Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

phê phán lao động và phân phối sản phẩm của lao động trong tác phẩm “phê phán cương lĩnh gô tha

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.38 KB, 29 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử xã hội loài người là sự phát triển, thay thế lẫn nhau giữa các hình
thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao. Xuất phát từ thế giới quan duy vật lịch sử,
C.Mác và Ph.Ănghen cho rằng, mọi sự biến đổi của các chế độ xã hội trong lịch sử
đều là quá trình phát triển lịch sử tự nhiên. Đó là do sự chi phối của quy luật quan
hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Từ thời kì phong kiến sang thời kì tư bản chủ nghĩa là cả một bước tiến lớn của
nhân loại. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản, bên cạnh những
thành tựu to lớn mà nó đạt được, bản thân nó cũng tồn tại không ít những khuyết
tật, những khuyết tật ấy ngày càng biểu hiệu trầm trọng hơn và không thể khắc
phục được. Chính chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những tiền đề lịch sử để phủ định lại
nó.
Đầu thế kỷ XIX, khi đại cách mạng công nghiệp cơ bản hoàn thành ở các
nước tư bản phát triển, cũng là lúc giai cấp công nhân trở thành lực lượng chính trị
đông đảo. Từ khi “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” ra đời chủ nghĩa Mác trở thành
hệ tư tưởng của giai cấp công nhân ở hầu hết các nước. Nghĩa là chủ nghĩa Mác đã
đánh bại mọi trào lưu tư tưởng khác như: trào lưu của chủ nghĩa xã hội không
tưởng, trào lưu tiểu tư sản, trào lưu của những người vô chính phủ... Song, kẻ thù
không chịu khoanh tay mà nó tìm mọi cách để chống lại làm xuất hiện một hình
thức mới-hình thức chủ nghĩa cơ hội. Những kẻ cơ hội này tìm cách đứng trong
hàng ngũ của Đảng cộng sản và tấn công những người vô sản trước hết trên lĩnh
vực tư tưởng lý luận.
Trong quá trình đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái, mơ hồ, cải
lương, thủ đoạn và thâm độc của kẻ thù, những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã


cho ra đời nhiều tác phẩm mang tính bút chiến. Tiêu biểu phải kể đến tác phẩm
“phê phán cương lĩnh Gô-tha” của C.Mác được Ph.Ănghen công bố năm 1891. Tác
phẩm này, Mác và Ănghen đã bổ sung và phát triển những vấn đề lý luận về nhà
nước, về thời kỳ quá độ, về phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Đặc biệt là


vấn đề lao động và phân phối sản phẩm của lao động-một trong những vấn đề cơ
bản, là cơ sở lý luận để giai cấp công nhân đấu tranh với giai cấp tư sản, xây dựng
xã hội mới, ở đó người lao động làm chủ những tư liệu sản xuất, của cải xã hội
phân phối bình đẳng.
Với ý nghĩa lý luận, thực tiễn, tính bút chiến sâu sắc trong tác phẩm “phê
phán cương lĩnh Gô-tha”, tôi chọn đề tài “phê phán lao động và phân phối sản
phẩm của lao động trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô-tha” làm đề tài tiểu
luận kết thúc môn tác phẩm Mác-Lênin về chính trị.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu tác phẩm “phê phán cương lĩnh Gô-tha”đã được nhiều học giả

quan tâm. Tuy nhiên, mỗi học giả tiếp cận vấn đề ở một khía cạnh khác nhau mà
chưa có cái nhìn tổng thể về vấn đề “phê phán lao động, phân phối sản phẩm lao
động” trong tác phẩm này của Mác.
Vì vậy, với đề tài này, trên cơ sở tiếp thu, kế thừa những tri thức trong tài liệu
và những công trình có liên quan, tôi mong muốn có thể trình bày vấn đề “phê phán
về lao động, phân phối sản phẩm lao động trong phê phán cương lĩnh Gô-tha” một
cách sâu sắc hơn.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

• Mục đích


Trên cơ sở giới thiệu về tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm; phân tích sự phê
phán về vấn đề lao động, phân phối sản phẩm lao động trong “Phê phán cương
lĩnh Gô-tha”; tiểu luận chỉ ra ý nghĩa của vấn đề phê phán về lao động, phân phối

sản phẩm lao động trong tác phẩm.
• Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích trên, tiểu luận có 3 nhiệm vụ sau:
-

Giới thiệu khái quát về tác gỉa và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.

-

Phân tích sự phê phán về vấn đề la động và phân phối lao động trong “ phê

phán cương lĩnh Gô-tha”.
-

Phân tích ý nghĩa của sự phê phán về vấn đề la động và phân phối lao động

trong “phê phán cương lĩnh Gô-tha”.
4.

Phương pháp nghiên cứu

• Phương pháp luận
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác - Lênin.
• Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện để tài này, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu: Tổng hợp,
so sánh, phân tích, thống kê, nghiên cứu tài liệu,…
5.

Phạm vi và giới hạn nghiên cứu

Tiểu luận tập trung nghiên cứu phê phán về lao động, phân phối lao động

trong “phê phán cương lĩnh Gô-tha”.
6.

Đóng góp của tiểu luận


Tiểu luận góp phần đưa ra cách nhìn sâu và có hệ thống về vấn đề “phê phán về
lao động, phân phối lao động trong phê phán cương lĩnh Gô-tha”.
7.

Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, tiểu luận kết

cấu làm 3 chương, 8 tiết.

CHƯƠNG 1: VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ-TÁC PHẨM
1.1 Về cuộc đời, sự nghiệp của C.Mác- Ph.Ăngghen
1.1.1 Cuộc đời, sự nghiệp của C.Mác
C.Mác sinh ngày 05/05/1818 tại nước Đức. Cha là luật sư người Do Thái,
gia đình sống phong lưu và có học thức. Năm 1835, C.Mác tốt nghiệp trường phổ
thông trung học, vào học Luật tại trường Đại học tổng hợp Bon, sau đó chuyển lên
trường Đại học Berlin. Ở trường sức học của Mác thuộc loại giỏi, nổi bật ở những
lĩnh vực đòi hỏi tính độc lập sáng tạo. Mác cũng tỏ ra có năng lực về toán học.


Trong trường Đại học, ngoài luật học, sử học và ngoại ngữ C.Mác bắt đầu đi
sâu nghiên cứu triết học. Mùa xuân 1837, C. Mác bắt đầu nghiên cứu kỹ những tác
phẩm của Hê-ghen, sang năm 1839 thì vùi đầu vào nghiên cứu triết học. Năm 1939

và đầu năm 1840, C. Mác tập trung nghiên cứu những vấn đề lịch sử triết học cổ
đại. Ngày 15.04.1841, C. Mác nhận được bằng tiến sĩ triết học với luận án “Về sự
khác nhau giữa triết học tự nhiên của Démocrite và triết học tự nhiên của epicure”
tại trường Iêna. Từ năm 1842, bắt đầu cuộc đời hoạt động sôi nổi, đầy sáng tạo và
vinh quang của ông.
Năm 1843, C.Mác kết hôn với Jenny.
Năm 1844, Mác gặp Ănghen, họ trở đôi bạn thân thiết nhất. Hai ông đã trở
thành những người bạn cùng chung lý tưởng, quan điểm trong mọi vấn đề lý luận
và thực tiễn.
Năm 1847, hai ông gia nhập tổ chức “Đồng minh những người cộng sản”,
trở thành những người lãnh đạo của tổ chức này và sau này đổi tên thành Quốc tế
cộng sản.
Năm 1849, C.Mác bị trục xuất khỏi nước Đức, sang sống ở Anh cho đến
cuối đời.
C.Mác không chỉ là một nhà lý luận, mà ông còn là một nhà hoạt động thực
tiễn. Ông đã hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản và
quần chúng lao động trên toàn thế giới. Năm 1864, ông tổ chức thành lập, lãnh đạo
quốc tế cộng sản thứ nhất. Sau khi Quốc tế cộng sản đệ nhất giải tán năm 1876,
C.Mác đưa ra ý kiến thành lập các Đảng vô sản ở các nước là nhiệm vụ chính trị
hàng đầu trong phong trào công nhân.
Công tác thực tiễn đã làm thay đổi cơ bản thế giới quan của C. Mác, chuyển
từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ chủ nghĩa dân chủ - cách mạng
sang chủ nghĩa cộng sản. Tác phẩm của Mác gồm: năm 1844, C.Mác viết “Góp


phần phê phán triết học pháp luật của Hê-ghen”, “Bản thảo kinh tế - triết học”.
Tháng hai 1845, cuốn sách “Gia đình thần thánh” của C.Mác-Ph.Ănghen viết
chung đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm chủ quan của phái Hê-ghen trẻ.
Thời kỳ hoạt động của C.Mác ở Pa-ri kết thúc (tháng Hai 1845), mở ra một thời kỳ
với mục đích rõ ràng mà C.Mác tự đặt ra cho mình: “đề xuất một học thuyết cách

mạng mới”. Năm 1846, C.Mác-Ph.Ănghen viết “Hệ tư tưởng Đức”. Năm 1847 viết
“Sự bần cùng của triết học”. Năm 1848, C.Mác-Ph.Ănghen viết “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản”. Tháng Sáu năm 1859, công trình thiên tài của C. Mác “Góp
phần phê phán môn chính trị kinh tế học” ra đời, cơ sở của học thuyết kinh tế của
C. Mác. Năm 1867, Mác viết bộ Tư bản (tập I).
C.Mác mất ngày 14/03/1883, trên chiếc ghế bành làm việc của mình như
một chiến sĩ trên vị trí chiến đấu.

1.1.2 Cuộc đời, sự nghiệp của Ph.Ănghen
Ph.Ănghen sinh ngày 28/11/1820 tại nước Đức, sinh ra trong một gia đình
tư sản, cha là chủ xưởng dệt. Ông là người tài năng ở nhiều lĩnh vực: thơ, nhạc,
họa, thể thao, văn học, quân sự, ngoại ngữ, toán và kinh tế chính trị.
Từ nhỏ Ph.Ănghen đã bộc lộ tính cách độc lập. Cho đến năm 14 tuổi,
Ph.Ănghen học ở trường tại thành phố Barmen, có năng khiếu về ngoại ngữ. Tháng
Mười 1834, Ph.Ănghen chuyển sang học ở trường trung học Elberfelder, một
trường tốt nhất ở Phổ lúc bấy giờ. Năm 1837, theo yêu cầu của bố, Ph.Ănghen phải
rời trường trung học khi chưa tốt nghiệp để bắt đầu công việc buôn bán ở văn
phòng của bố ông. Trong thời gian này, ông tự học các ngành sử học, triết học, văn
học, ngôn ngữ và thơ ca. Tháng 6 năm 1838, Ph.Ănghen đến làm việc tại văn
phòng thương mại ở thành phố cảng Barmen.


Cuối năm 1839, Ph.Ănghen bắt tay vào nghiên cứu các tác phẩm của
Hêghen. Năm 1841, ông tham gia binh đoàn pháo binh ở Berlin, gia nhập nhóm
Hêghen và Feuerbach trẻ-chịu ảnh hưởng tư tưởng của hai ông.
Năm 1844, Ănghen kết bạn với C.Mác, họ hợp sức viết các công trình nổi
tiếng . Ph.Ănghen cùng với C.Mác trở thành lãnh tụ của Quốc tế cộng sản I và II.
Ph.Ănghen không chỉ là một nhà lý luận mà còn là một nhà hoạt động thực
tiễn hết sức sôi nổi. Bên cạnh họat động nghiên cứu lý luận, viết báo, làm thơ, ông
còn là một nhà hoạt động kinh doanh năng động, một nhà hoạt động quân sự có tài.

Khi cuộc đấu tranh cách mạng bùng nổ ở Tây và Nam nước Đức, Ph. Ănghen đã
vạch ra một kế hoạch hoạt động quân sự, thành lập quân đội cách mạng tiến hành
cuộc khởi nghĩa. Thời kỳ này, ông tham gia trực tiếp bốn trận đánh lớn, trong đó có
trận Rastatt. Năm 1871, Ph.Ănghen tham gia vào tổ chức chiến dịch bảo vệ công xã
Pari. Sau này, Ph.Ănghen đã viết Luận văn quân sự nổi tiếng.
Đối với phong trào công nhân, Ănghen quan tâm nhiều đến hoạt động của
BCHTW (ban chấp hành trung ương) liên đoàn những người cộng sản. Cùng với
C.Mác, Ph.Ănghen tham gia lãnh đạo Quốc tế cộng sản I.
Ph.Ăng-ghen đã viết một số tác phẩm có giá trị lý luận, góp phần to lớn cho
việc hoàn thiện lý luận cuả chủ nghĩa Mác. Sau khi C.Mác qua đời, Ph.Ănghen là
người lãnh đạo tổ chức những người theo chủ nghĩa xã hội ở châu Âu, chuẩn bị cho
in tập 2 và 3 của bộ Tư bản mà C.Mác chưa kịp hoàn thành. Ph.Ănghen mất ngày
05/08/1895.
1.2 Về tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô-tha”
Nửa sau thế kỉ XIX, khi chủ nghĩa Mác đã trở thành hệ tư tưởng của giai
cấp công nhân ở hầu hết các nước, cũng là lúc kẻ thù của giai cấp vô sản đẩy mạnh
sự chống phá. Thông qua những hình thức mới tinh vi hơn, khó nhận biết hơn-hình
thức chủ nghĩa cơ hội.


Bọn chủ nghĩa cơ hội tìm cách đứng trong hàng ngũ của Đảng, của giai cấp
công nhân, giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa Mác để chống lại chủ nghĩa Mác.
Điều này thể hiện trước hết ở nước Đức.
Vào những năm 60 của thế kỷ XIX, ở Đức hình thành hai đảng của giai cấp
công nhân với hai đường lối trái ngược nhau. Một là, Tổng hội liên hiệp công nhân
Đức do Lát-xan lập ra, bề ngoài phỏng theo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác
nhưng thực ra là đường lối vừa cơ hội, vừa bè phái, từ bỏ đấu tranh giai cấp, từ bỏ
cách mạng-chuyên chính vô sản, đi lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường “giản
đơn”, “hòa bình”. Hai là, Đảng công nhân Xã hội-Dân chủ Đức mang tính chất
cách mạng triệt để, tuân thủ theo nguyên lý của tuyên ngôn Đảng cộng sản, giương

cao ngọn cờ đấu tranh cách mạng, chống lại đường lối cải lương, cơ hội của phái
Lát-xan.
Trước sự đàn áp ngày càng dã man của giai cấp tư sản, yêu cầu tất yếu đặt ra
là phải thống nhất hai tổ chức Đảng. Tháng 5.1875, Đại hội thống nhất hai đảng
được tổ chức ở Gô-tha. Đại hội thông qua cương lĩnh của đảng với tinh thần cơ bản
là dựa trên những tư tưởng cơ hội, cải lương của phái Lát-xan.
Phái Lát-xan trở thành tiền thân của chủ nghĩa cơ hội ở trong Đảng xã hội
dân chủ Đức. Tư tưởng của phái Lát-xan trở thành một trong những nguồn gốc lý
luận của chủ nghĩa cơ hội.
Trước tình hình trên, Mác và Ănghen kiên quyết đấu tranh để vạch trần
những luận điểm mơ hồ, cải lương của cương lĩnh Gô-tha, xây dựng một cương
lĩnh mới, có tinh thần cách mạng để lãnh đạo phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân. Tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô-tha” ra đời từ đó, và có thể coi là
một thắng lợi lớn của Mác và Ănghen trong việc vạch trần bộ mặt của chủ nghĩa cơ
hội.


Tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô-tha” có tính bút chiến to lớn của Mác
-Ănghen nhằm vạch trần những quan điểm sai trái, mơ hồ mang tính cải lương chủ
nghĩa trong cương lĩnh Gô-tha, tiến tới xây dựng một cương lĩnh cách mạng, làm
cơ sở lý luận cho cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản.
Bất chấp sự phản đối của bọn cơ hội trong Quốc tế II, năm 1891, Ănghen
cho xuất bản lần đầu tiên tác phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gô-tha” của Mác.
Ănghen công bố rằng, với tinh thần cách mạng mácxít, “Phê phán Cương lĩnh Gôtha” đã giáng một đòn nặng nề vào bọn cơ hội chủ nghĩa. “Phê phán Cương lĩnh
Gô-tha là một trong những văn kiện cách mạng và khoa học có tính chất cương lĩnh
của chủ nghĩa Mác.


CHƯƠNG 2: PHÊ PHÁN VỀ VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG VÀ PHÂN PHỐI SẢN
PHẨM LAO ĐỘNG TRONG PHÊ PHÁN CƯƠNG LĨNH GÔ-THA

2.1 Phê phán về vấn đề lao động
2.1.1 Lao động và vai trò của lao động
Chúng ta đều thừa nhận, từ khi xuất hiện con người đã tiến hành các hoạt
động khác nhau như: kinh tế, xã hội, văn hoá,... trong đó hoạt động kinh tế luôn giữ
vị trí trung tâm, là cơ sở cho các hoạt động khác...Sản xuất của cải vật chất là cơ sở
của đời sống xã hội. Xã hội càng phát triển, hoạt động của con người càng phong
phú, đa dạng, phức tạp hơn thì con người càng đòi hỏi về ăn, mặc, ở, phương tiện đi
lại và các thứ cần thiết khác cao hơn. Để có những thứ đó, con người phải tiến hành
sản xuất, không ngừng sản xuất với quy mô ngày càng mở rộng. Xã hội sẽ không
thể tồn tại nếu như ngừng hoạt động sản xuất. Bởi vậy, sản xuất của cải vật chất là
cơ sở của đời sống xã hội loài người, là hoạt động cơ bản nhất trong tất cả các hoạt
động của con người.
Bất kỳ một quá trình sản xuất nào cũng đều là sự kết hợp của ba yếu tố: Sức
lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Vì vậy, sức lao động và lao động
luôn là một vấn đề hết sức quan trọng trong quá trình tồn tại và phát triển của xã
hội loài người. Trong quá trình đấu tranh xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới,
vấn đề lý luận về lao động thường được chủ thể hệ tư tưởng rất chú ý. Những quan
điểm khác nhau về lao động không chỉ phản ánh trình độ lý luận của từng giai cấp
mà còn phản ánh lợi ích và lập trường của các giai cấp khác nhau trong xã hội.
Vậy, lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm làm
thay đổi những vật thể tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người. Nó là sự
tiêu dùng sức lao động trong thực tiễn.


Lao động là hoạt động bản chất nhất và là phẩm chất đặc biệt của con người,
nó khác với hoạt động theo bản năng của con vật. C.Mác viết: "Con nhện làm
những động tác giống như động tác của người thợ dệt, và bằng việc xây dựng
những ngăn tổ sáp của mình, con ong còn làm cho một số nhà kiến trúc phải hổ
thẹn. Nhưng điều ngay từ đầu phân biệt nhà kiến trúc tồi nhất với con ong giỏi nhất
là trước khi xây dựng những ngăn tổ ong bằng sáp, nhà kiến trúc đã xây dựng

chúng ở trong đầu óc của mình rồi".
Lao động không chỉ tạo ra của cải vật chất để nuôi sống con người mà còn
cải tạo bản thân con người, phát triển con người cả về mặt thể lực và trí lực. "Trong
khi tác động vào tự nhiên ở bên ngoài thông qua sự vận động đó và làm thay đổi tự
nhiên, con người cũng đồng thời làm thay đổi bản tính của chính nó".
Hoạt động lao động không những biến đổi tự nhiên, mà còn hoàn thiện, phát
triển ngay cả bản thân con người. Trong quá trình lao động, con người tích luỹ
được kinh nghiệm sản xuất, làm giàu tri thức của mình, hoàn thiện cả về thể lực và
trí lực.
2.1.2 Vấn đề lao động trong cương lĩnh Gô-tha
Cũng là lẽ thường khi Đảng vô sản ở Đức vừa được hợp nhất đề cập tới vấn
đề lao động trong cương lĩnh của mình. Tuy nhiên, với một tổ chức Đảng không
thuần nhất, được thống nhất một cách vội vàng, bị những kẻ cơ hội lợi dụng thì
không gì có thể đảm bảo cho tính đúng đắn, khoa học trong bản cương lĩnh của nó.
Trong cương lĩnh Gô-tha ghi: “Lao động là nguồn gốc của mọi của cải và
mọi văn hóa, và vì lao động hữu ích chỉ có thể có ở trong xã hội và do xã hội”.
Vai trò của lao động là không thể phủ nhận nhưng cần phải có một sự đánh
giá đúng đắn và khoa học. Điều này, bản cương lĩnh Gô-tha chưa làm được.


Theo Mác, về vấn đề lao động, trong cương lĩnh ghi có mấy cái sai sau:
Một là, lao động là nguồn gốc của mọi của cải và mọi văn hóa
Đây là điều không đúng, vì lao động không phải là nguồn gốc của mọi của
cải và mọi văn hóa.
Như đã nêu ở trên, quá trình sản xuất nào cũng đều là sự kết hợp của ba yếu
tố: Sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Như vây, lao động không
phải là nguồn gốc duy nhất của của cải và văn hóa: “Giới tự nhiên, cũng như lao
động, là nguồn của những giá trị sử dụng (vì của cải vật chất lại chính là gồm
những giá trị này!) và bản thân lao động cũng chỉ là biểu hiện của một sức tự
nhiên, sức lao động của con người” [6, tr.26]. Đó là quan điểm của C.Mác.

Trước Mác, nhiều nhà lý luận đã đề cập đến vấn đề lao động, trong đó, nhà
kinh tế tư sản cổ điển W.Petty có đưa ra luận điểm nổi tiếng: “lao động là cha, còn
đất đai là mẹ của mọi của cải”. Điều này có nghĩa rằng, lao động chỉ trở thành
nguồn gốc của mọi của cải khi nó kết hợp với yếu tố của giới tự nhiên, đó là đất
đai. Do đó, muốn có của cải thì phải có quá trình kết hợp giữa lao động và tự nhiên,
tức là con người dùng tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động. Chỉ khi đó,
lao động của con người mới trở thành nguồn gốc của mọi của cải. Vì vậy, một
cương lĩnh của một Đảng cộng sản không thể có một câu rỗng tuếch thế được.
Cho nên, muốn có của cải, người lao động phải có điều kiện để lao động,
nghĩa là phải có tư liệu sản xuất.
“Chỉ trong chừng mực mà con người ngay từ đầu đối xử với giới tự nhiên, nguồn gốc đầu tiên của mọi tư liệu lao động và đối tượng lao động - với tư cách là
kẻ sở hữu; chừng nào mà con người đối xử với giới tự nhiên coi đó là một vật


thuộc về mình thì chừng ấy, lao động của con người mới trở thành nguồn gốc của
các giá trị sử dụng, do đó mới trở thành nguồn gốc của cải” [6, tr.26].
Nếu người lao động ngoài sức lao động ra, họ không có tư liệu sản xuất, thì
trong mọi hình thái kinh tế xã hội nhất định sẽ phải làm nô lệ cho những người nắm
giữ tư liệu sản xuất, tức là trở thành người lao động làm thuê.
Với quan điểm của cương lĩnh, coi lao động là nguồn gốc của mọi của cải
đã làm cho người lao động quên đi một điều cơ bản là họ đã mất hết điều kiện
khách quan của lao động, đó là tư liệu sản xuất. Những tư liệu sản xuất này đang
nằm trong tay giai cấp tư sản, nên nó đã biến họ thành những người lao động làm
thuê.
Bọn tư sản gán cho lao động cái sức sáng tạo siêu tự nhiên là có những lí do
của nó. Chúng làm cho ta nhầm tưởng rằng, con người có lao động là có tất cả
những điều kiện để sở hữu của cải vật chất mà quên mất rằng, nếu con người không
có sở hữu nào khác ngoài sức lao động thì nhất định sẽ phải trở thành nô lệ cho
những kẻ nắm trong tay những điều kiện của lao động.
Khi không thấy vấn đề này thì giai cấp công nhân không có mục tiêu và

động cơ đấu tranh. Đó chính là cái nguy hại của quan điểm sai lầm.
Từ những sự phân tích, Mác cho đưa ra kết luận rằng: "Vì lao động là
nguồn của mọi của cải cho nên không một ai trong xã hội có thể chiếm hữu của cải
bằng cách nào khác hơn là chiếm hữu sản phẩm của lao động. Vậy nếu kẻ nào tự
mình không lao động thì kẻ đó sống nhờ vào lao động của người khác, và cái văn
hoá của hắn, hắn cũng phải nhờ vào lao động của người khác mới có được" [6,
tr.35].


Như vậy, lao động là nguồn gốc của mọi của cải, chiếm hữu của cải trong xã
hội chính là chiếm hữu sản phẩm của lao động. Bởi thế, người lao động phải là
người làm chủ mọi của cải - những của cải do chính họ làm ra, vì vậy mà làm chủ
xã hội. Còn những kẻ không lao động - bọn tư sản, không tạo ra của cải vật chất thì
nhất định phải sống nhờ vào lao động của người khác, và không có lí do gì để
chúng được sống trên người khác.
Tuy nhiên, bản cương lĩnh của Đảng xã hội dân chủ Đức lại không những
không đi tới được kết luận quan trong như vậy, mà còn tiếp tục đưa ra những quan
điểm rỗng tuếch và phản khoa học.
Hai là, lao động hữu ích là do xã hội mà có
Xét ngay trong mệnh đề thứ nhất và mệnh đề này ta đã nhận thấy một sự
mâu thuẫn, không nhất quán. Theo mệnh đề thứ nhất, lao động là nguồn của mọi
của cải và mọi văn hoá, vậy chẳng phải đã khẳng định lao động là nguồn gốc của
xã hội hay sao? Ấy thế mà đến mệnh đề thứ hai, chúng ta lại được biết rằng không
có xã hội thì không thể có một lao động "có ích" nào cả.
Lao động "có ích" là lao động nào đem lại hiệu quả có ích mà người ta đã
dự tính. Còn lao động không có ích là lao động không đem lại hiệu quả nào, thậm
chí còn làm hại cho xã hội.
Tuy nhiên, theo Mác, ở đây không đi sâu bàn lao động nào là lao động có
ích hay không có ích, mà chỉ phân tích mối quan hệ giữa lao động-xã hội. Theo tinh
thần đó thì quan điểm của cương lĩnh là sai lầm, lộn ngược.

Thực tiễn nhân loại đã chứng minh rằng: chính lao động đã làm cho vượn
biến thành người, lao động là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Khi
vượn biết dùng một hòn đá để ném chết một con thú-tức thực hiện một lao động có


ích thì nó đã trở thành con người chứ không phải là vượn nữa. Như thế, lao động có
ích của vượn đã biến nó thành người, biến bầy vượn thành bầy người nguyên thủy xã hội nguyên thủy. Thế nên, rõ ràng là có lao động có ích thì mới có xã hội chứ
không phải như cương lĩnh đã nêu.
Mệnh đề thứ hai đã phủ nhận vai trò sáng tạo ra xã hội của lao động có ích.
Điều này có thể khiến ta hiểu rằng: chỉ có trong xã hội, người ta mới có thể sống
mà không lao động hay tồn tại lao động vô ích cũng là một lẽ thường tình. Luận
điểm này vô tình đã bảo vệ cho lợi ích của giai cấp tư sản - những kẻ không lao
động mà vẫn sống sung sướng, giàu có, những kẻ thừa nhận sự tồn tại và phát triển
của công nghiệp sản xuất vũ khí phục vụ chiến tranh như một tất yếu. “Thế thì
người ta cũng rất có thể nói rằng chỉ có trong xã hội thì lao động vô ích và thậm
chí có hại cho xã hội mới có thể trở thành một ngành công nghiêpu; rằng chỉ có
trong xã hội, người ta mới có thể sống mà không lao động, v.v... và v.v..., - tóm lại
là chép nguyên văn Rousseau” [6, tr.32].
2.2

Phê phán về quan điểm phân phối sản phẩm của lao động
Trong cương lĩnh nêu: “Và vì lao động có ích thì chỉ có thể có được trong

xã hội và do xã hội cho nên thu nhập do lao động đem lại là thuộc về tất cả mọi
thành viên trong xã hội một cách không bị cát xén theo những quyền lợi ngang
nhau”.
Thoạt nghe chúng ta tưởng như câu này không có gì mâu thuẫn, mà trái lại
là rất lôgíc. Nếu lao động có ích chỉ có thể có được trong xã hội và do xã hội thì thu
nhập do lao động đem lại là thuộc về xã hội. Nhưng theo Mác, đây là những ý niệm
mơ hồ, rỗng tuếch đưa ra để thay thế cho những khái niệm kinh tế nhất định như:

sản phẩm của lao động, quyền lợi bình đẳng.


“Và thật vậy, trong mọi thời đại, những kẻ bảo vệ cho mỗi trật tự xã hội
nhất định đều nêu lên luận điểm đó. Trước hết là những tham vọng của chính phủ
với tất cả những cái gắn liền vào chính phủ đó, vì chính phủ là cơ quan của xã hội
để duy trì trật tự xã hội; rồi đến các loại tham vọng của những kẻ sở hữu tư nhân
vì các loại sở hữu tư nhân đều là cơ sở của xã hội, v.v... Như người ta thấy, những
câu rỗng tuếch ấy có thể tha hồ lật đi lật lại theo nghĩa nào cũng được” [6, tr.36].
Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, bọn tư sản cũng đưa ra quan điểm như vậy,
chúng cho rằng của cải do lao động làm ra phải được phân phối một cách không cắt
xén và thuộc về toàn xã hội. Thực tế chúng ta đã thấy, những nhà tư sản luôn được
nhận phần nhiều, còn phần thuộc về người lao động riêng lẻ thì “chỉ còn lại những
gì không cần thiết cho sự duy trì "điều kiện" của lao động, tức là duy trì xã hội mà
thôi”. Và họ cho đó là bình đẳng.
C.Mác phân tích luận điểm của cương lĩnh, chỉ ra sự bất hợp lí.
Một là, sản phẩm của lao động
Vấn đề đặt ra là: sản phẩm của lao động là gì? Đó là đồ vật (tư liệu sản xuất
hay tư liệu tiêu dùng), hoặc là giá trị của đồ vật đó? Chứ ở đây không có sản phẩm
của lao động chung chung.
Hai là, theo quyền lợi bình đẳng, sản phẩm của lao động phải toàn vẹn
thuộc về mọi thành viên trong xã hội
Theo Mác, mệnh đề này có nhiều mâu thuẫn.
Thứ nhất, Nếu sản phẩm thuộc về mọi thành viên trong xã hội thì những
người lao động riêng lẻ sẽ ra sao? Giả sử họ cũng có đủ những điều kiện để sản
xuất, họ cũng có thể tạo ra những giá trị sử dụng. Tuy nhiên đó chỉ là những giá trị
sử dụng chứ họ lại không thể tạo ra của cải, cũng không thể tạo ra văn hoá được vì


sản phẩm làm ra chủ yếu là để tiêu dùng cá nhân, gia đình, không phải đem trao đổi

trên thị trường. Chẳng lẽ, sản phẩm của những người lao động riêng lẻ này cũng
phải đem ra chia đều cho cả xã hội sao?
Theo Mác: "Lao động là nguồn của của cải và của văn hoá, chỉ khi nào nó
là lao động xã hội", "khi nó được tiến hành trong xã hội và do xã hội", còn lao
động riêng lẻ không phải là nguồn của của cải và văn hóa.
Thứ hai, Nếu sản phẩm thuộc về mọi thành viên trong xã hội, thì kể cả
những người có sức lao động mà không lao động cũng được hưởng, đó là điều
không đúng. Thực tế trong xã hội tư bản chủ nghĩa, sự nghèo khổ và cảnh sống vất
vưởng lại càng phát triển ở phía người lao động, còn của cải, văn hoá lại ngày càng
phát triển ở phía giai cấp tư sản-những kẻ không lao động. Đó là một sự bất hợp lí
trong phân phối của cải xã hội.
Trước thực tế trên, cương lĩnh của một Đảng cộng sản cần phải chỉ ra một
cách rõ ràng là trong xã hội tư bản chủ nghĩa hiện nay, những điều kiện vật chất và
những điều kiện khác khiến người lao động ngày càng khốn khổ hơn còn bọn tư
bản ngày càng giàu có hơn. Vì thế, cần thiết phải thay đổi hoàn cảnh ấy bằng cách
giành về tay người lao động những điều kiện vật chất để họ có thể làm chủ của cải
do mình làm ra.
Thứ ba, Nếu sản phẩm chỉ thuộc về những người lao động, thì những thành
viên khác trong xã hội sẽ ra sao? Những người ở ngoài độ tuổi lao động, những
người không có khả năng tham gia lao động sản xuất cũng cần phải nhận được sự
quan tâm của xã hội để họ có đủ điều kiện sống, để những người chưa đến tuổi lao
động được phát triển những năng lực của mình, bổ sung cho lực lượng lao động xã
hội.


Vậy, phân phối thế nào là “hợp lý”, là “công bằng”. Để làm rõ nghĩa của
chữ phân phối "công bằng", Mác tiến hành đối chiếu đoạn này với một đoạn sau
của cương lĩnh. Đoạn này cho rằng "thu nhập của lao động là thuộc về tất cả mọi
thành viên trong xã hội một cách không bị cắt xén, theo những quyền ngang nhau",
đoạn sau lại đưa ra giả định một xã hội trong đó "Sự giải phóng lao động đòi hỏi

phải nâng tư liệu lao động lên thành tài sản chung của xã hội và phải điều tiết một
cách tập thể toàn bộ lao động, đồng thời phân phối một cách công bằng thu nhập
của lao động".
"Thuộc về tất cả mọi thành viên trong xã hội" ư? Kể cả những kẻ không lao
động ư? Thế thì còn đâu là cái "thu nhập không bị cắt xén của lao động" nữa ? Nó
chỉ thuộc về những thành viên có lao động trong xã hội thôi ư? Thế thì cái "quyền
ngang nhau" của tất cả mọi thành viên trong xã hội sẽ ra sao?”.
2.3 Mô hình phân phối sản phẩm lao động của C.Mác
Sau khi phê phán những quan điểm sai lầm của cương lĩnh Gô-tha về vấn đề
phân phối sản phẩm của lao động, Mác đưa ra sơ đồ phân phối tổng sản phẩm xã
hội như sau:
Trước hết, Mác lấy từ ngữ "thu nhập của lao động" theo nghĩa là sản phẩm
của lao động, như thế thì thu nhập tập thể của lao động sẽ có nghĩa là tổng sản
phẩm xã hội. Trong tổng sản phẩm đó, phải khấu đi:
-

Phần để thay thế những tư liệu sản xuất đã tiêu dùng.

-

Một phần phụ thêm để mở rộng sản xuất.

- Một quỹ dự trữ hoặc quỹ bảo hiểm để phòng những tai nạn, những sự rối
loạn do các hiện tượng tự nhiên gây ra,...


Những khoản khấu trừ như thế vào "thu nhập không bị cắt xén của lao
động" là một tất yếu kinh tế, khấu trừ nhiều hay ít là tuỳ theo những tư liệu, những
lực lượng hiện có, một phần là nhờ lối tính xác suất, nhưng dù sao người ta cũng
không thể dựa vào sự công bằng để tính những khoản khấu trừ đó được.

Còn lại phần kia của tổng sản phẩm thì dành làm vật phẩm tiêu dùng.
Trước khi tiến hành phân phối cho cá nhân, phải khấu trừ:
Một là: những chi phí quản lý chung, không trực tiếp thuộc về sản xuất. So
với xã hội hiện nay, phần này sẽ lập tức bị thu hẹp lại hết sức nhiều và xã hội mới
càng phát triển thì phần đó sẽ càng giảm xuống.
Hai là: những khoản dùng để cùng chung nhau thoả mãn những nhu cầu,
như trường học, cơ quan y tế,... Phần này lập tức tăng lên khá nhiều so với xã hội
hiện nay, xã hội mới càng phát triển thì phần đó lại càng tăng lên.
Ba là: quỹ cần thiết để nuôi những người không có khả năng lao động,…
tóm lại là những cái thuộc về việc mà ngày nay, người ta gọi là cứu tế xã hội của
nhà nước.
Cuối cùng, mới tự "sự phân phối" những vật phẩm tiêu dùng đem chia cho
cá nhân những người sản xuất của tập thể.
“Thu nhập không bị cắt xén của lao động bỗng nhiên đã biến thành "bị cắt
xén", mặc dầu cái mà người sản xuất, với tư cách là cá nhân, bị mất đi thì với tư
cách là thành viên của xã hội, người đó lại nhận được một cách trực tiếp hay gián
tiếp” [6, tr.39].


Theo sơ đồ phân phối của Mác, đứng về mặt cá nhân thì bị mất một phần,
nhưng đứng về mặt là thành viên của xã hội thì người đó lại lấy lại một cách trực
tiếp hay gián tiếp.
Mô hình phân phối của Mác không phải chỉ vận dụng trên phạm vi toàn xã
hội, mà có thể áp dụng cho từng địa phương và từng cơ sở sản xuất kinh doanh. Đó
là một mô hình phân phối bình đẳng, hợp lí và khoa học, đem lại cho người lao
động những quyền lợi mà họ đáng được hưởng, bảo đảm cho sự phát triển không
ngừng của xã hội.
Mác đã vạch rõ, cái gọi là “sản phẩm toàn vẹn của lao động” phải thuộc về
mọi thành viên của xã hội, lập luận đó, yêu sách đó là vô lý, rỗng tuếch, câu nói của
những người dốt đặc về khoa kinh tế học. Giả thuyết theo cách nói của họ, mọi

thành viên trong xã hội đều chiếu theo quyền lợi bình đẳng nhận được sự thu nhập
“toàn vẹn” thế thì kẻ không lao động cũng vẫn được hưởng thu nhập, chỉ riêng điều
đó cũng đã làm cho thu nhập của người lao động bị khấu trừ rồi. Nếu bảo chỉ có
những người làm việc mới được hưởng thu nhập, thế thì làm sao có thể nói được
mọi thành viên trong xã hội đều có “quyền lợi bình đẳng”. Cho nên, trong bản
Cương lĩnh đã tự mâu thuẫn lôgic. Hơn nữa, Mác nêu rõ là phương thức phân phối
bao giờ cũng do phương thức sản xuất, do trình độ sản xuất quyết định.
Theo Mác, ngay trong xã hội cộng sản chủ nghĩa tương lai cũng không thể
nào có cái thu nhập gọi là “toàn vẹn của lao động”, không bị cắt xén. Trước khi
phân phối số sản phẩm cần thiết thỏa mãn nhu cầu cá nhân cho mọi người, thì xã
hội cũng cần phải có khấu trừ một bộ phận để bù đắp các khoản: hao mòn tư liệu
sản xuất, dùng cho tái sản xuất, dùng quỹ bảo hiểm đề phòng tai nạn, dùng chi tiêu
cho trường học, cho công cuộc bảo đảm sức khỏe, dùng làm quỹ nuôi những người


không có khả năng lao động chi tiêu, xây dựng quê hương. Sau khi khấu trừ những
khoản đó, phần còn lại mới có thể đem phân phối cho mọi cá nhân.
Trong tác phẩm này, Mác đã phê phán yêu sách kinh tế của chủ nghĩa Látxan mà Cương lĩnh Gô-tha đã đưa vào, đã vạch ra rằng, yêu sách này là dựa trên cơ
sở của kinh tế học tư sản, nó cắt rời giữa phân phối với sản xuất.


CHƯƠNG 3: Ý NGHĨA CỦA PHÊ PHÁN VỀ LAO ĐỘNG, PHÂN PHỐI
SẢN PHẨM LAO ĐỘNG TRONG PHÊ PHÁN CƯƠNG LĨNH GÔ-THA
3.1 Phát triển lý luận về chủ nghĩa cộng sản khoa học, đặc biệt là lý luận về lao
động và phân phối sản phẩm lao động
Tác phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gôta” trong khi phê phán chủ nghĩa Látxan, Mác đã phát triển thêm lý luận chủ nghĩa cộng sản khoa học. Đặc biệt là Lý
luận về lao động và phân phối sản phẩm lao động.
Phê phán sản phẩm, “toàn vẹn của lao động” của chủ nghĩa Látxan, Mác
đồng thời cũng chỉ rõ cách đặt vấn đề phân phối như thế nào? sau khi chủ nghĩa tư
bản bị tiêu diệt và chủ nghĩa cộng sản giành được thắng lợi. Mác vứt bỏ những câu

rỗng tuyếch trong Cương lĩnh về phân phối công bằng và đặt vấn đề này trên cơ sở
khoa học. Mác đặt vấn đề phân phối trong sự liên hệ với trình độ phát triển của
bước sản xuất xã hội. Ông cho rằng, trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản cũng
không thể bỏ được nhà nước-pháp luật, với sự phát triển của sức sản xuất đòi hỏi xã
hội phải thực hiện phân phối “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”.
Theo Lê nin, cách phân phối này là một “bước tiến vĩ đại” vì nó nói lên bọn
bóc lột đã bị tiêu diệt, ai nấy đều tham gia lao động, mọi người đều có quyền làm
việc, có quyền hưởng theo lao động của mình. Sự bình đẳng như vậy vẫn chưa phải
là tuyệt đối. Nó mới chỉ xác lập quyền bình đẳng về quan hệ đối với tư liệu sản xuất
và lập nên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa, đã xóa bỏ chế độ người bóc lột
người. Về mặt tiêu dùng và phân phối, thực tế chưa hoàn toàn bình đẳng, vì mọi
người bình đẳng hưởng theo lao động nhưng thực tế ở mỗi người khác nhau: năng
lực công tác có người giỏi người kém, nhân khẩu có gia đình nhiều người có gia
đình ít người cho nên về tiêu dùng mọi người không hưởng như nhau. Mác viết
rằng: “Nhưng đó là những thiếu sót không thể trách khỏi trong giai đoạn đầu của xã
hội cộng sản chủ nghĩa, lúc nó vừa mới lọt lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra, sau
những cơn đau đẻ dài. Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh


tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định”. Khi chuyển
sang giai đoạn của xã hội cộng sản, Mác nói rõ thêm: cùng với sự phát triển của xã
hội xã hội chủ nghĩa, sức sản xuất xã hội được phát triển, trình độ văn hóa được
nâng cao; sự đối lập giữa lao động trí óc và lao động chân tay, giữa thành thị và
nông thôn được xóa bỏ, lao động trở thành nhu cầu cần thiết bậc nhất cho sức sống
của mọi người, và do đó, tất nhiên phải chuyển sang một giai đoạn mới, một
nguyên tắc mới là “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Đó là lúc xã hội có thể
sản xuất ra sản phẩm tiêu dùng dồi dào đến mức không cần dùng phân phối lợi ích
vật chất để kích thích lao động nữa.
3.2 Tác phẩm đánh dấu sự chiến thắng của chủ nghĩa Mác trước các trào lưu
cơ hội chủ nghiã

Khi giai cấp công nhân càng lớn mạnh hơn, trưởng thành hơn, cũng là lúc
kẻ thù của giai cấp vô sản đẩy mạnh sự chống phá, đặc biệt là thông qua những
hình thức mới tinh vi hơn, khó nhận biết hơn-hình thức chủ nghĩa cơ hội.
Những kẻ theo chủ nghĩa cơ hội sử dụng chủ nghĩa Mác để chống lại chủ
nghĩa Mác, làm sai lệch hướng đi của giai cấp công nhân. Chúng thường dựa vào
những cương lĩnh, điều lệ của các tổ chức cộng sản để xuyên tạc một cách rất tinh
vi hòng đưa ra đường lối vừa cơ hội, vừa bè phái, từ bỏ đấu tranh giai cấp, từ bỏ
cách mạng và chuyên chính vô sản, đi lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường “giản
đơn”, “hòa bình”. Chủ nghĩa cơ hội là hình thức chống phá tinh vi và nguy hiểm
của kẻ thù, nó đã làm lay chuyển tư tưởng của bộ phận không nhỏ Đảng viên của
các Đảng cộng sản, của giai cấp công nhân.
Bằng kiến thức thực tiễn và lý luận, sự phân tích lôgíc, chặt chẽ, cùng
những đánh giá khách quan, khoa học, tác phẩm “phê phán cương lĩnh Gô-tha” của
C.Mác ra đời đã kịp thời vạch rõ bản chất cơ hội, cải lương, nửa vời của bọn Látxan thể hiện trong bản cương lĩnh của Đảng xã hội dân chủ Đức. Tác phẩm cho ta
thấy rõ những điều trong bản cương lĩnh đó là không chặt chẽ, thiếu khoa học, xa


rời hệ tư tưởng, xa rời lợi ích, xa rời mục tiêu đấu tranh của giai cấp. Nó thức tỉnh
giai cấp công nhân, để giai cấp công nhân nhận thấy, chỉ có con đường đấu tranh
xóa bỏ chế độ tư hữu, xóa bỏ sự thống trị của giai cấp tư sản thì xã hội mới có sự
công bằng thực sự, lợi ích của người lao động mới được đảm bảo.
3.3 Để lại bài học về đấu tranh cách mạng, đặc biệt là đấu tranh tư tưởng, lý
luận
Đây là một di sản quý báu về lý luận mà các tác phẩm khác chưa đề cập
đến. Tác phẩm chỉ ra những vấn đề cơ bản về lao động và vai trò của lao động
trong sự phát triển của xã hội. Đồng thời, nó để lại bài học to lớn về xây dựng một
Đảng vững mạnh của giai cấp công nhân, cần phải quan tâm xây dựng cho được
một cương lĩnh chính trị đúng đắn. Tác giả đưa ra một kiểu mẫu về việc hoàn chỉnh
một cách khoa học bản Cương lĩnh cách mạng của chính đảng vô sản.
Trong công tác tư tưởng, Mác đưa ra bài học về tinh thần phê phán, phải phê

phán như thế nào cho khoa học để lột mặt phản bội của các trào lưu cơ hội. Cương
lĩnh của một Đảng vô sản phải đảm bảo tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của
Quốc tế cộng sản, của hệ tư tưởng giai cấp công nhân, bảo vệ lợi ích giai cấp công
nhân, bảo vệ tinh thần kiên quyết đấu tranh không ngừng.
Về tổ chức, tác phẩm cho ta thấy không thể sáp nhập tổ chức một cách giản
đơn, tùy tiện, vô nguyên tắc, không được nhân nhượng bất kỳ một sự phản bội nào
về lý luận, tư tưởng để bảo vệ sự trong sáng của lý luận chủ nghĩa cộng sản khoa
học, phải đảm bảo sự thống nhất trong Đảng, kiên quyết đấu tranh để cô lập và dần
loại bỏ những phần tử cơ hội.

KẾT LUẬN


Lao động, phân phối sản phẩm lao động là vấn đề lý luận quan trọng được
đề cập đến trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô-tha”. Nó có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn vô cùng to lớn không chỉ đối với giai cấp vô sản nước Đức, mà còn đối
với giai cấp công nhân trên toàn thế giới.
Mác đưa ra quan điểm phê phán những sai trái đối với lao động, phân phối
lao động trong cương lĩnh Gô-tha đã làm rõ thêm vai trò, vị trí của lao động trong
quá trình sản xuất xã hội, xác định những điều kiện để người lao động làm chủ
những của cải mà mình làm ra. Từ đó có thể thấy, để tạo ra của cải vật chất, ngoài
yếu tố lao động cần phải có những điều kiện cần thiết để lao động đó có thể được
tiến hành. Chính là tư liệu lao động, đối tượng lao động. Vì thế, vấn đề sở hữu đối
với những điều kiện sản xuất đó cần phải được tổ chức một cách hợp lí theo hướng
cho người lao động có thể phát huy thể lực, trí lực của mình tạo ra của cải vật chất.
Đồng nghĩa với việc phải thay thế sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bằng chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, để người lao động làm chủ những điều kiện sản xuất.
Bên cạnh đó, Mác cũng phê phán những quan điểm sai lầm của cương lĩnh Gô-tha
về phân phối. Mác đưa ra quan điểm phân phối sản phẩm của lao động sao cho hợp
lí, công bằng, đảm bảo quyền lợi của người lao động, của những đóng góp về yếu

tố sản xuất, đảm bảo những điều kiện cần thiết cho người nằm ngoài lực lượng lao
động.
Thực tiễn gần 20 năm đổi mới ở Việt Nam, đã chứng minh quan điểm về lao
động, phân phối sản phẩm lao động của Mác là khoa học và phù hợp với quy luật
khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việt Nam đã tiến hành phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng và Nhà nước hết sức
quan tâm tới vấn đề lao động, chú ý việc phát triển lực lượng lao động, coi đó là
nguồn tực quan trọng hàng đầu để phát triển đất nước. Chủ trương thực hiện phân


×