối với nhân viên y tế ở các bệnh viện; tiêu chuẩn y đức đối
với các khoa, phòng trong bệnh viện; tiêu chuẩn y đức đối với bệnh viện.
Nhưng hiện nay không ít thầy thuốc và cơ sở khám, chữa bệnh không
thấy hết mức độ sa sút về y đức từ cách ứng xử, giao tiếp với bệnh nhân, thậm
chí còn có thái độ vô trách nhiệm, thờ ơ với nỗi đau của người bệnh... Hiện
tượng tiêu cực trong khám, chữa bệnh đã trở thành phổ biến, kéo dài, mất
lòng tin đối với xã hội. Vì vậy đẩy mạnh việc thực hiện chủ trương của Đảng

13


ta “Nâng cao y đức, đấu tranh đẩy lùi tiêu cực trong hoạt động khám, chữa

bệnh” lúc này là vô cùng cần thiết.
Phát huy truyền thống đạp lý của dân tộc, nêu gương sáng của danh y
như Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông, Tôn Thất Tùng, Phạm Ngọc Thạch...Hay
người Liệt sĩ, Bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm và phấn đấu rèn luyện theo lời dạy của
Bác Hồ kính yêu, nhiều năm qua đội ngũ thầy thuốc dưới mái nhà XHCN đã
không ngừng phấn đấu, vượt khó, lao động sáng tạo góp phần vào sự nghiệp
chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.
Các Thầy Thuốc của thế hệ đi trước như Phạm Ngọc Thạch, Đặng Văn
Ngữ, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Chung, Trần Hữu Tước, Đỗ Tất Lợi và thế hệ
tiếp nối như Tôn Thất Bách, Lê Thế Trung, Đặng Thuỳ Trâm vv .... đã để lại
tấm gương sáng về y đức, cống hiến trọn đời cho sự nghiệp y học và y tế của
nước nhà. Làm thế nào để người thầy thuốc trẻ hôm nay thực hiện được lời
dạy của Bác Hồ và xứng đáng với sự tôn trọng của người dân.
Nền kinh tế thị trường và những tác động tiêu cực của xã hội ảnh
hưởng không nhỏ đến người thầy thuốc. Hiện tượng “phong bì” phổ biến tại
các bệnh viện. Những tác động tiêu cực dù ít, dù nhiều cũng đã làm xói mòn
đạo đức, sự vươn lên làm chủ tay nghề và việc chữa trị, chăm sóc người bệnh
của người Thầy Thuốc. Người dân kêu ca nhiều về thái độ ứng xử của nhân
viên y tế tại các bệnh viện hiện nay, về tình trạng thiếu trách nhiệm, thờ ơ với
người bệnh của một bộ phận nhân viên y tế. Điều này làm đau lòng và tổn hại
đến danh dự của bất cứ ai đã gắn bó cả cuộc đời với nghề nghiệp cao quý này,
bởi với họ, không có đức thì không thể làm nghề y.
Trong bối cảnh ngành y tế đang đẩy mạnh xã hội hoá hiện nay, nhiều
thách thức mới cũng đang đặt ra với những người làm công tác y tế. Hiện
tượng chảy máu chất xám xảy ra ngay chính trong ngành y. Nhiều bác sỹ
được cử đi đào tạo, nâng cao trình độ, lẽ ra về với các bệnh viện tỉnh, huyện,

14



nơi đã cử mình đi học, thì lại tìm mọi cách chạy về các khu vực có bệnh viện
lớn và thu nhập tốt hơn. Ở các trường đại học Y, các chuyên khoa lao, tâm
thần, hay cả chuyên khoa nhi là lĩnh vực mà trước đây sinh viên rất thích học,
thì nay cũng trong tình trạng thiếu sinh viên trầm trọng, vì thu nhập ở những
chuyên ngành này thấp hơn so với các chuyên ngành khác. Không ít sinh viên
y khoa đã chấp nhận bỏ nghề, để làm việc bán thuốc cho các công ty dược
nước ngoài vì thu nhập cao hơn. Tình trạng thiếu nhân lực ở tuyến dưới đã
đẩy y tế tuyến trên vào tình trạng quá tải trầm trọng. Điều đó không chỉ ảnh
hưởng đến chất lượng phục vụ người bệnh, không chỉ gây bức xúc cho bệnh
nhân, mà còn gây bức xúc cho chính những người thầy thuốc. .
Đáng mừng và đáng tự hào là dù đời sống còn gặp khó khăn, trong đội
ngũ những người làm công tác y tế vẫn có một số rất lớn những cán bộ y tế
cần mẫn hàng ngày, hàng giờ chăm sóc phục vụ người bệnh, cho dù phải đối
mặt với nguy hiểm bởi nguy cơ lây nhiễm rất cao. Trong những vụ dịch nguy
hiểm như viêm đường hô hấp cấp SARS, dịch cúm A H5N1, có những y- bác
sỹ thức trắng nhiều đêm bên giường bệnh, có những thầy thuốc quên ăn, quên
ngủ với hy vọng sớm tìm ra căn nguyên của những căn bệnh quái ác, giành lại
sự sống từ tay tử thần, lại có những y- bác sỹ hiến máu cứu bệnh nhân. Mới
đây thôi, trong vụ dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm hồi cuối năm ngoái, các bác
sỹ tại Viện Y học lâm sàng các bệnh nhiệt đới, phải đếm từng cái “bỉm” của
bệnh nhân để xác định số lượng bệnh nhân tiêu chảy giảm hay tăng, để có sự
điều chỉnh phương án điều trị. Nhiều bác sỹ ở lại trực dịch tại bệnh viện hơn
20 ngày không về qua gia đình. Căng thẳng, vất vả, nhưng tất cả đều tự
nguyện. Bởi họ hiểu rằng, sinh mạng của nhiều người đang đặt trong tay họ.
Đối với đa số những người làm ngành y, thì việc nâng cao y đức trước
tiên là việc nâng cao tay nghề, nâng cao trình độ nghiên cứu, chẩn đoán, làm
chủ trang thiết bị hiện đại để có thể nhanh chóng tìm ra nguyên nhân gây
bệnh, biện pháp điều trị và cách điều trị. Cùng với đó là việc nâng cao tinh

15



thần trách nhiệm để tận tuỵ với người bệnh. Như vậy, điều cốt lõi nhất của y
đức vẫn là sự xuất phát từ lương tâm và trách nhiệm của những người Thầy
Thuốc. Những người thầy thuốc có y đức thì dù trong môi trường nào họ cũng
sẽ hành động vì tình người. Cho nên, việc thường xuyên giữ gìn, bảo vệ, trau
dồi y đức là điều cần thiết. Bên cạnh đó, với một cơ chế làm việc khoa học,
minh bạch về quyền lợi, nghĩa vụ, chắc chắn sẽ ngăn chặn được sự suy thoái y
đức của một bộ phận y- bác sĩ. Với những sinh viên y khoa, hành trang đầu
tiên khi bước vào nghề là lời tuyên thệ trước Tượng Hypocrate - Y Tổ của Thế
giới và Hải Thượng Lãn Ông - Y Tổ của Việt Nam, “Coi nghề Thầy Thuốc
mà họ đã chọn như một con đường cứu người và giúp đời”. Người Thầy
Thuốc mới ra trường chỉ là mới bắt đầu cho y nghiệp và y đạo của mình, vì
vậy cần phải rèn luyện, phấn đấu, tu dưỡng nhiều hơn nữa để trở thành một
người Thầy Thuốc chân chính, vừa có tài vừa có đức, xứng đáng với lời dạy
của chủ tịch Hồ Chí Minh “Lương y như Từ mẫu”.
Hiện nay, dưới tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, một số giá
trị tinh thần, đạo đức có chiều hướng xuống cấp, một số bộ phận không nhỏ
trong xã hội có sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống ảnh hưởng không
nhỏ đến lòng tin của nhân dân. Một số cá nhân đang công tác trong ngành y
cũng nằm trong vòng xoáy đó. Nhiều sự việc đau lòng xảy ra hàng ngày trong
ngành y do chưa coi trọng lương tâm và trách nhiệm nên đã gây ra không ít
phiền hà cho người bệnh, nhất là người nghèo khi lâm cảnh ốm đau. Tại một
số cơ sở khám chữa bệnh vẫn còn hiện tượng thu phí ngầm, một số cán bộ y
tế thiếu nhiệt tình trong khám chữa bệnh và chăm sóc bệnh nhân, thiếu thông
cảm chia sẻ sự lo lắng mất mát của bệnh nhân và gia đình họ. Một số còn móc
ngoặc với trình dược viên, các quầy thuốc nhằm kiếm lợi cá nhân. Ở một số
cơ sở khám chữa bệnh có sự mất đoàn kết nội bộ, thiếu tôn trọng đồng
nghiệp. Đó là những tồn tại khiến dư luận nhân dân không đồng tình làm cho
y đức bị xói mòn. Những người thầy thuốc trẻ hiện nay khi mới ra trường thì

tiêu chuẩn lựa chọn đầu tiên để ổn định công tác là tiền lương cao, thu nhập
16


lớn. Điều này tạo nên một sự dư thừa giả tạo đội ngũ thầy thuốc ở thành thị và
sự thiếu thầy thuốc ở những vùng sâu, vùng xa một cách đau lòng. Vì những
lẽ đã nói nên việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống nói chung, y đức nói
riêng cho cán bộ y tế trong giai đoạn hiện nay trở nên cấp thiết. Bản chất
nhân đạo và định hướng XHCN của hoạt động y tế đòi hỏi sự công bằng
trong chăm sóc sức khoẻ, nhưng nền kinh tế thị trường mặc dầu có định
hướng XHCN nhưng sự phân tầng xã hội, phân hoá giàu nghèo sâu sắc như
hiện nay nên vấn đề này càng trở nên bức thiết. Sự xã hội hoá y tế có thể nói là
bước đột phá nhằm làm cho người nghèo có điều kiện tiếp cận với dịch vụ y tế
cao. Nhưng hiện nay vấn đề này còn có nhiều bất cập. Trong số bất cập đó có
sự đóng góp của một số thầy thuốc thiếu lương tâm và trách nhiệm gây ra
4. Nguyên nhân
Thực trạng tư tưởng, đạo đức, lối sống của người thầy thuốc XHCN
nêu trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Nhưng xét ở khía cạnh hạn chế
khiếm khuyết chủ yếu thể hiện ở các điểm sau:
+ Kỷ cương buông lỏng, công tác giáo dục không được tiến hành
thường xuyên, việc kiểm tra giám sát chưa sâu sắc, chưa nề nếp, các quy định
về y đức cho từng khoa phòng chưa cụ thể, chưa tạo những hành động cụ thể
phù hợp với chức năng và nhiệm vụ. Công tác khen thưởng và kỷ luật chưa
được phát huy được tác dụng. Thực hiện các văn bản nghị quyết chỉ thị của
Đảng và Nhà nước, ngành cấp trên chưa nghiêm túc. Tất cả những vấn đề đó
làm cho công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống ngành y tế chưa thực sự
có hiệu quả.
+ Cơ chế dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, vai trò quản lý của Nhà nước về y
tế, sự tăng trưởng kinh tế chậm, mức sống của đội ngũ y tế còn thấp và chưa
thoả đáïng, vai trò quản lý của đội ngũ nghề nghiệp chưa cao, đặc biệt là dư

luận xã hội điều chỉnh hành vi của người thầy thuốc chưa được quan tâm
đúng mức
17


Thiếu cơ sở vật chất, trang thiết bị cho chẩn đoán điều trị ở vùng sâu, vùng
xa. Sự thiếu quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ
chuyên môn cũng gây ra những ảnh hưởng xấu đến tư tưởng, đạo đức, lối
sống của người thầy thuốc trong giai đoạn hiện nay.
5. gải pháp
Trước những thử thách ấy, để nâng cao y đức, đấu tranh đẩy lùi tiêu cực
trong khám, chữa bệnh, cần thực hiện những giải pháp cơ bản sau:
Trước hết, coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng với các nội
dung cụ thể sau:
- Giáo dục đạo đức truyền thống của ngành y tế: học tập, làm theo lời
thề Hy-pô-crát, lời thề và những điều y đức của Lê Hữu Trác, tư tưởng Hồ
Chí Minh về y đức, đức hy sinh vì khoa học, vì sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc
sức khỏe của các bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Đặng Văn Ngữ, Tôn Thất Tùng,...
- Học tập, quán triệt sâu sắc và thực hiện Nghị quyết số 46-NQ/TW của
Bộ Chính trị về “Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân
trong tình hình mới”; học tập các quan điểm định hướng xã hội chủ nghĩa
trong văn kiện Đại hội X và Đại hội XI của Đảng đối với ngành y tế.
- Xây dựng hệ thống chuẩn mực đạo đức ngắn gọn, cụ thể cho các đối
tượng trong ngành, trước hết là cho thầy thuốc để thực hiện trong toàn
ngành.- Coi môn đạo đức học và đạo đức y học trong các cơ sở đào tạo nhân
viên y tế là môn học của khoa học y học, có vai trò quan trọng như các môn
khoa học khác.
- Biểu dương, khen thưởng những nhân viên y tế tận tâm, có nhiều sáng
kiến, cải tiến để bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Kịp thời phê phán và xử lý
nghiêm minh những nhân viên y tế có biểu hiện tiêu cực trong khám, chữa bệnh.


18


Thứ hai, coi trọng công tác tổ chức quản lý các cấp của ngành y tế,
nhất là các cơ sở khám, chữa bệnh, sản xuất, phân phối lưu thông thuốc. Nâng
cao y đức, đấu tranh chống tiêu cực trong khám, chữa bệnh đòi hỏi phải kết
hợp chặt chẽ giữa giáo dục với công tác tổ chức và quản lý. Đây là biện pháp
thực tiễn quan trọng vì khi tư duy và hành động của các cấp ủy, các nhà quản
lý luôn tìm mọi biện pháp chống tiêu cực về y đức thì tất yếu sẽ có nhiều thầy
thuốc, nhiều cơ sở khám, chữa bệnh, nhiều cửa hàng thuốc được người bệnh
tôn vinh, các quan điểm định hướng của Đảng đối với ngành y tế sẽ trở thành
hiện thực.
Thứ ba, bảo đảm nguồn tài chính đầu tư cho ngành y tế để xây dựng cơ
sở vật chất và các hoạt động bảo vệ chăm sóc sức khỏe cho người dân là yếu
tố quan trọng để chống tiêu cực trong khám, chữa bệnh.
- Những năm gần đây, ngân sách nhà nước cấp cho y tế ngày một tăng.
Hiệu quả sử dụng ngân sách chi cho y tế đã được nâng cao. Tuy nhiên, vẫn
còn cách xa so với yêu cầu. Giải pháp cấp thiết là hằng năm Nhà nước tăng tỷ
lệ ngân sách cho sự nghiệp y tế bảo đảm tốc độ tăng chi bình quân chung của
ngân sách nhà nước.
- Hiện nay, số người tham gia đóng bảo hiểm y tế đã chiếm 46% dân
số. Giải pháp cấp thiết là phát triển nhanh, vững chắc bảo hiểm y tế và coi đây
là nguồn thu chính thay cho viện phí.
- Xây dựng một nhóm chính sách tổng thể bảo đảm cho người nghèo,
người có công với nước, người thuộc nhóm đối tượng chính sách xã hội được
dễ dàng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và hưởng các dịch vụ chăm
sóc sức khỏe ngày càng có chất lượng.
- Chính phủ đã có Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16-1-2002 về tự
chủ cho bệnh viện công. Cân đối giữa việc mang lại hiệu quả và việc bảo đảm

19


công bằng trong chăm sóc sức khỏe khi đề xuất và áp dụng một số giải pháp
tự chủ là vấn đề cần thiết. Nhận thức rõ rằng, hiệu quả và công bằng là hai
mặt tồn tại và nương tựa vào nhau trong chăm sóc sức khỏe.
- Cần có nhóm chính sách tổng thể trong vấn đề đãi ngộ cho cán bộ y tế
ở các cơ sở cung ứng dịch vụ công, tránh manh mún và giảm sự cách biệt
giữa cán bộ làm việc tại các vùng khác nhau .
Nâng cao y đức, đấu tranh đẩy lùi tiêu cực trong hoạt động khám, chữa
bệnh là hai vấn đề liên hệ mật thiết với nhau, là việc làm vừa thường xuyên,
vừa cấp bách của ngành y tế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động khám, chữa
bệnh, củng cố và lấy lại niềm tin của nhân dân đối với người thầy thuốc. Nâng
cao y đức, đấu tranh đẩy lùi tiêu cực trong hoạt động khám, chữa bệnh còn có
ý nghĩa thực hiện các quan điểm định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng đối
với ngành y tế
Ngoài ra, để giữ gìn nâng cao y đức của người thầy thuốc, cần phải có
ba vấn đề cốt lõi quan trọng sau đây:
Một là: Quản lý chặt chẽ hoạt động của người thầy thuốc trong các quy
trình khám chữa bệnh, đòi hỏi người thầy thuốc phải thực hiện nhiệm vụ
khám chữa bệnh cho người dân theo đúng các quy trình, đúng các chế độ, thể
hiện qua những quan điểm thực hiện một nền y tế luôn đề cao tính công bằng
và hiệu quả. Vấn đề này đã được thể hiện rất cụ thể trong chỉ thị số
009/2001/CT-BYT ngày 08-08-2001 của Bộ y tế, về việc “Tăng cường y đức,
nâng cao tinh thần, thái độ phục vụ và chất Lượng chăm sóc người bệnh tại cơ
sở y tế”.
Hai là: Thực hiện chính sách chăm lo đối với đời sống vật chất và tinh
thần của người thầy thuốc, người thầy thuốc phải có một đời sống vật chất,
tinh thần đảm bảo, đồng lương của người thầy thuốc phải phản ánh đúng giá
trị lao động của họ. Có thể quan niệm rằng lao động của người thầy thuốc có

20


tính trách nhiệm rất cao, vì nó liên quan đến sinh mạng con người. Vì vậy,
Nhà nước cần sớm ban hành những chính sách thể hiện sự quan tâm của toàn
xã hội dối với người thầy thuốc.
Ba là: Chương trình đào tạo những người thầy thuốc là một yếu tố rất quan
trọng liên quan đến việc giữ gìn, phát triển đạo đức của họ. Bác Hồ đã nói: “Vì lợi
ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Vì thế vấn đề đào tạo
những con người hoạt động trong ngành y tế phải được đặt ra một cách chặt chẽ
và khoa học. Nhà trường y tế, phải chú ý đầy đủ cả hai mặt năng lực và đạo đức,
để có người cán bộ y tế vừa “hồng” vừa “chuyên”. Để làm được điều này không
thể nói chung chung, mà mục tiêu đào tạo về đạo đức phải thể hiện ở nội dung,
chương trình giảng dạy trong các nhà trường y tế.

21


KẾT LUẬN
Trong cơ chế thị trường, đồng tiền xen vào giữa mối quan hệ thầy thuốc
và người bệnh. Trong ngành y đang có xu hướng thích hệ điều trị hơn dự
phòng, thích trực tiếp tiếp xúc với bệnh nhân hơn gián tiếp. Hiện tượng
“phong bì lót tay”, coi trọng quá mức đồng tiền là một tồn tại nhức nhối, làm
biến dạng hình ảnh tốt đẹp của người thầy thuốc chân chính. Một số ít bác sĩ,
nhân viên y tế đã có những biểu hiện tiêu cực, vi phạm quy định về y đức, bị
dư luận xã hội lên án như: sách nhiễu gia đình bệnh nhân, coi thường tính
mạng của người bệnh, phân biệt đối xử giữa bệnh nhân giàu và nghèo… Đây
chỉ là những “con sâu bỏ rầu nồi canh”, nhưng đã phần nào làm vẩn đục sự
thanh cao của nghề y.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ y tế, Nhà nước đã và sẽ nghiên

cứu đề ra các chế độ, chính sách hợp lý, quan tâm đến vật chất, tinh thần, bảo
đảm đời sống ổn định cho đội ngũ nghề y, tương xứng với công việc đặc thù
của họ. Có chính sách đào tạo cho đội ngũ cán bộ y tế ở cơ sở hợp lý và khoa
học. Có chế độ khuyến khích, ưu đãi đối với cán bộ y tế, sinh viên các trường
Đại học Y về công tác miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn…
Người thầy thuốc muốn tinh thông nghề nghiệp phải tự mình có ý thức học
tập, tích lũy kinh nghiệm, nâng cao y thuật, rèn luyện y đức suốt đời để mỗi
ngày một giỏi hơn, hết lòng tận tụy, tận tâm với nghề. Để nâng cao y đức của
đội ngũ thầy thuốc, rất cần xây dựng mối quan hệ giữa thầy thuốc với bệnh
nhân một cách trong sáng và lành mạnh trên tinh thần trách nhiệm. Sự quan
tâm của toàn xã hội chăm lo nâng cao y đức có vai trò rất quan trọng để người
bệnh và gia đình họ biết trân trọng tinh thần và lao động của người thầy thuốc
trong khám chữa bệnh. Việc tuyên truyền, giáo dục về đạo đức của người thầy
thuốc không chỉ dành riêng cho đội ngũ thầy thuốc mà cho cả cộng đồng.
Làm tốt điều này, sẽ tạo điều kiện để mỗi thầy thuốc thể hiện rõ lương
tâm và trách nhiệm của một “lương y”, thân thiện với mọi người, tận tụy với
công việc.
22


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. M.E.Tê-lê-xép-xcai-a, N.I.Pô-ghip-cô: Đạo đức y học, Nxb. Y học, Hà Nội,
1986, tr. 31 - 32
2. Trần Văn Thụy: Đại danh y Lãn Ông và cơ sở tư tưởng của nghề làm thuốc,
chữa bệnh. Nxb. Y học,Hà Nội, 2001, tr. 109
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia,Hà Nội, 1996, t.7, tr. 476
4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 230
5. Văn kiện đã dẫn, tr. 184

6. Tạp chí Cộng sản, Số 817 (11-2010), tr. 19
7. Tạp chí Cộng sản, Số 821 (3-2011), tr. 57 - 59
8. />9. />10. />
23



×