Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

tieu luan bien chung cua tu nhien tác phẩm kinh điển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.85 KB, 29 trang )

MỞ ĐẦU
“Biện chứng của tự nhiên” là tác phẩm của Ph.Ăngghen, lần đầu tiên
được xuất bản bằng tiếng Nga và tiếng Đức tại Liên Xô năm 1925. Tư tưởng
trung tâm của tác phẩm là tư tưởng về các hình thái vận động của vật chất.
Chính dựa trên tư tưởng này, Ănghen dự định xây dựng một tác phẩm – về con
đường phát triển biện chứng khách quan của tự nhiên tiến đến sự phát triển kinh
tế của xã hội loài người – tiếp nối bộ “Tư bản” của C.Mác để cùng với “Tư bản”
tạo nên một công trình hoàn chỉnh về học thuyết mácxít.
Xuất phát từ các hình thái vận động của vật chất, Ănghen xác định đối
tượng của các khoa học, lấy sự phụ thuộc lẫn nhau của các khoa học làm nguyên
tắc chung để phân loại chúng. Theo Ăngghen, vật chất vận động từ thấp lên cao.
Tương ứng với các hình thức vận động của vật chất – trong quá trình lịch sử - là
các khoa học: cơ học, vật lí học, hoá học, sinh học, khoa học xã hội. Nhận thức
phải đi từ các hình thái vận động thấp đến các hình thái vận động cao hơn. Sự
chuyển hoá từ một hình thái vận động này sang một hình thái vận động khác cao
hơn bao giờ cũng là một bước nhảy vọt, một quá trình biện chứng. Vì vậy các
khoa học nghiên cứu về chúng cũng phải phản ánh được phép biện chứng đó.
Ăngghen chỉ rõ rằng quan điểm máy móc, siêu hình về giới tự nhiên đang sụp
đổ do sự phát triển của khoa học tự nhiên và buộc phải nhường chỗ cho quan
điểm biện chứng. Điều đó đặt ra yêu cầu đối với các nhà khoa học tự nhiên là
cần chuyển từ tư duy siêu hình sang tư duy biện chứng, phải tự giác nắm lấy
phép biện chứng. Ăngghen còn đề cập đến hàng loạt các vấn đề triết học khác
như các quy luật cơ bản và các phạm trù của phép biện chứng được rút ra từ
trong tự nhiên; vấn đề lí thuyết tiến hoá Đácuyn; vấn đề vai trò của lao động
trong sự hình thành con người. Do sự phát triển của khoa học hơn một trăm năm
qua, dĩ nhiên, không ít những vấn đề chuyên sâu được Ăngghen đề cập trong
“Biện chứng của tự nhiên” cần được bổ sung, phát triển. Mặc dù vậy, nhiều tư
tưởng của Ăngghen vẫn có giá trị và ý nghĩa phương pháp luận rất lớn trong
việc tiếp cận với sự phát triển mới trên mọi lĩnh vực triết học, khoa học và đời
sống xã hội của thời đại chúng ta. Chính vì vậy mà em chọn đề tài tiểu luận môn


1


tác phẩm kinh điển Mác – Lênin của mình là Những quan điểm cơ bản của
Ăngghen thể hiện trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên.

2


NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÁC PHẨM “BIỆN CHỨNG CỦA TỰ NHIÊN”.

1. Bối cảnh lịch sử và mục đích của tác phẩm.
1.1. Bối cảnh ra đời tác phẩm:
Ph.Ăngghen bắt đầu viết “Biện chứng của tự nhiên” vào mùa xuân 1873.
Từ năm 1876, ông tạm ngừng để tập trung viết “Chống Đuyrinh”. Từ 1878,
Ăngghen tiếp tục tập hợp tài liệu, viết được một số chương, trích đoạn. Sau khi
C. Mác mất (1883), Ăngghen tập trung sức lực vào hoạt động chính trị, thay thế
vai trò của Mác. Những năm 1885 – 1886, Ăngghen bổ sung vào "Biện chứng
của tự nhiên" khá nhiều ý tưởng mới, tuy nhiên tác phẩm vẫn chưa được hoàn
thành. Trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” Ăngghen đã trình bày tương
đối toàn diện về phép biện chứng duy vật. Sự hình thành và phát triển của phép
biện chứng đã có trong lịch sử từ thời kỳ cổ đại Hy Lạp, cổ điển Đức, cũng đã
được ông đề cập đến. Trong thời kì viết tác phẩm "Biện chứng của tự nhiên",
tình hình chính trị, xã hội và sự phát triển khoa học trên thế giới có những đặc
điểm nổi bật.
Cuối thế kỷ XIX, giai cấp công nhân Pháp đã nổi lên làm cuộc khởi
nghĩa với khí thế xung thiên, thành lập Công xã Pari (1871), tuy nhiên vì điều
kiện khách quan chưa cho phép, cộng với những yếu kém về mặt chủ quan, cuộc
khởi nghĩa đã bị thất bại. Sau khi Công xã Pari thất bại, giai cấp tư sản nhận ra

sự lớn mạnh của giai cấp công nhân, cho nên một mặt tìm mọi cách duy trì sự
thống trị của chúng, và mặt khác chúng tấn công vào phong trào của giai cấp
công nhân, tấn công vào chủ nghĩa Mác. Phong trào cách mạng của giai cấp vô
sản tạm thời lắng xuống sau công xã Pari. Công xã Pari chính là thực tiễn để
C.Mác và Ph.Ăngghen khái quát lý luận về quá trình hình thành và phát triển
của lịch sử xã hội.
Cùng với đó, trong thời gian từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX,
khoa học tự nhiên có những bước phát triển mới, chuyển từ giai đoạn thực
nghiệm sang giai đoạn khái quát lý luận. Nhiều phát minh trong khoa học tự
3


nhiên như: định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, học thuyết tế bào của
M.Slâyđen, học thuyết tiến hóa của Đácuyn, đã chứng minh rằng tự nhiên có
quá trình chuyển hóa lẫn nhau một cách biện chứng, phủ định quan điểm siêu
hình vẫn thống trị trong tư duy của nhiều nhà khoa học tự nhiên. Quan điểm siêu
hình đã không còn phù hợp với sự phát triển của khoa học tự nhiên, thậm chí
cản trở sự phát triển của khoa học tự nhiên. Muốn giải phóng khoa học tự nhiên
khỏi phương pháp tư duy siêu hình cần phải khái quát những thành tựu mới của
nó để xây dựng quan điểm biện chứng duy vật trong nhận thức về tự nhiên.
Những nhà triết học duy tâm đã sử dụng những thành tựu mới của khoa
học tự nhiên để chống lại chủ nghĩa duy vật nói chung và chủ nghĩa Mác nói
riêng, trong đó có triết học Mác. Họ giải thích những thành tựu mới của khoa
học tự nhiên trên quan điểm duy tâm, siêu hình. Ví dụ như: những người duy
tâm đã lợi dụng toán học làm công cụ để chống chủ nghĩa duy vật, họ lợi dụng
tình hình là các phép tính và kết luận của toán học có tính chất trừu tượng, xa rời
thực tại đến một mức nhất định để che đậy mọi sự liên hệ của toán học với thực
tại, phủ nhận mối liên hệ đó và coi toán học như là một sản phẩm thuần tuý của
tư duy không có một chút nội dung khách quan nào, đây là “chủ nghĩa duy tâm
toán học”.

Cuối cùng, vào những năm 70 thế kỷ XIX đã bắt đầu xuất hiện một xu
hướng chống chủ nghĩa Mác thâm nhập vào phong trào cách mạng của giai cấp
công nhân. Đó là chủ nghĩa cơ hội: núp dưới chiêu bài chủ nghĩa xã hội, nhưng
thực ra tìm cách thay thế lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học của chủ nghĩa Mác
bằng các loại lý luận chủ nghĩa xã hội giả hiệu, phản động của giai cấp tư sản.
Một trong những đại biểu của chủ nghĩa cơ hội đó là Đuyrinh.
Do vậy, để bảo vệ chủ nghĩa Mác nhất là triết học Mác, phải chứng minh
được cơ sở tự nhiên của triết học Mác, chứng minh được rằng, sự phát triển của
tự nhiên là của quá trình nhận thức về tự nhiên cũng tuân theo những quy luật
mà phép biện chứng đã vạch ra. Vì vậy, Ăngghen đã quyết định nghiên cứu, hệ
thống hóa những thành tựu của khoa học tự nhiên, chứng minh tính chất biện
chứng của nó, chứng minh cơ sở tự nhiên của triết học Mác.
4


1.2. Mục đích của tác phẩm:
"Biện chứng của tự nhiên" ra đời trước hết nhằm tổng kết những thành
tựu mới của khoa học tự nhiên, xây dựng hệ thống quan điểm đúng đắn về giới
tự nhiên. Đây là mục đích quan trọng hàng đầu, vì chỉ có quan niệm duy vật biện
chứng về tự nhiên mới giải phóng khoa học tự nhiên khỏi sự chi phối của quan
niệm duy tâm, siêu hình, mở đường cho sự phát triển của khoa học tự nhiên.
Tác phẩm ra đời cũng nhằm mục đích phát triển hơn nữa lý luận nhận
thức và phép biện chứng duy vật trên cơ sở khái quát những thành tựu mới của
khoa học tự nhiên. Theo Ăngghen, ông không có ý định viết một cuốn sách phổ
thông về phép biện chứng và cũng không chỉ dừng lại ở sự khái quát lịch sử phát
triển của khoa học tự nhiên, mà muốn chứng minh rằng những quy luật biện
chứng chính là những quy luật thật sự của sự phát triển của giới tự nhiên, là
lôgic nhận thức của khoa học tự nhiên.
Tác phẩm cũng chỉ ra biện chứng của sự quá độ từ giới tự nhiên sang xã
hội loài người. Tác phẩm "Biện chứng của tự nhiên" cùng với bộ “Tư bản” đã

đưa lại một quan điểm thống nhất và hoàn chỉnh hơn chủ nghĩa Mác. Tác phẩm
chỉ ra khâu trung gian giữa tự nhiên và xã hội chính là lao động.
Tác phẩm trực tiếp phê phán những sai lầm về mặt triết học của một số
nhà khoa học tự nhiên, chống lại những quan điểm duy tâm, siêu hình đang ngự
trị trong khoa học tự nhiên dẫn đến việc cố tình giải thích sai lệch những thành
tựu của khoa học tự nhiên và chống lại chủ nghĩa Mác. Chính sự phê phán này
vào thời điểm đó đã bảo vệ và phát triển hơn chủ nghĩa Mác nói chung trong đó
có triết học Mác.
2. Kết cấu của tác phẩm và tóm tắt nội dung triết học của tác phẩm.
“Biện chứng của tự nhiên” là tác phẩm được trình bày theo những tiêu
đề khác nhau rút ra từ các bản thảo, các trích đoạn, bài viết tản mạn chứ không
tập trung thành từng phần mạch lạc. Tuy nhiên có thể nhận thấy mục đích chủ
đạo của tác phẩm là phân tích duy vật biện chứng (DVBC) các thành tựu của
khoa học tự nhiên, từ đó giải quyết các vấn đề quan trọng của cả triết học lẫn
khoa học tự nhiên trong đó có vấn đề cơ bản của triết học và phương pháp triết
5


học. Nhiệm vụ mà Ăngghen đặt ra ở đây là phân tích phép biện chứng khách
quan trong tự nhiên, tìm hiểu lịch sử của khoa học tự nhiên, mối liên hệ giữa tư
duy khoa học và nhận thức triết học, vai trò của khoa học tự nhiên đối với đời
sống xã hội, cũng như tính định hướng của phép biện chứng duy vật đối với
khoa học tự nhiên. Mặc dù nội dung xuyên suốt là như vậy, nhưng tác phẩm bàn
đến khá nhiều vấn đề, từ tự nhiên đến lịch sử, từ lịch sử khoa học đến lịch sử của
phép biện chứng, từ quan niệm về vận động vật chất đến các phác thảo sơ khởi
về vận động xã hội. Và bất chấp sự đứt đoạn của những bài viết riêng lẻ, người
đọc vẫn cảm nhận được bên cạnh sự phong phú của dữ liệu lịch sử là hàng loạt
nhận định mang tính kinh điển thực sự.
Tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” gồm bốn phần lớn:
* Phần thứ nhất, trong hai bản sơ thảo Ăngghen trình bày những nội dung

định viết của tác phẩm. Sơ thảo đề cương chung có 11 vấn đề, và sơ thảo đề
cương cục bộ có 7 vấn đề. Thực chất sơ thảo đề cương cục bộ là phần thứ 5 của
sơ thảo đề cương chung.
* Phần thứ hai:
- Trong lời nói đầu, Ăngghen trình bày khái quát sự phát triển của khoa
học tự nhiên từ thế kỉ XV đến cuối thế kỉ XVIII và đầu thế kỉ XIX, phân tích về
những ảnh hưởng của khoa học tự nhiên đối với quan niệm của con người về thế
giới, sự cần thiết phải thay đổi quan niệm siêu hình về tự nhiên bằng quan niệm
biện chứng.
- Trong “Bài tựa cũ của cuốn “Đuyring”, “Về biện chứng”, Ăngghen đã
trình bày khái quát sự phát triển của tư duy lý luận. Ông khẳng định chính phép
biện chứng là một hình thức tư duy quan trọng nhất của khoa học tự nhiên hiện
đại, bởi vì chỉ có nó mới có thể đem lại sự tương đồng và do đó đem lại phương
thức giải thích những quá trình phát triển diễn ra trong giới tự nhiên, giải thích
những mối liên hệ phổ biến, những bước quá độ từ một lĩnh vực nghiên cứu này
sang một lĩnh vực nghiên cứu khác.
- Ở mục “Khoa học tự nhiên trong thế giới thần linh”, Ăngghen trình bày
những hạn chế của chủ nghĩa kinh nghiệm. Ông khẳng định rằng, nếu chỉ dựa
6


vào chủ nghĩa kinh nghiệm thuần túy thì không tránh khỏi rơi vào chủ nghĩa
thần linh.
- Mục “Biện chứng” trình bày tính chất chung của phép biện chứng với tư
cách là khoa học về các mối liên hệ trong sự đối lập với siêu hình học. Đây là
bài viết của Ăngghen nhằm chứng minh ba quy luật của phép biện chứng duy
vật được rút ra trong lịch sử giới tự nhiên và lịch sử loài người.
- Mục “Những hình thái vận động cơ bản” trình bày quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng về vận động của vật chất, khẳng định vận động và
phương thức tồn tại, là thuộc tính cố hữu của vật chất. Vật chất có nhiều hình

thức vận động và các hình thức ấy có thể chuyển hóa lẫn nhau.
- “Sự đo vận động- Công”. Trong mục này, bằng sự so sánh hai công thức
đo vận động trong vật lí, Ăngghen đã khẳng định rằng chỉ có bằng sự phân tích
lí luận mới có thể hiểu được bản chất của các công thức đó.
- “Sự ma sát của thủy triều. Cantơ và Tômxơn – Têtơ. Sự quay của trái đất
và sự hút của mặt trăng”.
- Trong các mục “nhiệt”, “điện”, Ăngghen đã nghiên cứu mối liên hệ, sự
chuyển hóa từ vận động cơ giới thành nhiệt, điện, thành những vận động phân
tử. Từ đó ông chứng minh rằng vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất,
không thể sáng tạo ra nó.
- Trong mục “Tác dụng của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn
thành người”, Ăngghen đã phân tích đặc trưng lao động của con người khác căn
bản với của con vật, đó là hoạt động có tính sáng tạo và tính xã hội. Ông viết:
“lao động là điều kiện cơ bản và đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và
như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã
sáng tạo ra bản thân con người”.
* Phần thứ ba:
- “Trích từ lịch sử khoa học” là đoạn bút kí trình bày những nghiên cứu
của Ăngghen về sự phát triển của từng ngành khoa học tự nhiên trong mối liên
hệ chặt chẽ với sự phát triển của loài người. Từ đó, ông đi đến kết luận rằng

7


ngay từ đầu ự phát sinh và phát triển của các ngành khoa học tự nhiên đã do sản
xuất quy định.
- “Khoa học tự nhiên và triết học” là đoạn trình bày quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên,
đồng thời phê phán một số nhà khoa học tự nhiên như Phôngtơ, Molesot,
Buysno phủ nhận vai trò của triết học.Ăngghen đã phân tích và chỉ rõ vai trò của

chủ nghĩa duy vật biện chứng đối với sự phát triển của khoa học tự nhiên.
- “Biện chứng”, bao gồm : Những vấn đề chung của biện chứng. Những
quy luật cơ bản của biện chứng; Logic biện chứng và nhận thức luận bàn về
những “giới hạn của nhận thức”. Trong bút kí này, ông trình bày nhiều nội dung
của phép biện chứng duy vật và logic biện chứng. Ông cũng chỉ rõ quan hệ biện
chứng giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan, giữa phạm trù trừu
tượng và những sự vật hiện tượng cụ thể.
- “Những hình thức vận động của vật chất. Phân loại các ngành khoa
học”. Trong những bút kí này, Ăngghen đã trình bày quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng về vật chất và vận động. Theo ông có thể phân chia vận
động của giới tự nhiên thành năm hình thức khác nhau. Mỗi khoa học nghiên
cứu một hình thức vận động hoặc sự liên hệ của một vài hình thức vận động.
* Phần thứ tư: “Tên và mục lục của các xấp bản thảo”, trình bày các xấp
bản thảo theo sự sắp xếp của Ăngghen, toàn bộ gồm có 4 xấp. Xấp thứ nhất:
Biện chứng của khoa học tự nhiên; Xấp thứ hai: Sự nghiên cứu giới tự nhiên và
biện chứng; Xấp thứ ba: Biện chứng tự nhiên; Xấp thứ tư: Toán học và khoa học
tự nhiên. Các vấn đề khác.

8


II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TÁC PHẨM “BIỆN CHỨNG CỦA TỰ NHIÊN”.

1. Quan điểm của Ăngghen về vận động của vật chất.
Những quan niệm về vận động đã được Ăngghen trình bày trong tác
phẩm “Chống Đuyring”. Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, ông đã
nghiên cứu rất công phu để trình bày một cách toàn diện và sâu sắc quan niệm
về vận động.
Trước hết, Ăngghen nêu lên quan niệm tổng quát về vận động. Khác với
quan niệm của hầu hết các nhà triết học và khoa học tự nhiên xem vận động chỉ

là sự di chuyển vật thể trong không gian, Ăngghen nói: “vận động hiểu theo
nghĩa chung nhất – tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là
thuộc tính cố hữu của vật chất - thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá
trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”. Đây
có thể coi là một định nghĩa triết học về vận động.
Vận động và vật chất không thể tách rời nhau. Vận động là phương thức
tồn tại, là thuộc tính cố hữu của vật chất. Vận chất tồn tại thông qua vận động,
không có vận chất không vận động, cũng không có vận động nào thuần túy
ngoài vật chất. Vận động tồn tại khách quan không do ai sáng tạo và cũng không
thể bị tiêu diệt. Nguyên nhân của vận động chính là do sự tác động lẫn nhau của
vật thể. Bản thân sự tác động cũng là vận động, do vậy, phải quan niệm vận
động chính là sự tự vận động của vật chất. Vận động của vật chất có nhiều hình
thức khác nhau. Ăngghen đã nhận thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa các dạng vật
chất với các hình thức vận động, từ đó ông phân loại các hình thức vận động cơ
bản của giới tự nhiên theo trình độ phát triển kết cấu của vật chất, bao gồm: vận
động cơ học (là sự thay đổi vị trí đơn giản các vật thể trên địa cầu), vận động vật
lí (là vận động của các phân tử, vận động nhiệt và điện), vận động hóa học (là sự
vận động của các nguyên tử, sự phân giải và hóa hợp các chất), vận động sinh
học (là vận động của sự sống), cuối cùng là vận động xã hội.
Tư tưởng về vận động và sự phân loại vận động đã được các nhà triết
học duy vật thế kỉ XVII- XVIII nêu ra. Ví như Ph.Bêcơn đã phân chia vận động
ra thành 19 dạng khác nhau nhưng không theo một trình độ phát triển nhất định
9


của kết cấu vật chất, thậm chí ông còn đồng nhất vận động nói chung với vận
động cơ học và vật lí. Nhưng Ăngghen cho rằng, các hình thức vận động khác
nhau về chất và có những quy luật đặc thù chi phối nên không thể quy chúng về
hìn thức duy nhất là vận động cơ giới. Vì vậy, tư tưởng về vận động của
Ăngghen có thể nói là một bước tiến quan trọng, một dấu mốc trong nhận thức

tự nhiên, nhận thức kết cấu vật chất. Ăngghen cũng khẳng định, vận động có thể
truyền từ vật này sang vật khác, các hình thức vận động có mối liên hệ, chuyển
hóa lẫn nhau, hình thức vận động cao bao hàm những hình thức vận động thấp.
Ông đã nghiên cứu mối liên hệ và chuyển hóa lẫn nhau giữa các hình thức vận
động như: ma sát biến thành nhiệt, nhiệt thành điện; vận động hóa học thành
nhiệt, điện và ngược lại,... Ông cũng đặc biệt chú ý nghiên cứu hình thức vận
động sinh học như bản chất của sự sống, nguồn gốc của sự sống, quá trình tiến
hóa của sự sống, sự hình thành con người, mối liên hệ giữa con người với tự
nhiên và xã hội.
Qua việc nghiên cứu các hình thức vận động và sự chuyển hóa giữa
chúng, Ăngghen đã chứng minh rằng, giới tự nhiên là thống nhất và không
ngừng phát triển. Như vậy, sự phát triển của tự nhiên đã chứng thực quan điểm
phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Từ đó ông khẳng định chỉ có quan
điểm biện chứng duy vật về tự nhiên mới phản ánh đúng quá trình diễn ra trong
tự nhiên, còn quan điểm siêu hình không còn thích hợp với nhận thức tự nhiên
đương đại nữa.
2. Mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên.
Trong "Biện chứng của tự nhiên", Ăngghen đã chú ý nghiên cứu mối
quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên. Đó là quan hệ hai chiều: khoa học
tự nhiên với nhiều thành tựu, phát minh có tính chất vạch thời đại của mình đã
làm chủ nghĩa duy vật biện chứng phải thay đổi hình thức tồn tại của nó; đồng
thời triết học cũng thể hiện rõ vai trò của nó đối với khoa học tự nhiên trong việc
khái quát những kết quả của khoa học tự nhiên, rút ra những kết luận có ý nghĩa
về mặt thế giới quan và phương pháp luận chung cho khoa học tự nhiên.

10


Ăngghen chỉ rõ lịch sử của khoa học tự nhiên trải qua những giai đoạn
phát triển cơ bản:

Thời cổ đại, khoa học tự nhiên còn ở trình độ thấp kém, chưa có sự phân
ngành, chưa có vị trí độc lập, là một bộ phận của triết học. Những kiến thức của
khoa học tự nhiên còn rất ít ỏi, rời rạc, chưa mang tính hệ thống, do vậy, một
quan niệm thô sơ về thế giới đã được hình thành tương ứng, đó là quan niệm
duy vật tự phát. Chủ nghĩa duy vật tự phát coi tự nhiên như một chỉnh thể không
ngừng biến đổi, vận động và phát triển. Nhìn chung đây là quan điểm đúng đắn
nhưng chủ yếu dựa trên những tài liệu trực quan, thiếu những sự phân tích khoa
học, còn chứa đựng nhiều yếu tố tưởng tượng, phỏng đoán. Do đó, nó đã bị thay
thế bởi quan điểm siêu hình sau này.
Thời trung cổ, triết học và khoa học không có những bước phát triển
đáng kể do bị chi phối chủ yếu bởi thế giới quan tôn giáo. Đến cuối thế kỉ XV,
khoa học tự nhiên phát triển mạnh mẽ với sự mở đầu của Côpécnich và sự kết
thúc vào cuối thế kỉ XVIII với những đại biểu như Niuton và Lépnit. Trong thời
kì này đã xuất hiện môt số ngành khoa học mới đang trong giai đoạn đầu phát
triển, trong từng lĩnh vực nghiên cứu đã thu được nhiều tài liệu phong phú và
quý giá về tự nhiên. Ngành khoa học phát triển nhất trong thời kì này là cơ học
về các vật thể và toán học phục vụ cho việc nghiên cứu cơ học đó. Sự phát triển
của khoa học tự nhiên đã kéo theo sự phát triển của phương pháp nhận thức thế
giới: khoa học tự nhiên còn ở giai đoạn thu thập tài liệu, các ngành khoa học chỉ
nghiên cứu những bộ phận riêng biệt của thế giới, nên phương pháp chủ yếu là
thực nghiệm và phân tích. Do đó, hình thành nên phương pháp nhận thức siêu
hình về thế giới, tức xem xét các sự vật hiện tượng, quá trình tự nhiên trong
trạng thái tĩnh, biệt lập, không vận đông, không biến đổi.
Trong giai đoạn sau đó (nửa sau thế kỉ XVIII), khoa học tự nhiên có
những bước phát triển mới, chuyển từ giai đoạn thu thập tài liệu sang giai đoạn
tổng hợp hóa và khái quát hóa tài liệu. Do vậy, Ăngghen đã phân tích những
thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên thời kì này, từ đó chứng minh sự tất yếu
phải thay đổi quan niệm về thế giới từ siêu hình sang biện chứng. Hai phát minh
11



có ý nghĩa quan trọng mở đầu thời kì này đó là giả thuyết của Kant về khối tinh
vân nguyên thủy là nguồn gốc của trái đất thể hiện trong cuốn “Lịch sử tự nhiên
đại cương và học thuyết về bầu trời” (1775); và phát minh của S.Laien về sự
hình thành vỏ trái đất. Hai phát minh này có giá trị to lớn trong việc chứng minh
sự hình thành dần dần của trái đất một cách vật chất, chứ không phải là sản
phẩm sáng tạo của đấng tạo hóa theo quan điểm duy tâm. Đáng chú ý nhất trong
thời kì này là ba phát minh trong linh vực vật lí và sinh học: định luật bảo toàn
và chuyển hóa năng lượng, học thuyết tế bào của S.Lâyđen và T.Svannơ, học
thuyết tiến hóa của Đácuyn. Ba phát minh vĩ đại này đã chứng minh rằng, mọi
sự vật hiện tượng trong giới tự nhiên đều có mối liên hệ, có sự tiến hóa từ thấp
đến cao và có thể chuyển hóa lẫn nhau. Điều này đã loại bỏ mọi sự biện minh
của quan niệm siêu hình và duy tâm về nguồn gốc và về sự vận hành của thế
giới. Từ đó, đòi hỏi phải có một quan niệm mới về tự nhiên, phản ánh đúng tự
nhiên, đó là quan niệm duy vật biện chứng.
Như vậy, lịch sử phát triển khoa học tự nhiên tác động không nhỏ đến
lịch sử hình thành phương pháp tư duy, nhận thức của con người. Nhưng
Ăngghen không chỉ nhìn thấy một chiều trong mối liên hệ giữa triết học và khoa
học tự nhiên mà ông còn phân tích và chỉ rõ vai trò của triết học đối với sự phát
triển của khoa học tự nhiên. Từ việc nghiên cứu nhiều trường hợp riêng về tác
động của triết học đối với nghiên cứu của các nhà khoa học tự nhiên, Ăngghen
khẳng định: “những nhà khoa học tự nhiên tưởng rằng họ thoát khỏi triết học
bằng cách không để ý đến nó hoặc phỉ báng nó. Nhưng vì không có tư duy thì họ
không thể tiến lên được một bước nào, và muốn tư duy thì họ cần có những
phạm trù logic, mà những phạm trù ấy họ lấy một cách không phê phán...từ
những tàn tích của những hệ thống triết học lỗi thời, hoặc lấy trong những mảnh
vụn của các giáo trình triết học,.. hoặc lấy trong những tác phẩm triết học đủ các
loại mà họ đọc một cách không hệ thống và không phê phán. Cho nên dù sao họ
vẫn bị lệ thuộc vào triết học, và đáng tiếc thường là thứ triết học tồi tệ nhất.
Những ai phỉ báng triết học nhiều nhất lại chính là những kẻ nô lệ của những tàn

tích thông tục hóa, tồi tệ nhất của những học thuyết triết học tồi tệ nhất”, và “dù
12


các nhà khoa học tự nhiên có làm gì đi nữa thì họ cũng vẫn bị triết học chi
phối”. Ăngghen đã chỉ ra rằng, do lưu hành chủ nghĩa duy vật tầm thường và
chủ nghĩa chiết trung khác nhau trong các trường đại học, tức là một tình trạng
rời rạc, hỗn độn đang thống trị trong tư duy lí luận, nên khoa học tự nhiên cũng
rơi vào tình trạng không lối thoát, không thể phát triển được. Muốn ra khỏi tình
trạng đó thì khoa học tự nhiên tất yếu phải quay về với tư duy biện chứng.
Cũng trong tác phẩm này, mối liên hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên
còn được làm rõ khi Ăngghen chỉ ra vai trò của tư duy lí luận nói chung: “một
dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư
duy lý luận”. Đồng thời, ông chỉ ra vai trò của tư duy lí luận trong việc giải thoát
khoa học tự nhiên khỏi những quan niệm duy tâm tôn giáo: “Trong thực tế,
khinh miệt phép biện chứng thì không thể không bị trừng phạt. Dù người ta tỏ ý
khinh thường mọi tư duy lí luận như thế nào đi nữa, nhưng không có tư duy lí
luận thì người ta cũng không thể liên hệ hai sự kiện trong giới tự nhiên với nhau,
hay không thể hiểu được mối liên hệ giữa hai sự kiện đó”. Như vậy, từ sự phân
tích những tài liệu thực tế, Ăngghen đã cho thấy không thể phủ nhận vai trò của
tư duy lí luận nói chung, của chủ nghĩa duy vật biện chứng nói riêng, tức là của
triết học đối với khoa học tự nhiên hiện đại.
Từ sự phân tích về mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên,
Ăngghen đề cập đến một hướng liên hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên để
hai ngành tri thức này thúc đẩy nhau phát triển, đó là các nhà khoa học tự nhiên
phải bước vào lĩnh vực lý luận,còn các nhà triết học phải am hiểu khoa học tự
nhiên. Tư tưởng này đã được Lênin phát triển trong giai đoạn sau này.
3. Những quy luật cơ bản và những phạm trù của phép biện chứng duy vật.
Trong tác phẩm "Biện chứng của tự nhiên", Ăngghen đã nghiên cứu nội
dung của các quy luật, phạm trù của phép biện chứng duy vật và sự biểu hiện

của chúng trong giới tự nhiên, từ đó chứng minh rằng, những quy luật của phép
biện chứng là những quy luật thật sự của sự phát triển của giới tự nhiên.
Sau khi vạch ra cho các nhà khoa học tự nhiên thấy sự cần thiết phải
quay trở lại với phép biện chứng và chỉ ra con đường đi tới phép biện chứng duy
13


vật, Ăngghen đã chỉ ra bản chất của phép biện chứng duy vật khác căn bản với
phép siêu hình và phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Phép biện chứng là
khoa học về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển. Tính chất cơ bản của phép
biện chứng là tính khách quan, vì nó được rút ra từ các quá trình diễn ra trong
hiện thực khách quan. Những quy luật của phép biện chứng được quy lại thành
ba quy luật:
Quy luật về sự chuyển hoá từ số lượng thành chất lượng và ngược lại.
Quy luật về sự xâm nhập lẫn nhau của các mặt đối lập.
Quy luật về sự phủ định của phủ định.
Ngay ở phần đầu, Ăngghen đã nêu lên sự giải thích về phép biện chứng:
“Vậy là từ trong lịch sử của giới tự nhiên và lịch sử của xã hội loài người mà
người ta đã rút ra được các quy luật của phép biện chứng. Những quy luật không
phải là cái gì khác hơn là những quy luật chung nhất của hai giai đoạn phát triển
lịch sử ấy cũng như là của bản thân tư duy”.
Có thể nói đây là một định nghĩa về phép biện chứng. Ăngghen đã
nghiên cứu sự biểu hiện của ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật trên
các lĩnh vực khác nhau của tự nhiên, trong các hình thức vận động cơ học, vận
động nhiệt, vận động hóa học, địa chất học và sinh vật. Những nghiên cứu đó
không phải là biến nội dung các quy luật của phép biện chứng thành tổng số các
ví dụ mà chứng minh rằng, mọi quá trình diễn ra trong tự nhiên đều tuân theo
quy luật của phép biện chứng duy vật. Ăngghen đã khẳng định rằng, quy luật
phép biện chứng là khoa học về sự phát triển và mối liên hệ phổ biến của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Những quy luật biện chứng này được rút ra từ lịch sử

của tự nhiên và của xã hội loài người.
Ăngghen phê phán Hêghen đã làm sai lạc phép biện chứng theo chủ
nghĩa duy tâm, đồng thời nêu ra những ví dụ để chứng minh rằng: những quy
luật biện chứng là những quy luật thật sự của sự phát triển của giới tự nhiên, tức
là những quy luật đó cũng có giá trị đối với khoa học tự nhiên lý thuyết.
Ăngghen trình bày một cách hệ thống một quy luật là quy luật lượng chất áp dụng vào các hiện tượng của giới tự nhiên “vô sinh”. Về những quy luật
14


khác thì chúng ta chỉ thấy một số ý kiến lẻ tẻ, tuy rất quan trọng nhưng không có
hệ thống. Về các phạm trù của phép biện chứng duy vật cũng vậy, Ăngghen
không có ý định trình bày đầy đủ như trong một sách phổ thông về triết học.
4. Quan điểm lý luận nhận thức và logic học của Ăngghen.
4.1 Về lý luận nhận thức:
Trong tác phẩm "Biện chứng của tự nhiên", Ăngghen đã thông qua nhiều
luận cứ để chứng minh rằng mọi lĩnh vực nhận thức đều là quá trình phản ánh
sáng tạo hiện thực khách quan trên cơ sở thực tiễn. Quy luật của tư duy và quy
luật của tồn tại thống nhất với nhau, tuy nhiên không thể đồng nhất tư duy với
tồn tại. Ăngghen nhấn mạnh vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, chỉ ra rằng
thực tiễn là cơ sở của nhận thức, rằng chính việc con người cải biến tự nhiên là
cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của sự phát triển trí tuệ con người. Sự hình
thành các ngành khoa học cũng sản xuất quy định. Thực tiễn còn kiểm tra tính
đúng sai của nhận thức con người.
Ăngghen phê phán chủ nghĩa kinh nghiệm và đề cao vai trò của tư duy lí
luận. Ông cho rằng, kinh nghiệm không thể vạch ra được tính tất yếu của sự vật,
hiện thực; nhưng ông cũng không xem nhẹ kinh nghiệm và nhận thức cảm tính,
và cần phải nâng chúng lên nhận thức lý luận. Ăngghen chỉ ra khả năng nhận
thức của con người về bản chất là không có giới hạn, nhưng lại được thực hiện
bởi những con người mà khả năng trên thực tế là có hạn. Vì vậy, nhận thức là
một quá trình mâu thuẫn và việc giải quyêt mâu thuẫn thúc đẩy nhận thức phát

triển không ngừng. Ông cũng thấy năng lực nhận thức của con người là sản
phẩm của lịch sử và cùng với sự phát triển lịch sử, năng lực đó cũng tăng lên. Về
mối quan hệ giữa chân lí tương đối và chân lí tuyệt đối, theo ông, nó phản ánh
mối quan hệ giữa khả năng vô hạn của nhận thức nói chung với tính hạn chế của
nhận thức ở từng người cụ thể.
4.2. Về lôgic học:
Ăngghen không những xem xét phép biện chứng khách quan của các
hiện tượng vật lý mà còn xét cả quá trình lịch sử của sự phản ánh phép biện
chứng ấy trong ý thức con người. Ăngghen nêu lên vấn đề lô gích biện chứng,
đặc biệt là vấn đề phân loại các phán đoán.
15


- Phân loại các phán đoán:
Để giải thích về biện chứng của tư duy, Ăngghen đã đi sâu phân tích các
loại phán đoán. Qua đó Ăngghen đã khái quát được quá trình lịch sử nhận thức
của con người.
Ăngghen xác định là nghiên cứu những sự việc cá biệt (đơn nhất) rồi sắp
xếp các sự việc theo từng ngành (đặc thù) và sau cùng là khám phá ra những quy
luật chung của tự nhiên (phổ biến). Chúng ta có thể coi phán đoán thứ nhất là
phán đoán đơn nhất: trong phán đoán ấy người ta ghi lấy sự việc đơn nhất là ma
sát sinh ra nhiệt. Phán đoán thứ hai có thể coi là phán đoán đặc thù: một hình
thức vận động đặc thù nào đấy (hình thức cơ học) đã bộc lộ đặc tính của nó là
trong những điều kiện đặc thù (bằng ma sát) chuyển thành một hình thức đặc thù
khác của vận động (thành nhiệt). Phán đoán thứ ba là phán đoán phổ biến: bất cứ
hình thức vận động nào cũng đều tỏ ra là có thể và phải chuyển thành một hình
thức vận động khác.
Từ đó, ta thấy Ăngghen đã phê phán quan niệm duy tâm của Hêghen về
vấn đề này và đặt mối liên hệ của các phán đoán trên lập trường của chủ nghĩa
duy vật. Ăngghen cũng phê phán sâu sắc thuyết không thể biết, thuyết này coi

cái phổ biến là không thể nhận thức được, vì họ đã tách rời cái đơn nhất, cái cá
biệt với cái phổ biến, theo họ giữa hai cái đó có một hố sâu ngăn cách không thể
vượt qua, con người chỉ có thể nhận thức được cái đơn nhất bằng nhận thức cảm
tính mà thôi, không thể nhận thức được cái phổ biến, quy luật của sự vật.
Đó là cách Ăngghen giải quyết một trong những vấn đề quan trọng nhất
của lôgích biện chứng, Ăngghen đã làm rõ mối liên hệ qua lại của các hình thức
phán đoán và các phạm trù lô gích. Điều rất quan trọng là không phải chỉ giải
quyết trong lĩnh vực lô gích thuần tuý, tức khoa học về tư duy, mà giải quyết
trong lĩnh vực hoạt động vật chất của con người, trong lĩnh vực thực tiễn.
- Về phương pháp quy nạp:
Trong giai đoạn lịch sử cuối thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đang chịu
ảnh hưởng của chủ nghĩa kinh nghiệm, trào lưu này hướng vào quan điểm của
Hium, đi tới chủ nghĩa bất khả tri. Hium phủ nhận phương pháp quy nạp, cho
16


rằng phương pháp này không thể từ kinh nghiệm rút ra được quy luật và cái tất
yếu. Ăngghen cho rằng, sự phê phán của Hium có phần hợp lý, song ông cũng
không tán thành Hium hoàn toàn phủ nhận vai trò của phương pháp này.
Ăngghen chỉ ra rằng, vận dụng phương pháp quy nạp cần phải kết hợp với nhiều
phương pháp khác, như kết hợp với phương pháp phân tích, tổng hợp v.v. Đặc
biệt quan trọng là phải gắn phương pháp đó với hoạt động thực tiễn và thực
nghiệm khoa học để đi đến chân lý. Như vậy, Ăngghen đã bác bỏ thuyết hoài
nghi của Hium, và khẳng định rằng con người thông qua hoạt động thực tiễn đã
xác minh sự tồn tại khách quan của tính tất yếu và quan hệ nhân quả.
Ăngghen cũng đã chỉ ra được sự thống nhất giữa quy nạp và diễn dịch,
vai trò của giả thiết trong nhận thức khoa học; quá trình từ nhận thức cảm tính,
kinh nghiệm đến trừu tượng, khái quát lý luận; xem xét sự khác nhau và mối liên
hệ giữa logic biện chứng và logic hình thức.
Tác phẩm "Biện chứng của tự nhiên" cũng bàn đến nhiều nội dung khác

như về bản chất và nguồn gốc của sự sống, nguồn gốc con người và vai trò của
lao động trong quá trình hình thành và phát triển con người, về quan hệ giữa con
người, tự nhiên và xã hội, về nguồn gốc, động lực và sự phân loại của khoa học.
Các nội dung này đều được ông phân tích và phát triển khá sâu sắc theo quan
điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
5. Phê phán những trào lưu tư tưởng tư sản.
5.1. Phê phán chủ nghĩa duy tâm sinh lý học
Trước hết, Ăngghen phê phán phái chủ nghĩa duy tâm sinh lý học Đức,
phái này theo thuyết Cantơ mới, truyền bá tư tưởng sai lầm, cho rằng nhận thức
là có giới hạn gồm ĐuyBoa Râymông, Nêgơli, Hemhôntxơ, nhất là phê phán tư
tưởng “không thể nhận thức được cái vô hạn” của Nêgơli.
Khi phê phán chủ nghĩa duy tâm sinh lý học, Ăngghen đặc biệt nói nhiều
về những kết quả của quang học và sinh lý học, tức là về hoạt động của cơ quan
thị giác của con người và động vật, kể cả côn trùng. Hồi đó, nhờ có sự tiến bộ
của khoa sinh vật học, người ta đã nghiên cứu kỹ con mắt của động vật, côn
17


trùng và thấy rằng mắt của động vật nhạy hơn mắt người. Người ta phát hiện có
nhiều loại thú và chim nhìn được xa hơn mắt người, các côn trùng nhìn thấy
được những cái mà con người không thấy được. Những kết quả đó đã chứng
thực một cách khách quan cho chủ nghĩa duy vật nhưng Hemhôntxơ lại giản
thức các kết quả đó theo tinh thần thuyết Cantơ, cho rằng thị giác của con người
không được hoàn thiện để đủ mức nhận thức được thế giới, nó có một giới hạn
mà đi quá nữa thì con người chẳng nhìn thấy gì nữa cả. Những người duy tâm
sinh lý học tách rời nhận thức cảm tính với nhận thức lô gích tư duy, vì họ
không nhìn thấy sự liên hệ lô gích trong cảm giác con người nêu cho nhận thức
là có giới hạn. Ăngghen xét nhận thức trong sự thống nhất của nhận thức cảm
tính, lý tính và nhận thức lô gích. Ăngghen vạch ra rằng, con người nhờ có nhận
thức lô gích mới nhận thức được những cái mà cảm giác không trực tiếp cảm thụ

được, con diều hâu nhìn xa hơn người nhưng người thấy được nhiều hơn con
diều hâu. Nhờ có nhận thức lô gích, tư duy mà người ta chế tạo được dụng cụ,
máy móc để cảm thụ được những cái mà giác quan không nhận thấy được,
không cảm nhận được.
Ăngghen đặc biệt đả kích mạnh cái thói thịnh hành lúc đó của phái
Cantơ mới là lặp lại “vật tự nó” của Cantơ. Ăngghen chế giễu thâm thuý những
kẻ theo phái Cantơ mới reo rắc cho các nhà khoa học tự nhiên sự hoài nghi đối
với hiểu biết của con người về thế giới bên ngoài. Ăngghen cho rằng, một trong
những nguyên nhân khiến các nhà khoa học tự nhiên dao động về vấn đề tính
chân thực của những hiểu biết của con người là ở chỗ thổi phồng một chiều yếu
tố tính tương đối trong nhận thức, họ không hiểu được quan hệ của chân lý
tương đối và chân lý tuyệt đối. Ăngghen viết: “Vì những nhà khoa học tự nhiên
chưa được rèn luyện về lôgích về phép biện chứng nên số lượng và sự thay đổi
của các giả thiết gạt bỏ lẫn nhau dễ tạo ra cho họ cái quan niệm cho rằng chúng
ta không thể nhận thức được bản chất của sự vật (Halơ và Gơtơ).
Ăngghen cho rằng, những nhà duy tâm sinh lý học không hiểu được
phép biện chứng nên cho nhận thức của con người là đi theo con đường thẳng.
18


Khi họ thấy rằng nhận thức đi theo con đường quanh co khúc khuỷu thì họ cho
rằng nhận thức không bao giờ đúng cả, mà một khi họ cho rằng nhận thức của
con người không hiểu biết được thế giới, và như vậy là đi đến thuyết của Cantơ
về “vật tự nó”, là không thể nhận thức được. Ăngghen vạch ra rằng, không có
nhà sinh vật học nào lại hoài nghi con chó có 4 chân, nhưng trong triết học thì
họ lại nghi ngờ. Đó là quan điểm dao động của họ.
Ăngghen phê phán thuyết không thể biết và đồng thời nêu lên và giải
quyết những vấn đề rất sâu sắc của lý luận duy vật về nhận thức, đặc biệt trong
vấn đề tác dụng của giả thuyết là một hình thức phát triển của khoa học tự nhiên,
vấn đề thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, của nhận thức và một số vấn đề khác

về lý luận nhận thức. Dựa vào việc thừa nhận tính khách quan của các quy luật
tự nhiên, Ăngghen đã bảo vệ một cách kiên quyết tính nhận thức được của các
quy luật đó. Quy luật không phải là giả thuyết, không phải chỉ là một sự thừa
nhận, mà trái lại chính giả thuyết là một giai đoạn để đi đến nhận thức quy luật,
vì giả định về sự tồn tại của tính quy luật khách quan trong tự nhiên bao giờ
cũng có trước việc phát hiện ra quy luật.
Như vậy, ở đây Ăngghen vạch ra phép biện chứng của nhận thức, rằng
người ta ngay một lúc không thể nào nhận thức được chân lý tuyệt đối. Chúng ta
đi đến chân lý tuyệt đối thông qua các chân lý tương đối và đi đến bản chất phải
thông qua các hiện tượng bề ngoài của sự vật.
5.2. Phê phán thuyết cơ giới
Song song với việc phê phán chủ nghĩa duy tâm sinh lý học và thuyết
không thể biết, Ăngghen cũng phê phán thuyết cơ giới mà những đại biểu của
thuyết này định thay thế phép biện chứng cách mạng của Mác bằng “thuyết tiến
hoá tầm thường”, họ phủ nhận những cuộc cách mạng và những bước nhảy vọt
trong sự phát triển lịch sử, và coi những sự khác nhau về chất chỉ là những sự
khác nhau thuần tuý về lượng. Trong bài bút ký “Vận động cơ giới”, Ăngghen
viết: “Các nhà khoa học tự nhiên cho rằng vận động là đồng nhất với vận động
cơ giới, với sự thay đổi vị trí, và họ cho rằng đó là một điều dĩ nhiên. Điều đó là
19


của thế kỷ XVIII, cái thế kỷ chưa biết đến hoá học, truyền lại và điều đó gây khó
khăn lớn cho sự hiểu biết rõ ràng về các quá trình. Vận động, đem ứng dụng vào
vật chất, thì có nghĩa là sự biến hoá nói chung. Chính do cũng sự hiểu lầm ấy
mà có cái cuồng vọng muốn quy tất cả mọi cái thành vận động cơ giới... điều đó
đã làm lu mờ tính đặc thù của các hình thức vận động khác. Nói thế không có
nghĩa là một hình thức vận động cao không luôn luôn gắn liền với một vận động
cơ giới thật sự nào (vận động bên ngoài hoặc vận động của các phân tử), chẳng
khác gì các hình thức vận động cao cũng đồng thời sản sinh ra những hình thức

vận động khác và chẳng khác gì tác động hoá học là không thể có được nếu
không có sự thay đổi về nhiệt độ và về trạng thái điện, còn sự sống hữu cơ và
không thể có được nếu không có sự biến đổi cơ giới biến đổi phân tử, hoá học,
nhiệt, và điện v.v.. Nhưng trong mỗi trường hợp được xét tới, sự tồn tại của
những hình thức vận động phụ ấy không bao quát hết được bản chất của hình
thức vận động chủ yếu. Chắc hẳn là một ngày kia qua con đường thực nghiệm,
chúng ta “sẽ quy” được tư duy thành những vận động phân tử và hoá học ở
trong óc; nhưng điều đó liệu có bao quát được hết bản chất của tư duy chăng”.
Ở đây, Ăngghen nêu lên định nghĩa, quan niệm khoa học rõ ràng, chính
xác về vận động. Ăngghen quan niệm một cách khác hẳn với những người siêu
hình, máy móc, họ cho rằng vận động là sự chuyển chỗ. Ăngghen chỉ ra rằng
vận động là mọi sự biến hoá nói chung. Ăngghen còn nêu lên mối liên hệ biện
chứng của các hình thức vận động và sự chuyển hoá giữa các hình thức đó. Mỗi
vật thể đều đồng thời ở trong các hình thức vận động và vận động có nhiều lớp.
Không thể hình dung một hình thức vận động cô lập với các hình thức vận động
khác. Chúng ta đã thấy bất cứ hình thức vận động cao nào cũng bao hàm những
hình thái vận động thấp hơn. Nhưng hình thức vận động thấp hơn ấy là hình
thức vận động phụ không thể nào che lấp hình thức vận động chủ yếu được.
Ăngghen vạch ra rằng thuyết cơ giới của nửa sau thế kỷ XIX là di sản
của khoa học cơ giới và của chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII và vạch ra tính
chất hết sức phản động của “thuyết cơ giới” thế kỷ XIX, vì khoa học tự nhiên
20


thế kỷ XIX đã vượt khỏi phạm vi cũ của thuyết cơ giới và những phát hiện của
nó đã xác nhận quan điểm biện chứng về tự nhiên. Những người theo quan điểm
máy móc ngăn cản khoa học tự nhiên đi vào con đường duy nhất đúng là nhận
định những kết quả của khoa học tự nhiên với quan điểm biện chứng duy vật và
ra sức đẩy khoa học tự nhiên đi lùi lại với thuyết máy móc của thế kỷ XVIII, do
đó gây ra nhiều khó khăn lớn, dẫn khoa học tự nhiên tới những mâu thuẫn không

thể giải quyết được.
Tiếp đó, Ăngghen trình bày quan điểm của mình về những hình thức vận
động cụ thể: “Nếu tôi gọi vật lý học là cơ học của các phân tử, hoá học và vật lý
học của các nguyên tử, và sau đó lại gọi sinh vật học là hoá học của các
anbumin, thì như thế là tôi muốn nói lên bước quá độ của một ngành khoa học
này sang một ngành khoa học khác - do đó nói lên mối liên hệ, tính liên tục cũng
như sự khác nhau và tính gián đoạn giữa hai ngành ấy. Đi xa hơn nữa mà cũng
gọi hoá học là một loại cơ học, thì tôi cho là không thể chấp nhận được. Cơ học
- dù theo nghĩa rộng hay theo nghĩa hẹp - chỉ biết có số lượng, chỉ sử dụng
những tốc độ và những khối lượng, nhiều lắm là những thể tích. Ở chỗ nào trên
đường đi của nó mà nó gặp chất lượng của các vật thể, tỉ dụ như trong thuỷ tĩnh
học và khí tĩnh học, thì nó không thể không nghiên cứu những trạng thái phân tử
và những vận động phân tử: bản thân nó, ở đây, chẳng qua chỉ là một khoa học
phù trợ, một tiền đề của vật lý học mà thôi”.
Như vật lý học hiện đại đã xác nhận sự vận động của các hạt nhỏ của vật
chất (điện tử, prôtôn, v.v.) không theo quy luật của cơ học cũ, là môn khoa học
không thừa nhận các chất khác nhau mà theo quy luật cơ học lượng tử, là môn
khoa học có chú ý đến và phản ánh đặc điểm riêng về chất của các hiện tượng
thế giới vi mô. Nhưng điều đó tuyệt nhiên không làm giảm ý nghĩa quan trọng
của sự phê phán của Ăngghen đối với “thuyết máy móc”, với quan niệm sai lầm
quy các hình thức vận động cao thành những hình thức vận động thấp. Cơ học
lượng tử có đặc điểm khác với cơ học thông thường về các vật thể lớn, nhưng
như vậy không có nghĩa là cơ học lượng tử ra đời thì hoá học và sinh vật học
21


mất đặc điểm riêng về chất và cũng đều quy thành cơ học lượng tử cả, hoàn toàn
không phải như vậy.
Trong Biện chứng của tự nhiên, Ăngghen đặc biệt nhấn mạnh đặc điểm
về chất của các hình thức vận động của vật chất: “Chắc hẳn là một ngày kia qua

con đường thực nghiệm, chúng ta “sẽ quy” được tư duy thành những vận động
phân tử và hoá học ở trong óc; nhưng điều đó liệu có bao quát được hết bản chất
của tư duy chăng?”.
Ăngghen vạch ra chủ nghĩa máy móc đưa tới chỗ toán học hoá các khái
niệm khoa học tự nhiên, quy bản chất vật chất của các vật thành những quan hệ
thuần tuý về số do đó xét cho cùng là đưa tới chủ nghĩa Pitago, tới chủ nghĩa
duy tâm toán học. Theo Ăngghen, thì quan niệm toán học phiến diện cho rằng
vật chất chỉ được quy định về số lượng, còn về chất thì xưa nay bao giờ cũng
giống nhau, “là một bước lùi về với Pitago là người đã quan niệm rằng số, tính
quy định về mặt số lượng, là bản chất của sự vật”.
5.3. Phê phán chủ nghĩa Đácuyn xã hội:
Đây là tiết cuối cùng của cuốn sách, Ăngghen định phê phán tính chất
phản động của chủ nghĩa Đácuyn xã hội tấn công vào chủ nghĩa Mác; đồng thời,
làm rõ những vấn đề xã hội và về chủ nghĩa xã hội. Nhưng Ăngghen chưa kịp
viết những nội dung trên đây theo như dự kiến trong “Sơ thảo đề cương”. Tuy
vậy, Ăngghen đã viết phần sau của tiết này mà trong “Sơ thảo đề cương” gọi là
“Lao động phân hoá con người”. Ăngghen bàn đến một vấn đề hết sức quan
trọng, đó là “nguồn gốc của con người”. Để có thể trình bày một cách hoàn
chỉnh bức tranh biện chứng về giới tự nhiên thì trên cơ sở nghiên cứu phép biện
chứng của các hình thức vận động của vật chất thì việc trình bày một cách khoa
học vấn đề sự hình thành loài người là một điều hết sức cần thiết. Ăngghen đã
làm việc đó. Phần này được gọi là “Tác dụng của lao động trong quá trình
chuyển biến từ vượn thành người”.

22


“Lao động sáng tạo ra con người”, đó là cách diễn đạt vắn tắt lý luận
Ăngghen về nguồn gốc loài người. Ăngghen đã chứng minh phù hợp với tài liệu
khoa học tự nhiên rằng tổ tiên loài người là giống vượn người phát triển cao,

trong những điều kiện sinh sống nhất định đã phát triển thành con người hiện
đại.
Bước chuyển quan trọng từ vượn thành người là việc người đi theo tư
thế thẳng đứng, hai chi trước được giải phóng tự do hơn hai chi sau để làm
những chức năng khác. Nhưng đặc biệt chú ý điều này, bước nhảy vọt có tính
quyết định trong việc từ vượn thành người là con người biết làm công cụ, chứ
không nên chỉ thấy rằng vượn đi hai chân mà cho đó là một đặc điểm chuyển
thành người. Thật ra con vượn khi nào cũng có thể đi hai chân được và nếu
chúng ta dậy cho nó thì nó cũng đứng thẳng được. Nhưng không có một động
vật nào có thể tự nó làm ra công cụ. Bàn tay không những là khí quan của lao
động, mà còn là sản phẩm của lao động nữa. Lao động là điều kiện chủ yếu tách
con người ra khỏi giới động vật về mặt sinh lý. Nếu như ngày nay con người có
một hình dạng khác hẳn với loài vật thì cũng là do lao động, đó là một mặt của
quá trình; Mặt khác là sự tổ chức của con người về xã hội, về mặt này vai trò
chủ yếu cũng là ở lao động. Trong quá trình lao động nảy ra nhu cầu phải có
tiếng nói, có âm tiết, do đó hình thành ngôn ngữ. Trước hết là lao động; sau lao
động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã
ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển
thành bộ óc của con người. Tuy hai bộ óc có rất nhiều chỗ giống nhau nhưng bộ
óc con người to hơn và hoàn thiện hơn bộ óc loài vượn rất nhiều. Nhưng khi bộ
óc phát triển, thì các công cụ trực tiếp của bộ óc, tức là các giác quan, cũng song
song phát triển theo.
Tiếp đó, Ăngghen chỉ ra trong quá trình phát triển công cụ lao động, con
người ngày càng mở rộng sự chế ngự thiên nhiên. Những công cụ đầu tiên là
công cụ săn bắt và bắt cá, có săn bắt và bắt cá cho phép con người dùng cá và
thịt làm thức ăn, đó là một bước quan trọng trong quá trình hình thành con người
23


và phát triển trí tuệ của con người. Một bước quan trọng trong việc con người

chinh phục thiên nhiên, và cũng là bước tách con người ra khỏi giới động vật, là
việc con người biết dùng lửa và chăn nuôi súc vật. Việc dùng lửa còn rút ngắn
quá trình tiêu hoá lại hơn nữa, việc nuôi súc vật đã làm cho thức ăn bằng thịt dồi
dào hơn nữa, và ngoài ra, nó còn cung cấp một loại thức ăn mới, đó là sữa và các
chế phẩm bằng sữa. Như vậy, hai bước tiến đó đã trực tiếp trở thành những
phương tiện mới để giải phóng con người . Khi con người càng chinh phục được
thiên nhiên thì càng mở rộng khu vực đất đai cư trú và bắt đầu cư trú ở những
vùng có phân biệt mùa nóng và mùa rét, do đó có thêm nhu cầu mới về quần áo
và nhà ở, nảy ra nhiều lĩnh vực lao động mới, nhiều hoạt động làm con người
ngày càng khác xa loài vật.
Sau cùng, Ăngghen vạch ra chính nhờ lao động mà người ta chuyển từ
trạng thái sống bầy đàn của động vật lên tổ chức thành xã hội của con người, và
xã hội loài người càng phát triển thì cách tổ chức ngày càng phức tạp hơn cho
đến khi có tổ chức nhà nước ra đời. Sự phát triển cao nhất của con người là hình
thành bộ óc người biết tư duy, làm cho con người thoát ly hẳn giới động vật và
có vai trò tích cực tác động trở lại với giới tự nhiên.
Ăngghen tiếp tục phân tích về sự ra đời của bộ óc người. Ông nêu lên
trong điều kiện xã hội nhất định có thể có một ý nghĩa tiêu cực, đó là việc lao
động trí óc tách khỏi lao động chân tay cũng đưa tới chỗ đẻ ra chủ nghĩa duy
tâm. Do sự phát triển sức lao động nên phân chưa thành lao động chân tay và lao
động trí óc ở đây, Ăngghen vạch rõ nguồn gốc nhận thức luận của chủ nghĩa duy
tâm. Ông chỉ ra chính việc lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay đã đủ ra
quan niệm sai lạc về vai trò của lao động trí óc.
Trong bài “Tác dụng của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn
thành người”, Ăngghen đã phát triển lý luận cao hơn học thuyết của Đácuyn để
giải thích về nguồn gốc hình thành loài người. Trong cách giải thích của
Ăngghen về vấn đề nguồn gốc loài người thì vấn đề trọng tâm không phải “sự
đào thải tự nhiên” và cũng không phải là “cạnh tranh sinh tồn”, mà là ảnh
24



hưởng quyết định của lao động và của những điều kiện vật chất bên ngoài.
Đácuyn đứng về khoa học tự nhiên để giải quyết nguồn gốc con người và động
vật nói chung. Nhưng Đácuyn giải quyết vấn đề này bằng thuyết “đào thải tự
nhiên” và “cạnh tranh sinh tồn”, tức là cơ thể nào thích hợp với hoàn cảnh, mạnh
hơn thì sống được, mà không thấy được vai trò quyết định của lao động trong
quá trình hình thành con người và quá trình cải tạo tự nhiên.
Khi làm rõ sự khác nhau về tâm lý, nhận thức của con người với loài vật,
Ăngghen chỉ ra một cách rõ ràng sự khác nhau giữa con người và loài vật trong
quan hệ với giới tự nhiên: “Tóm lại, loài vật chỉ lợi dụng giới tự nhiên bên ngoài
và gây ra những biến đổi trong giới tự nhiên, chỉ đơn thuần do sự có mặt của nó
thôi; còn con người thì do đã tạo ra những biến đổi đó, mà bắt giới tự nhiên phải
phục vụ những mục đích của mình, mà thống trị giới tự nhiên. Và chính đó là sự
khác nhau chủ yếu cuối cùng giữa con người và các loài vật khác, và một lần
nữa, chính cũng là nhờ lao động mà con người mới có được sự khác nhau đó”.
Nói cách khác, động vật chỉ thích ứng với tự nhiên, còn con người biến đổi tự
nhiên và bắt tự nhiên phải phục vụ cho ý muốn của mình.
Đồng thời, Ăngghen cũng vạch ra sự hạn chế của quyền lực chế ngự của
con người đối với tự nhiên do sự nhận thức về các quy luật tự nhiên còn ít ỏi và
không dự đoán được hết những kết quả cuối cùng của sự tác động của con người
đối với tự nhiên. Từ đó ông đã cảnh báo chúng ta rằng: “Chúng ta hoàn toàn
không thống trị được giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc
khác, như một người sống bên ngoài giới tự nhiên, mà trái lại, bản thân chúng ta,
với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta, là thuộc về giới tự nhiên, chúng
ta, nằm trong lòng giới tự nhiên, và tất cả sự thống trị của chúng ta đối với giới
tự nhiên là ở chỗ chúng ta, khác với tất cả các sinh vật khác, là chúng ta nhận
thức được quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng được những quy luật đó
một cách chính xác”.
Ăngghen khẳng định, do nhận thức được quy luật của tự nhiên mà con
người có thể dự báo được những hậu quả của sự tác động của con người vào giới

25


×