Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

TÌM HIỂU về đặc TRƯNG gốm sứ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.44 KB, 9 trang )

TÌM HIỂU VỀ ĐẶC TRƯNG GỐM SỨ
TRUNG QUỐC THỜI NHÀ MINH
 SV. HOÀNG THỊ TRÂM

Có thể thấy, gốm sứ Trung Quốc có bề dày lịch sử đáng ngưỡng mộ
hơn 10.000 năm. Trải qua nhiều thời đại, cùng với những thăng trầm của lịch
sử, gốm sứ Trung Quốc không ngừng chuyển mình, thay đổi và phát triển
vươn lên đỉnh cao, để từ đó cho ra những dòng gốm và sản phẩm gốm sứ ấn
tượng, đặc sắc. Gốm sứ Trung Quốc phát triển từ gốm thô đến gốm mịn, từ
gốm không phủ men đến gốm tráng men, từ gốm gia dụng đến gốm trang trí,
từ gốm sứ trắng đến gốm sứ màu. Quá trình sản xuất và ứng dụng gốm sứ
Trung Quốc, không chỉ dừng lại ở những sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu
sinh hoạt, mà còn phát triển thành sản phẩm nghệ thuật tinh tế mang tính
thực dụng và tính thẩm mỹ cao. Cùng với bước chân của người Trung Quốc,
gốm sứ Trung Quốc đã đến được khắp các châu lục trên thế giới. Trong đó
gốm sứ thời Minh cũng có thể nói là thời kỳ mà gốm sứ Trung Quốc phát
triển mạnh mẽ và vô cùng thu hút với những mẫu mã, kiểu dáng và hoa văn
ấn tượng. Sản xuất gốm sứ Trung Quốc thời kỳ này phát triển hưng thịnh
nhờ luôn nghiên cứu những phương pháp sản xuất mới và đa dạng.
1. Lịch sử phát triển
Vào năm 1368, Chu Nguyên Chương nổi dậy lật đổ đế chế ngoại tộc
Nguyên, lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Hồng Vũ, đổi quốc hiệu là
Minh, đóng đô ở Nam Kinh. Sau khi nhà Minh đóng đô ở Nam Kinh thì lò
Ngự (lò chế tác đồ phục vụ cho nhà vua và hoàng gia) cùng được xây dựng
ở trấn Cảnh Đức. So với các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông vẫn tiếp tục sản
xuất đồ gốm như xưa thì trấn Cảnh Đức là trung tâm sản xuất đồ gốm lớn
nhất Trung Hoa thời bấy giờ với những kỹ thuật vô cùng tinh xảo.


Choé sứ hoa lam và nhiều màu (thế kỷ 16-17)
Đồ gốm sứ thời Minh phát triển trên cơ sở kế thừa kỹ thuật sản xuất


Tống – Nguyên và đổi mới rất nhanh trên nhiều phương diện. So với giai
đoạn Tống – Nguyên, đồ gốm sứ thời Minh lại có vẻ phong phú, đa dạng
hơn nhiều cả về loại hình, các loại men và đề tài trang trí.
Đây cũng là thời kỳ đăng quang của gốm sứ hoa lam vì người Trung
Quốc đã mua được nguyên liệu côban từ Ả Rập để vẽ lên các sản phẩm gốm
sứ và tạo ra những sản phẩm gốm hoa lam (thanh hoa) tuyệt đẹp cung cấp
cho thị trường trong nước và xuất khẩu và được nhiều nước trên thế giới ưa
chuộng.
Dưới thời Minh, người làm gốm cũng chế ra men nhiều màu (tam
thái, ngũ thái) với kỹ thuật và nghệ thuật tô, vẽ màu phong phú đầy sáng tạo.
Thời kỳ này đồ sứ hoa lam và đồ sứ vẽ nhiều màu trên men chiếm số lượng
lớn nhất. Các sản phẩm gốm sứ không chỉ mang tính chất sử dụng mà đó còn
là những tác phẩm nghệ thuật sống động, quyến rũ. So với những giai đoạn


trước, xương gốm thời Minh mỏng đều hơn, độ kết tinh của xương mịn,
chắc, men trắng và dày hơn.
2. Các loại hình gốm sứ thời Minh
Dựa vào kết quả các cuộc khai quật và một số sản phẩm gốm sứ thời
Minh hiện còn trong các viện bảo tàng, các nhà nghiên cứu thống kê có ít
nhất 14 loại hình được sản xuất trong thời kỳ này. Đó là: âu, bát, bình, chậu,
chén, choé, chum, đĩa, hộp, hũ, kendy, lọ, nậm, tượng trong đó chiếm số
lượng lớn nhất là bát và đĩa.
• Âu có nắp và chia ra 2 kiểu: kiểu miệng rộng hơi cúp, thành cong
khum, đế thấp, lõm; và kiểu miệng đứng, thành hơi cong, đế thấp,
lõm.
• Bát gốm sứ thời Minh có 5 kiểu: 1- Bát có miệng loe, thành cong,
lòng sâu, đế thấp, lõm chiếm đa số; 2- Bát có miệng loe rộng, gờ
miệng cắt khấc, thành vát, đế nhỏ, thấp lõm; 3- Miệng loe bẻ, thành
cong, đế thấp và lõm; 4- Miệng loe, thành hơi cong, lòng cạn, đế thấp;

5- Miệng đứng, thành cong, lòng sâu, đế hơi cao, lõm.
• Bình có 3 chiếc chia 3 kiểu: 1- Miệng nhỏ và đứng, cổ hình trụ, vai
gù, thân trên phình to, thuôn dần xuống đế, đế lõm; 2- Miệng nhỏ và
loe, gờ miệng vê tròn, cổ eo, vai phình rộng, thân dáng chóe, đế loe,
lõm; 3- Miệng đứng, cổ cao hình trụ, thân hình cầu, đế thấp, lõm.
• Chậu miệng loe xiên, thành cong, lòng sâu, giữa hơi lồi, đế lõm không
chân.
• Chén gốm sứ thời Minh có 3 kiểu: 1- miệng loe, thành cong ưỡn, đế
thấp, lõm; 2- Miệng đứng, thành hơi cong, đế thấp, nắp hình chỏm
cầu, núp nắp cao có tán tròn dẹt; 3- Miệng loe, thành đứng, đế cao, loe
và rỗng.


• Chóe có miệng rộng và đứng, cổ ngắn, vai phình, thân thuôn, đế bằng,
có nắp.
• Chum có miệng rộng và đứng, cổ ngắn, vai phình, thân trên to, thu
nhỏ vè đế, đế lõm.
• Đĩa có 6 kiểu: 1- Miệng loe, thành cong, đế thấp, lõm; 2- Miệng loe
xiên, thành cong gãy, lòng nông, đế thấp, lõm; 3- Miệng loe rộng,
thành vát, đế rộng, thấp, lõm; 4- Dáng chậu, miệng hoe xiên, thành
cong ưỡn, lòng sâu, đế thấp, lõm; 5- Đĩa nhỏ hình vuông uốn góc,
thành vát, bòng nông, đế thấp, lõm; 6- Bộ đĩa gồm 1 đĩa bát giác ở
giữa và 8 đĩa ngũ giác xung quanh.
• Hộp có 7 kiểu: 1- Hình chữ nhật uốn góc gồm 2 phần ghép lại; 2Hình tròn dẹt gồm 2 phần ghép lại. Thân hộp hình đĩa, đế thấp, lõm,
nắp cong khum; 3- Hình tròn dẹt gờm 2 phần ghép lại, tạo hình quả bí
đỏ hoặc thân và nắp trang trí in nổi hoa lá, con vật; 4- Hộp tròn, nắp
hình chỏm càu, mặt nắp in nổi rùa, rắn, tôm, cua; 5- Hộp tròn, nắp
hình bán cau gồm 2 tầng, tầng trên hình chỏm cầu in nổi băng cánh
cúc, đỉnh có núm đi động được; 6- Hộp hình bát giác. Mặt nắp chia 8
ô hình thang, trong mời ô in nổi một bông hoa. Núm nắp tròn hoặc tạo

hình con cóc; 7- Hộp tạo hình con thú nằm gồm 2 phần: thân hộp là
phần chân và bụng thú, nắp 1à phần đầu và lưng thú.
• Hũ có 2 kiểu; 1- Miệng rộng, gờ miệng vê tròn, cổ ngắn, vai xuôi có 4
tai nam ngang, thân hình trũng thuôn dần về hai đầu, đế hơi lõm giữa,
không phủ men. Quanh thân trang trí nổi bằng răng cưa hoặc khắc
chìm 3 đường chỉ và 4 khóm địa lan; 2- Miệng nhỏ, gờ miệng vê tròn,


cồ ngắn, vai xuôi, thân trên phình rất to, thu nhỏ về đế, đế hơi lòm
giữa và để mộc.
• Kendy (bình rượu có vòi hình bầu vú) có miệng đứng, cổ cao hình trụ,
đoạn gần miệng có gờ rộng, vai xuôi, bụng phình tròn đều, vòi hình
bầu vú, đế thấp, lõm.
• Lọ có 6 kiểu: 1- Miệng nhỏ và loe, cổ thắt, thân hình cầu (hoặc cầu
dẹt), đế lõm (hoặc bằng); 2- Miệng đứng hoặc hơi 1oe, vai phình, thân
dáng chuông, đế bằng (hoặc lõm) để mộc; 3- Miệng khoét tròn (rộng
hoặc hẹp), thân hình cầu dẹt, đế lõm không chân; 4- Miệng khoét tròn,
thân tròn dẹt chia nhiều múi nổi tạo hình quả bí đỏ, nắp hình bông hoa
6 cánh hoặc hình tròn dẹt trang trí in nổi; 5- Miệng 1oe xiên, cổ hơi
cao, thân tạo hình quả bí đỏ, đế lõm không chân; 6- Miệng 1oe, cổ cao
hình trụ, vai hơi ngang, thân dáng chuông thấp, đế rộng, thấp lõm
không phủ men.
• Nậm có 2 kiểu dáng khác nhau: 1- Nậm hoa lam có miệng loe, cổ cao,
vai phình trang, bụng hình cầu, đế thấp lõm; 2- Nậm chiều màu có
dáng củ tỏi, miệng đứng, cổ cao. Phần cổ gần miệng hơi phình, vai
xuôi, bụng dưới phình to, đế thấp bằng, đế mộc.
• Tượng: Nhóm tượng có nhiều loại, trong đó đặc sắc là tượng gốm
men nhiều màu tạo hình em bé ôm bình hoa sen đứng trên bệ hình
vuông, trên đầu kết nơ, miệng nở nụ cười tươi, mình mặc quần áo và
yếm yếm hoa.


3. Về hoa văn gốm sứ thời Minh
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, nghệ thuật đồ họa Trung Quốc đã để
lại hệ thống đồ án hoa văn trang trí trên gốm sứ vô cùng phong phú. Kế thừa
và phát huy, đồ gốm sứ thời Minh có hoa văn trang trí bao gồm từ những
băng hoa văn hình học làm đường diềm cho đến những bức tranh phong
cảnh sơn thuỷ, lâu đài, nhân vật, phản ánh nhũng điển tích và sinh hoạt; từ
động vật sống trên cạn, các loài côn trùng đến nhưng loài thuỷ sinh… tất cả
đều được diễn tả sinh động qua đề tài, bố cục, đường nét, hình trang trí có
ngụ ý, biểu tượng, mang nội dung cụ thể.


• Hoa văn nhân vật: Theo các học giả nghiên cứu về gốm sứ Trung
Quốc thì từ thời nhà Tống đề tài người mới được trang trí trên đồ gốm
sứ. Những hình người được vẽ trong các tư thế sinh hoạt với lối y
phục đời thường như hình người trong tư thế đứng, mình mặc áo
choàng dài, người bắn cung và thiếu nữ, người chơi đàn và một người
cầm quạt đứng trước lư hương đang tỏa khói. Đến thời Minh thì đạo
Lão thịnh hành và đề tài này cũng được thể hiện cả trên đồ gốm sứ
thời Minh, đó là bộ 8 đĩa, mỗi đĩa vẽ một vị tiên trong Bát tiên đạo
Lão hoặc một vị thần trong truyền thuyết của Trung Quốc: Hán Chung
Ly, Trương Quả Lão, Hàn Tương Tử, Hà Trên Cô, Tào Quốc Cựu,
Lam Thái Hòa…
• Hoa văn động vật: Gốm thời Minh vẽ nhiều loại cầm, thú, thuỷ sinh,
côn trùng, bò sát.
o Nhóm thú: Rồng là linh thú được vẽ nhiều nhất trên các vật
dụng gốm sứ thời Minh. Hai rồng có cánh đuổi nhau được vẽ
trên bát hoa lam, rồng năm móng vờn ngọc giữa sóng biển và
mây trên bình, rồng năm móng được vẽ trong ô tròn thành
ngoài chum sứ men trắng vẽ nhiều màu cùng với sóng nước.

Thành ngoài bát hoa lam thường vẽ đôi rồng và phượng đuổi
nhau. Kỳ lân cũng là linh thú hay được vẽ trên gốm sứ thời
Minh. Theo quan niệm của người Trung Quốc, lân biểu hiện
cho điềm lành vì nó chỉ xuất hiện vào thời thái bình. Sư tử được
coi là đồng loại của kỳ lân. Sư tử được vẽ giữa hoa lá trên thành
ngoài choé nhiều màu hoặc vẽ trong tư thế đang đùa với quả
cầu (sư tử hí cầu). Nai được vẽ trên lọ hoa lam với tư thế đứng
trong ô hoặc kết hợp với cây tùng trong đồ án tùng – lộc trên
các đĩa hoa lam. Nai còn đứng trong đồ án tam hữu trên thành
ngoài bát hoa lam cùng khỉ và vẹt. Ngoài ra, còn có 2 hoặc 3
con ngựa được vẽ trong tư thế phi nước đại trên thành lọ hoa
lam, đàn sóc giữa những chùm nho trên choé hoa lam và nhiều
màu…
o Nhóm lông vũ: Gồm có phượng, hạc, cò, vịt, công, vẹt, gà,
thiên nga. Phượng là giống chim thiêng đem bại điềm lành, báo
hiệu thời thái bình thịnh trị và biểu trưng cho phú quý. Hình
tượng con cò được vẽ cùng hoa sen. Vịt được vẽ cùng hoa sen
trong đồ án liên – áp ở thành ngoài bát hoa lam và có đĩa hoa


lam vẽ bốn con thiên nga trong hồ sen. Gà được vẽ trên nắp hộp
sứ trắng vé nhiều màu bên hoa mẫu đơn thường là vẽ đôi gà
giữa đám cỏ cây, hoa lá. Ngoài ra còn có chim công được vẽ
trên bát hoa lam, vẹt ở thành ngoài bát, hạc ở thành trong đĩa
hoa lam…
o Nhóm côn trùng: thành ngoài mai bình sứ trắng cùng hoa cúc
trong đề tài cúc – điệp thì chuồn chuồn được vẽ ở thành ngoài
đĩa hoa lam.
o Nhóm thủy sinh và lưỡng cư: Đề tài cá nhảy trên sóng nước
được vè ở giữa lòng bát, cá ngoi đầu trên mặt nước ở đĩa. Cá

còn được in nổi trên nắp hộp men nâu đen cùng sóng nước, mặt
nắp hộp men nâu in nổi rùa, rắn, tôm, cua… và tạo hình con cóc
trên núm nắp hộp gốm men xanh…
• Hoa văn thực vật: Những đồ án trang trí lấy trong thiên nhiên như hoa
quả, cây cỏ được sử dụng nhiều nhất trên gốm sứ thời Minh. Hoa sen
được vẽ thành nhiều khóm trong hồ nước, hoa sen được vẽ cùng các
chùm quả đào, cựu, nho, sen còn được dùng kết hợp trong đề tài trang
trí sen – vịt ở bát hoa lam, sen còn được trang trí cùng chữ Phạn ở
thành ngoài bát hoặc in nổi trên nắp hộp gốm men xanh lục. Hoa cúc
được vẽ trên bình sứ nhiều màu cùng hoa mẫu đơn cùng tùng và trúc.
Hoa cúc còn được in nổi trên mai bình sứ trắng cùng con bướm. Hoa
mai kết hợp với cành tùng trong đồ án “triền chi” quanh thành ngoài
bát hoa lam, hoa mai còn được in nổi trên nắp hộp gốm men xanh lục
trong đồ án mai – điểu. Hoa mẫu đơn ngoài trang trí cùng các loài hoa
khác trên choé sứ nhiều màu, ngoài ra còn được vẽ cùng các loài cầm
thú như sư tử trên chóe. Ngoài ra còn có các loại hoa dây, địa oan…
cũng được vẽ trên bát, đĩa, bình gốm sứ thời Minh.
• Bên cạnh các loài hoa còn có nhiều loài quả được sử dụng làm đồ án
trang trí như chùm nho, chùm lựu trong bòng bát hoa 1am. Có chiếc
đĩa men vàng vẽ có mặt cả ba chùm lựu (phúc), nho (lộc), đào (thọ)
trong đề tài tam đa. Nho còn được vẽ trên thành ngoài chóe cùng với
bầy sóc. Đề tài tứ quý còn có mặt tùng, trúc, sen, đào kết hợp với
nhau…
• Hoa văn đường diềm thường chia băng, chia ô quanh phần miệng, vai
hay phần chân đồ gốm. Băng cánh hoa sen là một trong những hoa


văn được sử dụng 1àm đường diềm nhiều nhất. Loại này bao gồm
cánh sen đầu vuông trên bát hoa lam, cánh sen đầu nhọn trên vai các
lọ hoa lam, cánh sen nghiêng trên bát hoa lam. Băng hoa bốn cánh

trong hình thoi được vẽ trên miệng bát hoa lam hay trên miệng bình
men trắng vê nhiều màu. Trên các thành miệng trong và ngoài bát men
trắng vẽ nhiều màu (N 86, 87) hoặc quanh cổ các bình vẽ nhiều màu
thường thể hiện các dải hoa lá hoặc các cành hoa. Các loại lá cây cũng
được sử dụng thành băng trang trí trên gốm sứ thời Minh. Băng tàu lá
chuối được vẽ trên vai và giáp đế chum sứ men trắng, băng hoa văn
sóng nước được vẽ khâu nhiều quanh chân đế chum nhiều màu…
• Ngoài ra còn có các kiểu trang trí đường diềm khác của gốm sứ thời
Minh như băng chữ T ở thành miệng trong bát hoa lam, băng dải xoan
ở thành ngoài miệng bát, băng vạch chéo trong tam giác ở gờ nắp
chóe, chữ S gấp khúc trên gờ miệng bát, băng liên hoàn sơn thủy,
đình, liễu trên bát hoa lam…
4. Các loại men gốm sứ thời Minh
• Men lam: Gốm thời Minh sử dụng vẽ lam dưới men trắng khá điển
hình như bát, đĩa, lọ, nậm, chén, kendi. Men lam được dùng vẽ hoa lá
dưới nền men vàng. Men lam vẽ dưới men trắng trong lấn nung thứ
nhất kết hợp vẽ nhiều màu qua lần nung thứ hai ở nậm nhiều màu.
Men lam được dùng viết minh văn trên miệng bình nhiều màu, dưới
đế đĩa đỏ nâu hay trên chén sứ men trắng.
• Men nhiều màu: Ngoài men lam nặng lửa ở bần nung thứ nhất, gồm
thời Minh còn dùng men nhiều màu ở lần nung thứ hai, gồm màu
xanh xám, đỏ, vàng thường vẽ ở choé và nậm.
• Men vàng: được sử dụng với sắc độ đậm ở mảnh đế lọ, đĩa, chum. Với
sắc độ nhạt hơn ở choé có nắp, tượng, …
• Men đỏ: Men đỏ được vẽ trên bát, choé và nậm. Men đỏ nâu sận được
phu trên đĩa, sắc nhạt hơn được vẽ trên bình nhiều màu. Việc sử dụng
men đỏ là một sự chứng tỏ kỹ thuật men sứ đã đạt đến đỉnh cao trong
lịch sử gốm sứ Trung Hoa.
• Men xanh lục: Men xanh lục sần vẽ trên chum hay phủ ngoài 1ọ, hộp.
Men xanh lục còn được vẽ trên bát và choé.



• Men ngọc: thường phủ cả thành trong và ngoài đĩa.
• Men trắng: phủ trên chén, lọ, mai bình, bát, đĩa và chậu.
• Men xám: được phủ trên đĩa vè nhiều màu
• Men nâu: được phủ ngoài hộp có nắp…
Đặc biệt thời Minh đã bắt đầu phổ biến việc dùng minh văn, thể hiện
dấu niên hiệu trên đồ gốm sứ và được thể hiện bằng cách viết hoặc khắc
chìm. Có bát hoa 1am trong lòng viết chữ Hỷ, thành ngoài viết 4 chữ
Phương truyền vạn cổ hoặc Vạn cổ trường xuân. Niên hiệu vua thường được
dùng 4 chữ như Tuyên Đức niên tạo, Thành Hóa niên chế hoặc 6 chữ Đại
Minh Gia Tĩnh niên chế, Đại Minh Vạn Lịch niên chế. Nhưng cá biệt có sản
phẩm chỉ viết 2 chữ Đại Minh. Minh văn thể hiện bằng khắc chìm chỉ có
dòng chữ Đại Minh Thành Hóa niên chế thường khắc dưới đế theo kiêu chữ
chân và chưa thấy trường hợp nào viết chữ triện.
5. Kết luận
Sự xuất hiện của gốm sứ là biểu trưng cho việc loài người đã chinh
phục được nước, lữa và bùn đất, là kết quả cho thấy con người có khả năng
cải tạo môi trường vật chất trong những điều kiện kỹ thuật nhất định. Quá
trình sản xuất và ứng dụng gốm sứ, không những đánh dấu mức độ tinh tế
hóa sinh hoạt của loài người qua sự phân bố về mặt hình thái và sự phát triển
không ngừng về mặt kỹ thuật và trí tuệ con người trong thực tế, mà còn phát
triển các sản phẩm nghệ thuật mang tính thực dụng và tính thẩm mỹ.
Nhà sử học Trung Quốc nổi tiếng sống vào thời cổ đại Tư Mã Thiên
đã khái quát một cách sinh động về đồ gốm mà thời xưa sang chế là "đào vu
hà tân" và "tác thập khí". Sự xuất hiện đồ gốm đã nâng cao chất lượng cuộc
sống con người, không chỉ đem lại cho con người những phát triển về văn
minh vật chất mà còn có cả sự phong phú về đời sống tinh thần. Cho dù
những nghệ nhân làm gốm nghệ thuật thuở sơ khai từ hơn một vạn năm
trước đã không còn nữa nhưng những sản phẩm của họ đã để lại cho chúng

ta cả kho tàng thông tin về thời viễn cổ, ví như bạn say mê lịch sử và muốn
nghiên cứu nguồn gốc của từng món đồ gốm cổ thì những sản phẩm gốm
này là một trong những minh chứng đáng tin của lịch sử.



×