Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

SKKN Biện pháp giáo dục thể chất y tế ở trường học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.71 KB, 39 trang )

A- ĐẶT VẤN ĐỀ
I- LỜI MỞ ĐẦU
Từ xa xưa thể dục thể thao đã được xem như một bộ phận không thể
thiếu của nền văn hóa nhân loại nhằm hoàn thiện con người với quan niệm
vận động là sức khỏe, là sự sống. Thể dục thể thao mang lại sự phát triển hài
hòa của một cá thể: "Trong sạch về mặt đạo đức, phong phú về mặt tinh thần,
hoàn thiện về mặt thể chất". Nhận thức được vai trò to lớn của thể dục thể
thao, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa thể dục thể thao vào hàng quốc sách trong
chiến lược phát triển con người và coi đó là biện pháp: "Bồi bổ sức khỏe hữu
hiệu, ít tốn kém, làm cho khí huyết lưu thông, tinh thần đầy đủ và già trẻ, gái,
trai ai cũng có thể làm được", đồng thời Bác cũng kêu gọi toàn dân tập thể
dục: "Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng
cần có sức khoẻ mới thành công. Mỗi một người dân yếu ớt tức là cả nước
yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khoẻ là cả nước mạnh khoẻ".
Xuất phát từ quan điểm trên, trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội
của đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vị trí của công tác thể dục
thể thao đối với thế hệ trẻ xem đó là động lực quan trọng và khẳng định cần
có chính sách chăm sóc giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) thế hệ trẻ Việt Nam
phát triển hài hoà về các mặt thể chất, tinh thần, trí tuệ và đạo đức.
Đảng, Nhà nước và Bác Hồ luôn xem sức khỏe là tài sản quí báu nhất
và là quan trọng nhất đối với mọi tầng lớp xã hội và quốc gia. Vì vậy, giáo
dục thể chất (GDTC) là một trong mục tiêu giáo dục toàn diện của Đảng và
Nhà nước ta, nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục thể chất được
hiểu là: “Quá trình sư phạm nhằm giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, hoàn thiện
về thể chất và nhân cách, nâng cao khả năng làm việc, và kéo dài tuổi thọ
của con người”. Giáo dục thể chất có vai trò rất quan trọng trong việc rèn
luyện học sinh về thể lực để nâng cao sức khoẻ với mục tiêu "Khỏe để học
tập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc", "Khỏe để chinh phục đỉnh cao tri thức".
Cùng với việc đẩy mạnh công tác giáo dục thể chất, y tế học đường
(YTHĐ) có vai trò cực kỳ quan trọng, là một bộ phận quan trọng đã góp phần
không nhỏ trong việc chăm sóc và giáo dục học sinh giữ gìn sức khoẻ, giúp


các em có điều kiện học tập tốt, lao động tốt.
1


Vụ trưởng Vụ công tác học sinh, sinh viên Bộ GD&ĐT Phùng Khắc
Bình cho biết, công tác giáo dục thể chất và y tế trường học sẽ được đặc biệt
quan tâm với yêu cầu các cấp quản lý nâng cao nhận thức đối với công tác
này trong việc giáo dục toàn diện cho học sinh, sinh viên. Theo đó, các giải
pháp hữu hiệu trong việc rèn luyện thân thể, chăm sóc sức khỏe sẽ được đưa
ra trên cơ sở nghiên cứu động cơ, sự ham thích của người học. Giáo dục thể
chất, y tế trường học cũng sẽ được nghiên cứu trong mối quan hệ với nâng
cao sức khỏe thể chất của học sinh, sinh viên kết hợp với công tác phòng
chống các bệnh tật học đường, ngăn chặn các hiện tượng xấu, các tệ nạn xã
hội xâm nhập học đường... Bộ GD-ĐT sẽ tập trung nghiên cứu, xây dựng các
mô hình điểm về công tác giáo dục thể chất và y tế trường học tại các bậc học,
các địa phương để nhân rộng và phát huy vai trò tích cực của giáo dục thể
chất và y tế trường học trong công tác giáo dục và đào tạo.
Như vậy công tác giáo dục thể chất và y tế học đường là một công tác
quan trọng và không thể thiếu được trong các cơ sở giáo dục hiện nay. Quan
tâm đến sức khoẻ các em học sinh trong cơ sở giáo dục là vấn đề cần thiết và
cũng là nhiệm vụ các cơ quan, các cấp, các ngành. Đặc biệt là các nhà quản lý
giáo dục, làm thế nào để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác GDTC –
YTHĐ trường học là niềm trăn trở của mỗi cán bộ quản lý giáo dục nói chung
và bản thân tôi – thủ trưởng đơn vị - nói riêng.
II/ THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Thực trạng chung: ( Đánh giá qua kênh thông tin)
Công tác y tế học đường dù rất được quan tâm nhưng vẫn chưa được
đầu tư đúng mức, phần lớn các trường chưa có phòng y tế, chưa có nhân viên
y tế. Tại Hội nghị “Đánh giá tình hình thực hiện công tác y tế trường học”
ngày 03/12/2010 ở Cần Thơ do Bộ Giáo dục & Đào tạo kết hợp Bộ Y tế tổ

chức đã nhận định: Hiện nay mạng lưới y tế trường học trong cả nước thiếu
và yếu cả về số lượng lẫn chất lượng, vẫn còn 30% số trường chưa có cán bộ
y tế trường học chuyên trách, gần 35% số trường không có phòng chăm sóc y
tế, thuốc, trang thiết bị y tế chăm sóc sức khoẻ cho học sinh, thiếu công trình
vệ sinh nước sạch… Nguyên nhân dẫn đến tình trạng yếu kém trong công tác

2


y tế trường học là do thiếu kinh phí, thiếu cán bộ chuyên trách và thiếu sự
phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành, đoàn thể trong công tác này. Cán bộ y
tế trường học hầu như không có bất cứ khoản phụ cấp nào khác ngoài lương
dẫn đến thực trạng nhiều người đang làm công tác này có khuynh hướng bỏ
việc.
GDTC&YTHĐ trên địa bàn Thị xã Bỉm Sơn cũng rơi vào thực trạng
chung là không được chú trọng và quan tâm. Các nhà trường THCS mới chỉ
hoàn thành việc thực hiện chương trình giảng dạy môn Thể dục với 02 tiết/
tuần, thực hiện đúng chương trình quy định. Song, chất lượng giảng dạy
không được nâng lên bởi cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học còn thiếu
nhiều như sân bãi, dụng cụ giảng dạy... Các trường phần lớn cho học sinh học
và tập luyện trên sân trường hoặc sân chơi, bãi tập chưa đúng quy cách, chưa
đảm bảo yêu cầu chuẩn, kể cả những trường đã được công nhận đạt chuẩn
Quốc gia. Đội ngũ giáo viên thừa nhưng chất lượng đội ngũ chưa cao, một vài
giáo viên cao tuổi không nhiệt tình công tác, một số giáo viên năng lực
chuyên môn hạn chế. (giáo viên môn đặc thù nhưng lại không có năng khiếu
về bộ môn).
Công tác y tế học đường trong các nhà trường còn nhiều bất cập, tất
cả các trường THCS trên địa bàn thị xã phần lớn không có cán bộ y tế để
chăm sóc và theo dõi sức khỏe cho học sinh. Hiện nay trên địa bàn thị xã có
08 trường THCS trong đó có 03 trường được công nhận đạt chuẩn Quốc gia

và đã có phòng y tế học đường, nhưng không có nhân viên y tế đúng chuyên
môn nghiệp vụ. Các nhà trường phải cử cán bộ giáo viên kiêm nhiệm phụ
trách phòng y tế học đường, những giáo viên này hàng năm được cử đi tập
huấn tại Sở GD&ĐT về nghiệp vụ y tế học đường, nhưng do không có chuyên
môn nên họ chỉ có thể giúp nhà trường quản lý hồ sơ sổ sách, sơ cứu ban đầu
cho học sinh khi bị ốm đau đột xuất còn việc theo dõi, chăm sóc sức khỏe cho
học sinh trong năm học hoặc khóa học thì ngoài khả năng của họ.
2. Thực trạng công tác giáo dục thể chất và y tế học đường tại trường
THCS Xi Măng.
2.1. Về thái độ, ý thức, tinh thần học tập bộ môn và sức khỏe của học sinh:
3


Quan niệm của học sinh về bộ môn: học sinh coi đây là môn phụ,
không mang lại thành tích học tập và không ảnh hưởng nhiều đến kết quả học
tập chung. Nhận thức của học sinh về bộ môn còn chưa sâu sắc, học sinh chưa
thấy được vai trò, tầm quan trọng của môn học đối với bản thân. Trong khi
thực tế hiện nay, tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan khiến cho HS không
còn thời gian vui chơi, và áp lực học tập nhiều học sinh phải thay đổi nếp sinh
hoạt gây xáo trộn sinh học. Và để không bị trễ giờ học, nhiều em đã phải
thường xuyên nhịn ăn sáng, hoặc chỉ ăn qua quýt, vội vã, nên rất ảnh hưởng
đến sức khoẻ. Ngoài buổi học chính khoá ở trường, các em còn phải đi học
thêm, có khi tan giờ học buổi trưa hoặc chiều là các em lao ngay đến nhà thầy
để học thêm. Đến 9, 10 giờ tối mới về đến nhà, chỉ kịp tắm rửa, ăn qua loa
mấy miếng lại phải chuẩn bị bài cho ngày hôm sau. Với lịch trình trong một
ngày như thế, các em không có thời gian dành cho việc rèn luyện sức khoẻ,
vui chơi giải trí, việc học đã gần như vắt cạn sức các em.
Mặt khác, nhiều phụ huynh quan niệm môn Thể dục là môn phụ, vài ba
động tác thể dục không mang lại lợi ích gì cho HS, chỉ làm các em mệt mỏi,
uể oải không muốn học văn hóa. Một số phụ huynh chạy theo tâm lý thành

tích, muốn con học hành đỗ đạt cao mà không quan tâm đến thể lực của các
em, không nhiệt tình động viên các em tham gia học tập môn học này. Điều
này, khiến các em ỷ lại, lười vận động dẫn đến sức khỏe giảm sút. Một số em
rơi vào tình trạng suy nhược thần kinh, thiếu dinh dưỡng, không bảo đảm sức
khoẻ. Nhiều em đến lớp trong trạng thái gà gật, có khi bị hạ can xi, phải cấp
cứu. Trong khi đó, nhân viên y tế không có chuyên môn nghiệp vụ nên không
thể tư vấn giúp đỡ các em để các em có ý thức rèn luyện và giữ gìn sức khỏe.
2.2. Về đội ngũ giáo viên và nhân viên y tế:
Đội ngũ giáo viên làm công tác GDTC: hiện nay nhà trường có 03 giáo
viên dạy môn Thể dục được đào tạo theo đúng trình độ chuẩn của giáo viên
giảng dạy ở cấp học, trong đó 01 GV được tạo trình độ đại học, 2 giáo viên
đào tạo trình độ cao đẳng. Nhìn chung giáo viên đều có trách nhiệm trong
công tác giảng dạy nhưng chưa thực sự nhạy bén trong công việc, bộ phận
giáo viên cao tuổi có tính ỷ lại, chưa có đổi mới trong giảng dạy, xác định

4


mục tiêu giáo dục không rõ ràng, việc tiếp cận với tri thức mới thời hội nhập
vào dạy học chưa được thể hiện rõ nét.
Về công tác giảng dạy, giáo viên mới chỉ dừng lại giảng dạy chương
trình nội khóa, đảm bảo được số tiết quy định, việc nhận thức được vai trò
quan trọng của giáo dục thể chất trong nhà trường còn non kém. Nội dung
hoạt động thể thao ngoại khoá trong nhà trường còn nghèo nàn, chưa thực sự
tạo được sự hứng thú cho học sinh.
Đội ngũ giáo viên làm công tác y tế học đường: Tuy được đánh giá là
rất cần thiết nhưng nhà trường chưa có nhân viên y tế, vì hiện nay tỉnh Thanh
Hóa chưa áp dụng thông tư 35/2006/TTLT-BGD-ĐT- BNV nên nhà trường
vẫn không có tiêu chuẩn biên chế cho cán bộ y tế học đường. Nhân viên y tế
của nhà trường hiện nay không được đào tạo về y tế, không phải là bác sĩ, y tá

mà là một giáo viên có trình độ chuyên môn khác được giao cho kiêm nhiệm
làm nhân viên y tế, phụ trách chăm sóc sức khỏe, sơ cấp cứu ban đầu cho học
sinh toàn trường.
Về chuyên môn, giáo viên phụ trách công tác này mới chỉ được tập
huấn lớp chuyên trách nghiệp vụ trong thời gian 20 ngày, vì vậy kỹ năng
nghiệp vụ còn non kém chỉ có thể làm được những việc như: rửa vết thương,
băng bó vết thương cho học sinh, quản lý hồ sơ sổ sách…
2.3. Về cơ sở vật chất của nhà trường:
Nhìn chung cở sở vật chất của nhà trường hiện nay tương đối đầy đủ,
nhà trường đã có hệ thống nước sạch cho học sinh sử dụng, có máy lọc nước
đảm bảo vệ sinh. Có đầy đủ các phòng học, bàn ghế đảm bảo quy cách, ánh
sáng, khuôn viên nhà trường thoáng mát, vệ sinh sạch sẽ. Có đủ các phòng
học chức năng, phòng hiệu bộ, phòng y tế học đường được trang bị tủ thuốc,
các dụng cụ y tế…
Tuy nhiên, do cở sở vật chất xuống cấp nên sự sắp xếp chưa được khoa
học, đẹp mắt. Do địa hình trường quanh co phức tạp mà kinh phí hạn hẹp
chưa thể cải tạo để san lấp mặt bằng vì vậy sân chơi bãi tập của nhà trường
chưa đảm bảo yêu cầu.
2.4. Về công tác lãnh đạo, quản lý của nhà trường:
Từ năm 2003 – 2004 sau khi được công nhận đạt chuẩn Quốc gia, Ban
5


giám hiệu rất chú trọng đến công tác giáo dục thể chất y tế học đường, đầu tư
kinh phí mua sắm thiết bị dạy học, trang bị tủ thuốc, các dụng cụ y tế, tổ chức
khám sức khỏe cho học sinh… Tuy nhiên, công tác GDTC&YTHĐ trong nhà
trường chưa được quan tâm đúng mức, thậm chí có lúc còn bị coi nhẹ, thiếu
bình đẳng so với các môn học khác. Nguyên nhân là do cở sở vật chất của nhà
trường tuy đủ về số lượng nhưng chưa được đảm bảo về chất lượng. Nhiều
trang thiết bị dạy học còn trong tình trạng thiếu thốn, lạc hậu, kém chất lượng,

sân chơi bãi tập nhỏ hẹp, chưa đáp ứng yêu cầu dạy và học vì vậy trong quá
trình chỉ đạo vẫn còn nhiều hạn chế, chất lượng giảng dạy chưa cao.
III. KẾT QUẢ THỰC TRẠNG
Với những thực trạng trên, hiện nay, trường THCS Xi Măng đang gặp
những khó khăn, điều kiện cơ sở vật chất không đảm bảo, cơ sở vật chất nhà
trường đang xuống cấp sau 22 năm sử dụng, phải đầu tư xây dựng sửa chữa
nhiều trong lúc địa phương đang gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế. Địa hình
nhà trường quanh co phức tap, không có mặt bằng để làm sân chơi bãi tập.
Giáo viên giảng dạy thể dục phần lớn chỉ chú ý dạy động tác chứ không
xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, giới tính. Việc kiểm tra, đánh giá
kết quả chất lượng dựa trên kết quả bài tập chứ không dựa trên sự phát triển
về thể lực và sức khỏe học sinh. Chính vì vậy GDTC như là sự bắt buộc, thiếu
phương pháp khoa học.
Nhiều học sinh mắc phải bệnh: mắt, phình cuốn mũi, viêm A, viêm
họng hạt, bướu cổ, huyết áp nhưng không có nhân viên y tế đúng chuyên
ngành để theo dõi sức khỏe dẫn đến sức khỏe của các em không đảm bảo.
Qua kiểm tra sức khỏe cho học sinh, tôi thấy học sinh trong nhà trường mắc
nhiều bệnh, trong khi đó phụ huynh đôi khi không để ý đến bệnh tật của con
em mình, cho rằng đó là những bệnh thường gặp, không ảnh hưởng đến sức
khỏe và học tập. Việc quan tâm đến sức khỏe của học sinh là một phần trách
nhiệm của nhà trường nhằm đảm bảo sức khỏe cho học sinh học tập.

6


Kết quả khảo sát chất lượng học tập học sinh đầu năm
Số HS
345

Giỏi

SL
%

Xếp loại học lực
Khá
TB
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%

70

180

20,3

52,2

90

26,1

5

1,4


Kém
SL
%
0

0

Kết quả khảo sát việc khám sức khỏe định kỳ
trong năm học như sau:
Bệnh tật
Số HS

Khối 6

Khối 7

Mắt
8 cận,
tiền cận
4 cận
5 sạn vôi

Bướu
cổ
0

4

Tai mũi họng
19 Viêm A

7 sâu răng
4 phình cuốn
mũi
4 sâu răng

Cột
sống

6

mũi

4 Huyết áp

0

5 Huyết áp
2 suy dinh

0

2 viêm họng hạt
10 phình cuốn
3

13 cao răng

dưỡng
4 Huyết áp


mũi
Khối 9 6 (cận)

Bệnh khác

0

2 họng hạt
12 phình cuốn
Khối 8 1 sạn vôi

Phân loại

0

1 sâu răng

sức khỏe
23 loại I
46 loại II
44 loại I
40 loại II
40 loại I
48 loại II

4 Huyết áp

50 loại I

thấp


55 loại II

1 Viêm họng
157 loại I
Cộng

24

13

65

0

19

189 loại

II
Từ những lý do trên, tôi thấy vấn đề nâng cao hiệu quả giáo dục toàn
diện và chăm sóc sức khỏe cho học sinh trong nhà trường là một việc làm vô
cùng quan trọng và cần thiết đối với các nhà quản lý giáo dục. Thủ trưởng
đơn vị phải xem công tác GDTC&YTHD là nội dung quan trọng trong giáo

7


dục toàn diện. Vì vậy tôi mạnh dạn nghiên cứu về vấn đề này để tìm ra
những “Biện pháp nâng cao hiệu quả GDTC&YTHĐ trong trường THCS".

B- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I- CÁC GIẢI PHÁP CHÍNH
1. Xác định vai trò của công tác GDTC&YTHĐ trong nhà trường.
2. Nắm vững Quan điểm công tác GDTC&YTHĐ
3. Lập kế hoạch chỉ đạo công tác GDTC & YTHĐ trong năm học.
4. Tổ chức thực hiện kế hoạch
5. Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của giáo
viên, học sinh, phụ huynh học sinh về công tác GDTC và YTHĐ.
II- CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN GIẢI PHÁP
1. Nhận thức đúng đắn vai trò của công tác GDTC&YTHĐ trong nhà
trường, nắm vững quan điểm công tác GDTC&YTHĐ.
1.1 Nhận thức vai trò của công tác GDTC&YTHĐ trong nhà trường.
Giáo dục thể chất (GDTC) đóng vai trò quan trọng hình thành ý thức
rèn luyện thể lực, nâng cao sức khỏe cho học sinh. Việc GDTC cho học sinh
để nâng cao tầm vóc và thể trạng cho người Việt là một trong những nội dung
của chương trình quốc gia do Viện Khoa học thể dục thể thao xây dựng.
Giáo dục thể chất cũng như các loại hình giáo dục khác, là quá trình sư
phạm với đầy đủ đặc điểm của nó, có vai trò chủ đạo của nhà sư phạm, tổ
chức hoạt động của nhà sư phạm phù hợp với học sinh với nguyên tắc sư
phạm. GDTC chia thành hai mặt tương đối độc lập: Dạy học động tác (giáo
dưỡng thể chất) và giáo dục tố chất thể lực. Trong hệ thống giáo dục nội dung
đặc trưng của giáo dục thể chất được gắn liền với giáo dục trí dục, đức dục,
mỹ dục và giáo dục lao động.
Về đức, việc tập luyện thể dục thể thao cũng có nhiều ảnh hưởng đến
đạo đức của con người, thông qua quá trình luyện tập nó rèn luyện cho học
sinh lòng kiên trì, biết vượt khó, có bản lĩnh, có cách cư xử giao tiếp, văn
minh, lịch sự, hoà đồng với bạn bè, tăng cường tình đoàn kết và tinh thần tập
thể.
Về trí, thể dục thể thao giúp tăng cường trí thông minh. Theo các nhà
khoa học hoạt động thể chất giúp tạo ra các tế bào não mới trong khu vực liên

8


quan tới trí nhớ, khi luyện tập thể dục thể thao học sinh sẽ cảm thấy đầu óc
thư thái hơn, tâm lý thoải mái và có những giây phút thực sự sảng khoái, giảm
bớt stress để từ đó tăng khả năng tiếp thu kiến thức trên lớp.
Về thể, đây chính là mục tiêu cơ bản của môn GDTC, tập thể thao là để
nâng cao sức khỏe và có sức đề kháng với bệnh tật (bệnh cảm, bệnh giảm trí
nhớ, bệnh tim mạch, bệnh thoái hóa cột sống...) sức khỏe và tuổi thọ được
tăng lên.
Về mĩ, thể dục thể thao giúp học sinh có một phần phẩm chất nghệ sĩ,
một tình yêu đối với cái đẹp, tình yêu con người và cuộc sống, giàu khả năng
cảm xúc, lĩnh hội thế giới thông qua cảm xúc, giúp học sinh phát triển hài hoà
trên tất cả các mặt tư duy logic, tạo điều kiện để các em phát triển toàn diện.
Gắn giáo dục thể chất, y tế trường học có vai trò cực kỳ quan trọng,
YTHĐ đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong trường học. YTHĐ
không gói gọn trong việc thuốc men, giường bệnh. Ý nghĩa sâu sắc của
YTHĐ là bảo đảm được các tiêu chí về bảo vệ sức khỏe học sinh với mục tiêu
bảo vệ, chăm sóc, theo dõi và tổng hợp tình hình sức khỏe cho học sinh, xây
dựng môi trường vệ sinh xanh sạch đẹp. Phòng chống dịch bệnh, phòng
chống tai nạn thương tích, vệ sinh an toàn thực phẩm, nước sạch, phòng
chống HIV…góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả giáo dục. Với
nhận thức đúng đắn ấy, nhà trường đang dần tạo ra một môi trường "thân
thiện" thực sự đối với học sinh, đặc biệt là gắn với phong trào “Xây dựng
trường học thân thiện học sinh tích cực”
Như vậy, GDTC và YTHĐ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có vai trò
quan trọng trong nhà trường. GDTC và YTHĐ đều đem lại sức khỏe cho học
sinh, giúp các em phòng chống được các bệnh tật học đường, ngăn chặn các
hiện tượng xấu, các tệ nạn xã hội xâm nhập học đường để các em trở thành
nguồn nhân lực phát triển toàn diện, với những con người có đạo đức, tri thức,

sửa khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, chủ động học tập và rèn luyện để góp phần làm rạng rỡ
non sông đất nước Việt Nam.
1.2. Những quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước và ngành GD&ĐT.

9


Xuất phát từ vai trò tầm quan trọng của GDTC và YTHĐ đòi hỏi các
cấp, các ngành quan tâm nhiều hơn nữa đến việc nâng cao chất lượng giảng
dạy. Chính vì vậy mà Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đến công tác
GDTC và Y tế học đường trong trường học. Bộ Chính trị đã có Nghị quyết số
46-NQ/TW ngày 23 tháng 02 năm 2005 của về công tác bảo vệ, chăm sóc và
nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới trong đó Nghị quyết nhấn
mạnh thực hiện tốt công tác y tế trong các nhà trường. Thủ tướng Chính phủ
cũng đã ra Chỉ thị số 23/2006/CT-TTg ngày 12 tháng 7 năm 2006 về việc tăng
cường công tác y tế học đường học. Trong đó, Chỉ thị đã nhấn mạnh vai trò
nhiệm vụ của các cấp, các ngành trong công tác chăm sóc sức khỏe nhằm
phát triển cả về thể chất cho học sinh, sinh viên. Bộ GD&ĐT đã có những văn
bản chỉ đạo về hoạt động y tế trường học:Quyết định số 73/2007/QĐBGD&ĐT ban hành Quy định về hoạt động y tế trong các trường tiểu học,
trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều
cấp học. Các văn bản của Bộ y tế, Bộ tài chính quy định về vệ sinh, kinh phí y
tế học đường.
Sở GD&ĐT Thanh Hóa cũng đặc biệt quan tâm công tác này, hàng
năm Sở GD&ĐT đã có công văn hướng dẫn các nhà trường thực hiện công
tác GDTC và Y tế trong trường học. Sở đã mở lớp tập huấn vào tháng 7 năm
2010 tại Trường Đại học Hồng Đức cho cán bộ quản lý về công tác này, giúp
CBQL hiểu và nhận thức đúng đắn vai trò tầm quan trọng việc giáo dục thể
chất và y tế trường học để cần tập trung chú ý đến rèn luyện sức khỏe của học
sinh, nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện.

2. Xây dựng kế hoạch Công tác GDTC & YTHĐ và thành lập Ban chỉ
đạo.
Việc xây dựng kế hoạch GDTC&YTHĐ phải căn cứ vào tinh thần chỉ
đạo chung của các ngành, các cấp, dựa trên đặc điểm tình hình của nhà trường
để xây dựng kế hoạch theo yêu cầu của nhiệm vụ năm học. Người hiệu trưởng
phải xác định được mục tiêu giáo dục, nhận thức đúng đắn vai trò của GDTC
và YTHĐ trong nhà trường để xây dựng kế hoạch. Kế hoạch phải rõ ràng cụ
thể nội dung, biện pháp từng tháng, từng tuần, cách tổ chức thực hiện và các
điều kiện đảm bảo để tổ chức hoạt động.
10


Sau khi xây dựng kế hoạch, thủ trưởng đơn vị thành lập Ban chỉ đạo, ra
Quyết định thành lập Ban chỉ đạo công tác GDTC và YTHĐ. Ban chỉ đạo bao
gồm: Đại diện Ban giám hiệu trong đó Hiệu trưởng là trưởng ban, tổ trưởng
chuyên môn, trưởng các tổ chức đoàn thể trong nhà trường là ủy viên. Ban chỉ
đạo có nhiệm vụ chỉ đạo tổ chức các hoạt động GDTC và YTHĐ theo kế
hoạch, đánh giá tổng kết công tác hàng năm.
Cùng với Ban chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch theo nội
dung và đúng tiến độ thời gian đã xác định trong kế hoạch. Xác định rõ trách
nhiệm của mỗi cá nhân và bộ phận trong việc thực hiện kế hoạch. Và có các
biện pháp động viên khuyến khích, hỗ trợ khi cần thiết để việc thực hiện kế
hoạch có chất lượng và đạt hiệu quả. Tổ chức kiểm tra đánh giá việc thực hiện
kế hoạch để có những điều chỉnh nếu cần, định kỳ có báo cáo sơ kết, tổng kết
và rút kinh nghiệm về những công việc đã triển khai.
3.Tăng cường quản lý công tác GDTC & YTHĐ
3.1. Quản lý công tác GDTC.
3.1.1.Quản lý giảng dạy chính khóa.
Bản thân giờ học thể dục có ý nghĩa quan trọng nhiều mặt đối với việc
quản lý và giáo dục con người trong xã hội. Việc học tập các bài tập thể dục,

các động tác kỹ thuật là điều kiện cần thiết để con người phát triển cơ thể một
cách hài hoà, bảo vệ và củng cố sức khoẻ, hình thành năng lực chung và
chuyên môn. Vì vậy Hiệu trưởng phải quản lý chặt chẽ giờ học chính khóa,
quản lý việc dạy học theo theo chương trình khung của Bộ GD&ĐT và phân
phối chương trình của Sở GD&ĐT Thanh Hóa: 2 tiết/tuần với các nội dung
bắt buộc và tự chọn.
Sự quản lý giảng dạy được thể thể hiện ở việc bố trí sắp xếp thời khóa
biểu, duyệt giáo án, dự giờ thăm lớp và kiểm tra kết quả học tập của học sinh
trong các học kỳ.
3.1.2.Quản lý các hoạt động ngoái giờ
Hoạt động ngoài giờ bao gồm: thể dục giữa giờ, bồi dưỡng học sinh
giỏi, thi đấu thể dục thể thao, Hội khỏe Phù Đổng, hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp. Các hoạt động này được tổ chức ngoài giờ học chính khóa, hiệu

11


trưởng phải có kế hoạch cụ thể, chỉ đạo các tổ chức đoàn thể, các bộ phân
trong nhà trường xây dựng kế hoạch và phối hợp tổ chức.
a. Đối với hoạt đông thể dục giữa giờ:
Hiệu trưởng phân công nhiệm vụ cho các giáo viên trong nhà trường
có trách nhiệm tổ chức hướng dẫn học sinh tập thể dục giữa giờ cụ thể là:
- Giáo viên bộ môn thể dục: Có nhiệm vụ hướng dẫn tập các động tác,
bài tập thể dục giữa giờ, theo dõi học sinh luyện tập, có biện pháp nâng cao
chất lượng giờ tập hàng ngày.
- Giáo viên chủ nhiệm: Có trách nhiệm quản lý học sinh, theo dõi nhắc
nhở, giáo dục học sinh thái độ ý thức học tập tốt.
- Tổng phụ trách và Ban chỉ huy Liên đội: Có trách nhiệm theo dõi chất
lượng tập của các lớp, quản lý sĩ số học sinh và nền nếp thể dục giữa giờ.
- Phân công Ban giám hiệu theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở các

bộ phận được phân công thực hiện nhiệm vụ.
b. Đối với hoạt động bồi dưỡng học sinh giỏi, Hội khỏe Phù Đổng
và tổ chức các hoạt động nhân các ngày lễ.
Đây là hoạt động thường xuyên trong năm học, để học sinh tham gia kỳ
thi HSG các cấp đạt kết quả tốt, hiệu trưởng phải xây dựng kế hoạch bồi
dưỡng ngay từ đầu năm học. Phân công giáo viên giảng dạy bồi dưỡng, tuyển
và lựa chọn học sinh có năng khiếu tổ chức luyện tập, bồi dưỡng theo môn.
Để hoạt động này sôi nổi và thu hút nhiều học sinh tham gia, cần chỉ
đạo giáo viên bộ môn phối hợp với Ban chỉ huy Liên đội tổ chức các sân chơi,
các câu lạc bộ, Hội khỏe Phù Đổng, các hoạt động TDTT trong các dịp kỷ
niệm những ngày lễ lớn trong năm học 20-11; 22-12; 26-3 như tổ chức các
kỳ thi: cầu lông, bóng bàn, bóng đá, đá cầu, các môn điền kinh… phát hiện
những học sinh có năng khiếu lên kế hoạch bồi dưỡng.
Tham gia tích cực các hoạt động thể thao, các câu lạc bộ do địa
phương, ngành tổ chức.
3.1.3. Quản lý cơ sở vật chất.
Đây là những điều kiện để phục vụ công tác giảng dạy bộ môn, người
hiệu trưởng phải đặc biệt quan tâm đến công tác này tạo mọi điều kiện để giáo
viên hoàn tốt nhiệm vụ cụ thể là:
12


- Quy hoạch sân chơi bãi tập cho hợp lý, thuận lợi, phù hợp đảm bảo vệ
sinh, an toàn với học sinh.
- Trang bị dụng cụ học tập, trang thiết bị cần thiết, tối thiểu cho việc
giảng dạy và học tập của học sinh.
- Tạo mọi điều kiện về kinh phí cho hoạt động: Bồi dưỡng chế độ giảng
dạy đội tuyển, trang bị quần áo, trang phục và các chế độ khác do Nhà nước
quy định, nhằm động viên khuyến khích giáo viên thực hiện tốt nhiệm vụ.
3.1.4. Quản lý và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ:

Công tác bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên nói chung và
giáo viên bộ môn GDTC nói riêng là một nhiệm vụ quan trọng của thủ trưởng
đơn vị. Muốn đạt kết quả cao trong giảng dạy thì việc bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp cho giáo viên phải thực hiện hàng năm.
Để công tác này đạt hiệu quả phải chú trọng đến các khâu:
- Triển khai nội dung chuyên môn trong năm học, các nội dung được
tập huấn trong tỉnh, thị xã, quản lý chặt chẽ nền nếp dạy và học của giáo viên
và học sinh, tăng cường công tác dự giờ, thăm lớp để góp ý rút kinh nghiệm
cho giáo viên.
- Chỉ đạo tốt việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh
giá học sinh của giáo viên, khuyến khích giáo viên tích cực ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy học.
- Tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên được tham gia sinh hoạt chuyên
môn dọc do Phòng Giáo dục và Đào tạo tổ chức: bố trí sắp xếp thời khóa biểu
hợp lý để giáo viên có điều kiện tham gia, sắp xếp chuyên môn để giáo viên
đi làm nhiệm vụ coi thi (trọng tài), huấn luyện đội tuyển khi Phòng GD&ĐT
hoặc địa phương điều động để nâng cao năng lực chuyên môn.
- Khuyến khích động viên và tạo điều kiện để giáo viên tự học, tự bồi
dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
3.2.Công tác y tế học đường.
3.2.1. Tổ chức kiểm tra sức khỏe định kỳ cho học sinh
Việc tổ chức kiểm tra định kỳ cho học sinh là việc làm thường xuyên
của các nhà trường trong năm học, nhằm sơ cứu kịp thời các trường hợp ốm

13


đau, tai nạn rủi ro, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho học sinh, tổng hợp theo
dõi trình trạng sức khỏe học sinh.
- Hiệu trưởng phải phối hợp với Trung tâm y tế dự phòng tổ chức tra

kiểm sức khỏe định kỳ cho học sinh vào đầu năm học nhằm phát hiện kịp
thời những học sinh có bệnh tật, đặc biệt là những bệnh học đường: vẹo cột
sống, cận thị, bướu cổ… để có biện pháp phòng chống.
- Sau khi kiểm tra sức khỏe cho học sinh, nhà trường cần thông báo kết
quả kiểm tra sức khỏe cho phụ huynh để phụ huynh theo dõi và có biện pháp
điều trị bệnh cho con em mình.
3.2.2. Tổ chức thực hiện các quy định về vệ sinh trường học,
Vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm; xây dựng
môi trường trường học xanh, sạch, đẹp. Phòng chống các dịch, bệnh, tật trong
trường học (cúm A H1N1, cúm A H5N1, nha học đường, cong vẹo cột sống, cận
thị, mắt hột, lao, sởi, sốt rét, sốt xuất huyết, giun sán, ...), tai nạn thương tích, suy
dinh dưỡng, tác hại của thuốc lá, rượu bia, phòng tránh giảm nhẹ thảm họa
thiên tai, biến đổi khí hậu.
3.2.3. Tăng cường tổ chức các hoạt động ngoại khóa, các hoạt động
GDNGLL và giáo dục truyền thông dân số, giáo dục giới tính, sức khỏe vị
thành niên, kỹ năng sống cho học sinh.
Đây là một họat động cần thiết và hữu ích giúp các em kỹ năng sống,
có ý thức tự chăm sóc sức khỏe cho bản thân. Hiệu trưởng cần chỉ đạo các tổ
chuyên môn, phối hợp với các tổ chức trong nhà trường (Đội TN, Công đoàn)
tổ chức các hoạt động ngoại khóa như: Hoạt động chào mừng ngày Quốc tế
Phụ nữ 08/3 tổ chức ngoại khóa về chuyên đề vệ sinh bạn gái, 1/12 ngoại
khóa về các bệnh HIV, AIDS, tìm hiểu về kỹ năng sống tránh các bệnh trầm
cảm, tự kỷ...
Tích cực đẩy mạnh phong trào xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực, giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng tự bảo vệ mình, tự phòng chống
các bệnh học, các dịch bệnh.
3.2.4. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất

14



Tập trung quan tâm, chú trọng việc hoàn thiện cơ sở vật chất của phòng
y tế. Đầu kinh phí mua sắm các thiết bị y tế, tăng cường tủ thuốc, đảm bảo các
loại thuốc để sơ cứu ban đầu.
Tham mưu với chính quyền địa phương đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm
bàn ghế đúng quy chuẩn, hợp lý với từng khối lớp, xây dựng phòng học bảo
đảm ánh sáng, nhiệt độ.
Xây dựng khuôn viên nhà trường xanh, sạch, đẹp, học sinh có chỗ vui
chơi, thể dục thể thao. Đảm bảo hệ thống nước sạch, lọc kĩ để phục vụ học
sinh.
3.2.5 Bồi dưỡng nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên, cán bộ quản
lý về y tế.
Hiện nay nhà trường chưa có nhân viên chuyên môn về y tế học đường
do vậy cần phải bồi dưỡng nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ giáo
viên kiêm nhiệm công tác y tế học đường.
Việc bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ có thể dưới nhiều hình thức:
- Phối hợp với trạm y tế xã, phường tạo điều kiện cho giáo viên làm
quen với việc sơ cấp cứu, khám và theo dõi sức khỏe... tạo điều kiện cho giáo
viên được đi học thêm lớp sơ cấp y tế.
- Cử giáo viên tham gia các chuyên đề, tập huấn do Sở tổ chức. Hoặc
giáo viên có thể tự học tự bồi dưỡng để nâng cao nghiệp vụ.
4. Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của giáo viên,
nhân viên, học sinh và phụ huynh về công tác GDTCvà YTHĐ.
Nhận thức là tiền đề của hoạt động, có nhận thức đúng mới có hành
động đúng là cơ sở để hướng tới kết quả hoàn thiện. Do vậy, cần thiết phải
nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của GDTC và YTHĐ.
- Đối với giáo viên, nhân viên, học sinh :
Hiệu trưởng nhà trường cần tổ chức tuyên truyền, phổ biến, quán triệt sâu
sắc cho học sinh, giáo viên nhân viên về các Chỉ thị, Nghị quyết của các cấp
các ngành về công tác GDTC, y tế trường học để mọi người hiểu và thực hiện

nghiêm túc.Việc tuyền truyền được diễn ra trong các kỳ họp Hội đồng sư

15


phạm, trong các buổi sinh hoạt ngoại khóa, sinh hoạt tập thể, các tháng chủ
điểm, lễ ra quân (phòng chống HIV, ma túy, vệ sinh an toàn thực phẩm)
- Đối với phụ huynh học sinh :
Làm tốt công tác tuyền truyền đến nhân dân, phụ huynh học sinh về
GDTC và YTHĐ để phụ huynh để phụ huynh hiểu và thực hiện.
Tuyên truyền trong họp phụ huynh học sinh những nội dung: triển khai
luật bảo hiểm y tế, công tác bảo hiểm y tế trong trường học
Động viên phụ huynh học sinh tham gia đóng bảo hiểm y tế cho con em
mình nhằm thực hiện tốt tinh thần tương thân tương ái và có kinh phí để phục
vụ công tác chăm sóc sức khỏe cho học sinh;
Tuyền truyền phong trào “xây dựng trường học thân thiện học sinh tích
cực” để mỗi người đều hiểu và có ý thức thực hiện tốt. Góp phần vào việc
nâng cao hiệu quả công tác giáo dục thể chất và YTHĐ, xây dựng nếp sống
lành mạnh, đẩy lùi tệ nạn,giáo dục nhân cách lối sồng, giảm thiểu các bệnh
học đường cho HS và phòng chống các dịch bệnh, thực hiện tốt mục tiêu giáo
dục toàn diện cho học sinh.
5. Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá khen thưởng.
Thủ trưởng đơn vị cần chú ý đến công tác kiểm tra đánh giá công tác
GDTC và YTHĐ, từng tháng, từng học kỳ...
- Kiểm tra việc thực hiện chương trình của giáo viên: kiểm tra chương
trình chính khóa thông qua phân phối chương trình,
- Kiểm tra việc đánh giá quả kết quả học tập của học sinh của giáo viên
sau mỗi học kỳ và cả năm học.
- Kiểm tra theo dõi các hoạt động giảng dạy của giáo viên, nhân viên y
tế.

- Kiểm tra hồ sơ sổ sách của y tế học đường, việc theo sức khỏe của
học sinh; kiểm tra vệ sinh học đường...
- Kiểm tra, đánh giá các hoạt động GDNGLL, các hoạt động ngoài giờ
chính khóa, đánh giá công tác tổ chức các hoạt động NGLL, công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi...

16


Sau khi có kết quả cần tuyên dương khen thưởng kịp thời những thành
tích của giáo viên và học sinh, phê bình kiểm điểm đúng lúc, đúng cách để
mỗi cá nhân rút kinh nghiệm và làm tốt hơn nữa.

C- KẾT LUẬN
GDTC và YTHĐ có một vị trí quan trọng trong các nhà trường. Mỗi
cán bộ giáo viên, cán bộ quản lý, phụ huynh học sinh, các tổ chức đoàn thể
trong nhà trường, các cấp, các ngành, cần nhận thức đúng đắn vai trò tác dụng
của GDTC và YTHĐ để từ đó có trách nhiệm đẩy mạnh, nâng cao chất lượng
hoạt động của công tác này.
Năm 2011, trước những yêu cầu mới, với mục tiêu và nhiệm vụ của
giáo dục, với sự đổi mới của công tác quản lý, GDTC và YTHĐ sẽ được đặc
biệt quan tâm, một trong những yêu cầu mới đó là các cấp quản lý nâng cao
nhận thức đối với công tác này trong việc giáo dục toàn diện cho học sinh.
Khi nói đến giáo dục toàn diện, người ta nghĩ ngay đến việc giáo dục đồng
thời và đầy đủ cả ba khía cạnh là trí dục, đức dục và thể dục. Trí dục giúp đối
tượng đạt đến một trình độ tri thức phù hợp cần thiết; đức dục hướng đối
tượng tới một nhân cách và một lối sống đúng theo thuần phong mỹ tục; và
thể dục nhằm giúp đối tượng có được một sức khỏe cần thiết. Nếu “rèn đúc”
ra được càng nhiều những con người có đầy đủ những phẩm chất đó, thì xã
hội và nhân loại sẽ càng được nhiều lợi ích.

Đẩy mạnh công tác giáo GDTC và YTHĐ là bảo đảm yêu cầu phát
triển toàn diện, góp phần nâng cao thể trạng, sức khỏe, tầm vóc người Việt
Nam. Vì vậy, các giải pháp hữu hiệu trong việc rèn luyện thân thể, chăm sóc
sức khỏe sẽ được đưa ra trên cơ sở nghiên cứu động cơ, sự ham thích của
người học. Giáo dục thể chất, y tế trường học cũng sẽ được nghiên cứu trong
17


mối quan hệ với nâng cao sức khỏe thể chất của học sinh, kết hợp với công
tác phòng chống các bệnh tật học đường, ngăn chặn các hiện tượng xấu, các tệ
nạn xã hội xâm nhập học đường…

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Thực hiện những giả pháp về nâng cao công tác GDTC và YTHĐ tôi đã
thu được kết quả sau:
- Kết quả về chất lượng giảng dạy chính khóa:
Số HS

Giỏi
SL

Xếp loại học lực
TB

Khá
%

SL

%


Yếu

Kém

SL

%

SL

%

SL

%

345
111 32,2 217 62,9 17
- Kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi:

4,9

0

0

0

0


HSG cấp Thị: 14/345 HS giải đạt tỷ lệ 4,1% tăng 4% so với năm học
trước
HSG cấp Tỉnh: 4/345 HS 1,2% giải đạt tỷ lệ tăng 0,7% so với năm học
trước
- Kết quả xây dựng cơ sở vật chất: Tham mưu với UBND phường tu
sửa được 10 phòng học khang trang, sạch đẹp đảm bảo ánh sáng cho học sinh,
4 công trình vệ sinh hợp quy chuẩn sạch sẽ với tổng kinh phí 1,400.000.000đ.
Huy động Hội phụ huynh HS đóng góp kinh phí xây dựng, vườn cây cảnh,
vườn cây thuốc nam cho nhà trường với kinh phí 7.600.000đ
- Bồi dưỡng 01 giáo viên về công tác Y tế học đường tại Sở giáo dục.
- Tổ chức được 01 lần khám và kiểm tra sức khỏe cho HS toàn trường.
Tuyên truyền và vận động được 153/345 HS tham gia bảo hiểm y tế.
ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ

18


- Đối với Phòng GD&ĐT: Tăng cường công tác kiểm tra và chỉ đạo có
chất lượng sinh hoạt nhóm chuyên môn các môn đặc thù trong toàn thị xã để
nâng cao chất lượng giảng dạy môn GDTC.
- Đối với Sở GD&ĐT: Tham mưu với UBND tỉnh về việc thực hiên
Thông tư 35/2006/TTLT-BGD-ĐT-BNV ngày 23/8/2006 V/v "Hướng dẫn
định mức biên chế ở các cơ sở phông thông công lập" để các cơ sở giáo dục
có nhân viên y tế đúng chuyên môn nghiệp vụ, tạo điều kiện cho các nhà
trường chăm sóc sức khỏe học sinh có hiệu quả hơn.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã áp dụng trong năm học 20102011 của đơn vị trường THCS Xi Măng. Rất mong được sự đóng góp của đồng
nghiệp, các cấp lãnh đạo để tôi có được những giải pháp hữu hiệu hơn trong
việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng quản lí ngày một toàn diện hơn. Xin chân
thành cảm ơn!

NGƯỜI THỰC HIỆN

Lê Thị Liên

19


Hết

20


A- ĐẶT VẤN ĐỀ
I- LỜI MỞ ĐẦU
Từ xa xưa thể dục thể thao đã được xem như một bộ phận không thể
thiếu của nền văn hóa nhân loại nhằm hoàn thiện con người với quan niệm
vận động là sức khỏe, là sự sống. Thể dục thể thao mang lại sự phát triển hài
hòa của một cá thể: "Trong sạch về mặt đạo đức, phong phú về mặt tinh thần,
hoàn thiện về mặt thể chất". Nhận thức được vai trò to lớn của thể dục thể
thao, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa thể dục thể thao vào hàng quốc sách trong
chiến lược phát triển con người và coi đó là biện pháp: "Bồi bổ sức khỏe hữu
hiệu, ít tốn kém, làm cho khí huyết lưu thông, tinh thần đầy đủ và già trẻ, gái,
trai ai cũng có thể làm được", đồng thời Bác cũng kêu gọi toàn dân tập thể
dục: "Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng
cần có sức khoẻ mới thành công. Mỗi một người dân yếu ớt tức là cả nước
yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khoẻ là cả nước mạnh khoẻ".
Xuất phát từ quan điểm trên, trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội
của đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vị trí của công tác thể dục
thể thao đối với thế hệ trẻ xem đó là động lực quan trọng và khẳng định cần
có chính sách chăm sóc giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) thế hệ trẻ Việt Nam

phát triển hài hoà về các mặt thể chất, tinh thần, trí tuệ và đạo đức.
Đảng, Nhà nước và Bác Hồ luôn xem sức khỏe là tài sản quí báu nhất
và là quan trọng nhất đối với mọi tầng lớp xã hội và quốc gia. Vì vậy, giáo
dục thể chất (GDTC) là một trong mục tiêu giáo dục toàn diện của Đảng và
Nhà nước ta, nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục thể chất được
hiểu là: “Quá trình sư phạm nhằm giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, hoàn thiện
về thể chất và nhân cách, nâng cao khả năng làm việc, và kéo dài tuổi thọ
của con người”. Giáo dục thể chất có vai trò rất quan trọng trong việc rèn
luyện học sinh về thể lực để nâng cao sức khoẻ với mục tiêu "Khỏe để học
tập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc", "Khỏe để chinh phục đỉnh cao tri thức".
Cùng với việc đẩy mạnh công tác giáo dục thể chất, y tế học đường
(YTHĐ) có vai trò cực kỳ quan trọng, là một bộ phận quan trọng đã góp phần
không nhỏ trong việc chăm sóc và giáo dục học sinh giữ gìn sức khoẻ, giúp
các em có điều kiện học tập tốt, lao động tốt.
21


Vụ trưởng Vụ công tác học sinh, sinh viên Bộ GD&ĐT Phùng Khắc
Bình cho biết, công tác giáo dục thể chất và y tế trường học sẽ được đặc biệt
quan tâm với yêu cầu các cấp quản lý nâng cao nhận thức đối với công tác
này trong việc giáo dục toàn diện cho học sinh, sinh viên. Theo đó, các giải
pháp hữu hiệu trong việc rèn luyện thân thể, chăm sóc sức khỏe sẽ được đưa
ra trên cơ sở nghiên cứu động cơ, sự ham thích của người học. Giáo dục thể
chất, y tế trường học cũng sẽ được nghiên cứu trong mối quan hệ với nâng
cao sức khỏe thể chất của học sinh, sinh viên kết hợp với công tác phòng
chống các bệnh tật học đường, ngăn chặn các hiện tượng xấu, các tệ nạn xã
hội xâm nhập học đường... Bộ GD-ĐT sẽ tập trung nghiên cứu, xây dựng các
mô hình điểm về công tác giáo dục thể chất và y tế trường học tại các bậc học,
các địa phương để nhân rộng và phát huy vai trò tích cực của giáo dục thể
chất và y tế trường học trong công tác giáo dục và đào tạo.

Như vậy công tác giáo dục thể chất và y tế học đường là một công tác
quan trọng và không thể thiếu được trong các cơ sở giáo dục hiện nay. Quan
tâm đến sức khoẻ các em học sinh trong cơ sở giáo dục là vấn đề cần thiết và
cũng là nhiệm vụ các cơ quan, các cấp, các ngành. Đặc biệt là các nhà quản lý
giáo dục, làm thế nào để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác GDTC –
YTHĐ trường học là niềm trăn trở của mỗi cán bộ quản lý giáo dục nói chung
và bản thân tôi – thủ trưởng đơn vị - nói riêng.
II/ THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Thực trạng chung: ( Đánh giá qua kênh thông tin)
Công tác y tế học đường dù rất được quan tâm nhưng vẫn chưa được
đầu tư đúng mức, phần lớn các trường chưa có phòng y tế, chưa có nhân viên
y tế. Tại Hội nghị “Đánh giá tình hình thực hiện công tác y tế trường học”
ngày 03/12/2010 ở Cần Thơ do Bộ Giáo dục & Đào tạo kết hợp Bộ Y tế tổ
chức đã nhận định: Hiện nay mạng lưới y tế trường học trong cả nước thiếu
và yếu cả về số lượng lẫn chất lượng, vẫn còn 30% số trường chưa có cán bộ
y tế trường học chuyên trách, gần 35% số trường không có phòng chăm sóc y
tế, thuốc, trang thiết bị y tế chăm sóc sức khoẻ cho học sinh, thiếu công trình
vệ sinh nước sạch… Nguyên nhân dẫn đến tình trạng yếu kém trong công tác

22


y tế trường học là do thiếu kinh phí, thiếu cán bộ chuyên trách và thiếu sự
phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành, đoàn thể trong công tác này. Cán bộ y
tế trường học hầu như không có bất cứ khoản phụ cấp nào khác ngoài lương
dẫn đến thực trạng nhiều người đang làm công tác này có khuynh hướng bỏ
việc.
GDTC&YTHĐ trên địa bàn Thị xã Bỉm Sơn cũng rơi vào thực trạng
chung là không được chú trọng và quan tâm. Các nhà trường THCS mới chỉ
hoàn thành việc thực hiện chương trình giảng dạy môn Thể dục với 02 tiết/

tuần, thực hiện đúng chương trình quy định. Song, chất lượng giảng dạy
không được nâng lên bởi cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học còn thiếu
nhiều như sân bãi, dụng cụ giảng dạy... Các trường phần lớn cho học sinh học
và tập luyện trên sân trường hoặc sân chơi, bãi tập chưa đúng quy cách, chưa
đảm bảo yêu cầu chuẩn, kể cả những trường đã được công nhận đạt chuẩn
Quốc gia. Đội ngũ giáo viên thừa nhưng chất lượng đội ngũ chưa cao, một vài
giáo viên cao tuổi không nhiệt tình công tác, một số giáo viên năng lực
chuyên môn hạn chế. (giáo viên môn đặc thù nhưng lại không có năng khiếu
về bộ môn).
Công tác y tế học đường trong các nhà trường còn nhiều bất cập, tất
cả các trường THCS trên địa bàn thị xã phần lớn không có cán bộ y tế để
chăm sóc và theo dõi sức khỏe cho học sinh. Hiện nay trên địa bàn thị xã có
08 trường THCS trong đó có 03 trường được công nhận đạt chuẩn Quốc gia
và đã có phòng y tế học đường, nhưng không có nhân viên y tế đúng chuyên
môn nghiệp vụ. Các nhà trường phải cử cán bộ giáo viên kiêm nhiệm phụ
trách phòng y tế học đường, những giáo viên này hàng năm được cử đi tập
huấn tại Sở GD&ĐT về nghiệp vụ y tế học đường, nhưng do không có chuyên
môn nên họ chỉ có thể giúp nhà trường quản lý hồ sơ sổ sách, sơ cứu ban đầu
cho học sinh khi bị ốm đau đột xuất còn việc theo dõi, chăm sóc sức khỏe cho
học sinh trong năm học hoặc khóa học thì ngoài khả năng của họ.
2. Thực trạng công tác giáo dục thể chất và y tế học đường tại trường
THCS Xi Măng.
2.1. Về thái độ, ý thức, tinh thần học tập bộ môn và sức khỏe của học sinh:
23


Quan niệm của học sinh về bộ môn: học sinh coi đây là môn phụ,
không mang lại thành tích học tập và không ảnh hưởng nhiều đến kết quả học
tập chung. Nhận thức của học sinh về bộ môn còn chưa sâu sắc, học sinh chưa
thấy được vai trò, tầm quan trọng của môn học đối với bản thân. Trong khi

thực tế hiện nay, tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan khiến cho HS không
còn thời gian vui chơi, và áp lực học tập nhiều học sinh phải thay đổi nếp sinh
hoạt gây xáo trộn sinh học. Và để không bị trễ giờ học, nhiều em đã phải
thường xuyên nhịn ăn sáng, hoặc chỉ ăn qua quýt, vội vã, nên rất ảnh hưởng
đến sức khoẻ. Ngoài buổi học chính khoá ở trường, các em còn phải đi học
thêm, có khi tan giờ học buổi trưa hoặc chiều là các em lao ngay đến nhà thầy
để học thêm. Đến 9, 10 giờ tối mới về đến nhà, chỉ kịp tắm rửa, ăn qua loa
mấy miếng lại phải chuẩn bị bài cho ngày hôm sau. Với lịch trình trong một
ngày như thế, các em không có thời gian dành cho việc rèn luyện sức khoẻ,
vui chơi giải trí, việc học đã gần như vắt cạn sức các em.
Mặt khác, nhiều phụ huynh quan niệm môn Thể dục là môn phụ, vài ba
động tác thể dục không mang lại lợi ích gì cho HS, chỉ làm các em mệt mỏi,
uể oải không muốn học văn hóa. Một số phụ huynh chạy theo tâm lý thành
tích, muốn con học hành đỗ đạt cao mà không quan tâm đến thể lực của các
em, không nhiệt tình động viên các em tham gia học tập môn học này. Điều
này, khiến các em ỷ lại, lười vận động dẫn đến sức khỏe giảm sút. Một số em
rơi vào tình trạng suy nhược thần kinh, thiếu dinh dưỡng, không bảo đảm sức
khoẻ. Nhiều em đến lớp trong trạng thái gà gật, có khi bị hạ can xi, phải cấp
cứu. Trong khi đó, nhân viên y tế không có chuyên môn nghiệp vụ nên không
thể tư vấn giúp đỡ các em để các em có ý thức rèn luyện và giữ gìn sức khỏe.
2.2. Về đội ngũ giáo viên và nhân viên y tế:
Đội ngũ giáo viên làm công tác GDTC: hiện nay nhà trường có 03 giáo
viên dạy môn Thể dục được đào tạo theo đúng trình độ chuẩn của giáo viên
giảng dạy ở cấp học, trong đó 01 GV được tạo trình độ đại học, 2 giáo viên
đào tạo trình độ cao đẳng. Nhìn chung giáo viên đều có trách nhiệm trong
công tác giảng dạy nhưng chưa thực sự nhạy bén trong công việc, bộ phận
giáo viên cao tuổi có tính ỷ lại, chưa có đổi mới trong giảng dạy, xác định

24



mục tiêu giáo dục không rõ ràng, việc tiếp cận với tri thức mới thời hội nhập
vào dạy học chưa được thể hiện rõ nét.
Về công tác giảng dạy, giáo viên mới chỉ dừng lại giảng dạy chương
trình nội khóa, đảm bảo được số tiết quy định, việc nhận thức được vai trò
quan trọng của giáo dục thể chất trong nhà trường còn non kém. Nội dung
hoạt động thể thao ngoại khoá trong nhà trường còn nghèo nàn, chưa thực sự
tạo được sự hứng thú cho học sinh.
Đội ngũ giáo viên làm công tác y tế học đường: Tuy được đánh giá là
rất cần thiết nhưng nhà trường chưa có nhân viên y tế, vì hiện nay tỉnh Thanh
Hóa chưa áp dụng thông tư 35/2006/TTLT-BGD-ĐT- BNV nên nhà trường
vẫn không có tiêu chuẩn biên chế cho cán bộ y tế học đường. Nhân viên y tế
của nhà trường hiện nay không được đào tạo về y tế, không phải là bác sĩ, y tá
mà là một giáo viên có trình độ chuyên môn khác được giao cho kiêm nhiệm
làm nhân viên y tế, phụ trách chăm sóc sức khỏe, sơ cấp cứu ban đầu cho học
sinh toàn trường.
Về chuyên môn, giáo viên phụ trách công tác này mới chỉ được tập
huấn lớp chuyên trách nghiệp vụ trong thời gian 20 ngày, vì vậy kỹ năng
nghiệp vụ còn non kém chỉ có thể làm được những việc như: rửa vết thương,
băng bó vết thương cho học sinh, quản lý hồ sơ sổ sách…
2.3. Về cơ sở vật chất của nhà trường:
Nhìn chung cở sở vật chất của nhà trường hiện nay tương đối đầy đủ,
nhà trường đã có hệ thống nước sạch cho học sinh sử dụng, có máy lọc nước
đảm bảo vệ sinh. Có đầy đủ các phòng học, bàn ghế đảm bảo quy cách, ánh
sáng, khuôn viên nhà trường thoáng mát, vệ sinh sạch sẽ. Có đủ các phòng
học chức năng, phòng hiệu bộ, phòng y tế học đường được trang bị tủ thuốc,
các dụng cụ y tế…
Tuy nhiên, do cở sở vật chất xuống cấp nên sự sắp xếp chưa được khoa
học, đẹp mắt. Do địa hình trường quanh co phức tạp mà kinh phí hạn hẹp
chưa thể cải tạo để san lấp mặt bằng vì vậy sân chơi bãi tập của nhà trường

chưa đảm bảo yêu cầu.
2.4. Về công tác lãnh đạo, quản lý của nhà trường:
Từ năm 2003 – 2004 sau khi được công nhận đạt chuẩn Quốc gia, Ban
25


×