Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Nghiên cứu ứng dụng mạng xã hội facebook trong việc hỗ trợ đổi mới giảng dạy tại trường đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.36 KB, 30 trang )

Nghiên cứu ứng dụng mạng xã hội Facebook trong việc hỗ
trợ đổi mới giảng dạy tại Trường Đại học

ThS. Nguyễn Thị Tuyết Mai[1]
TS. Nhâm Phong Tuân[2]
TCKTĐN số 68
TÓM TẮT
Các trang web mạng xã hội trực tuyến phát triển mạnh và ảnh hưởng đến cuộc sống của người sử
dụng, đặc biệt là Facebook. Nó đã thâm nhập sâu sắc vào các trường đại học và cũng đã có nhiều
tác dụng trên nhiều khía cạnh của cuộc sống sinh viên. Sinh viên Việt Nam đang sử dụng
Facebook như một phương tiện để giao tiếp và tương tác với những người khác vì những thuận
lợi và phổ biến của nó. Mặt khác, hầu hết sinh viên đang theo học tại trường Đại học Thương
mại có tài khoản Facebook và sử dụng nó trong cuộc sống hàng ngày. Do đó, nghiên cứu này
điều tra ảnh hưởng của việc tham gia mạng xã hội trực tuyến cá nhân (trên Facebook) từ quan
điểm sinh viên trường Đại học Thương mại Hà Nội. Dựa trên lý thuyết học tập xã hội, nghiên
cứu này cho rằng việc tham gia Facebook của sinh viên Trường Đại học Thương mại có tác động
tích cực trên kết quả học tập của họ. Ngoài ra, hai quá trình xã hội hóa được xã hội chấp nhận và
tiếp biến văn hóa có thể nối các trang web mạng xã hội tham gia với ba lĩnh vực kết quả học tập
xã hội. Kết quả phân tích từ cuộc khảo sát cho thấy những tác động trực tiếp của việc tham gia
Facebook của sinh viên Trường Đại học Thương mại đến quá trình học tập xã hội và kết quả của
họ. Do đó, các trang web mạng xã hội trực tuyến (Facebook) không chỉ ảnh hưởng mạnh mẽ kết
quả học tập sinh viên Trường Đại học Thương mại, mà còn giúp họ thích nghi với văn hóa đại
học và đạt được mối quan hệ chặt chẽ với bạn bè đại học của họ, cả hai đều đóng vai trò quan
trọng trong việc cải thiện kết quả học tập của mình tại trường Đại học Thương mại. Bên cạnh đó,
nghiên cứu này cho thấy một số hoạt động có thể giúp cả giảng viên Trường Đại học Thương
mại và sinh viên sử dụng Facebook như một công cụ học tập hiệu quả.
TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Gần đây, chủ đề về tác động của Internet, nhất là mạng xã hội đối với giáo dục đã trở thành chủ
đề được nhiều người nhắc đến.Từ khía cạnh giáo dục, mạng xã hội có thể hỗ trợ tích cực sinh
viên trong việc học tập, đặc biệt là sinh viên đại học.Thậm chí, mạng xã hội còn tạo ra môi
trường tốt cho sinh viên mở rộng kiến thức nhờ vào những tiến bộ của công nghệ.Đã có nhiều


nghiên cứu về mạng xã hội và sự tương tác trong môi trường ảo.Một số nghiên cứu đi sâu vào
tác động của mạng xã hội và mức độ ứng dụng của sinh viên. Mặc dù các nghiên cứu này đề cập
về tiện ích của mạng xã hội và mức độ ảnh hưởng của việc sử dụng Facebook đến kết quả học
tạp của sinh viên nhưng chưa đi trực tiếp là làm thế nào để các giáo viên có thể ứng dụng các
mạng xã hội trong việc hỗ trợ hoạt động giảng dạy của mình. Hơn nữa, các nghiên cứu ở Việt
Nam về mạng xã hội và khả năng ứng dụng của nó vào hoạt động giảng dạy còn hạn chế, chưa
được đi sâu khai thác. Vì vậy, nghiên cứu về mạng xã hội và ứng dụng mạng xã hội Facebook
trong việc hỗ trợ giảng dạy là đề tài cấp thiết vì đề tài sẽ chỉ ra các ý tưởng cho những người làm
giáo dục giải pháp để nâng cao hiệu quả giảng dạy dựa vào việc khai thác các tiện ích của mạng
xã hội, cụ thể là Facebook.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MẠNG XÃ HỘI


Mạng xã hội (social network) là dịch vụ nối kết các thành viên cùng nền tảng sở thích trên
Internet lại với nhau với nhiều mục đích khác nhau không phân biệt không gian và thời gian
(Weinberg, 2009, p.149)
Mạng xã hội là mạng được tạo ra để tự thân nó lan rộng trong cộng đồng thông qua các tương tác
của các thành viên trong chính cộng đồng đó. Mọi thành viên trong mạng xã hội cùng kết nối và
mỗi người là một mắt xích để tạo nên một mạng lưới rộng lớn truyền tải thông tin trong đó.
Về cơ bản, mạng xã hội giống như một trang web mở với nhiều ứng dụng khác nhau. Mạng xã
hội khác với trang web thông thường ở cách truyền tải thông tin và tích hợp ứng dụng. Trang
web thông thường cũng giống như truyền hình, cung cấp càng nhiều thông tin, thông tin càng
hấp dẫn càng tốt còn mạng xã hội tạo ra các ứng dụng mở, các công cụ tương tác để mọi người
tự tương tác và tạo ra dòng tin rồi cùng lan truyền dòng tin đó.
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều mạng xã hội ảo. Các mạng xã hổi ảo lớn tiêu biểu được tổng
hợp trong Bảng 1 sau:
Bảng 1: Những mạng xã hội ảo lớn trên thế giới

Tên


Miêu tả

Số thành viên

Windows Live
Spaces

Blog

120 000 000

Facebook

Tỉ lệ truy cập cao nhất ở Canada và ở Anh, nhiều
nhân vật nổi tiếng

750 000 000 (tài khoản
hoạt động)

Friendster

Rất phổ biến ở Philippines, Malaysia, Indonesia và
Singapore

115 000 000

hi5

Audience variée (Amérique centrale, Mongolie,

Roumanie,...)

80 000 000

Tagged

Tagged.com

70 000 000

Flixster

Thiết kế dành cho những người yêu phim ảnh

69 000 000

Classmates

Giúp mọi người tìm lại được những người bạn học


40 000 000

Bebo Bebo

Được sử dụng rộng rãi nhất ở Ireland

40 000 000



Tên

Miêu tả

Số thành viên

Orkut

Rất phổ biến ở Brasil và Ấn Độ

37 000 000

Netlog

Rất phổ biến tại Bỉ

35 000 000

Twitter

Mạng nhắn tin nhanh, blog nhỏ

100 triệu

(Theo wikipedia cập nhật tháng 5/2012)
Vai trò nổi bật nhất của các mạng xã hội phiên bản mới nhất là:
- Giúp kết nối,giao lưu, trao đổi “communication” giữa các thành viên dễ dàng. Giao lưu, giao
tiếp là vai trò cơ bản, truyền thống của các mạng xã hội: Tương lai việc giao tiếp sẽ ngày càng dễ
dàng hơn không chỉ giới hạn bằng những văn bản, biểu tượng hay hình ảnh… Mạng xã hội có
vai trò kết nối không phải kiểu kết nối của máy tính “dùng dây cáp nối thiết bị định tuyến với

thiết bị chuyển mạch” mà là kết nối kiểu của thế kỷ XX “gặp gỡ mọi ngời để kết thêm bạn và
hiểu họ hơn”. Về bản chất, mạng xã hội là những công cụ đặc biệt giúp gặp gỡ mọi người và duy
trì mối quan hệ dễ dàng hơn, không phải đi lại nhiều như kiểu kết nối truyền thống.Mặc dù rất
hữu ích nhưng mạng xã hội vẫn đòi hỏi các bước tiếp cận cơ bản như thể hiện sự thân thiện và
chủ động gặp gỡ mọi người. Mạng xã hội giúp quá trình này diễn ra thuận lợi hơn bằng cách
tăng cường khả năng gặp gỡ ngời mới, tìm hiểu những sở thích chung và giữ liên lạc.
- Công cụ giải trí: Với nhiều các tính năng như nghe nhạc, chơi game, chia sẻ hình ảnh…, mạng
xã hội đã trở thành công cụ giải trí thu hút nhiều người sử dụng.
- Tích hợp, và hỗ trợ phát triển thương mại điện tử (xu hướng tích hợp thương mại điện tử vào
các mạng xã hội cũng là tất yêu, và ngày càng nở rộ). Thương mại điện tử ngày càng phát triển
và điều tất yếu là sự hợp tác giữa những doanh nghiệp thương mại điện tử với mạng xã hội để
tiếp cận dễ dàng một lượng khách hàng khổng lồ và ổn định.
- Tích hợp quảng bá thương hiệu, sản phẩm, công cụ PR (public relationship) hữu hiệu của
doanh nghiệp trong thời đại Internet: Việc rao vặt, quảng cáo trên internet không còn là điều mới.
Các trang rao vặt mọc lên như nấm sau mưa, và xu hướng dịch chuyển 1 thị phần không nhỏ từ
các chuyên trang rao vặt, mua bán sang mạng xã hội đang xảy ra mạnh mẽ.
- Một số quốc gia sử dụng mạng xã hội như công cụ chính trị, kinh tế: Đây cũng là lý do đa số
các quốc gia có sự cân nhắc và thận trọng trong việc mở cửa hoàn toàn với các mạng xã hội có
nguồn gốc nước ngoài. Một phần do các mạng xã hội đa quốc gia thường có trụ sở ở nước ngoài
nên việc quản lý có nhiều khó khăn. Tiếp nữa, do đặc thù lĩnh vực mạng xã hội là công cụ truyền
thông rất mạnh đối với công chúng nên nếu ai đó sử dụng nó với mục đích không đúng sẽ có thể
đem lại hậu quả khó lường.Trong tương lai gần nhiều nhà chuyên môn đánh giá vai trò của
internet sẽ ngang bằng với truyền hình TV.
- Công cụ quảng bá văn hóa (của quốc gia, tổ chức, doanh nghiệp): Hầu hết những quốc gia đang
phát triển đều cố gắng xây dựng cho mình một mạng xã hội với đặc thù riêng của quốc gia mình.
Một phần nguyên nhân là lý do kể trên. Một phần là dùng nó để làm công cụ giao lưu văn hóa,
quảng bá văn hóa.Sẽ có thể dễ dàng thấy Mạng Cyworld Hàn quốc bước chân vào Việt Nam với


mục đích giúp sức cho các doanh nghiệp Hàn Quốc. Văn hóa nhiều quốc gia trở nên gần gũi nhờ

mạng xã hội, điều này cũng mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng nhiều thách thức.

FACEBOOK
Facebook mở đầu là một phiên bản Hot or Not của Đại học Harvard với tên gọi Facemash.Mark
Zuckerberg, khi đang học năm thứ hai tại Harvard, đã dựng nên Facemash vào ngày 28 tháng 10
năm 2003. Zuckerberg đang viết blog về một cô gái và cố gắng nghĩ ra một thứ gì đó để bớt nghĩ
về cô ấy.
Theo tờ Harvard Crimson, Facemash "đã dùng những bức ảnh lấy từ cuốn lưu bút trực tuyến của
chín Nhà, đặt hai cái kế bên nhau và yêu cầu người dùng chọn ai là người là "hot" nhất".Trang
này nhanh chóng được chuyển đến vài máy chủ danh sách của nhóm campus nhưng bị những
người quản lý Harvard tắt vài ngày sau đó. Zuckerberg bị ban quản lý phạt vì vi phạm an ninh,
xâm phạm bản quyền và xâm phạm quyền tự do cá nhân và phải đối mặt với việc đuổi học,
nhưng sau đó đã được hủy bỏ các cáo buộc. Học kỳ tiếp theo, Zuckerberg thành lập "The
Facebook", ban đầu đặt tại thefacebook.com, vào ngày 4 tháng 2 năm 2004.
Việc đăng ký thành viên ban đầu giới hạn trong những sinh viên của Đại học Harvard, và trong
vòng một tháng đầu tiên, hơn một nửa số sinh viên đại học tại Harvard đã đăng ký dịch vụ này.
Eduardo Saverin (lĩnh vực kinh doanh), Dustin Moskovitz (lập trình viên), Andrew McCollum
(nghệ sĩ đồ họa), và Chris Hughes nhanh chóng tham gia cùng với Zuckerberg để giúp quảng bá
website.Vào tháng 3 năm 2004, Facebook mở rộng sang Stanford, Columbia, và Yale. Việc mở
rộng tiếp tục khi nó mở cửa cho tất cả các trường thuộc Ivy League và khu vực Boston, rồi
nhanh chóng đến hầu hết đại học ở Canada và Hoa Kỳ. Vào tháng 6 năm 2004, Facebook chuyển
cơ sở điều hành đến Palo Alto, California. Công ty đã bỏ chữ The ra khỏi tên sau khi mua được
tên miền facebook.com vào năm 2005 với giá 200.000 USD.
Lượng người truy cập Facebook tăng ổn định từ 2009. Trong ngày 13 tháng 3 năm 2010 số
người truy cập Facebook đã vượt qua lượng người truy cập vào Google.
Facebook vào Việt Nam năm 2008 và sự gia tăng lượng người sử dụng Việt Nam nhanh hàng
đầu của thế giới. Ví dụ, có 1,8 triệu người Việt Nam sử dụng Facebook trong năm 2009, sau đó
con số này đã được nâng lên 2,9 triệu vào năm 2010, vì vậy, số người sử dụng đã tăng gần 2 lần.
Đặc biệt, có nhiều sinh viên sử dụng Facebook và dường như nghiện Facebook. Họ sử dụng
Facebook để kết bạn, chia sẻ cảm giác của họ , ý tưởng, trò chơi hình ảnh, video , âm nhạc, và

chơi như " Barn Buddy ", " Mafia Wars ", " Happy Farm ", v.v...
Facebook nhanh chóng được đón nhận bởi giới sinh viên, nhóm độ tuổi có tần suất hòa nhập xã
hội nhiều nhất, do đó Facebook phát triển rộng khắp, thu hút toàn bộ sinh viên các trường đại
học và sau này là cả học sinh trung học. Khi tham gia Facebook, người dùng có thể kết nối hoàn
toàn miễn phí với bạn bè trên thế giới. Facebook cho phép truy cập trang các nhân của bạn bè và
cả bạn bè của họ. Facebook cũng cho phép người dùng có thể tham gia các nhóm hoặc mạng
lưới. Mạng lưới thường do các thành phố, trường học, công ty hoặc tổ chức lập ra. Các nhóm
thường do một hoặc nhiều cá nhân hoặc công ty bảo trợ để thu hút cá thành viên có cùng mối
quan tâm. Các nhóm được phếp lập bàn thảo luận, chia sẽ ảnh, đăng tải video và cả quảnh lý
danh sách email. Trong mọi trường hợp, mục đích chính vẫn là gặp gỡ và giữ liên lạc với bạn bè
trên khắp thế giới bằng các công cụ trên Facebook.
Các đặc điểm chính của Facebook bao gồm một trang cá nhân giống MySpace, LinkedIn và hầu
hết các mạng xã hội khác.Điểm khác biệt lớn nhất của Facebook là người khác không thể xem
thông tin chi tiết trên trang cá nhân của người dùng cho đến khi người dùng chấp nhận họ làm
bạn và đồng ý chia sẻ thông tin. Điều này giúp hạn chế việc phải liên kết bạn bè với những người


có ít quan hệ, ngược lại với MySpace có xu hướng thu thập càng nhiều bạn bè càng tốt, bất kể đó
là ai.
Các hoạt động trên Facebook bao gồm cập nhật tiểu sử, chia sẻ cập nhật về hoạt động thường
nhật thông qua “trạng thái” (status) mà bạn bè của người dùng có thể nhìn thấy, ghé thăm trang
cá nhân của bạn bè để viết thông điệp trên “tường” (wall) cũng như tham gia các bàn thỏa luận
do các nhóm hoặc các mạng lưới khác lập ra.
Một thành công tiên phong khác mà Facebook đạt được là cho phép kỹ sư phát triển phần mềm
có thể tạo ra các ứng dụng nhỏ (“apps”) để tạo ra các ứng dụng hỗ trợ hoặc giúp người dùng có
thể chơi game, gửi quà tặng hoặc tham gia các hoạt động giải trí nhỏ khác trên mạng lưới.
Facebook đã thay đổi cuộc sống con người, ít nhất là trong cách mọi người giao tiếp. Cùng với
sự lây lan của các mạng xã hội, các mối quan hệ đã trở nên gần gũi hơn và rộng hơn so với trong
quá khứ, và các trang web xã hội đã trở thành một phần không thể tách rời của cuộc sống với tác
động tích cực và tiêu cực của nó. Một số chuyên gia tin rằng với sự giúp đỡ của các trang web,

các mối quan hệ đã bước vào một giai đoạn mới và mọi người có thể nhận biết nhau tốt hơn và
nhanh hơn.Mặt khác, Facebook đã tạo ra nhiều vấn đề, đặc biệt là đối với học sinh. Do đó, nếu
chúng ta có thể biết Facebook ảnh hưởng đến học tập của học sinh như thế nào, sau đó chúng ta
có thể tận dụng Facebook như một công cụ học tập hiệu quả.
MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

Mô hình hòa nhập học thuật – xã hội
Tintotrình bàylý thuyếthòa nhậpsinh viên, giúp giải thích cáckết quả học tậpcủasinh viên đến
từcả hòa nhậphọc tập vàhòa nhập xã hội.Hình 1dưới đâycung cấp mộtcái nhìn tổng quancủa hòa
nhậphọc thuật - xã hộihọc tập:
Nguồn: Tinto (1987)

Hình 1: Mô hình hòa nhập học thuật – xã hội
Hình 1 cho thấy rằng hội nhập xã hội và hội nhập học thuật không phải là độc lập mà can thiệp
lẫn nhau. Can thiệp này tạo ra hội nhập hoc thuât - xã hội và nhờ đó tăng cường lẫn nhau để giúp
sinh viên nâng cao kết quả học tập của họ. Tinto cho rằng sinh viên có nhiều khả năng tiếp tục
theo học một tổ chức nếu họ kết nối với đời sống xã hội và học tập của tổ chức đó. Sinh viên trở


nên hòa nhập vào một trường đại học bằng cách phát triển các kết nối với các cá nhân, tham gia
các câu lạc bộ hoặc tham gia vào các hoạt động học tập.Tinto cũng lưu ý rằng sinh viên phải hòa
nhập ngang nhau về mặt học thuật cũng như xã hội.
Mặc dù mô hinhg hòa nhập học thuật – xã hộicủa Tinto đã khai thác học tập mạng lưới xã hội
giữa các sinh viên đại học, tuy nhiên có rất ít bằng chứng về tác động của môi trường ảo (mạng
xã hội trực tuyến thông qua Facebook nói riêng) trên quá trình học tập của sinh viên và kết quả
học tập. Vì vậycần thiết để xây dựng một mô hình hoàn thiện chỗ thiếu cho mô hình của Tinto.

Mô hình nghiên cứu
Trên cơ sở mô hìnhhòa nhập học thuật – xã hội của Tinto và về bản chất đan xen của các hệ
thống học thuật và xã hội, Beekhoven lập luận rằng có thể có sự khác biệt giữa hòa nhập học

thuật và hòa nhập xã hội (Beekhoven et al. 2002). Ông tin rằng hai hệ thống được phân biệt và
hơn nữa còn tin rằng hệ thống xã hội và học thuật có khả năng được hòa nhập (được hiểu là hòa
nhập học thuật – xã hội) khi cơ sở giáo dục thực hiện các hoạt động hòa nhập. Do đó, Angela
Yan Yu (2010) và các cộng sự đề xuất một mô hình cho biết mối quan hệ giữa môi trường học
tập, quá trình hòa nhập và kết quả học tập như Hình2 bên dưới.

Nguồn: Angela Yan Yu (2010)
Hình 2: Quá trình học tập
Theo lý thuyết học tập xã hội của Bandura (1977), tự định hướng chức năng tham gia tích cực
của các cá nhân như một động lực ban đầu để đạt được kết quả học tập mong muốn. Trong các
trang web mạng xã hội trực tuyến, cá nhân được trang bị để thể hiện bản thân, thiết lập các mối
quan hệ khác nhauvà tương tác với người khác ở bất kỳ khoảng cách thời gian và không gian, tự
biểu cảm của họ và nhu cầu thông tin. Để kích hoạt học tập như vậy và thực hiện những nhu cầu,
tham gia mạng xã hội trực tuyến là cần thiết.Cá nhân cần phải dành thời gian của họ và năng
lượng tâm lý của họ vào các trang web.Ví dụ, cá nhân có thể thể hiện mình trong một hồ sơ có
thể xem trực tuyến.Ngoài ra, họ có thể thiết lập và duy trì mối quan hệ rộng rãi với các đồng
nghiệp và lựa chọn phát triển tương tác hơn nữa. Hơn nữa, họ có thể tìm hiểu thêm về môi
trường đại học bằng cách tham gia một mạng lưới các trường đại học và do đó việc tìm kiếm các
thông tin mà tiết lộ cuộc sống thực trong các trường đại học. Tất cả những hoạt động cần sự tham
gia của các cá nhân. Do đó, tham gia mạng xã hội trực tuyến có thể đại diện cho môi trường học
tập.
.
Thứ hai, để đạt được kết quả học tập, cá nhân cần tham gia vào quá trình hòa nhập đó giúp các
cá nhân chuyển đổi môi trường học tập đến kết quả học tập. Theo Bandura (1977), các cá nhân
tương tác với bạn bè và môi trường và các hoạt động đó được xem là cam kết học tập ban đầu
của họ để đạt kết quả học tập mong muốn. Những tương tác này đã được mô tả như là sự chấp
nhận xã hội và tiếp biến văn hóa trong các tài liệu xã hội (Bauer, Bodner, Erdogan, Truxillo, &
Tucker, 2007; Morrison, 1997, 2002). Do đó, để đưa ra các đề xuất tác động trực tiếp của việc



tham gia mạng xã hội trực tuyến trên kết quả học tập thì nhân tố chấp nhận xã hội và tiếp biến
văn hóa được xem như là quá trình xã hội hóa quan trọng có thể chuyển đổi hành vi mạng xã hội
trực tuyến cá nhân vào kết quả học tập.
Dựa trên những lập luận ở trên, Angela Yan Yu đề xuất một mô hình nhưHình 3 sau đây để giải
thích trực tiếp như thế nào mạng xã hội trực tuyến cá nhân như trên Facebook ảnh hưởng đến kết
quả học tập xã hội của họ. Do đó, mô hình này sẽ được sử dụng trong nghiên cứu này để điều tra
tác động trực tiếp của Facebook đến kết quả học tập của sinh viên Trường Đại học Thương
mạikhi xem xét tác động của môi trường học tập ảo (các trang web mạng xã hội trực tuyến cụ thể
là Facebook) đến kết quả học tập xã hội của sinh viên.

Nguồn: Angela Yan Yu (2010)
Hình 3: Mô hình nghiên cứu
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đểthực hiện nghiên cứu này"Nghiên cứu về mạng xã hội và ứng dụng mạng xã hội Facebook
trong việc hỗ trợ hoạt động giảng dạy", cả haiphương pháp nghiên cứu định tínhvàphương
phápnghiên cứu định lượngsẽ được áp dụng:
•Phương pháp định tính: thu thập vàphân tíchnguồn gốc,lý thuyết vàmột số sự kiệntừ các nghiên
cứutrước đây, sách và các nguồn tài nguyêntrực tuyến khác, sau đóthiết lậpcác giả thuyếtdựa trên
cơ sởlý thuyết.
•Phương pháp định lượng: sử dụngbảng câu hỏicủa Angela Yan Yu (2010) để tiến hành khảo sát
trực tuyếnsinh viên Trường Đại học Thương mại.Sau đó, tất cả các dữ liệu đã đượcphân tích
bằngphần mềm thống kênhư Microsoft ExcelvàSPPS18để đánh giácác giả thuyết.
Theokhuôn khổ phạm vi và mục đíchcủanghiên cứu này,có 5giả thuyếtmàminh họamối quan hệ
giữatất cả cácthành phần chính. Chi tiếtnhư trong bảng sau:
Bảng 2: Các giả thuyết của nghiên cứu


Mối quan hệ

Giả thuyết


Nội dung

Giả thuyết 1a

Mạng lưới xã hội trực tuyến (Facebook) của sinh viên
Trường Đại học Thương mại tác động tích cực đến sự
phát triển sự tự trọng của sinh viên

Giả thuyết 1b

Mạng lưới xã hội trực tuyến (Facebook) của sinh viên
Trường Đại học Thương mại tác động tích cực đến sự
thỏa mãn đối với cuộc sống sinh viên

Giả thuyết 1c

Mạng lưới xã hội trực tuyến (Facebook) của sinh viên
Trường Đại học Thương mại tác động tích cực đến kết
quả học tập của sinh viên

Môi trường
mạng lưới xã
hội trực tuyến
và sự chấp nhận
xã hội

Giả thuyết 2

Mạng lưới xã hội trực tuyến (Facebook) của sinh viên

Trường Đại học Thương mại tác động tích cực đếnsự
chấp nhận xã hội của sinh viên

Môi trường
mạng lưới xã
hội trực tuyến
và tiếp biến văn
hóa

Giả thuyết 3

Mạng lưới xã hội trực tuyến (Facebook) của sinh viên
Trường Đại học Thương mại tác động tích cực đếnsự
tiếp biến văn hóa của sinh viên

Giả thuyết 4a

Sự chấp nhận xã hội của sinh viên Trường Đại học
Thương mại tác động tích cực đến sự phát triển sự tự
trọng của sinh viên

Sự chấp nhận xã Giả thuyết 4b
hội và học tập
xã hội

Sự chấp nhận xã hội của sinh viên Trường Đại học
Thương mại tác động tích cực đếnsự thỏa mãn đối với
cuộc sống sinh viên

Giả thuyết 4c


Sự chấp nhận xã hội của sinh viên Trường Đại học
Thương mại tác động tích cực đếnkết quả học tập của
sinh viên

Giả thuyết 5a

Sự tiếp biến văn hóa của sinh viên Trường Đại học
Thương mại tác động tích cực đến sự phát triển sự tự
trọng của sinh viên

Môi trường
mạng lưới xã
hội trực tuyến
và học tập xã
hội

Sự tiếp biến văn
hóa và học tập
xã hội


Mối quan hệ

Giả thuyết

Nội dung

Giả thuyết 5b


Sự tiếp biến văn hóa của sinh viên Trường Đại học
Thương mại tác động tích cực đến sự thỏa mãn đối với
cuộc sống sinh viên

Giả thuyết 5c

Sự tiếp biến văn hóa của sinh viên Trường Đại học
Thương mại tác động tích cực đến kết quả học tập của
sinh viên

Để kiểm tranhững giả thuyết trên,phân tích hồi quy sẽ được tiến hành để kiểm tra xem biến là
mối quan hệ tích cực hay không.Hơn nữa, các hồi quy sẽ căn cứ vào các nhân tố theo Bảng 2
trong thang điểm từ 1 đến 5.
Bảng 3: Danh sách các biến số
Nhân tố

Tham gia
Facebook

Sự chấp nhận
xã hội

Biến số

Nội dung

FBE1

Facebook là một phần trong hoạt động hàng ngày của tôi


FBE2

Tôi tự hào khi nói với mọi người rằng mình tham gia
Facebook

FBE3

Facebook đã trở thành thói quen hàng ngày của tôi

FBE4

Tôi cảm thấy như bị mất liên lạc nếu tôi không đăng nhập vào
Facebook trong một thời gian

FBE5

Tôi cảm thấy mình là một phần của cồng đồng Facebook

SOAC1

Tình bạn sinh viên mà tôi đã phát triển ở Trường Đại học
Thương mại là niềm tự hào cá nhân

SOAC2

Tôi cảm thấy thoải mái với những bạn bè xung quanh tại
Trường Đại học Thương mại

SOAC3


Các sinh viên trong cùng một tập thể có vẻ chấp nhận tôi như
là một trong số họ


Nhân tố

Tiếp biến văn
hóa

Tự trọng

Thỏa mãn với
cuộc sống
sinh viên

Biến số

Nội dung

SOAC4

Mối quan hệ cá nhân với những sinh viên Thương mại khác đã
có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển nhân cách và hứng thú
với những ý tưởng của tôi

SOAC5

Mối quan hệ cá nhân với những sinh viên Thương mại khác đã
có một ảnh hưởng tích cực đối với sự phát triển cá nhân, giá trị
và thái đô của tôi


ACCU1

Tôi nhận thức được hệ thống giá trị của trường đại học Thương
mại

ACCU2

Tôi cố gắng hết sức để thực hiện mục tiêu “từ sinh viên đến
chuyên gia”, đó cũng là mục tiêu của trường Đại học Thương
mại

ACCU3

Tôi tự thích nghi với văn hóa trường Đại học Thương mại

SELF1

Tôi tự thấy mình có một số phẩm chất tốt

SELF2

Tôi cảm thấy rằng mình là một người có giá trị, chí ít là trình
độ ngang bằng với những người khác

SELF3

Tôi có khả năng làm việc tốt như tất cả mọi người

SELF4


Tôi có thái độ tích cực về bản thân mình

SELF5

Xét một cách tổng thế, tôi hài lòng về bản thân mình

SATI1

Nhìn chung cuộc sống ở trường Đại học Thương mại gần
giống như những gì mà tôi nghĩ

SATI2

Điều kiện sống của tôi ở Đại học Thương mại rất tuyệt vời

SATI3

Cho đến nay tôi đã nhận được những điều quan trọng mà tôi
muốn tại Trường Đại học Thương mại


Nhân tố

Biến số

Nội dung

SATI4


Tôi hài lòng với cuộc sống của tôi ở đại học Thương mại

PERF1

Tôi tự tin về các kỹ năng học tập của mình và khả năng làm
việc

PERF2

Tôi cảm thấy đủ sức tiến hành các bài tập trong chương trình
học của mình

PERF3

Tôi đã học được cách làm thế nào để thực hiện khóa học một
cách hiệu quả

PERF4

Tôi đạt được kết quả học tập đúng như tôi mong đợi

Hiệu quả học
tập

Bên cạnh đó, nghiên cứu này xem xét năm học của sinh viên (từ năm 1 đến năm 4) và giới tính
(nam và nữ) như là các biến kiểm soát bởi vì các nhân vật cá nhân có thể ảnh hưởng đến kết quả
học tập của học sinh.Ví dụ, mức độ kiến thức về cuộc sống và văn hóa của trường đại học là
khác nhau từ sinh viên mới và sinh viên năm cuối.Cách họ tham gia vào các hoạt động trường
đại học cũng khác nhau.Đặc biệt, có sự khác biệt giữa nam và nữ trong nhận thức của họ, đáp
ứng cho từng hoạt động hoặc sự kiện. Tất cả các dữ liệu nhận được trong cuộc khảo sát sẽ được

phân tích trong một quá trình 2 giai đoạn như được mô tả trong hình sau:
• Giai đoạn 1: Đánh giá mô hình đo lường
- Phân tích mô tả để kiểm tra tính hợp lệ của dữ liệu
- Phân tích nhân tố để khám phá nhân tố
• Giai đoạn 2: Đo mô hình
- Phân tích hồi quy để kiểm tramối quan hệgiữa các nhân tốđể đánh giágiả thuyết

PHÂN TÍCH KẾT QUẢ
Thu thập dữ liệu
Sau 3 tháng (từ tháng 9 năm 2013 đến tháng 11 năm 2013) tiến hành một cuộc khảo sát trực
tuyến qua email và Facebook sinh viên Trường Đại học Thương mại,nhóm nghiên cứu đã thu
thập được tổng cộng 1005 phiếu trong đó có 968 phiếu hợp lệ và 37 phiếu không hợp lệ vì người
được hỏi trả lời không đầy đủ hoặc không có tài khoản Facebook. Một số thông tin nói chung sẽ
được tập hợp trong Bảng4 sau:
Bảng 4: Thông tin chung về mẫu điều tra


Tuổi

Nhân tố

Số liệu

Phần trăm

Dưới 18

4

0,4%


Từ 18 đến 23

903

93,3%

Trên 23

61

6,3%

Nam

414

42,8%

Nữ

554

57,2%

Sinh viên năm thứ nhất

25

2,6%


Sinh viên năm thứ hai

120

12,4%

Sinh viên năm thứ ba

163

16,8%

Sinh viên năm thứ tư

660

68,2%

Không hàng ngày

48

5,0%

1 lần/ngày

90

9,3%


2-3 lần/ngày

297

30,7%

4-5 lần/ngày

270

27,9%

6-10 lần/ngày

85

8,8%

Rất nhiều không thể đếm

126

13,0%

Luôn luôn online

52

5,4%


Giới tính

Phân loại sinh viên

Tần suất truy cập
Facebook


Dưới 30 phút/ngày

164

16,9%

Từ 0,5 giờ đến 3 giờ/ngày

524

54,1%

Từ 3 giờ đến 6 giờ/ngày

205

21,2%

Nhiều hơn 6 giờ/ngày

75


7,7%

Thời lượng truy cập

Nguồn: Tác giả
Kết quả khảo sát cũng cho thấy sinh viên Trường Đại học Thương mại sử dụng Facebook không
chỉ để duy trì mối quan hệ và giải trí mà còn cho mục đích học tập. Họ chủ yếu là giao tiếp với
bạn bè của họ thông qua trò chuyện (bao gồm bình luận và tin nhắn) hoặc thông qua chơi trò
chơi tương tác trên Facebook. Cùng với nó, hơn 283 người trả lời nói rằng họ thường xuyên sử
dụng Facebook để thảo luận với bạn bè về bài học, bài tập, công việc hay mục đích học tập khác.
Do đó, các bằng chứng tiềm năng minh họa nghiên cứu sinh viên Trường Đại học Thương mại
có thể bị ảnh hưởng nhiều từ các bạn học như các học thuyết xã hội của Bandura (1977).
Phân tích nhân tố khám phá - EFA
Trong giai đoạn đầu tiên - "Đánh giá mô hình đo lường", tất cả dữ liệu là hợp lệ và đầy đủ để
phân tích nhân tố khám phá (EFA), kể từ khi chỉ số của Cronbach alpha độ tin cậy thống kê là tất
cả trên 0,7 trong khi giá trị KMO đo tính đầy đủ lấy mẫu cũng lớn hơn 0.7 với Sig. là 0,000 (p
<0,01) (Nunnally & Burnstein, 1994). Những con số này khẳng định độ tinh cậy của dữ liệu
chomô hình nghiên cứu.
Kết quả EFA cho các nhân tố ‘tham gia Facebook’, ‘chấp nhận xã hội’ và ‘tiếp biến văn hóa’. Tất
cả các phân tích nhân tố sử dụng phương pháp “Principal components method” với Eigenvalue
lớn hơn 1 và phương pháp“Varimax rotation method” và sau đó chỉ lấy các giá trị tuyệt đối lớn
hơn hoặc bằng 0.50.
Như vậy, sau khi phân tích nhân tố khám phá EFA cho cả 3 nhân tố, kết quả đã giống mô hình
nghiên cứu (Hình 3.4).Cụ thể nhân tố ‘tham gia facebook’ sẽ có 1 biến ‘tham gia Facebook’ với 5
mục là FBE1, FBE2, FBE3, FBE4, FBE5; nhân tố ‘xã hội’ gồm có 2 biến là biến chấp nhận ‘xã
hội’ với 4 mục SOAC1, SOAC2, SOAC3, SOAC4 và biến ‘tiếp biến văn hóa’ với 2 mục
ACCU2, ACCU3; nhân tố ‘kết quả học tập’ bao gồm 3 biến là biến ‘tự trọng’ với 3 mục SELF1,
SELF2, SELF4 và biến ‘thỏa mãn với cuộc sống sinh viên’ với 4 mục SATIS1, SATIS2, SATIS3,
SATIS4 và biến ‘hiệu quả học tập’ với 3 mục PERF1, PERF2, PERF4.

Tham gia Facebook

Xã hội

Kết quả học tập


Nguồn: Tác giả


Hình 4: Các nhân tố và các mục
Như vậy,kết quảEFAkhẳng định rằngmô hình nghiên cứucủaAngelaYan Yu(2010)làthích hợp
đểtiến hành nghiên cứutrongmôi trườngcủaTrường Đại học Thương mại.Tất cả cácthành phần
củamô hình nghiên cứulà không thay đổi, ngoại trừ một chútthay đổitronghạng mụcđoyếu tố
chính. Vì vậy,tất cả cácgiả thuyếtcó giá trịđể được kiểm trabằng hồi quytronggiai đoạn tiếp
theocủa nghiên cứu này.


Phân tích hồi quy

Nguồn: Tác giả
Hình 5: Kết quả phân tích hồi quy
Trong giai đoạn thứ hai - "đo mô hình", phân tích hồi quy với giới hạn quan trọng là 0,05 khẳng
định mối quan hệ giữa các yếu tố như Hình 5. Cụ thể như sau:
Tác động của nhân tố ‘tham gia Facebook’ đến nhân tố ‘xã hội’ như sau:
‘chấp nhận xã hội’ = 1,930 + 0,414‘tham gia Facebook’
‘tiếp biến văn hóa’ = 3,597 + 0,128‘tham gia Facebook’
Tác động của nhân tố ‘xã hội’ đến ‘kết quả học tập’ của sinh viên Trường Thương mại như sau:
Tự trọng = 1,517 + 0.222‘tham gia Facebook’ +0,329‘chấp nhận xã hội’ + 0,114‘tiếp biến văn
hóa’

‘thỏa mãn với cuộc sống sinh viên’ = 2,040 + 0,206‘tham gia Facebook’ + 0,332‘tiếp biến văn
hóa’
‘hiệu quả học tập’ = 1,175+ 0,089‘tham gia Facebook’ + 0,146‘tiếp biến văn hóa’
Kết quả chưa chứng minh được mối liên hệ giữa ‘chấp nhận xã hội’ với ‘sự thoả mãn cuộc sống
sinh viên’ và ‘hiệu quả học tập’, vì vậy giả thuyết 4b và 4c chưa được chứng minh. Vì nó cho
thấy, không có mối quan hệ giữa Facebook và tham gia Tiếp biến văn hóa , tự trọng và chấp nhận
xã hội và trình độ Hiệu suất & Tiếp biến văn hóa vì nó bác bỏ giả thuyết 3, giả thuyết 4a, và giả
thuyết 5c. Tóm lại kết luận về sự chứng minh các giả thuyết được trình bày trong Bảng 5 như
sau:
Bảng 5: Kết quả các giả thuyết


Giả thuyết

Nội dung

Kết quả

Giả thuyết 1a

Mạng lưới xã hội trực tuyến (Facebook) của sinh viên Trường
Đại học Thương mại tác động tích cực đến sự phát triển sự tự
trọng của sinh viên

Được chứng
minh

Giả thuyết 1b

Mạng lưới xã hội trực tuyến (Facebook) của sinh viên Trường

Đại học Thương mại tác động tích cực đến sự thỏa mãn đối với
cuộc sống sinh viên

Được chứng
minh

Giả thuyết 1c

Mạng lưới xã hội trực tuyến (Facebook) của sinh viên Trường
Đại học Thương mại tác động tích cực đến kết quả học tập của
sinh viên

Được chứng
minh

Giả thuyết 2

Mạng lưới xã hội trực tuyến (Facebook) của sinh viên Trường
Đại học Thương mại tác động tích cực đếnsự chấp nhận xã hội
của sinh viên

Được chứng
minh

Giả thuyết 3

Mạng lưới xã hội trực tuyến (Facebook) của sinh viên Trường
Đại học Thương mại tác động tích cực đếnsự tiếp biến văn hóa
của sinh viên


Được chứng
minh

Giả thuyết 4a

Sự chấp nhận xã hội của sinh viên Trường Đại học Thương mại
tác động tích cực đến sự phát triển sự tự trọng của sinh viên

Được chứng
minh

Giả thuyết 4b

Sự chấp nhận xã hội của sinh viên Trường Đại học Thương mại
tác động tích cực đếnsự thỏa mãn đối với cuộc sống sinh viên

Không được
chứng minh

Giả thuyết 4c

Sự chấp nhận xã hội của sinh viên Trường Đại học Thương mại
tác động tích cực đếnkết quả học tập của sinh viên

Không được
chứng minh

Giả thuyết 5a

Sự tiếp biến văn hóa của sinh viên Trường Đại học Thương mại

tác động tích cực đến sự phát triển sự tự trọng của sinh viên

Được chứng
minh

Giả thuyết 5b

Sự tiếp biến văn hóa của sinh viên Trường Đại học Thương mại
tác động tích cực đến sự thỏa mãn đối với cuộc sống sinh viên

Được chứng
minh

Giả thuyết 5c

Sự tiếp biến văn hóa của sinh viên Trường Đại học Thương mại
tác động tích cực đến kết quả học tập của sinh viên

Được chứng
minh


MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM KHAI THÁC FACEBOOK
TRONG VIỆC HỖ TRỢ ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG GIẢNG
DẠY
Kết quả của nghiên cứu đưa ra vài gợi ý đối với các nhà nghiên cứu, thực hành giáo dục và
nghiên cứu trong tương lai.
Đối với các nhà nghiên cứu, nghiên cứu này nhận ra rằng mô hình nghiên cứu đó được trình bày
bởi Angela Yan Yu và các đồng nghiệp (2010) về tác động của các trang web mạng xã hội vào
việc học tập của học sinh là thích hợp mạnh mẽ với môi trường trường đại học Việt Nam, đặc

biệt là Đại học Thương mại. Nó là một bằng chứng để khẳng định giá trị hiệu lực của mô hình
nghiên cứu Angela Yan Yu góp phần vào các tài liệu của mạng xã hội và học tập xã hội. Do đó,
điều này có thể hỗ trợ mạnh mẽ cho các nghiên cứu liên quan trong tương lai.
Đối với giảng viên Trường Đại học Thương mại, nghiên cứu đã chứng minh rằng các giảng viên
Trường Đại học Thương mại có thể sử dụng Facebook như một công cụ hỗ trợ hoạt động giảng
dạy vì nó có tác động tích cực đến kết quả học tập của sinh viên.
Thứ nhất, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, kết quả của nghiên cứu này chứng minh rằng mạng
xã hội trực tuyến (Facebook) giúp sinh viên Trường Đại học Thương mại phát triển bản thân
bằng cách tác động tích cực đến nhân tố tự trọng. Nghĩa là qua Facebook sinh viên có thái độ
tích cực về bản thân, tự thấy có giá trị, có phẩm chất tốt và khả năng làm việc như mọi người.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy rằng Facebook giúp sinh viên Trường Đại học Thương mại có
thể thể hiện bản thân mà không có vấn đề "sợ xấu hổ " trong sự tương tác mặt đối mặt. 639 trên
968 người được hỏi thừa nhận rằng mạng xã hội trực tuyến cho phép họ cảm thấy thoải mái hơn
trong việc thể hiện và thảo luận về ý tưởng, và tương tác với các bạn học và các giáo viên. Do
đó, Facebook giúp sinh viên Trường Đại học Thương mại tăng khả năng học hỏi từ xã hội để
thích ứng với giáo dục dựa trên web. Giảng viên có thể khơi gợi các ý kiến, sự sáng tạo của sinh
viên sinh viên bằng cách thu thập các ý kiến đóng góp/nhận định/cách nhìn của sinh viên trên
Facebook về các vấn đề liên quan đến môn học. Từ đó vừa có thể tạo cơ hội cho sinh viên thể
hiện bản thân mình, bày tỏ các ý kiến, sự mong muốn đóng góp để hoàn thiện bản thân đồng thời
giảng viên và sinh viên Trường Đại học Thương mại có thể kết nối và tương tác với nhau tốt hơn
khi các giờ giảng trên lớp bị hạn chế mặt thời gian và không gian.
Thứ hai, những kết quả của nghiên cứu này cho thấy rằng Facebook dẫn đến tăng sự hài lòng với
cuộc sống đại học của sinh viên Trường Đại học Thương mại.Nó có nghĩa là Trường Đại học
Thương mại có thể sử dụng Facebook như một công cụ để kết nối sinh viên và hỗ trợ công tác
giảng dạy cho giáo viên Trường Đại học Thương mại.Qua đó, sinh viên Trường Đại học Thương
mại vô hình có thể thúc đẩy về hình ảnh của Đại học Thương mại.Hơn nữa, các nhà hoạch định
chính sách/giảng viên có thể ban hành chính sách khuyến khích sinh viên Trường Đại học
Thương mại tương tác với các khoa thông qua Facebook để tận dụng cơ hội cũng như lợi ích của
các trang web mạng xã hội(Facebook).
Thứ ba, những kết quả tích cực cung cấp mạnh mẽ bằng chứng cho thấy các giảng viên và sinh

viên Trường Đại học Thương mại có thể tận dụng lợi thế của công nghệ cao và phổ biến của
Facebook để nâng cao chất lượng giảng dạy cũng như hiệu quả học tập của sinh viên. Facebook
không chỉ là phương tiện giúp người dùng mở rộng dung lượng mạng quy mô lớn mà còn cho
phép họ duy trì mối quan hệ chặt chẽ với một nhóm bạn, với bạn bè đại học, với giảng viên. Do
đó, các giảng viên có thể giao các bài tập nhóm để sinh viên có thể học hỏi từ các bạn học của họ
trên cơ sở Facebook để phát triển mạng lưới học tập từ bạn bè của sinh viên Trường Đại học
Thương mại. Ví dụ giảng viên có thể yêu cầu sinh viên làm việc theo nhóm trên Facebook, một
mặt sinh viên có thể thuận tiện trao đổi, bàn luận mọi lúc mọi nơi, mặt khác giảng viên có thể


theo dõi được mức độ tích cực, sáng tạo của các thành viên trong nhóm để đánh giá sinh viên
cuối kỳ, tránh cào bằng, phiến diện.
Kết quả của nghiên cứu này có thể gợi ý cho phù hợp với khoảng cách giữa mục đích kết nối
mạng để giải trí và kết nối mạng cho việc học. Thật vậy, nghiên cứu này thấy rằng mặc dù sinh
viên Trường Đại học Thương mại ban đầu có thể sử dụng Facebook cho vui (trên 50% người
được hỏi chơi trò chơi, chia sẻ các liên kết quan tâm, video, hình ảnh của họ và trò chuyện với
bạn bè của họ, v.v...), nó có thể thúc đẩy việc học của mình thông qua các bạn học và các trường
đại học và do đó có lợi cho phát triển lòng tự trọng của họ, nuôi dưỡng sự hài lòng với cuộc sống
đại học và kết quả học tập của họ. Tuy nhiên, những kết quả tốt không có nghĩa là sinh viên
Trường Đại học Thương mại nên dành quá nhiều thời gian trên Facebook.Là một trong những
vấn đề có hai mặt, Facebook có một số tác động tiêu cực đối với học sinh.Trong quan điểm của
sinh viên Trường Đại học Thương mại, cách sử dụng Facebook cho mục đích học tập sẽ được dễ
dàng bị phân tâm bởi các hoạt động thú vị khác. Đó là lý do tại sao họ có thể cảm thấy khó khăn
để tập trung vào học tập. Vì vậy, để đạt được kết quả mong muốn, sinh viên Trường Đại học
Thương mại nên sử dụng Facebook một cách thích hợp. Sau kết quả khảo sát, sinh viên Trường
Đại học cũng đưa ra một số ý kiến cho cả giảng viên và bản thân họ sử dụng Facebook hiệu quả
vào việc học. Ví dụ, sinh viên Trường Đại học Thương mại nên sử dụng Facebook để trò chuyện
và trao đổi ý kiến để làm việc về một chủ đề chung, để đáp ứng các nhóm cộng tác trực tuyến, để
kết nối với các bạn cùng lớp và chia sẻ ý tưởng, v.v...
Để kết luận, nghiên cứu này cung cấp một cách tiếp cận mới đối với cơ sở giáo dục thừa nhận

ảnh hưởng của bạn bè và nó cũng cung cấp một cơ sở hỗ trợ cho Trường Đại học Thương mại
trong đó các hoạt động mạng xã hội cần phát triển để tăng tương tác giữa các sinh viên. Do đó,
các giảng viên có thể thiết kế một cách thích hợp bài học hoặc thực hành khác trên các trang web
mạng xã hội, (Facebook), ví dụ, thực hành định hướng các trường đại học cho phép sinh viên
mới để tìm hiểu thêm về Đại học Thương mại và thúc đẩy cam kết của họ và đạt được sự hài
lòng với cuộc sống đại học tại trường Đại học Thương mại.

CÁC HẠN CHẾ CỦA NGHIÊN CỨU VÀ ĐỊNH HƯỚNG
NGHIÊN CỨU KHÁC
Nghiên cứu này có một số hạn chế mà có thể mở ra cơ hội cho các nghiên cứu trong tương lai tại
Việt Nam.Trước hết, nghiên cứu này chỉ tập trung vào mối quan hệ giữa các trang web mạng xã
hội trực tuyến và kết quả học tập sinh viên Trường Đại học Thương mại. Vì vậy, nghiên cứu này
không đề cập một cách rõ ràng và chính xác về ảnh hưởng của Facebook đến sinh viên Trường
Đại học Thương mại theo cách nào.
Thứ hai, nghiên cứu này chỉ khai thác trực tiếp tác động của Facebook vào kết quả học tập xã hội
của sinh viên Trường Đại học Thương mại mà không minh họa cho tác động của Facebook vào
việc học tập hàn lâm của họ. Do đó, cần có nghiên cứu trong tương lai có thể kiểm tra mối quan
hệ giữa Facebook và cả hai kết quả học tập xã hội và kết quả học tập hàn lâm.
Thứ ba, nghiên cứu này chỉ sử dụng các quá trình xã hội hóa như vai trò trung gian để kết nối
việc tham gia Facebook đếnkết quả học tập của sinh viên. Trong khi đó, có nhiều yếu tố bao gồm
cả yếu tố hữu hình và vô hình can thiệp liên kết giữa các trang web mạng trực tuyến và kết quả
học tập của sinh viên. Vì vậy, nghiên cứu trong tương lai có thể tiếp tục khám phá và điều tra các
yếu tố can thiệp tiềm năng khác.
Cuối cùng, phạm vi nghiên cứu tập trung vào sinh viên Trường Đại học Thương mại. Do đó, kết
quả nghiên cứu như vậy chỉ có thể kiểm tra giá trị của khuôn khổ Angela Yan Yu về trường hợp
Trường Đại học Thương mại. Kết quả của nghiên cứu này là chỉ lợi ích cho Trường Đại học
Thương mại để cải thiện chất lượng giáo dục tại Trường Đại học Thương mại. Do đó, nó là cần


thiết để mở rộng phạm vi nghiên cứu các trường đại học tại Hà Nội hoặc trên khắp Việt Nam để

kiểm tra mô hình nghiên cứu cũng như các kết quả về tác động của các trang web mạng xã hội
vào việc học tập của sinh viên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alavi, M. (1994). Computer-mediated collaborative learning: an empirical evaluation. MIS
Quarterly, 18(2), 157-174.
2. Astin, A. W. ( 1999). Student involvement: A developmental theory for higher education.
Journal of College Student Development, 40(5).
3. Bandura, A. (1977). Social learning theory: Prentice Hall.
4. Beekhoven, S., Jong, U. D., & Hout, H. V. (2003). Different courses, different students, same
results? An examination of differences in study progress of students in different courses. Higher
Education, 46, 37-59.
5. Haydon, J., Dunay, P., & Kruege, R. (2012). Facebook Marketing For Dummies: Wiley
Publishing.
6. Helliwell, J. F., & Putnam, R. D. (2007). Education and Social Capital.Eastern Economic
Journal, 33(1).
7. Irwin, C., Ball, L., & Desbrow, B. (2012). Students’ perceptions of using Facebook as an
interactive learning resource at university. Australasian Journal of Education Technology, 28(7),
1221-1232.
8. Kraiger, K. (1993). Application of Cognitive, Skill-Based, and Affective Theories of Learning
Outcomes to New Methods of Training Evaluation. Journal of Applied Phychology Monograph,
78(2), 311-328.
9. Morrison, E. W. (2002). Newcomers’ relationships: the role of social network ties during
socialization. Academy of Management, 45(devil), 1149-1160.
10. Hương, N.L. (2012). Làm giàu không khó.Lao động xã hội.
11. Nunnally, J. C. (1978). Psychometric theory. New York: McGraw Hill.
12. Redecker, C., Ala-Mutka, K., & Punie, Y. (2010). Learning 2.0 - The Impact of Social Media
on Learning in Europe.JRC Technical Notes.
13. Schmidt, A. M., & Ford, J. K. (2003). Learning within a learner control training
environment: the interactive effects of goal orientation and metacognitive instruction and meta
cognitive instruction on learning outcomes. Personnel Psychology, 56(2), 405-429.

14. Tian, S. W., Voge, D., & Kwok, R. C. (2011). The impact of online social networking on
learning: a social integration perspective. International Journal of Networking and Virtual
Organizations, 8(3), 264-280.
15. Tinto, V. (1994). Leaving College: Rethinking the Causes and Cures of Student Attrition:
University Of Chicago Press.


16. Tinto, V. (1998). Colleges as Communities: Taking Research on Student Persistence
Seriously. The Review of Higher Education, 21(2).
17. Yang, H.-L. (2003). Effects of social network on students' performance: A web-based forum
study in Taiwan. JALN, 7(3), 93-107.
18. Yu, A. Y., Tian, S. W., Vogel, D., & Kwok, R. C.-W. (2010). Can learning be virtually
boosted? An investigation of online social networking impacts. Computer &Education(1-10).
19. Weinberg, T. (2009). The new commuinity rules: Marketing on the social web. Sebastopol,
CA: O'Reilley Media, Inc.

Tổng quan "Xu hướng ứng dụng mạng xã hội trong giáo dục" (lưu hành nội bộ)
28/01/2015 12:10
Người thực hiện: ThS. Vũ Thị Hồng Khanh
Tổng luận trên đây đã giới thiệu khái quát các xu hướng phát triển của mạng xã hội trong nước
và quốc tế như: Sự hình thành phát triển của mạng xã hội; các mạng xã hội phổ biến nhất; những
tác động tiêu cực và tích cực cũng như các xu hướng; ứng dụng mạng xã hội vào trong, giáo dục
hiện nay.
Web 2.0 ra đời đã thực sự mang lại cuộc cách mạng to lớn trong việc truy cập và sử dụng
Internet. Trong đó, mạng xã hội đã thực sự bùng nô và thâm nhập sâu rộng vào cuộc sống của
con người ở thế kỷ XXI. Nó mang lại cho người sử dụng sự chu động trong việc tạo và định
hướng nội dung, góp phần xây dựng nên các cộng đồng ảo với những tính chất và hoạt động của
một “cộng đồng thực”. Sự phát triển của công nghệ thông tin. Internet, sự nở rộ của mạng xã hội
đã làm cho cuộc sống của con người liền mạch với “thế giới ảo”. Những lợi ích của mạng xã hội
mang lại cho các hoạt dộng cùa con người như kinh doanh, giáo dục, giải trí... là không thế phủ

nhận.
Tại Việt Nam, ứng dụng công nehệ thông tin trong giáo dục và đào tạo luôn là một nội dung
trọng điểm được quan tâm đầu tư của Nhà nước. Đứng trước sự bùng nổ và thâm nhập của mạng
xã hội. Việc ứng dụng nó trong các hoạt động học tập là phù hợp với xu hướng hiện nay trên thế
aiới cũng như mục tiêu ứng dụng công nghệ thông tin Irong hoạt động giáo dục và đào tạo ớ
nước ta.
Để tham khảo chi tiết tài liệu, xin liên hệ: Phòng Thư viện, số điện thoại: 04-39423754
hoặc theo địa chỉ thư điện tử:

Giới thiệu sách: Mạng xã hội với sinh
viên/Trần Hữu Luyến, Trần Thị Minh Đức,
Bùi Thị Hồng Thái._H.: Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2015._386 tr.


26/08/2015
Nhà xuất bản: Tri thức
Năm xuất bản: 2015
Kích thước:
Số trang: 386
Cuốn chuyên khảo Mạng xã hội với sinh viên là sản phẩm sau 3 năm nghiên cứu lý luận và thực
tiễn, được khái quát trên cơ sở đề tài “Mạng xã hội với thanh niên Việt Nam- thực trạng và giải
pháp” do Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) tài trợ. Cuốn sách
cung cấp cho người đọc những kiến thức tổng thể nghiên cứu về mạng xã hội (MXH) trên thế
giới và ở Việt Nam, chỉ ra thực trạng sử dụng MXH của 4205 sinh viên Việt Nam đang học tại
một số trường đại học ở Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh và
vấn đề tự đánh giá bản thân họ.
Thông qua 8 chương sách, nhóm tác giả đã tập trung làm rõ một số vấn đề liên quan đến cách
thức sử dụng MXH việc công khai và bảo mật thông tin cá nhân trên MXH, các loại nhu cầu sử
dụng MXH, tự đánh giá bản thân của sinh viên sử dụng và những áp lực tâm lý từ việc sử dụng

mạng. Từ đó, các tác giả chỉ ra những vấn đề còn tồn tại trong quản lý việc sử dụng MXH và
trình bày một số kinh nghiệm quản lý của nước ngoài để việc sử dụng mạng của giới trẻ thực sự
mang lại lợi ích và giúp họ tránh được những rủi ro không mong muốn khi tham gia vào MXH.
Chương 1: Nghiên cứu về mạng xã hội trên thế giới và ở Việt Nam
Mạng xã hội (Social network sites) là khái niệm mới được hình thành trong thập niên cuối của
thế kỷ XX, bắt đầu bằng sự ra đời của Classmate.com (1995), SixDegrees (1997), kế đến là sự
nở rộ của một loạt các trang mạng khác. Một cách chung nhất Mạng xã hội là tập hợp các cá
nhân với các nối quan hệ về một hay nhiều mặt được gắn kết với nhau. Trong phần này tác giả
cũng tổng quan khái niệm về MXH dưới nhiều hướng tiếp cận của các học giả, nhà nghiên cứu
khác nhau. Cơ bản nhất MXH được cấu thành từ hai bộ phận là con người và những mối liên hệ
giữa họ. Những người sử dụng MXH được gọi là cư dân mạng.
Mạng xã hội khác với dịch vụ mạng xã hội. Dịch vụ MXH hay MXH trực tuyến là dịch vụ xây
dựng và phản ánh MXH hay mối quan hệ giữa người với người, dựa trên nền tảng chung về sở
thích, môi trường hay lĩnh vực hoạt động, từ đó cho phép người sử dụng chia sẻ các nội dung do
mình tạo ra để thiết lập nên cộng đồng của chính mình. Dịch vụ MXH hướng đến việc lấy cá
nhân làm trung tâm nhưng một khi những cá nhân đã kết nối với nhau thì cộng đồng lại là một
khái niệm cần được xem xét. Cộng đồng mạng là một khái niệm phức tạp, nó bị ảnh hưởng sâu
sắc bởi tính chất trung gian của sự tương tác. Cộng đồng mạng có thể tập hợp tất cả mọi người
thuộc mọi không gian và thời gian, điều mà những tương tác trực tiếp không thể làm được.
MXH trên internet bao gồm các đặc điểm nổi bật: tính liên kết cộng đồng, tính đa phương tiện,
tính tương tác, khả năng truyền tải và lưu trữ lượng thông tin khổng lồ. Các trang MXH có nhiều
loại tính năng khác nhau trong đó phổ biến là tạo hồ sơ cá nhân, kết bạn trực tuyến, tham gia
nhóm trực tuyến, chia sẻ, bày tỏ ý kiến và tìm kiếm thông tin. Khi sử dụng các tính năng này,
người tham gia vừa thực hiện tính công khai của thông tin vừa phải tính đến tính bảo mật để bảo
vệ quyền riêng tư cá nhân.
Bên cạnh các ưu điểm, tiện ích cho phép người sử dụng tạo dựng các mối liên hệ mới, thể hiện
sự sáng tạo, đổi mới phương thức giao tiếp truyền thống, MXH đã và đang tạo nên những áp lực
cho người sử dụng. MXH cám dỗ người sử dụng dành nhiều thời gian trên mạng hơn là đi ra
ngoài và thiết lập các mối quan hệ thực; lạm dụng các trang web MXH còn khiến người sử dụng
tiêu tốn thời gian và chi phí trong công việc, khiến trẻ rối loạn, suy giảm khả năng tạo ra các



cuộc hội thoại thực sự, hạn chế tập trung; không ý thức được về thông tin họ công khai, dễ bị tổn
hại trước những tấn công bảo mật v.v...
Trên thế giới, MXH ra đời đã thay đổi hoàn toàn phương thức giao tiếp của cư dân mạng qua
cách kết nối với nhau nhờ yếu tố tích hợp đa tính năng vào cùng một trang mạng như chat, email,
phim ảnh, chia sẻ file v.v.... MXH nhanh chóng trở thành một hiện tượng phổ biến toàn cầu thu
hút đông đảo người dùng nhất là giới trẻ. Tác giả dành một dung lượng không nhỏ tổng quan các
nghiên cứu về MXH của các tác giả trên thế giới, đặc biệt nhấn trọng tâm vào những nghiên cứu
liên quan đến đề tài nghiên cứu của tác giả theo các nhóm vấn đề: quan niệm bạn bè trên MXH;
nhu cầu và lợi ích của việc sử dụng mạng; bản sắc cá nhân thể hiện trên MXH; vấn đề tự công
khai và bảo mật thông tin trên MXH; những rủi ro và hành vi nguy cơ từ MXH; sự phụ thuộc
MXH và nghiện MXH; vốn xã hội từ việc sử dụng MXH...
Tại Việt Nam, MXH thuần Việt ra đời sớm nhất là Yahoo 360 0 năm 2005, sau đó là một số MXH
“nội địa” khác cũng đã ra đời như ZoomBan, Yobanbe, FaceViet.com, VietSpace, ZingMe,
Go.vn v.v... Mặc dù vậy, đến nay MXH được sử dụng phổ biến nhất ở Việt Nam hiện nay là
Facebook. Người dùng Việt Nam có xu hướng sử dụng các MXH nước ngoài nhiều hơn các
MXH thuần Việt. Thực tế, nhìn vào các MXH do người Việt Nam thiết kế, các chuyên gia cũng
nhận định sự phát triển của nó là thiếu bền vững. Đồng thời các mạng nước ngoài như Facebook,
Twitter đã tạo ra làn sóng ảnh hưởng lớn đến các MXH khác trên thế giới, không loại trừ Việt
Nam. Nhìn tổng thể, MXH Việt Nam dù đã phát triển qua nhiều giai đoạn nhưng được đánh giá
là tiến chậm, chậm so với con số người dùng Internet và chậm hơn so với các nước trong khu
vực. MXH thuần Việt đang gặp khó khăn trong việc thu hút lượng người dùng lớn và ổn định
ngay tại thị trường nội địa. Tác giả cũng tổng quan một số nghiên cứu về MXH tại Việt Nam
theo các hướng phục vụ cho nghiên cứu của mình.
Chương 2: Thực trạng sử dụng mạng xã hội trong sinh viên.
Phần này, nhóm tác giả trình bày kết quả nghiên cứu về thực trạng sử dụng MXH trong sinh viên
Việt Nam trên các khía cạnh: mức độ sử dụng, các loại MXH được sinh viên VN sử dụng, địa
điểm sinh viên thường sử dụng MXH, thời gian dành cho việc sử dụng MXH và vấn đề sử dụng
ngôn ngữ trên MXH của sinh viên hiện nay.

MXH thực sự đang có sức hấp dẫn lớn khi đại đa số sinh viên Việt Nam đều sử dụng. Điều này
được khá nhiều người thừa nhận. Trong 17 MXH được khảo sát thì hiện nay sinh viên Việt Nam
đang ưa dùng nhất Facebook (86,6%), Youtube (60%), Google + (56,2%), ZingMe (trang MXH
của Việt Nam) được ưa thích ở vị trí thứ tư (39,5%).
Khảo sát các địa điểm sinh viên thường vào MXH, kết quả cho thấy nơi ít được sinh viên truy
cập MXH nhất là nơi làm việc (1,9%), nhiều truy cập nhất là ở nhà (49,6%) nhiều hơn gấp 6 lần
so với khi họ ở trường học (8%). Chỉ có 12,4% sinh viên cho biết họ sử dụng MXH ở tiệm
Internet, nhưng có tới 40% sinh viên sử dụng MXH ở mọi nơi với các thiết bị di động như điện
thoại, máy tính bảng...
Về thời gian, Sinh viên sử dụng MXH nhiều vào buổi tối (26,6%) và đêm (10,9%) chủ yếu ngoài
giờ học chính tại trường nhưng lại nhiều vào lúc cần nghỉ ngơi sau một ngày hoạt động. Có 33%
số sinh viên cho biết mỗi ngày họ mất từ 3-5 giờ sử dụng MXH, chỉ có 3% sử dụng dưới một giờ
và 7% sủ dụng trên 8 giờ một ngày cho việc truy cập MXH.
Việc sử dụng ngôn ngữ trên mạng xã hội đáng báo động, đang có xu hướng biến đổi tiếng Việt
và trở thành những biến thể từ âm tiết, ý nghĩa đến các ký tự. Đó là thứ ngôn ngữ @ mới, trở
thành “mốt” trên mạng chat, tin nhắn điện thoại của giới trẻ hiện nay. Thực tế này đang đặt ra
nhiều suy nghĩ cần thiết để hạn chế mặt tiêu cực của ngôn ngữ trên MXH của giới trẻ hiện nay,
góp phần vào giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.


Chương 3: Công khai và bảo mật thông tin cá nhân trên mạng xã hội
MXH cung cấp cho người sử dụng những cơ hội tự công khai thông tin của bản thân nhiều hơn
nhờ các chức năng và thuộc tính của nó, khắc phục được những nhược điểm của giao tiếp trực
tiếp. Công khai thông tin nhằm phát triển các mối quan hệ, đây là một quá trình cần thiết trong
việc hình thành, duy trì các mối quan hệ, giúp phát triển bản sắc cá nhân. Nghiên cứu đã khai
thác những thông tin mà sinh viên tự công khai dựa trên tên hiển thị, ảnh hiển thị và những thông
tin cá nhân tự công khai khác trên MXH (ngày tháng năm sinh, nơi ở, sở thích, số điện thoại, các
mối quan tâm, tình trạng hôn nhân, nơi làm việc) và đồng thời cũng xem xét những yếu tố liên
quan đến sự tự công khai này.
Bảo mật thông tin trên MXH thực sự cần thiết với người sử dụng, nó gắn liền với sự riêng tư của

cá nhân. Nghiên cứu đã tìm hiểu xem sinh viên có bản vệ thông tin trên MXH không, những
cách thức được sinh viên dùng để bảo vệ thông tin riêng tư của họ là gì. Kết quả cho thấy, phần
lớn sinh viên sử dụng MXH được nghiên cứu đều cho rằng mình bảo vệ thông tin trên MXH
(81,8%) và có sự khác nhau nhất định trong việc bảo vệ thông tin trên MXH của sinh viên
(tr.168). Trong nghiên cứu này, sinh viên thường chọn một số cách để bảo vệ bản thân như:
khoanh vùng nhóm bạn bè, hạn chế liên kết với nhiều tài khoản khác, để mật khẩu kí tự khó nhớ,
cảnh giác với những tin nhắn lạ, không vào mạng nơi công cộng, thường xuyên thay đổi mật
khẩu hay không đưa nhiều thông tin về gia đình (tr.171). Thông tin không nên đăng tải được sinh
viên đánh giá phần lớn liên quan đến chính trị, tôn giáo và các mối quan hệ cá nhân (tr.184).
Đồng thời, tác giả cũng tìm hiểu nhận thức của sinh viên về những thông tin mà theo họ cần phải
bảo mật và tự đánh giá của họ về sự bảo mật thông tin trên MXH hiện nay. Kết quả là, sinh viên
khá tự tin về vấn đề cảnh giác thông tin bị lộ trên MXH (44,7% sinh viên tin rằng thông tin cá
nhân chia sẻ trên mạng có thể bị lộ nhưng họ kiểm soát được; 16,6% cho rằng không có gì đáng
phải bảo mật và 23,1% thì không để ý chuyện thông tin có bị lộ hay không khi chia sẻ trên
MXH).
Chương 4: Mối quan hệ bạn bè trên mạng xã hội và nhu cầu sử dụng mạng xã hội
trong sinh viên.
Nghiên cứu đã tìm hiểu sinh viên đã sử dụng MXH cho việc tạo dựng và giữ gìn các mối quan hệ
của ra sao qua số lượng bạn và số bạn họ thường xuyên trao đổi. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng
chưa chỉ ra được đối tượng kết bạn của họ là ai, tập trung vào những nhóm bạn đồng đẳng nào và
các mối quan hệ gia đình hay các mối quan hệ xã hội- nghề nghiệp.
Các nghiên cứu về sử dụng MXH trên thế giới cho thấy nhu cầu sử dụng MXH rất đa dạng, nó
phụ thuộc vào người sử dụng và mục đích của họ chẳng hạn tại một số nước các cơ quan lập
pháp và hành pháp đã dùng MXH như một công tục hữu ích trong công tác chính trị (điều tra
thăm dò ý kiến), ngăn ngừa và phòng chông tội phạm, tìm kiếm người thất lạc; trong lĩnh vực y
tế, MXH được dùng để nâng cao chất lượng mối quan hệ giữa bác sĩ với bệnh nhân; trong giáo
dục, MXH được sử dụng để giảng dạy từ xa, làm các bài tập nhóm; trong thương mại và lao
động, MXH được dùng để quảng bá sản phẩm, tuyển dụng và quản lý nhân viên; từ góc độ cá
nhân MXH được dùng để thiết lập và duy trì các tương tác xã hội v.v... Nghiên cứu này đã chỉ ra
một số nhu cầu sử dụng MXH của sinh viên hiện nay (cao nhất là giao tiếp, giải trí, tăng cường

hiểu biết xã hội) và phân tích năm loại nhu cầu tương tác, giải trí, thể hiện bản thân, kinh doanh
và nhu cầu thử nghiệm cuộc sống của sinh viên trong mối liên hệ với những biến độc lập khác
như giới tính, thành phố học tập, năm học, số giờ sử dụng MXH, số bạn có trên MXH của sinh
viên, các loại MXH được sử dụng.
Khi tìm hiểu về áp lực của mạng xã hội tới tâm lý sinh viên sử dụng, các tác giả đã chỉ ra rằng
sinh viên sử dụng MXH trong nghiên cứu này không có biểu hiện chịu áp lực khi sử dụng MXH,
nói cách khác, việc sử dụng MXH của họ nằm ở mức độ chấp nhận được và chưa có cảnh báo về


nguy cơ nghiện MXH. Họ sử dụng MXH một cách hữu ích, không để MXH chi phối đến thời
gian, hoạt động sống, cảm xúc và hành vi của bản thân.
Chương 5: Tự đánh giá bản thân của sinh viên sử dụng mạng xã hội
Trong chương này, tác giả trình bày lý luận về tự đánh giá bản thân thông qua phân tích tổng
quan một số nghiên cứu trên thế giới và trình bày kết quả liên quan đến tự đánh giá bản thân của
sinh viên Việt Nam sử dụng mạng xã hội. Kết quả đánh giá bản thân thể hiện ở sáu khía cạnh cái
tôi: cái tôi gia đình, cái tôi xã hội, cái tôi học đường, cái tôi cảm xúc, cái tôi thể chất và cái tôi
tương lai: (tr.252-260). Cụ thể: Sinh viên sử dụng MXH có xu hướng đánh giá cao khía cạnh tích
cực của bản thân mình đối với gia đình mình; họ thường đề cao những biểu hiện tích cực khi
đánh giá về đời sống xã hội hơn là những biểu hiện tiêu cực; họ có xu hướng đánh giá việc học
tập cả ở khía cạnh tích cực và tiêu cực là như nhau; họ có xu hướng đánh giá cao khía cạnh tích
cực của cảm xúc, nghĩa là họ biết cách kiểm soát cảm xúc của mình, họ có xu hướng biểu cảm sự
việc theo chiều tích cực; họ có xu hướng đánh giá về cơ thể, ngoại hình của mình một cách tích
cực, họ chấp nhận ngoại hình như mình vốn có và có ý thức về việc chăm sóc sức khỏe bản thân;
họ có xu hướng nhìn nhận tích cực về tương lại của mình ở mọi phương diện.
Nhóm tác giả cũng trình bày và phân tích những kết quả liên quan đến mối liên hệ giữa những
biến độc lập trong nghiên cứu này (giới tính, thành phố học tập, số giờ sử dụng MXH, số bạn
trên mạng, bảo mật thông tin trên mạng) với mức độ tự đánh giá bản thân của các sinh viên.
Chương 6: Thái độ của cư dân mạng đối với việc sử dụng mạng xã hội
Thái độ xã hội của cách ứng xử của các cá nhân, nhóm đối với các tình huống, vấn đề xã hội
nhất định. Thái độ xã hội đối với việc sử dụng MXH được hiểu là cách ứng xử của các cá nhân

với việc sử dụng MXH theo một định hướng nhất định và biểu hiện trên ba khía cạnh nhận thức,
xúc cảm và hành vi. Trong phần này, các tác giả trình bày kết quả nghiên cứu về thái độ xã hội
của cư dân mạng đối với việc sử dụng MXH thông qua phân tích các số liệu định lượng thu được
từ cuộc điều tra trên sinh viên, trên báo mạng và những kết quả phân tích định tính về FacebookMXH tiêu biểu và lớn nhất hành tinh hiện nay.
Có 24% ý kiến cho rằng không nên tiếp tục sử dụng facebook và 76% ủng hộ việc sử dụng MXH
facebook. Tác giả nêu các minh họa sống động cho thấy thái độ ủng hộ hoặc phản đối sử dụng
facebook của người sử dụng, đồng thời tổng hợp được các lý do được cho là tác hại của MXH
nếu sử dụng một cách thường xuyên và thiếu kiểm soát (mất thì giờ, mất khả năng tập trung làm
việc khác, có thể bị nghiện MXH, ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc/ học tập, bị lôi kéo vào các
hoạt động không lành mạnh, giảm thiểu các mối quan hệ ngoài đời); các lý do đưa ra để ủng hộ
sử dụng facebook bao gồm: facebook mang lại nhiều lợi ích cho cuộc sống như tìm kiếm người
thân bạn bè, chia sẻ khó khăn tâm lý, đáp ứng nhu cầu giải trí và bản thân không cảm thấy bị lệ
thuộc vào facebook, chỉ cần điều chỉnh hay có cách dùng đúng đắn thì sẽ khắc phục được những
mặt trái của nó.
Chương 7: Giải pháp quản lý mạng xã hội
Trước thực trạng sự gia tăng số lượng người dùng Internet và các mạng xã hội hiện nay, vấn đề
quản lý MXH là một vấn đề bức thiết được các quốc gia quan tâm bàn thảo làm sao để đảm bảo
quyền được bảo vệ thông tin cá nhân, quyền an toàn cơ bản cho công dân nước mình. Ba vấn đề
được quan tâm là: bảo đảm lợi ích cá nhân của người dùng và kêu gọi họ có trách nhiệm tự bảo
vệ mình; cho phép chính phủ có một quyền nhất định trong việc thâm nhập vào hệ thống cá
nhân, khi cần, để kiểm soát những nguy cơ từ những phần tử, nhóm khủng bố nhằm bảo vệ lợi
ích quốc gia; kêu gọi hợp tác, chia sẻ thông tin giữa các quốc gia nhằm kiểm soát ở tầm quốc tế.


×