Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Đổi mới tổ chức và hoạt động của hội liên hiệp phụ nữ ở hải dương hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.3 KB, 115 trang )

MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHỤ NỮ
VÀ TỔ CHỨC PHỤ NỮ HIỆN NAY

1.1. Một số cơ sở lý luận về phụ nữ và tổ chức phụ nữ hiện nay
1.2. Một số cơ sở thực tiễn về phụ nữ và phong trào phụ nữ hiện nay

5
5
19

Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI
LIÊN HIỆP PHỤ NỮ Ở HẢI DƯƠNG HIỆN NAY

2.1. Khái quát về tình hình Hải Dương hiện nay
2.2. Khái quát về phụ nữ và tổ chức phụ nữ ở Hải Dương hiện nay
2.3. Khái quát về hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ ở Hải Dương
hiện nay

27
27
36
45

Chương 3: NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ
CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ Ở



69

HẢI DƯƠNG HIỆN NAY

3.1. Những quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội Liên
hiệp phụ nữ ở Hải Dương hiện nay
3.2. Những giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội Liên
hiệp phụ nữ ở Hải Dương hiện nay

69
73
92
94

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

CÁC CHỮ VIẾT TẮT ĐƯỢC DÙNG TRONG LUẬN VĂN

Ban chấp hành

BCH

Câu lạc bộ

CLB



Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Hội đồng nhân dân

HĐND

Hệ thống chính trị

HTCT

Liên hiệp phụ nữ

LHPN

Mặt trận Tổ quốc

MTTQ

Nhà xuất bản

Nxb

Trung ương

TW

Chủ nghĩa xã hội


CNXH

Uỷ ban nhân dân

UBND

Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ

UBQG VSTBCPN


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội tập
hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ Việt Nam, là một thành tố trong hệ thống
chính trị của nước ta hiện nay. Hội LHPN Việt Nam, trong đó có Hội LHPN
Hải Dương, ngày càng thực hiện đúng đắn và đầy đủ hơn chức năng và nhiệm
vụ của mình với tính cách là thành tố của hệ thống chính trị (HTCT) và góp
phần to lớn vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới đất nước hiện nay, tổ chức và hoạt
động của Hội LHPN Việt Nam, trong đó có Hội LHPN Hải Dương, vẫn gặp
nhiều lúng túng và bất cập, chưa thực hiện hết, đúng và đủ chức năng và
nhiệm vụ của mình trong HTCT. Trong tổ chức, còn nhiều cồng kềnh và
mang tính hành chính; trong hoạt động còn nhiều khó khăn và mang tính hình
thức; trong các mối quan hệ với tổ chức Đảng, Chính quyền, Mặt trận và các
Tổ chức chính trị - xã hội khác còn nhiều chồng chéo, chồng lấn.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội LHPN Việt Nam, trong đó có Hội
LHPN Hải Dương, là một trong những nội dung và nhiệm vụ của đổi mới

HTCT, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới ở nước ta.
Với lý do trên, tôi chọn đề tài: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội
Liên hiệp phụ nữ ở Hải Dương hiện nay” làm Luận văn Thạc sĩ chuyên
ngành Chính trị học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về phụ nữ, phong trào phụ
nữ, tổ chức phụ nữ, Hội Liên hiệp phụ nữ ở Việt Nam nói chung và đổi mới tổ
chức cũng như hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ ở Việt Nam nói riêng.
Có thể nêu một số sách và công trình nghiên cứu đã công bố như:


2

Chủ nghĩa Mác về vấn đề giải phóng phụ nữ, Nhà xuất bản (Nxb) Phụ
nữ, Hà Nội 1977. Nguyễn Thị Thập: Lịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam, tập
1, 2, Nxb Phụ nữ, HN, 1981. Lê Thị Nhâm: Phụ nữ Việt Nam qua các thời
đại, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 1987. Bác Hồ với phong trào phụ nữ Việt Nam,
Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 1990. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hai mươi năm,
một chặng đường phát triển của phụ nữ Việt Nam (1975-1995), Nxb Phụ nữ,
Hà Nội, 1996. Nguyễn Thị Mão: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ
nữ và xây dựng đội ngũ cán bộ”, Tạp chí Xây dựng Đảng, tháng 10/1996. Hội
Liên hiệp phụ nữ tỉnh Hải Dương: “Lịch sử truyền thống cách mạng phụ nữ
Hải Dương giai đoạn 1930-1975”, năm 2000. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hải
Dương: “Lịch sử phong trào phụ nữ tỉnh Hải Dương giai đoạn 1976-2000”,
năm 2003. Đảng đoàn Hội LHPN Việt Nam: Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà
nước với Hội LHPN VN - Thực trạng và những giải pháp đổi mới, Chuyên đề
số VI tháng 12/2004. Trịnh Xuân Giới, Nâng cao vị trí vai trò chính trị về
năng lực hoạt động của Hội LHPN Việt Nam. Hà Nội, năm 2004. Chủ tịch Hồ
Chí Minh với sự nghiệp giải phóng phụ nữ, Nxb Thông tấn, Hà Nội, 2005.
Có thể nêu một số luận văn, luận án khoa học đã công bố như:

Đặng Thị Lương: Hồ Chí Minh với vấn đề giải phóng phụ nữ trong cách
mạng Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, năm 1993. Đào Tố Uyên: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
giải phóng phụ nữ vào hoạt động thực tiễn của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới, Luận văn Cử nhân Chính trị học, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2003. Trương Thị Phúc: Tư tưởng Hồ Chí
Minh về quyền bình đẳng của phụ nữ với việc thực hiện trong thời kỳ đổi mới,
Luận văn thạc sĩ Hồ Chí Minh học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
năm 2006. Trần Thị Lan: Sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội LHPN Việt


3

Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Xây dựng Đảng, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006.
Các bài viết trên đây ở các phạm vi, góc độ khác nhau đều đề cập đến vai
trò của phụ nữ Việt Nam, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với Hội LHPN
Việt Nam, công tác vận động phụ nữ, hoạt động của Hội v.v.. Tuy nhiên, cho
đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về đổi mới tổ chức và
hoạt động của Hội LHPN nói chung và Hội LHPN ở tỉnh Hải Dương nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Xác định những quan điểm và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động
của Hội LHPN đáp ứng yêu cầu đổi mới hiện nay ở Hải Dương.
3.2. Nhiệm vụ
Xác định những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của Hội LHPN ở Hải Dương hiện nay.
Phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội LHPN ở Hải Dương
hiện nay.
Đề xuất những quan điểm và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của

Hội LHPN ở Hải Dương hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng:
Luận văn tập trung nghiên cứu các tổ chức và hoạt động của Hội LHPN
Hải Dương hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu tổ chức và hoạt động của Hội LHPN Hải Dương trong thời
kỳ đổi mới, từ góc độ Chính trị học - Hội LHPN với tích cách một yếu tố cấu
thành của hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu


4

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về phụ nữ, tổ
chức và hoạt động của Hội LHPN.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp
phân tích và tổng hợp, tổng kết thực tiễn, so sánh, phương pháp thống kê, v.v..
6. Đóng góp của luận văn
Nêu lên một số luận chứng khoa học về lý luận và thực tiễn cho việc xây
dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về phụ nữ;
những quan điểm và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội LHPN
nói chung và ở Hải Dương nói riêng trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu, giảng
dạy, học tập về Hội LHPN ở các Trường Chính trị tỉnh, các Trung tâm Bồi
dưỡng chính trị cấp huyện và Hội LHPN cấp tỉnh.
Góp phần hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về
phụ nữ; đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội LHPN nói chung và ở Hải

Dương nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1: Một số cơ sở lý luận và thực tiễn về phụ nữ và tổ chức phụ nữ
hiện nay.
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội LHPN ở Hải Dương
hiện nay.
Chương 3: Những quan điểm và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của
Hội LHPN ở Hải Dương hiện nay.


5


6

Chương 1
MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ PHỤ NỮ VÀ TỔ CHỨC PHỤ NỮ HIỆN NAY
1.1. MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỤ NỮ VÀ TỔ CHỨC PHỤ NỮ HIỆN NAY

1.1.1. Một số lý thuyết về phụ nữ và tổ chức phụ nữ hiện nay
1.1.1.1. Một số lý thuyết ngoài mỏc - xít về phụ nữ và tổ chức phụ nữ
a) Lý thuyết nữ quyền tự do:
Lý thuyết về phụ nữ ở đây là các quan điểm về phụ nữ và những biện
pháp để đạt được công bằng xó hội cho phụ nữ. Lý thuyết về phụ nữ, chủ yếu
là lý thuyết về nữ quyền, quan tõm nhất tới mục đích đưa ra những tiếng nói
và đóng góp của phụ nữ trong xó hội.
Trong lịch sử, hoạt động nữ quyền song hành với các sự kiện giải phóng

xó hội - cỏc cuộc cách mạng tư sản ở Phương Tây, nhất là ở Mỹ và Pháp thế
kỷ XVIII; các phong trào bói nụ ở những năm đầu thế kỷ XIX; các cuộc vận
động cho quyền bầu cử của phụ nữ cuối thế kỷ XIX; và các phong trào dân
quyền những năm 60 - 70 của thế kỷ XX ở phương Tây. Những chuyển động
lịch sử của nữ quyền cũn được gọi là sóng nữ quyền. Sóng nữ quyền thứ nhất
bao gồm Công ước quyền của phụ nữ đầu tiên được tổ chức tại Seneca Falls,
New York (Mỹ) năm 1848 và thông qua các Tu chính án 19, trong đó cho
phép phụ nữ quyền bỏ phiếu vào năm 1920, đặc trưng bởi cuộc đấu tranh của
phụ nữ đối với quyền chính trị. Sóng nữ quyền thứ hai vào những năm 1960
và 1970. Sóng nữ quyền thứ ba của ngày hôm nay nhấn mạnh một loạt các
vấn đề, bao gồm sự tăng trưởng của các tổ chức nữ quyền và các ấn phẩm và
con số ngày càng tăng của quyền phụ nữ trong chính phủ, trong hệ thống giáo
dục và các ngành nghề khác.
Nguồn gốc tư tưởng của Lý thuyết nữ quyền tự do là triết học về tự do
thế kỷ XVI - XVII ở Phương Tây, trong đó khẳng định niềm tin và sự tôn


7

trọng vào tư tưởng bỡnh đẳng và tự do. Mọi cá nhân trong xó hội đều có tiềm
năng trở thành người tư duy duy lý và sự bỡnh đẳng giữa người với người đều
được xem xét theo tinh thần duy lý. Khái niệm “tự do” được hiểu là mọi
người được “quản lý” chỉ với sự đồng ý của chính họ và trong phạm vi giới
hạn nhất định, trong đó chính phủ chỉ được điều tiết lĩnh vực công cộng và
không thể hoặc chỉ được phép điều tiết lĩnh vực riêng tư một cách hạn chế.
Đó là do ngay từ thời kỳ Phục Hưng thế kỷ thứ XVI - XVII chủ nghĩa tư bản
bắt đầu được thiết lập, giai cấp tư sản luôn đề cao sự tự do nhằm phục vụ lợi
ích của họ. Những người khởi xướng cho thuyết này là những người phụ nữ
da trắng thuộc tầng trung và thượng lưu trong xó hội, có điều kiện tiếp cận với
tư tưởng tự do từ rất sớm. Tư tưởng chủ đạo của lý thuyết nữ quyền tự do là

cỏc vấn đề quyền tự do, bỡnh đẳng, bản chất con người, công bằng cơ hội,
vấn đề cơ chế thể chế, ranh giới sự phân chia giữa lĩnh vực công cộng và
riêng tư.
Quan điểm chính của Lý thuyết nữ quyền tự do cho rằng sự bị trị của phụ
nữ là do những ràng buộc của tập quỏn và phỏp lý. Trong xó hội tồn tại quan
niệm sai lầm cho rằng do bản chất của mỡnh mà phụ nữ kém năng lực hơn
nam giới về trí tuệ và thể chất; xó hội cần ngăn cản phụ nữ tham gia và thành
công trong công việc công cộng. Do vậy, Lý thuyết nữ quyền tự do tranh luận
và vận động xó hội đảm bảo cho quyền tự do về chính trị, kinh tế của phụ nữ.
Những khác biệt sinh học giữa hai giới không liên quan đến việc đảm bảo
quyền tự do chính trị của phụ nữ. Nguyên nhân của việc phụ nữ dường như
thấp kém về trí tuệ chủ yếu là do điều kiện giáo dục thấp kém và là kết quả
của bất bỡnh đẳng hơn là nguyên nhân của bất bỡnh đẳng do vai trũ của giỏo
dục trong việc thay đổi định kiến, lý thuyết này cũn chỳ ý làm sỏng tỏ đặc điểm
và ranh giới phân chia giữa lĩnh vực đời sống công cộng và riêng tư, các quyền
riêng tư của phụ nữ ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của họ và quan hệ bỡnh
đẳng nam nữ. Chú ý vấn đề vai trũ và quan hệ ở hộ gia đỡnh với những vấn đề


8

nội bộ của phụ nữ, trẻ em gái tại bối cảnh gia đỡnh; nghiờn cứu hoàn thiện cỏc
biện phỏp phỏp lý qui định điều chỉnh đời sống nhằm bảo vệ phúc lợi, sự an toàn
phụ nữ. Theo đuổi cam kết bảo vệ tồn tại ranh giới riêng tư của phụ nữ.
Về bản chất con người, Lý thuyết nữ quyền tự do phê phán sự phân biệt
đối xử giới tính trong xó hội. Nú cho rằng con người được nhỡn nhận với tư
cách là chủ thể tư duy duy lý cơ bản, giới tính chỉ là một đặc điểm ngẫu
nhiên. Giới tính chỉ được tính đến khi liên quan đến khả năng cá nhân đó thực
hiện một nhiệm vụ, một công việc đặc biệt hoặc chiếm lợi thế của cơ hội mới
nào đó đang mở ra. Do vậy, phụ nữ là một nhóm giới tính thường không được

tạo tự do và bỡnh đẳng như nam giới; cần đảm bảo công bằng về cơ hội cho
cả nam và nữ, không phân biệt nam nữ. Ở nhiều xó hội hiện nay, khung phỏp
lý về bỡnh đẳng giới được cải thiện nhiều, song sự phân biệt này vẫn tồn tại
dai dẳng trong các thiết chế phi chính thức về ranh giới lĩnh vực công cộng riêng tư và sự phụ thuộc của phụ nữ, các tư tưởng tự do kinh điển phõn chia
rạch rũi giữa lĩnh vực cụng cộng (chớnh trị, nhà nước) và riêng tư (gia đỡnh,
mang tớnh ụn hoà, chức năng nuôi, dạy trẻ em).
Lý thuyết nữ quyền tự do phê phán sự phân chia tách biệt giữa 2 lĩnh vực
này, cho rằng đó là cứng nhắc, giáo điều, là nguyên nhân dẫn đến hoặc duy
trỡ sự bất lợi về văn hóa đối với phụ nữ.Về lý luận, quan điểm nữ quyền tự do
tập trung nghiên cứu và xem xét đặc điểm cấu trúc xó hội chịu “ảnh hưởng
giới”, sự hạn chế của việc phân chia, tách biệt không gian hoạt động theo
truyền thống (lĩnh vực công cộng và riêng tư), sự ảnh hưởng phân công lao
động theo giới tính và phân cực, tách biệt giữa 2 lĩnh vực công cộng và riêng
tư đối với phụ nữ, thu hút cộng đồng tham gia đối thoại rộng rói và dõn chủ
về những vấn đề nêu trên. Nghiên cứu, xem xét lại quan niệm truyền thống về
lĩnh vực công cộng, riêng tư; đề xuất những điều chỉnh cần thiết nhằm thay
đổi nhận thức và nâng cao năng lực lập pháp, góp phần đáp ứng tốt hơn các
quan tâm, nhu cầu của phụ nữ, hướng tới xây dựng mô hỡnh đáp ứng nhu cầu


9

thực tiễn hợp lý, trong đó quan tâm lợi ích đối với cá nhân - quyền con người
của phụ nữ và nhà nước.
Tuy nhiên, Lý thuyết nữ quyền tự do cũng có những hạn chế nhất định.
Xuất phát điểm là quan điểm của phụ nữ trung lưu (da trắng, có học vấn) nên
trước hết nó phản ánh quan điểm lợi ích, kinh nghiệm của nhóm này hơn là
mục tiêu bao quát và rộng mở nhằm hướng tới giải quyết căn bản sự áp bức
của mọi phụ ở các tầng lớp khác. Chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề tạo
quyền cũng như vấn đề thái độ và vị thế của phụ nữ; chưa chú ý đầy đủ hoặc

thách thức lại những cơ chế duy trỡ tập tục truyền thống. Cú xu hướng tiếp
nhận các giá trị nam giới như là những giá trị nhân loại được áp dụng chung
cho cả 2 giới. Quá nhấn mạnh vào tầm quan trọng của tự do cá nhân so với
cái tốt chung cho mọi người. Ca ngợi chủ nghĩa nhân đạo trung lập về mặt
giới mà coi nhẹ thuyết nữ quyền có quan tâm đến vấn đề giới.
b) Lý thuyết nữ quyền cấp tiến:
Các hệ tư tưởng của phong trào nữ quyền cực đoan ở Mỹ phát triển như
là một thành phần của phong trào giải phóng phụ nữ đó là do ảnh hưởng của
phong trào quyền dân sự đó đạt được trong những năm 1960 và rất nhiều
những người phụ nữ đó cú kinh nghiệm trước đó với kháng nghị sự trong
cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc. Họ đó nờu lờn nguyờn nhõn gõy ra
tệ phân biệt phụ nữ và ủng hộ nhiều vấn đề phụ nữ - phỏ thai, bỡnh đẳng về
quyền, tiếp cận tín dụng và trả tiền bằng nhau.
Tuy nhiên, đa số phụ nữ da màu đó khụng tham gia phong trào nữ quyền
cực đoan bởi nó không giải quyết được nhiều vấn đề liên quan đến những
người từ một nền tảng giai cấp công nhân, trong đó họ đó là một phần khỏ
lớn. Tại Mỹ nữ quyền cấp tiến phát triển như là một phản ứng cho một số
thiếu sót nhận thức của cả hai tổ chức mới, chẳng hạn như các sinh viên cho
một xó hội dân chủ và các tổ chức nữ quyền tự do. Ban đầu tập trung chủ yếu
ở các thành phố lớn như New York, Chicago, Boston, Washington DC, v.v..


10

Nhóm nữ quyền cực đoan lan truyền nhanh chóng trên khắp nước Mỹ trong
những năm 1968 - 1972. Tại Anh, nữ quyền phát triển trong các cuộc thảo
luận trong cộng đồng dựa trên căn bản của các tổ chức phụ nữ và các cuộc thảo
luận của phụ nữ. Những năm 1970, quyền phụ nữ Anh chia thành hai trường
phái tư tưởng lớn là chủ nghĩa xó hội và chủ nghĩa cấp tiến. Năm 1977, một
phân chia xảy ra, một nhóm thứ ba - nhóm "cách mạng nữ quyền" xuất hiện.

c) Lý thuyết bất bỡnh đẳng giới:
Các quan điểm khác biệt giới tính sẽ trả lời câu hỏi này bằng cách kiểm
tra xem vị trớ, kinh nghiệm và tỡnh huống xó hội của phụ nữ khỏc như thế
nào so với nam giới. “Văn hóa bênh vực phụ nữ” tỡm đến các giá trị khác
nhau liên kết với phái nữ và nữ tính (ví dụ: chăm sóc, hợp tác và hũa bỡnh)
như là một lý do tại sao người đàn ông và phụ nữ trải nghiệm thế giới xó hội
khỏc nhau. Cỏc nhà lý thuyết nữ quyền khỏc tin rằng phụ nữ và nam giới
được phân công các vai trũ khỏc nhau trong một tổ chức sẽ tốt hơn để giải
thích sự khác biệt giới tính, tỡnh dục bao gồm sự phõn chia lao động trong gia
đỡnh và ngoài xó hội. Một số quyền của phụ nữ được nhỡn thấy sự khỏc biệt
rất rừ bởi chế độ gia trưởng hay phân biệt đối xử, mặc dù sự khác biệt nữ
quyền biện luận cho sự chấp nhận những khác biệt giới tính.
Lý thuyết bất bỡnh đẳng giới xem xét để trả lời câu hỏi "Điều gỡ về phụ
nữ?" bằng cỏch nhận ra rằng vị trớ, kinh nghiệm và tỡnh huống xó hội giữa phụ
nữ và nam giới khụng cú sự khỏc nhau nhưng cũng không có bỡnh đẳng giữa
phụ nữ và nam giới. Một số quan điểm bênh vực phụ nữ cho rằng phụ nữ có khả
năng như nam giới, nhưng do chế độ gia trưởng, đặc biệt là khuôn mẫu định kiến
giới của phân công lao động. Phụ nữ đó bị cụ lập để đảm bảo các nhu cầu tư
nhân của hộ gia đỡnh do đó phụ nữ không có một tiếng nói trong lĩnh vực công
cộng hay xó hội. Ngay cả sau khi phụ nữ bước vào lĩnh vực công cộng, xó hội
họ vẫn cũn phải đảm nhận việc các công việc chăm sóc gia đỡnh và nuụi con.
d) Lý thuyết về sự đàn áp giới:


11

Lý thuyết về sự đàn áp giới đi xa hơn lý thuyết về sự khỏc biệt giới tớnh
và bất bỡnh đẳng giới bằng cách cho rằng không chỉ là phụ nữ khác nhau
hoặc bất bỡnh đẳng với nam giới, nhưng họ đang bị áp bức, phụ thuộc và thậm
chí bị lạm dụng bởi người đàn ông. Sức mạnh là biến quan trọng trong hai giả

thuyết chính của sự đàn áp giới - tõm lý nữ quyền và nữ quyền cực đoan. Tâm
học bênh vực phụ nữ cố gắng để giải thích mối quan hệ quyền lực giữa nam giới
và phụ nữ bởi lý thuyết của Freud của tiềm thức và vụ thức, cảm xỳc của con
người, và phát triển ở trẻ em. Họ cảm thấy rằng ý thức tớnh toỏn có thể không
hoàn toàn giải thích sự sản xuất và sinh sản của chế độ gia trưởng. Vớ dụ, sự sợ
hói vụ thức mà người đàn ông có tỷ lệ tử vong đối với riêng của họ có thể lý giải
cho lý do tại sao người đàn ông được định hướng để kiểm soát phụ nữ. Họ xác
định bạo lực thể chất như là tại chế độ gia trưởng, nhưng họ nghĩ rằng chế độ gia
trưởng có thể bị đánh bại nếu phụ nữ biết nhận ra giá trị riêng và sức mạnh của
họ, thiết lập một liên kết của niềm tin với các phụ nữ khác, đối đầu với sự đàn áp
nghiêm trọng và hỡnh thành mạng lưới nữ ly trong lĩnh vực công và tư.
đ) Lý thuyết kết cấu thỉnh nguyện:
Lý thuyết kết cấu thỉnh nguyện cho rằng sự đàn áp của phụ nữ áp bức và
bất bỡnh đẳng là kết quả của chủ nghĩa tư bản, chế độ gia trưởng và phân biệt
chủng tộc nữ quyền. xó hội chủ nghĩa kết hợp chỉ người theo chủ nghĩa đó,
lớp phân tích với nữ quyền phản đối xó hội trong một cố gắng trả lời cõu hỏi
"Điều gỡ về phụ nữ?" Họ đồng ý với Mác và Ăng-ghen rằng giai cấp công
nhân được khai thác như một hệ quả của chế độ tư bản của sản xuất, nhưng họ
tỡm cỏch mở rộng khai thỏc này khụng chỉ để học mà cũn để giới cỏc nhà lý
thuyết. Tỡm cỏch giải thớch sự ỏp bức và bất bỡnh đẳng trên một loạt các
biến, bao gồm cả lớp học, giới tính, chủng tộc, sắc tộc, và tuổi tác. Họ làm
cho cỏi nhỡn sõu sắc quan trọng là khụng phải tất cả những kinh nghiệm ỏp
bức phụ nữ trong cùng một cách. Phụ nữ da trắng và phụ nữ da đen, ví dụ, đối
mặt với nhiều hỡnh thức phõn biệt đối xử tại nơi làm việc. Do đó, các nhóm


12

khác nhau của phụ nữ đến để xem thế giới qua một quan điểm chung của
“tính phổ biến không đồng nhất”.

1.1.1.2. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về phụ nữ và tổ chức phụ nữ
Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học đã chỉ rõ chỉ có cách
mạng vô sản là cuộc cách mạng xoá bỏ tận gốc chế độ bóc lột, xây dựng chế
độ xã hội mới, tự do, bình đẳng. Đồng thời chỉ ra biện pháp giải phóng phụ nữ
nhằm động viên lực lượng lao động nữ tham gia vào lực lượng cách mạng.
Ăng-ghen khẳng định, sự nghiệp giải phóng phụ nữ, quyền bình đẳng giữa
nam và nữ đều không thể có được chừng nào mà phụ nữ vẫn bị gạt ra sản xuất
xã hội và còn phải bị bó hẹp trong công việc riêng tư của gia đình. Chỉ có thể
giải phóng người phụ nữ khi người phụ nữ có thể tham gia sản xuất trên một
quy mô xã hội rộng lớn và chỉ phải làm công việc trong nhà rất ít.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng nguyên nhân kinh tế của bất bình đẳng
nam nữ mà biểu hiện đầu tiên là sự áp bức của đàn ông với đàn bà, từ đó lên
án, phê phán quan điểm phong kiến và tư sản đối với phụ nữ, đồng thời cũng
khẳng định sự nghiệp giải phóng phụ nữ là một quá trình gắn liền với thắng lợi
của CNXH và chủ nghĩa cộng sản và những điều kiện để giải phóng phụ nữ là
sự phát triển của nền đại công nghiệp hiện đại cùng với sự nghiệp giải phóng
giai cấp công nhân. Đưa phụ nữ tham gia lao động sản xuất, có khả năng độc
lập về kinh tế, có đóng góp về kinh tế chung trong gia đình và xã hội. Phụ nữ
biết làm việc nước, tham gia các hoạt động xã hội và trực tiếp tham gia quản lý
nhà nước. Những điều kiện trên có mối quan hệ hữu cơ với nhau để phụ nữ có
thể thoát khỏi mọi áp bức, tự giải phóng mình và ngày càng khẳng định rõ hơn
vai trò của mình trong việc tham gia vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất
nước.
Chủ nghĩa Mác-Lênin, với học thuyết cách mạng và khoa học, đứng trên
quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đã tìm


13

ra nguồn gốc của sự bất bình đẳng nam nữ, thấy được lực lượng và điều kiện

cụ thể cùng với những biện pháp để giải phóng phụ nữ, thấy được tiềm năng
và sức mạnh to lớn của phụ nữ trong quá trình cách mạng và tiến bộ xã hội.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đánh giá cao vai trò, vị trí và khả năng của phụ nữ và
cán bộ nữ. Theo các nhà kinh điển thì trong lịch sử nhân loại không có một
phong trào to lớn nào của những người bị áp bức mà không có phụ nữ tham
gia, bởi vì phụ nữ cũng là những người lao động bị áp bức nhất trong tất cả
những người bị áp bức, nên không bao giờ họ đứng ngoài và không thể đứng
ngoài các cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.
Mỗi bước chuyển của lịch sử, mỗi nấc thang tiến bộ của nhân loại đều in
đậm công lao của phụ nữ vì cuộc đấu tranh cho sự bình đẳng của xã hội, vì sự
phát triển của nhân loại. Mác lấy mức độ giải phóng phụ nữ để làm một trong
những tiêu chuẩn đánh giá trình độ văn minh, trình độ phát triển của một
nước. Mác cho rằng, ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà
không có phụ nữ giúp vào, thì chắc không làm nổi. Xem tư tưởng và việc làm
của đàn bà, con gái thì biết xã hội tiến bộ ra thế nào. Lênin cho rằng, Đảng
cách mệnh phải làm sao dạy cho đàn bà nấu ăn cũng biết làm việc nước, như
thế cách mệnh mới gọi là thành công. Lực lượng phụ nữ là một trong những
nhân tố quyết định sự thành công của cách mạng. Coi giải phóng phụ nữ vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, đó là điểm phân biệt cách mạng
vô sản với các cuộc cách mạng xã hội khác.
Chừng nào mà phụ nữ không những chưa được tự do tham gia
đời sống chính trị nói chung mà cũng được quyền gánh vác một
công việc thường xuyên và chung cho cả mọi người, thì chừng ấy
không những chưa nói đến chủ nghĩa xã hội được, mà chưa thể nói đến
ngay cả một chế độ dân chủ đầy đủ và bền vững được [33, tr. 201].


14

Đặc biệt, Lênin đã thực hiện giải phóng một bước phụ nữ ngay trên đất

nước Nga Xô viết. Theo đó, có ba nhóm biện pháp quan trọng đã được lựa
chọn để xây dựng như những giải pháp then chốt để nhằm từng bước thực hiện
việc giải phóng phụ nữ ở nước Nga Xô viết. Các biện pháp này được thực hiện
trong bối cảnh của cuộc cách mạng vô sản và được tiến hành đồng thời như
một trong những nội dung của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Các biện
pháp đó bao gồm: một là, xây dựng và ban hành hệ thống luật pháp mới bảo
đảm quyền bình đẳng nam nữ; hai là, đưa phụ nữ tham gia quản lý Nhà nước,
xây dựng chính quyền; ba là, giảm nhẹ gánh nặng công việc nội trợ của phụ nữ
bằng việc xây dựng nhà trẻ, nhà ăn công cộng.
Ngay sau Cách mạng tháng Mười (1917), Lênin đã chỉ rõ nhiệm vụ của
Chính quyền Xô viết là phải xoá bỏ sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, thu hút
lực lượng phụ nữ tham gia các hoạt động xã hội, tham gia công việc quản lý
Nhà nước, nhưng đây là cuộc cách mạng lâu dài và khó khăn, không thể dễ
dàng và ảo tưởng. Mặc dù có một luật lệ giải phóng, nhưng phụ nữ vẫn còn là
nô lệ trong gia đình vì những công việc nội trợ còn đè nặng lên lưng họ, làm
cho họ nghẹt thở. Chỉ có CNXH mới có thể cứu giúp phụ nữ thoát khỏi tình
trạng đó. Chỉ khi nào chúng ta chuyển từ nền kinh tế nhỏ lên kinh tế công
cộng và chế độ canh tác chung, thì phụ nữ mới có thể được hoàn toàn giải
thoát và giải phóng triệt để. Lênin đã đề ra và thực hành nhiều biện pháp hữu
hiệu để đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục, nâng cao trình độ cho phụ nữ để họ có
đủ khả năng tham gia quản lý nhà nước. Người cho rằng, có chính quyền Xô
viết thì việc giáo dục chính trị cho phụ nữ lao động có tầm quan trọng hàng
đầu, nhiệm vụ của chính quyền cách mạng là ngày càng có nhiều phụ nữ tham
gia vào việc quản lý nhà nước. Trong khi tham gia quản lý phụ nữ sẽ học tập
nhanh chóng và đuổi kịp nam giới.
1.1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phụ nữ và tổ chức phụ nữ


15


Hồ Chí Minh là người kế thừa và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về vấn đề phụ nữ và tổ chức phụ nữ. Người đánh giá đúng
vai trò, khả năng của phụ nữ trong gia đình và xã hội. Phụ nữ là người vợ, người
mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Người rất quan tâm đến vị thế, vai trò
của phụ nữ trong phong trào cách mạng thế giới nói chung và sự nghiệp cách
mạng Việt Nam nói riêng, đặc biệt Người luôn luôn tạo điều kiện cho sự tiến bộ
của phụ nữ. Người khẳng định: “Nói phụ nữ là nói phần nửa xã hội, nếu không
giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải
phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa” [6,tr.306].
Từ rất sớm, Người đã khẳng định muốn thế giới cách mệnh thành công
thì phải vận động đàn bà con gái và muốn vận động đàn bà thì “mỗi Đảng Cộng
sản phải có một bộ phận phụ nữ, trực tiếp thuộc về phụ nữ quốc tế” [44, tr.288].
Trong tác phẩm Đường Cách Mệnh (1927) Người đã nêu rõ trong lịch sử cách
mệnh, chẳng có lần nào là không có đàn bà, con gái tham gia. Nhận thức được
tầm quan trọng của tổ chức phụ nữ, Người đã lãnh đạo, chỉ đạo, tích cực vận
động để phụ nữ Việt Nam trở thành hội viên của phụ nữ quốc tế: “trong thì
đoàn kết toàn thể chị em, đặng giúp việc xây dựng nước nhà, ngoài thì cộng tác
với đoàn thể dân chủ phụ nữ thế giới" [46, tr. 348].
Hồ Chí Minh đã nhận thấy một nhân tố quan trọng quyết định thắng lợi
của cách mạng Việt Nam, đó chính là sự tham gia của phụ nữ Việt Nam. Từ
năm 1926 Người đã vận động phụ nữ Việt Nam tham gia làm cách mạng và
đã xây dựng được một tổ chức tiền thân phụ nữ gần 12 hội viên, những hội
viên nay là cán bộ nòng cốt tiền bối của phong trào phụ nữ. Người khẳng
định, “An nam cách mệnh cũng phải có nữ giới tham gia mới thành công”
[48,tr.432]. Trong thư gửi phụ nữ nhân dịp kỷ niệm Khởi nghĩa Hai Bà Trưng
và Ngày Quốc tế phụ nữ 8/3 năm 1952, Người đã ca ngợi non sông gấm vóc


16


nước Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt
đẹp rực rỡ.
Hồ Chí Minh xác định trách nhiệm của Đảng đối với sự nghiệp giải
phóng phụ nữ. Từ nay, các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương khi giao
công tác cho phụ nữ, phải căn cứ vào trình độ của từng người và cần phải tích
cực giúp đỡ phụ nữ nhiều hơn nữa; Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch
thiết thực để bồi dưỡng, cân nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ
trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Người đặc biệt quan tâm đến
việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, chính Người đã mạnh dạn cân nhắc đề bạt
cán bộ nữ và sử dụng đúng sở trường và khả năng cán bộ nữ. Theo Người,
muốn giải phóng phụ nữ một cách triệt để thì ngoài việc mang đến cho họ
những quyền lợi và sự bình đẳng với nam giới, cần phải đào tạo và bồi dưỡng
họ trở thành những cán bộ giỏi có ích cho đất nước. Vì vậy, phải mạnh dạn cất
nhắc, đề bạt cán bộ nữ, nếu có cân nhắc cán bộ nữ nhưng chưa mạnh dạn tức
là còn phần nào chưa coi trọng trí tuệ, tài năng của phụ nữ. Người tin tưởng
vào khả năng to lớn của phụ nữ, mạnh dạn cất nhắc và đề bạt cán bộ nữ; bởi
vì cán bộ nữ có nhiều ưu điểm.
Hơn nữa, Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ và
cho rằng, để giải phóng cho phụ nữ thì “Hội Liên hiệp phụ nữ phải là lực lượng
mạnh mẽ giúp Đảng động viên, tổ chức và lãnh đạo phụ nữ tiến lên chủ nghĩa
xã hội” [49, tr.21]. Để phong trào phụ nữ phát triển thì Hội Liên hiệp phụ nữ
phải là cầu nối giữa Đảng với các tầng lớp phụ nữ thông qua việc tuyên truyền
các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Chính phủ, đặc biệt là các chủ trương liên
quan đến phụ nữ. Hội phải sâu sát chị em, phản ánh tâm tư của chị em, từ đó
tham mưu, tư vấn cho các cấp uỷ Đảng những chủ trương, chính sách phù hợp
với nguyện vọng của quần chúng và của phụ nữ nói riêng. Sự lớn mạnh của
Hội Liên hiệp phụ nữ đồng thời là sự phát triển trong đời sống người phụ nữ.


17


1.1.1.4. Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về phụ
nữ và tổ chức phụ nữ
Đối với Đảng, thấm nhuần quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về phụ nữ, ngay từ khi mới ra đời Đảng Cộng sản Việt
Nam đã khẳng định giải phóng phụ nữ là một trong 10 nhiệm vụ quan trọng
trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Đảng đề ra mục tiêu giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp gắn liền với giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình
quyền. Trên cơ sở quan điểm đó, Đảng đã tổ chức đoàn thể phụ nữ với mục
đích mang lại quyền lợi cho phụ nữ, triệt để giải phóng phụ nữ. Đảng đã lãnh
đạo việc thành lập tổ chức đại diện cho phụ nữ Việt Nam từ ngày 20/10/1930.
Theo Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 20/10/1950 Hội LHPN Việt
Nam được thành lập để tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ thành một tổ
chức thống nhất trong cả nước. Kể từ đó đến nay, nhiều chủ trương, chính
sách của Đảng đã ra đời nhằm tạo điều kiện cho lực lượng lao động nữ nói
chung và đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý nói riêng có được những cơ hội
để vươn lên, tự khẳng định mình và không ngừng phát triển. Các hoạt động
của Hội đã góp phần to lớn trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
Tháng 12/1960, lần đầu tiên Đảng ta triệu tập Hội nghị cán bộ phụ nữ để
khơi dậy sức mạnh của phong trào phụ nữ. Nghị quyết Đại hội III của Đảng
khẳng định phụ nữ nước ta là một lực lượng quan trọng trong đấu tranh và trong
sản xuất, Đảng ta có trách nhiệm lớn đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Năm
1967, tăng cường khả năng tham gia quản lý nhà nước, khả năng đóng góp của
phụ nữ trong xây dựng và phát triển đất nước, Ban Bí thư Trung ương (Khoá III)
ban hành Nghị quyết số 152 về một số vấn đề tổ chức lãnh đạo công tác phụ vận
và Nghị quyết 153 về công tác cán bộ nữ tham gia chính quyền các cấp. Sau đó


18


Ban Bí thư Trung ương (Khoá V) ra Chỉ thị 44-CT/TW, ngày 7/6/1984, về một
số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ .
Đại hội VI của Đảng (1986) đã đánh dấu một bước chuyển hướng và đổi
mới quan trọng trong sự lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực. Với mục tiêu
khai thác mọi tiềm năng của đất nước, giải phóng năng lực sản xuất, cải thiện
đời sống nhân dân, ổn định tình hình kinh tế xã hội, phát huy nhân tố con
người, đã mở ra cho phụ nữ Việt Nam con đường phát triển đầy hứa hẹn. Đại
hội VI khẳng định để phát huy vai trò to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp cách
mạng, cần làm cho đường lối vận động phụ nữ của Đảng được thông suốt
trong cả hệ thống chuyên chính vô sản, được cụ thể hoá bằng chính sách pháp
luật của cơ quan Nhà nước, với sự phối hợp của các đoàn thể, cần có biện
pháp thiết thực tạo thêm việc làm, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nữ, chăm sóc
sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, thực hiện đúng Luật Hôn nhân và Gia đình. Tạo điều
kiện cho phụ nữ kết hợp được nghĩa vụ công dân với chức năng làm mẹ, xây
dựng gia đình hạnh phúc.
Tại Đại hội VII của Đảng (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH khẳng định thực hiện nam nữ bình quyền
về mọi mặt. Ngày 12.7.1993 Bộ Chính trị (Khoá VII) ra Nghị quyết số
04/NQ-TW về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình
hình mới; quan tâm giải quyết việc làm, đời sống; sức khoẻ và bảo hộ lao
động; giáo dục và bồi dưỡng cho phụ nữ; xây dựng gia đình ấm no, bình
đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Đảng đặt vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ nữ
thành nhiệm vụ có tính chiến lược trong công tác cán bộ của Đảng, Nhà
nước. Ngày 16.5.1994, Ban bí thư Trung ương (Khoá VII) ra chỉ thị số 37/CT
- TW về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới, nêu lên năm
nhiệm vụ nhằm đẩy mạnh công tác phát triển cán bộ nữ trong tình hình tỷ lệ
cán bộ nữ đang giảm. Chỉ thị nhấn mạnh vấn đề quy hoạch, tạo nguồn cán bộ



19

nữ, tạo điều kiện cho phụ nữ có thể làm việc, phát triển tài năng và đẩy mạnh
công tác phát triển đảng viên nữ.
Đại hội VIII của Đảng (1996) chỉ rõ cần đặc biệt coi trọng đào tạo nghề
nghiệp, giúp đỡ chị em có việc làm, phát triển kinh tế gia đình, cải thiện đời
sống, bảo vệ sức khoẻ của phụ nữ và trẻ em, quan tâm phát triển Đảng và đào
tạo bồi dưỡng cán bộ nữ, tăng tỷ lệ cán bộ nữ trong cơ quan lãnh đạo Đảng và
Nhà nước ở các cấp, các ngành. Đại hội IX (2001) xác định cơ chế chính sách
để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý các
cấp, các ngành. Chỉ thị 46 ngày 6.12.2004 của Bộ Chính trị (Khoá IX) về tỷ lệ
nữ tham gia cấp uỷ không quá 15% và tuổi tham gia của cán bộ chủ chốt ở cấp
tỉnh, trung ương thực hiện như nam giới. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng còn
xác định "Cơ chế, chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ
quan lãnh đạo và quản lý các cấp, các ngành" [16, tr.126].
Đại hội X của Đảng (2006) khẳng định đối với phụ nữ, nâng cao trình độ
mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều
kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người
mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham
gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo, quản lý ở
các cấp. Đối với Nhà nước, cụ thể hoá chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà
nước cũng đã ban hành, bổ sung nhiều văn bản nhằm bảo vệ quyền lợi, nghĩa
vụ của phụ nữ, tạo điều kiện để phụ nữ vươn lên phát triển về mọi mặt. Khẳng
định vai trò, tầm quan trọng của phụ nữ, của tổ chức Hội phụ nữ trong hệ
thống chính trị.
Đối với Nhà nước, Hiến pháp năm 1946, văn bản pháp lý có hiệu lực cao
nhất của Nhà nước đã quy định nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng
hoà. Tất cả quyền bình đẳng trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam,
không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo. Đàn bà



20

ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện. Từ các bản Hiến pháp năm
1946 đến Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp 1992 sửa đổi (2001) đều khẳng
định quyền bình đẳng nam nữ là một nguyên tắc và nội dung xuyên suốt quá
trình lập hiến, lập pháp của Việt Nam. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp về
vấn đề bình đẳng nam nữ, nội dung những Công ước quốc tế về quyền con
người mà Việt Nam đã ký kết, 80 năm qua một hệ thống các văn bản luật và
dưới luật đã khẳng định cả nam và nữ đều được hưởng quyền bình đẳng về
mọi mặt.
Trên tinh thần Hội nghị thế giới lần thứ IV về phụ nữ, do Liên hợp quốc
tổ chức tại Bắc Kinh (Trung Quốc) tháng 9/1995, Chính phủ ta đã công bố
Chiến lược phát triển vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2000, hành
động vì sự bình đẳng, phát triển và hoà bình, nâng cao chất lượng cuộc sống
cho phụ nữ. Ngày 21/1/2002 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
19/2002/QĐ-TTg về Phê duyệt Chiến lược Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ
Việt Nam đến năm 2010. Mục tiêu tổng quát của chiến lược là nâng cao chất
lượng đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ; tạo mọi điều kiện để thực
hiện có hiệu quả các quyền cơ bản và phát huy vai trò của phụ nữ trong mọi
lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Chiến lược đề ra các
mục tiêu cụ thể là: 1) thực hiện các quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh
vực lao động, việc làm; 2) thực hiện các quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh
vực giáo dục; 3) thực hiện các quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực bảo
vệ chăm sóc sức khoẻ. 4) nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của phụ
nữ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội để tăng số phụ nữ được
giới thiệu và bầu tham gia lãnh đạo các cấp, các ngành; 5) tăng cường năng
lực hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Năm 1986, Luật Hôn nhân và Gia đình được bổ sung, sửa đổi một số
điều, phù hợp với đổi mới việc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, trẻ em. Quyết

định 163/HĐBT ban hành ngày 19/10/1988 và Nghị định 19/CP/2002 ngày


21

21/1/2002 của Chính phủ quy định về trách nhiệm của các cấp chính quyền
trong việc tạo điều kiện để các cấp Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tham gia
quản lý Nhà nước. Luật Bảo vệ sức khoẻ trẻ em ban hành năm 1989 có
chương bảo vệ sức khoẻ phụ nữ và trẻ em với nội dung về sử dụng lao động
nữ, quyền khám chữa bệnh của phụ nữ. Luật lao động ban hành năm 1994 là
văn bản pháp lý tương đối hoàn thiện với lao động nữ, tạo cơ hội cho phụ nữ
ngày càng phát triển. Quyết định 51 ngày 3.5.1999 về tuổi bổ nhiệm với cán
bộ nữ.
1.2. MỘT SỐ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ PHỤ NỮ VÀ PHONG TRÀO PHỤ NỮ
HIỆN NAY

1.2.1. Một số cơ sở thực tiễn về phụ nữ và tổ chức phụ nữ trên thế giới
Tổ chức phụ nữ của các nước trên thế giới được thành lập dựa trên thể
chế chính trị của quốc gia đó, có thể là một tổ chức xó hội, tổ chức chớnh trị
xó hội hoặc tổ chức phi chớnh phủ. Trong xó hội cụng dõn cú một bộ phận và
vị trớ, vai trũ, chức năng của nó gắn với các quá trỡnh chớnh trị. Bộ phận đó ở
mỗi nước có tên gọi khác nhau, nhưng nhỡn chung cú thể gọi đó là các tổ
chức chính trị - xó hội, trong đó có tổ chức phụ nữ. Chức năng của các tổ chức
chính trị xó hội, trong đó có tổ chức phụ nữ gao gồm đại diện, vận động nhất là vận động chính sách, phản biện và giám sát chính quyền.
Ngày nay, cỏc tổ chức chớnh trị xó hội trong đó có tổ chức phụ nữ được
tự do thành lập, hoạt động độc lập trong khuôn khổ của pháp luật như ngày
nay là kết quả của cả một quá trỡnh đấu tranh, phát triển cả về tư tưởng và lực
lượng của các tầng lớp, giai cấp trong quan hệ với nhà nước. Ở các nước tư
bản phát triển, sự tham gia của phụ nữ vào các hoạt động chính trị, xó hội
được coi như một giá trị dân chủ và như một cơ hội cho sự phát triển tự thân

và đầy đủ của mỗi cá nhân. Để đảm bảo mở rộng tiến trỡnh dõn chủ trờn quy
mụ quốc gia, giải quyết cỏc xung đột một cách hũa bỡnh, thụng qua cỏ


22

phương tiện hợp hiến và hợp pháp, các học thuyết chính trị phương Tây cho
rằng cần phải có sự hiện diện của các tổ chức xó hội trong đó các tổ chức phụ
nữ tương đối độc lập.
Dựa trên những cơ sở lý thuyết về nữ quyền và thực tiễn xó hội tại từng quốc
gia trờn thế giới mà tổ chức phụ nữ được thành lập với những mục đích khác nhau
nhưng chủ yếu vẫn nhằm đại diện, bảo vệ, đấu tranh dành quyền lợi, sự bỡnh đẳng
cho phụ nữ. Với đặc điểm của từng quốc gia, nhà nước không phải lúc nào cũng
đủ khả năng và nguồn lực để quan tâm tới mọi lĩnh vực của đời sống xó hội đặc
biệt là đáp ứng được những nhu cầu, nguyện vọng của phụ nữ. Chính bởi vậy, cần
có sự ra đời của các tổ chức phụ nữ nhằm tận dụng được các nguồn lực và đáp ứng
được nhu cầu, nguyện vọng của từng nhóm đối tượng phụ nữ hoặc các tầng lớp
phụ nữ. Khi tổ chức phụ nữ được thành lập cũng sẽ là cơ hội được tiếp viện thêm
sự giúp đỡ từ các nguồn lực bên ngoài để đầu tư cho các hoạt động nhằm đạt được
những mục đích đặt ra và giành quyền lợi cho giới mỡnh.
Cỏc tổ chức phụ nữ là tổ chức xó hội, tổ chức chớnh trị xó hội đều bị ràng
buộc bởi hiện trạng xó hội, khi phụ nữ tham gia vào cỏc tổ chức thỡ lợi ớch của
họ mới được bảo vệ theo nghĩa là tiếng nói của họ chỉ có trọng lượng khi những
đũi hỏi đó là tiếng nói của một tổ chức quy mô. Tổ chức phụ nữ tạo cho họ cảm
giác được bảo vệ và có điều kiện, cơ hội làm những điều mỡnh mong muốn
hoặc đáp ứng được những nhu cầu của họ. Như vậy thấy rừ được sự cần thiết
phải có tổ chức Hội ra đời, nhờ sự ra đời của tổ chức này mà những nhóm đối
tượng phụ nữ , các tầng lớp phụ nữ thể hiện được tiếng nói của mỡnh một cỏch
cú trọng lượng, làm cho nhà nước, chính quyền biết đến những ý tưởng, nhu
cầu và quan điểm của mỡnh.

Trong hệ thống chớnh trị, cỏc tổ chức chớnh trị - xó hội trong đó có tổ
chức phụ nữ mà tùy từng quốc gia sẽ có hệ thống tổ chức và tên gọi khác
nhau, là cơ sở chính trị của các đảng phái, của nhà nước, cầu nối chặt chẽ
giữa các tầng lớp, đối tượng phụ nữ với chính quyền. Ở các nước phát triển,


23

các tổ chức chính trị - xó hội, trong đó có phụ nữ vừa đứng bên cạnh nhà
nước vừa đứng đối mặt với nhà nước. Tại một số quốc gia, tổ chức phụ nữ
là một tổ chức chính trị - xó hội, đây là những tổ chức chính trị-xó hội hợp
phỏp được tổ chức để tập hợp rộng rói cỏc tầng lớp nhõn dõn, cỏc tầng lớp
phụ nữ theo nguyờn tắc tự nguyện, tự quản đại diện cho lợi ích của phụ nữ,
tham gia vào hệ thống chính trị, tuỳ theo tính chất, tôn chỉ, mục đích của
mỡnh nhằm bảo vệ quyền lợi dõn chủ của phụ nữ.
1.2.2. Phụ nữ và tổ chức phụ nữ ở Việt Nam hiện nay
1.2.2.1. Về tổ chức phụ nữ ở Việt Nam hiện nay
Hội LHPN Việt Nam được thành lập ngày 20/10/1930. Hội LHPN Việt
Nam đó trải qua và tham gia đóng góp vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây
dựng đất nước. Ngày 20/10/1930, Hội phụ nữ phản đế Việt Nam - tổ chức tiền
thân của Hội Liên hiệp phụ nữ (Hội LHPN) Việt Nam đó được lónh tụ
Nguyễn Ái Quốc thành lập, trở thành một trong những tổ chức xó hội của phụ
nữ lâu đời nhất trên thế giới. Mục đích của Hội LHPN Việt Nam là tập hợp
rộng rói cỏc tầng lớp phụ nữ, đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp và giải phóng phụ nữ theo đường lối của Đảng. Hội LHPN Việt Nam là tổ
chức rộng rói của cỏc tầng lớp phụ nữ cả nước. Hội là thành viên của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, là thành viên của Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ Quốc tế và là
thành viên của Liên đoàn các Tổ chức Phụ nữ ASEAN. Mục đích hoạt động của
Hội là vỡ sự bỡnh đẳng, phát triển của phụ nữ, chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích
chính đáng và hợp pháp của phụ nữ vỡ bỡnh đẳng giới và phát triển.

Sự kiện lịch sử này thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng và Bác đối với
vai trũ của phụ nữ trong sự nghiệp cỏch mạng, đối với tổ chức phụ nữ và sự
nghiệp giải phóng phụ nữ. Từ khi thành lập, HLHPN Việt Nam đó cú nhiều
đóng góp trong công tác vận động các tầng lớp phụ nữ tham gia sự nghiệp
cách mạng giải phóng dân tộc. Qua các cao trào cách mạng 1930 - 1931, 1936
- 1939, 1939 - 1945, dưới sự lónh đạo của Hội, phụ nữ Việt Nam đó thể hiện


×