Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Com Nhung diem moi cua cac TCTD nam 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.15 KB, 30 trang )

Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Luật ngân hàng

LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2007, bong bóng nhà ở cùng với giám sát tài chính thiếu hoàn thiện tại Hoa
Kì đã đưa cường quốc về kinh tế này đối mặt với một cuộc khủng hoảng tài chính. B ùng
phát mạnh từ cuối năm 2008, thông qua quan hệ tài chính nói riêng và kinh tế nói chung
mật thiết của Hoa Kỳ với nhiều nước. Cuộc khủng hoảng từ Hoa Kỳ đã lan rộng ra nhiều
nước trên thế giới, dẫn tới những đổ vỡ tài chính, suy thoái kinh tế , suy giảm tốc độ tăng
trưởng kinh tế ở nhiều nước trên thế giới.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới lan rộng, đã ảnh hưởng trực tiếp tới nhiều quốc
gia khác nhau , trong đó có Việt Nam. Cuối năm 2008 Việt Nam phải đối mặt với mức
lạm phát tăng cao chưa từng có tính từ thời điểm năm 1990, cùng với sự tuột dốc thê
thảm của thị trường chứng khoán.
Trước sức ép lạm phát, chính phủ đã đưa ra những chính sách thắt chặt tiền tệ một
cách mạnh mẽ và đôt ngột, chính điều này đã làm lộ ra những vấn đề về quản lý cũng như
rủi ro trong thanh khoản của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam dứơi sự điều chỉnh các tổ
chức tín dụng 1997 . Thêm vào đó, việc thị trường chứng khoán tuột dốc thê thảm, thị
trường bất động sản lại gần như bị đóng băng khiến cho những khoản đầu tư chính của
các tổ chức tín dụng đúng trên bờ vực thẳm.
Ngay lập tức chính phủ đã đưa ra một số chính sách có tính chữa cháy như Chỉ thị
03 vào tháng 5/2007 khống chế dư nợ cho vay kinh doanh chứng khoán không vượt quá
3%, tuy nhiên tổng dư nợ cho vay đã không những không có tác dụng, mà còn gây ra
những tác động tiêu cực khác.
Trong bối cảnh như trên, việc ban hành một quy định mới về đảm bảo an toàn
trong hoạt động của các tổ chức tín dụng với các yêu cầu cao hơn là điều tất yếu. Năm
2010, quốc hội khoá XII đã thông qua luật các tổ chức tín dụng 2010, có hiệu lực thì hành
từ ngày 1/1/2011

1






Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Luật ngân hàng

I. SỰ CẦN THIẾT VÀ VAI TRÒ CỦA LUẬT TỔ CHỨC TÍN
DỤNG NGÂN HÀNG NĂM 2010
1. Sự cần thiết ban hành luật các Tổ chức Tín dụng mới
Luật Các TCTD (Luật Các TCTD) được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12/12/1997, có hiệu lực thi hành từ 01/7/1998 và được
sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 20/2004/QH11 ngày 15/6/2004 quy định tổ
chức, hoạt động của các TCTD và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác ở nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tổng kết, đánh giá qua hơn 10 năm thực hiện các
quy định của Luật các TCTD cho thấy Luật Các TCTD hiện hành đã có những đóng góp
quan trọng trong việc tạo môi trường pháp lý lành mạnh cho tổ chức và hoạt động của hệ
thống các TCTD. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế và yêu cầu của quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, Luật Các TCTD và Luật sửa đổi một số điều của Luật Các
TCTD cũng bộc lộ một số hạn chế, bất cập cản trở sự phát triển của hệ thống tổ chức tín
dụng (TCTD) cần được sửa đổi, hoàn thiện. Việc ban hành Luật Các TCTD mới là cần
thiết vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, Luật được xây dựng trên quan điểm chỉ quy định những nội dung chủ
yếu, bao quát, những nội dung cụ thể do Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn
nên phát sinh nhiều văn bản hướng dẫn dưới Luật. Việc ban hành văn bản hướng dẫn
dưới Luật lại gặp nhiều khó khăn do bị chi phối bởi một số Luật liên quan khác như Luật
doanh nghiệp, Luật chứng khoán, Luật đầu tư, Luật phá sản… Các luật này được quy
định khá chi tiết, cụ thể, trong khi Luật Các tổ chức tín dụng là Luật chuyên ngành lại
quy định thiếu cụ thể, chi tiết. Cho đến nay, việc ban hành các văn bản hướng dẫn Luật

các tổ chức tín dụng vẫn chưa đầy đủ dẫn đến tình trạng có nhiều quy định trong Luật
chưa thực hiện được.
Thứ hai, Luật các tổ chức tín dụng còn có sự phân biệt đối xử giữa các loại hình
tổ chức tín dụng, tạo ra sự cạnh tranh thiếu lành mạnh. Quỹ tín dụng nhân dân là loại hình
2




Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Luật ngân hàng

kinh tế hợp tác xã nên có quy mô, năng lực tài chính nhỏ, hoạt động ở cấp thấp nhưng
vẫn bị điều chỉnh bởi hành lang pháp lý chung của các loại hình tổ chức tín dụng là chưa
phù hợp.
Thứ ba, một số quy định của Luật các tổ chức tín dụng chưa rõ ràng, minh bạch,
gây nhiều khó khăn, vướng mắc trong triển khai thực hiện. Ví dụ, Luật không quy định rõ
những nghiệp vụ nào tổ chức tín dụng đương nhiên được làm, những nghiệp vụ nào phải
xin phép, nghiệp vụ nào phải thành lập công ty; việc góp vốn đầu tư thành lập công ty
con và các loại hình công ty khác để thực hiện hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân
hàng, bảo hiểm, chứng khoán và các lĩnh vực khác chưa được quy định rõ ràng, nhất là
quan hệ tín dụng giữa ngân hàng mẹ và công ty con; nhiều thuật ngữ chưa thật chính xác
dẫn đến hiểu không đồng nhất và vận dụng theo nhiều cách khác nhau; thiếu định nghĩa
một số thuật ngữ cần thiết như dịch vụ ngân hàng, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài, ngân hàng con của ngân hàng nước ngoài, luật chống rửa tiền, mua bán
nợ, thư tín dụng, vốn đầu tư, các hoạt động đầu tư tài chính, hoạt động đầu tư tài chính
hải ngoại; một số vấn đề như cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng, độc quyền, điều chỉnh
hoạt động của các ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán…chưa được quy
định cụ thể.

Thứ tư, Luật các tổ chức tín dụng hiện hành chưa cập nhật được những chuẩn
mực và thông lệ quốc tế tốt nhất nên hoạt động của các tổ chức tín dụng bị bó hẹp, khó
tiếp cận và hội nhập quốc tế. Luật quy định về áp dụng các điều ước quốc tế nhưng chưa
tham khảo các cam kết tại Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, những nguyên tắc cơ bản của
uỷ ban Basel… Một số nghiệp vụ mới chưa có quy định cụ thể.
Thứ năm, một số điều khoản quy định trong Luật không phù hợp với hoạt động
của các tổ chức tín dụng hoặc chưa thống nhất với các Luật khác làm cản trở sự phát triển
của các tổ chức tín dụng. Hiệu lực thực thi pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng chưa cao
dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức tín dụng chưa được bảo vệ.
*

Một số vướng mắc cụ thể như sau:
3




Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Luật ngân hàng

(1)- Về cấp giấy phép thành lập và hoạt động (Điều 23,24): Việc yêu cầu tổ chức
không phải là tổ chức tín dụng xin cấp phép hoạt động ngân hàng phải có tình hình tài
chính 3 năm gần nhất là không thực tế. Quy định thời hạn cấp phép 90 ngày kể từ ngày
nhận đủ hồ sơ là quá dài so với Luật doanh nghiệp (30 ngày). Một số quy định không phù
hợp với loại hình quỹ tín dụng nhân dân như phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận
bằng văn bản khi thay đổi mức vốn điều lệ, phải đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền và đăng báo Trung ương, địa phương về những thay đổi phải được Ngân hàng Nhà
nước chấp thuận…
(2)- Điều kiện, thủ tục, hồ sơ mở Sở giao dịch, chi nhánh, Văn phòng đại diện, thành

lập công ty con (Điều 33) chưa rõ ràng, cụ thể, chưa có sự phân biệt biệt giữa Sở giao
dịch và chi nhánh của tổ chức tín dụng, chưa nêu rõ từng điều kiện để mở Sở giao dịch,
chi nhánh và thành lập công ty…
(3)- Các quy định về hành vi cạnh tranh (Khoản 3, Điều 16) và khoản tiền bất hợp
pháp (Điều 19) chưa thật phù hợp với Luật cạnh tranh năm 2004 và Nghị định về phòng
chống rửa tiền năm 2005.
(4)- Quy định về cổ đông, cổ phần, cổ phiếu chưa đề cập đến một số nội dung như số
lượng cổ đông tối thiểu khi thành lập tổ chức tín dụng, tỷ lệ sở hữu cổ phần tối đa đối với
1 cổ đông là pháp nhân hoặc thể nhân, giới hạn sở hữu cổ phần tối đa của một nhóm
người có liên quan tại một tổ chức tín dụng cổ phần, tỷ lệ sở hữu cổ phần để được xác
định là cổ đông lớn.
(5)- Quy định về quản trị, kiểm soát, điều hành có một số vấn đề, cần nghiên cứu,
xem xét, như: vừa có quy định việc thay đổi các chức danh Chủ tịch và các thành viên
Hội đồng quản trị, Trưởng ban và các thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc phải
được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận, vừa có quy định những chức danh này phải được
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chuẩn y; quy định Tổng giám đốc phải cư trú tại Việt
Nam chưa thật phù hợp trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu và công nghệ thông tin
hiện đại; quyền hạn, nhiệm vụ của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị; tiêu chuẩn,
4




Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Luật ngân hàng

điều kiện đối với Chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị, Trưởng ban và các thành
viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc và Phó Tổng giám đốc… chưa được quy định rõ.
(6)- Thời hiệu khởi kiện đối với các hợp đồng tín dụng áp dụng như thời hiệu khởi

kiện đối với hợp đồng nói chung là không phù hợp (Điều 54), cần phải có quy định riêng
phù hợp với đặc thù của loại hợp đồng tín dụng. Quy định quyền khởi kiện việc tổ chức
tín dụng từ chối cho vay không có căn cứ (Điều 56) là không phù hợp vì hợp đồng tín
dụng là sự thảo thuận tự nguyện, quy định này chỉ phù hợp với loại hình ngân hàng chính
sách.
(7)- Khái niệm về tài sản thuê (Điều 20, 61) chưa rõ, các quy định về hoạt động của
công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính còn chặt chẽ, bó hẹp không tạo điều kiện cho
loại hình tổ chức tín dụng này phát triển. Quy định về hoạt động ngân hàng của các tổ
chức khác không rõ ràng nên khó hướng dẫn thực hiện.
(8)- Một số nội dung quy định về quyền góp vốn, mua cổ phần (Điều 69), Quy định
về đối tượng không được cho vay, chấp nhận bảo lãnh (Điều 77), hạn chế cho vay (Điều
78) và các quy định về kiểm soát đặc biệt, giải thể, phá sản, thanh lý tổ chức tín dụng
(Điều 92) chưa rõ ràng hoặc không còn phù hợp trong điều kiện phát triển mới.
(9)- Luật quy định tổ chức tín dụng không được trực tiếp kinh doanh bất động sản
(Điều 73) nhưng không quy định thế nào là trực tiếp kinh doanh bất động sản, mức độ tổ
chức tín dụng được kinh doanh gián tiếp bất động sản và quy định này có chi phối việc
mua bán tài sản bảo đảm là bất động sản hay không.
(10)- Điều 476 Bộ Luật dân sự năm 2005 quy định lãi suất cho vay do các bên thoả
thuận nhưng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối
với loại cho vay tương đương, trong khi, theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước, lãi
suất cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng là lãi suất thoả thuận, lãi suất
cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố chỉ là cơ sở để tổ chức tín dụng tham chiếu.
(11)- Luật quy định về chế tài xử phạt đối với các sai phạm trong hoạt động tiền tệ,
ngân hàng chưa đủ mạnh.
5




Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ

TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Luật ngân hàng

2. Quan điểm chỉ đạo và yêu cầu đối với việc xây dựng Luật các TCTD mới
2.1. Về định hướng của Đảng và Nhà nước về hoàn thiện pháp luật ngân hàng
a) Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về phương hướng,
nhiệm vụ kinh tế xã hội 5 năm (2006-2010) xác định định hướng chính sách tiền tệ và tín
dụng là:
"...phát triển hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đa dạng về sở hữu và loại
hình tổ chức, áp dụng đầy đủ các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về quản trị ngân hàng.
Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước. Nâng cao chất
lượng tín dụng, khả năng sinh lời, xử lý nhanh nợ đọng, giảm tỷ lệ nợ xấu xuống mức an
toàn; tăng vốn tự có của các ngân hàng thương mại đạt chuẩn mực quốc tế. Tạo điều
kiện thuận lợi cho dân cư và doanh nghiệp tiếp cận với các sản phẩm và tiện ích ngân
hàng." và "Thực hiện chính sách lãi suất thoả thuận theo nguyên tắc thị trường và đi tới
loại bỏ hoàn toàn quy định hành chính đối với lãi suất ngoại tệ." và "...Thực hiện mở
cửa thị trường dịch vụ ngân hàng theo lộ trình hội nhập quốc tế, bảo đảm quyền kinh
doanh của các ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng phù
hợp với các cam kết quốc tế của nước ta.
Hình thành môi trường pháp luật về tiền tệ, tín dụng minh bạch và công khai. Loại
bỏ các hình thức bảo hộ, bao cấp, ưu đãi và phân biệt đối xử giữa các TCTD. Nâng cao
hiệu lực thi hành pháp luật và ngăn chặn việc hình sự hoá các quan hệ dân sự, kinh tế
trong lĩnh vực ngân hàng."
b) Đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến
năm 2020 kèm theo Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/05/2006 đã xác định định
hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng đến năm 2010
như sau: "Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và
chuẩn mực quốc tế về an toàn kinh doanh tiền tệ - ngân hàng. Xây dựng môi trường pháp
luật trong lĩnh vực tiền tệ, hoạt động ngân hàng minh bạch và công bằng nhằm thúc đẩy
cạnh tranh và bảo đảm an toàn hệ thống tiền tệ, ngân hàng. Các chính sách và quy định

6




Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Luật ngân hàng

pháp luật về tiền tệ, hoạt động ngân hàng góp phần tạo môi trường lành mạnh và động lực
cho các TCTD, doanh nghiệp và người dân phát triển sản xuất kinh doanh. Loại bỏ các
hình thức bảo hộ, bao cấp, ưu đãi trong lĩnh vực ngân hàng và phân biệt đối xử giữa các
TCTD... Ban hành Luật NHNN mới thay thế Luật NHNN (năm 1997), Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật NHNN (năm 2003); Luật các TCTD mới thay thế Luật các
TCTD (năm 1997), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD (năm 2004) để
tạo cơ sở thúc đẩy quá trình cải cách, phát triển hệ thống tiền tệ, ngân hàng an toàn, hiện
đại và hội nhập quốc tế có hiệu quả. Luật NHNN và Luật các TCTD hướng tới điều chỉnh
mọi hoạt động tiền tệ, ngân hàng, không phân biệt đối tượng tiến hành hoạt động ngân
hàng. Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Tăng cường hiệu lực những chế tài pháp lý, kinh tế và hành chính bảo đảm thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ trả nợ của người đi vay và bảo vệ quyền lợi chính đáng của các TCTD. Hạn chế và
tiến tới xoá bỏ việc hình sự hóa các quan hệ kinh tế trong lĩnh vực ngân hàng."
Như vậy, việc xây dựng và ban hành Luật Các TCTD mới là phù hợp với định hướng
và cũng nhằm thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về hoàn thiện pháp
luật ngân hàng đáp ứng yêu cầu thực tiễn của cuộc sống.
2.2. Các yêu cầu đối với Luật các TCTD mới: Việc ban hành Luật Các TCTD mới
phải đảm bảo được các yêu cầu sau đây:
Một là, việc ban hành Luật Các TCTD mới phải góp phần lành mạnh hoá tổ chức
và hoạt động của các TCTD, góp phần thúc đẩy hoạt động cung ứng các dịch vụ ngân
hàng đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế;

Hai là, kế thừa được những nội dung tốt, đã được trải nghiệm qua thực tiễn 10 năm
thi hành Luật Các TCTD hiện hành, bảo đảm tính liên tục trong quản lý;
Ba là, đưa ra được những quy định phù hợp hơn với thông lệ quốc tế trong hoạt
động ngân hàng, đặc biệt lưu ý đến những cam kết hội nhập quốc tế của Việt nam trong
những năm vừa qua;
7




Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Luật ngân hàng

Bốn là, tạo ra được một cơ sở pháp lý bảo đảm sự tự chủ trong kinh doanh của các
TCTD, đồng thời bảo đảm sự chặt chẽ, thận trọng trong hoạt động ngân hàng, đặc biệt là
nâng cao được khả năng kiểm soát, giám sát của NHNN đối với hoạt động của từng
TCTD và sự ổn định, an toàn của hệ thống ngân hàng.
Năm là, khắc phục bất cập đã nảy sinh trong quá trình thực hiện Luật các TCTD
hiện hành như quy định về phạm vi điều chỉnh, tổ chức, quản trị, điều hành, hình thức sở
hữu, tỷ lệ an toàn…; đồng thời, khắc phục bất cập do xung đột với Luật Doanh nghiệp,
Bộ luật Dân sự, Luật Chứng khoán…
Sáu là, Luật các TCTD mới cần quy định chi tiết, cụ thể, rõ ràng về tổ chức, hoạt
động và công tác quản trị, điều hành của từng loại hình TCTD; những nghiệp vụ TCTD
đương nhiên được kinh doanh; những nghiệp vụ phải được phép của NHNN, những
nghiệp vụ phải thành lập công ty trực thuộc, những nghiệp vụ không được thực hiện.
Bảy là, Luật các TCTD cần hướng đến việc xoá bỏ sự phân biệt để tạo sự bình
đẳng giữa các TCTD thuộc các hình thức sở hữu khác nhau theo nguyên tắc tạo lập một
môi trường kinh doanh minh bạch, lành mạnh và bình đẳng trong hoạt động tiền tệ - ngân
hàng.


II. NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG LUẬT CÁC TCTD 2010
1.Phạm vi điều chỉnh
Luật tổ chức tín dụng 2010 quy định theo hướng cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ hơn so
với Luật hiện hành.
Điều 1 Luật tổ chức tín dụng 2010 đã quy định rõ phạm vi điều chỉnh bao gồm
việc thành lập, tổ chức, hoạt động, kiểm soát đặc biệt, tổ chức lại, giải thể tổ chức tín
dụng; việc thành lập, tổ chức, hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng
đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân
hàng. Thay đổi quan trọng nhất trong Luật tổ chức tín dụng năm 2010 là đã xác định lại
phạm vi điều chỉnh trên cơ sở thay đổi khái niệm “hoạt động ngân hàng”. Theo luật tổ
8




Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Luật ngân hàng

chức tín dụng năm 1997 quy định thì hoạt động ngân hàng phải được hiểu phải bao gồm
cả hoạt động huy động vốn, sử dụng vốn huy động để cấp tín dụng và làm dịch vụ thanh
toán. Luật tổ chức tín dụng 2010 tại khoản 12 Điều 4 đã quy định lại hoạt động ngân
hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau: a)
Nhận tiền gửi; b) Cấp tín dụng; c) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
Phạm vi điều chỉnh cũa Luật tổ chức tín dụng 2010 đã bỏ đi các quy định về “các
tổ chức khác có hoạt động ngân hàng”. Điều này có nghĩa là nếu không phải là tổ chức
tín dụng thì không được phép thực hiện các hoạt động ngân hàng. Để được cấp phép hoạt
động ngân hàng thì các tổ chức phải được thành lập như một tổ chức tín dụng. Những tổ
chức không phải là tổ chức tín dụng mà kinh doanh , cung ứng dịch vụ ngân hàng đều

phải tổ chức lại dưới hình thức là một tổ chức tín dụng hoặc là chấm dứt hoạt động.
2. Về phân biệt các loại hình TCTD
2.1. Phân biệt ngân hàng và TCTD phi ngân hàng
Tiêu chí phân biệt: dựa trên cơ sở phạm vi hoạt động của hai loại hình này. Theo
đó,
-

Các TCTD phi ngân hàng không được phép nhận tiền gửi của cá nhân, không được
cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng.
 Quy định này không chỉ làm giảm bớt rủi ro cho hệ thống TCTD, phù hợp với thông
lệ áp dụng hầu hết các nước trên thế giới mà còn cho phép các TCTD phi ngân hàng
được mở rộng phạm vi cung ứng các dịch vụ ngân hàng khác do của mình. Bởi lẽ, các
quy định về an toàn sẽ được áp dụng ở mức độ thấp hơn so với các ngân hàng thương mại
là những tổ chức nhận tiền gửi của dân cư và tham gia vào hệ thống thanh toán.
2.2. Phân biệt giữa TCTD hoạt động kinh doanh và TCTD hoạt động chính
sách
Dự thảo luật TCTD (sửa đổi 6/2010), về ngân hàng chính sách. Thấy rằng, có 2
loại ý kiến được đưa ra:
9




Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Luật ngân hàng

+ Loại ý kiến thứ nhất cho rằng không nên đưa loại hình ngân hàng chính sách (NHCS)
vào phạm vi điều chỉnh của Luật TCTD vì hiện tại các vấn đề liên quan đến thành lập, tổ
chức và hoạt động của các ngân hàng chính sách đều thực hiện theo văn bản riêng của

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
+ Loại ý kiến thứ hai cho rằng Luật Các TCTD mới nên đưa loại hình NHCS vào phạm
vi điều chỉnh của Luật TCTD để bảo đảm tất cả các loại hình TCTD đều chịu sự điều
chỉnh chung của Luật Các TCTD.
Tuy nhiên, điều 17 của Luật các TCTD 2010 quy định:
- Trao cho Chính phủ thẩm quyền hướng dẫn cụ thể về tổ chức và hoạt động của những
đối tượng này.
- Ngân hàng chính sách phải thực hiện kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ; xây dựng, ban
hành quy trình nội bộ về các hoạt động nghiệp vụ; thực hiện chế độ báo cáo thống kê, báo
cáo hoạt động và hoạt động thanh toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước nhằm
đảm bảo việc sử dụng vốn của nhà nước được minh bạch, công khai, an toàn.
 Như vậy, về cơ bản các quy định của Luật sẽ chỉ áp dụng đối với các loại hình tổ chức
hoạt động trên cơ sở thị trường, không có sự hỗ trợ từ Chính phủ và các cơ quan khác.
Theo đó các NHTM được thực hiện các hoạt động ngân hàng truyền thống như nhận tiền
gửi, cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Và tùy theo mức độ rủi ro thị
trường của từng nghiệp vụ ngân hàng đầu tư, các ngân hàng thương mại được phép trực
tiếp (Điều 107) hoặc gián tiếp (thông qua công ty con, công ty liên kết) thực hiện các
nghiệp vụ ngân hàng đầu tư (Điều 103).
2.3. Về hình thức pháp lý và loại hình hoạt động
Về hình thức pháp lý, tại điều 6 Luật các TCTD 2010 quy định TCTD được tổ
chức theo các hình thức pháp lý của Luật Doanh nghiệp 2005 (hoặc Luật Hợp tác xã), cụ
thể:

10




Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí

Luật ngân hàng

”Ngân hàng thương mại trong nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty cổ
phần (trừ ngân hàng thương mại nhà nước được thành lập dưới hình thức công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ);
TCTD phi ngân hàng trong nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn;
TCTD 100% vốn nước ngoài, TCTD liên doanh được thành lập, tổ chức dưới hình thức
công ty trách nhiệm hữu hạn;
Ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân được thành lập, tổ chức dưới hình thức
hợp tác xã;
Tổ chức tài chính vi mô được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu
hạn.”
Như vậy, các quy định về quản trị, điều hành, kiểm soát được phân loại theo hình
thức pháp lý của TCTD (công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, hợp tác xã).
Loại hình hoạt động, Luật các TCTD 2010 quy định phạm vi hoạt động của từng
TCTD phụ thuộc vào loại hình hoạt động của chính TCTD như ngân hàng thương mại,
ngân hàng hợp tác xã, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, tổ chức tài chính vi
mô, quỹ tín dụng nhân dân.
3. Về quản trị, điều hành
Hoạt động quản trị suy cho cùng cũng là quản trị con người, nhưng có sự ảnh
hưởng lớn của quyền lực. Vì vậy, trong mọi tổ chức sự phân bổ quản lý, điều hành một
bộ máy vận hành đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Thực tiễn quản lý hoạt động của các TCTD cho thấy, TCTD là những đối tượng
cần được quản lý chặt chẽ, vì đây là những doanh nghiệp có các hoạt động ảnh hưởng lớn
đến sự ổn định xã hội, kinh tế đất nước và là những tổ chức có được quyền lực rất lớn
trong việc sử dụng, phân bổ nguồn vốn huy động từ xã hội. Việc quản lý thiếu chặt chẽ,
sự lạm dụng quyền lực trong nội bộ của một TCTD thường là những nguyên nhân dẫn
đến khủng hoảng, gây ra sự mất lòng tin trong dân cư và đe doạ sự mất ổn định của cả hệ
11





Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Luật ngân hàng

thống TCTD... Do đó, một số các quy định về tổ chức quản lý đối với các TCTD thường
được thiết kế chặt chẽ hơn so với các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế. Đây cũng là
một thông lệ chung được thừa nhận rộng rãi trên bình diện quốc tế. So với Luật các
TCTD 1997, Luật các TCTD 2010 đã bổ sung nhiều quy định đặc thù liên quan đến quản
trị, điều hành của TCTD (60 điều so với 6 điều trong Luật các TCTD 1997). Các quy
định này chủ yếu là các quy định được luật hóa từ các quy định của Nghị định số
59/2009/NĐ-CP, Quyết định số 24/2007/QĐ-NHNN và các văn bản quy phạm pháp luật
khác do NHNN ban hành, có tham khảo “25 nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng
hiệu quả của Ủy ban Basel” nhằm bảo đảm hoạt động của TCTD được an toàn, hiệu quả.
Những thay đổi chủ yếu về quản trị, điều hành của TCTD so với Luật các TCTD 1997
bao gồm:
3.1. Giảm bớt các thủ tục hành chính:
Luật các TCTD 2010 bỏ quy định chuẩn y sau các chức danh quản lý, điều hành,
kiểm soát. Thay vào đó, NHNN sẽ chấp thuận trước danh sách dự kiến bầu, bổ nhiệm các
chức danh thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc. Quy
định này ngoài việc đáp ứng được yêu cầu về cải cách hành chính còn xóa được bất cập
về khoảng trống pháp lý hiện nay khi các chức danh nói trên đã được Đại hội đồng cổ
đông bầu nhưng chưa có hiệu lực pháp lý vì chưa được NHNN chuẩn y.
Đồng thời, Luật các TCTD 2010 cũng bỏ thủ tục chuẩn y Điều lệ của TCTD
(nghĩa là TCTD chỉ phải đăng ký Điều lệ với NHNN sau khi được cơ quan có thẩm
quyền của TCTD thông qua); giảm bớt các thay đổi cần phải chấp thuận trước của
NHNN so với quy định của Luật các TCTD 1997.

3.2. Nâng cao yêu cầu đối với người quản lý, điều hành của TCTD:
Bổ sung một số quy định về tiêu chuẩn, điều kiện đối với người quản lý, người
điều hành, thành viên Ban kiểm soát (Điều 50 luật các TCTD 2010). Đồng thời, bổ sung
các quy định về tiêu chuẩn đối với thành viên độc lập của Hội đồng quản trị. Theo đó:
12




Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Luật ngân hàng

-

Hội đồng quản trị của TCTD là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn phải

có ít nhất một thành viên độc lập. Thành viên độc lập này phải bảo đảm tính độc lập tức
không là nhân viên, người quản lý, thành viên Ban kiểm soát, không nhận lợi ích khác,
bản thân không sở hữu quá 1% vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần có quyền biểu quyết của
TCTD, bản thân và người có liên quan không sở hữu quá 5% vốn điều lệ hoặc vốn cổ
phần có quyền biểu quyết của TCTD, không có người liên quan tham gia quản trị, điều
hành TCTD).
Hội đồng quản trị của TCTD tối thiểu phải có ½ tổng số thành viên Hội đồng quản
trị là thành viên độc lập và thành viên không phải là người điều hành TCTD. Đồng thời
Luật 2010 bổ sung quy định về các trường hợp không cùng đảm nhiệm chức vụ (Điều 34)
nhằm tránh xung đột lợi ích, lạm dụng quyền ảnh hưởng của mình để ra những quyết
định xung đột với lợi ích của tổ chức tín dụng. Ngoài ra, Luật 2010 cũng bổ sung quy
định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của người quản lý, điều hành TCTD, trách nhiệm công
khai các lợi ích liên quan (Điều 38, 39).

3.3 Khẳng định chính sách đại chúng hóa các NHTM cổ phần:
Luật các TCTD 2010 thay đổi mức giới hạn sở hữu cổ phần (Điều 55): Đối với
-

Cổ đông là cá nhân: từ 10% xuống 5%
Cổ đông là pháp nhân: từ 20% xuống 15% (trừ trường hợp sở hữu cổ phần theo

quyết định của Ngân hàng Nhà nước để xử lý tổ chức tín dụng gặp khó khăn, bảo đảm an
toàn hệ thống tổ chức tín dụng; sở hữu cổ phần nhà nước tại các tổ chức tín dụng cổ phần
hóa; sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài).
Cổ đông và những người có liên quan của cổ đông đó không được sở hữu vượt
quá 20% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng.
Lưu ý: Các tỷ lệ sở hữu nêu trên bao gồm cả phần vốn uỷ thác cho các tổ chức, cá
nhân khác mua cổ phần. Theo định hướng này, Nhà nước không cho phép thành lập ngân
hàng thương mại tư nhân tại Việt Nam.
3.4. Các quy định đặc thù về quản trị, điều hành được xây dựng theo hình thức
pháp lý của TCTD
13




Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Luật ngân hàng

Luật chỉ quy định các vấn đề đặc thù về quản trị điều hành của TCTD. Tức là, các
nội dung khác về quản trị, điều hành không được quy định trong Luật này sẽ được thực
hiện theo quy định chung của Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã. Về kết cấu, các quy
định về quản trị, điều hành của Luật 2010 được chia thành các quy định chung áp dụng

chung cho tất cả các TCTD và các quy định riêng áp dụng cho TCTD theo từng hình thức
pháp lý.
3.5. Yêu cầu cao hơn đối với hoạt động kiểm toán độc lập
Các quy định khác về kiểm toán nội bộ, kiểm soát nội bộ, kiểm toán độc lập cũng
được quy định cụ thể tại Luật 2010, trong đó đáng chú ý là quy định về việc lựa chọn
kiểm toán độc lập phải được thực hiện trước khi năm tài chính được kiểm toán bắt đầu vì
theo thông lệ quốc tế và yêu cầu của chuẩn mực kiểm toán, tổ chức kiểm toán phải tham
dự các cuộc họp của Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát... để nắm bắt tình hình kinh doanh
của TCTD suốt năm tài chính. Ngoài ra, để bảo đảm đánh giá trung thực, chính xác tình
hình hoạt động của TCTD, Luật 2010 yêu cầu báo cáo kiểm toán không được có ý kiến
ngoại trừ (qualified opinion); trường hợp có ý kiến ngoại trừ, TCTD phải thực hiện kiểm
toán lại để đảm bảo báo cáo kiểm toán không có ý kiến ngoại trừ.
4. Về phạm vi hoạt động kinh doanh của TCTD
Như ta đã biết, hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh có điều kiện được quy định
rất chặt chẽ, theo đó các tổ chức khác không phải là TCTD đều không đáp ứng được,
phạm vi hoạt động bị bó hẹp. Khi luật TCTD 2010 được xây dựng đã gần như thay đổi
một cách cơ bản về vấn đề phạm vi hoạt động của các TCTD. Cụ thể là:
4.1. Về Giấy phép và phạm vi hoạt động kinh doanh:
* Về Giấy phép
Theo điều 20 Luật TCTD 2010 quy định rõ mỗi TCTD sẽ được cấp duy nhất một
Giấy phép thành lập và hoạt động, trong đó xác định rõ phạm vi hoạt động của từng
TCTD trên cơ sở nhu cầu và khả năng đáp ứng các điều kiện của từng TCTD. Liệt kê một
cách đầy đủ các loại hình TCTD cũng như việc cấp phép khi đáp ứng được các điều kiện
14




Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí

Luật ngân hàng

luật định : Tổ chức tín dụng (khoản 1) ; Tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng
100% vốn nước ngoài (khoản 2) ; Chi nhánh ngân hàng nước ngoài (khoản 3) ; Văn
phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động
ngân hàng (khoản 4) ; ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi
mô do Ngân hàng Nhà nước quy định (khoản 5).
Có thể thấy, so với luật TCTD 1997 thì luật TCTD 2010 đã co nhiều điểm tiến bộ
hơn về các quy định và đối tượng được cấp giấy phép. Từ đây các tỏ chức, trong quá
trình hoạt động có thể mở rộng hoặc thu hẹp phạm vi hoạt động và sẽ được NHNN chấp
thuận bằng Quyết định sửa đổi, bổ sung Giấy phép. Quyết định này sẽ là một bộ phận
không tách rời của Giấy phép thành lập và hoạt động.
* Về phạm vi hoạt động kinh doanh:
Theo điều 90 luật TCTD 2010 cũng đã quy định rõ phạm vi hoạt động kinh doanh
của từng loại hình tổ chức tín dụng và không chỉ giới hạn trong khuôn khổ các hoạt động
ngân hàng mà còn bao gồm các hoạt động kinh doanh khác. Các hoạt động kinh doanh
khác của các TCTD ở đây là các hoạt động không chỉ TCTD mà các tổ chức khác cũng
có thể được thực hiện. Theo cách tiếp cận này, các nghiệp vụ tư vấn tài chính, môi giới
tiền tệ, lưu ký chứng khoán, kinh doanh vàng... là những nghiệp vụ mà TCTD được phép
thực hiện nhưng không phải là “hoạt động ngân hàng”. Để tăng quyền chủ động kinh
doanh cho các TCTD, Luật đã có bước cải cách quan trọng giảm đáng kể yêu cầu xin
chấp thuận, xin giấy phép con.
4.2. Về cơ chế xác định phí, lãi suất của TCTD (Điều 91):
Điểm mới nhất ở quy định này là việc quy định cácTCTD và khách hàng có quyền
thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD theo quy
định của pháp luật, trừ trường hợp cần thiết, để bảo đảm an toàn của hệ thống TCTD
(khoản 1) Ngân hàng Nhà nước có quyền quy định cơ chế xác định phí, lãi suất trong
hoạt động kinh doanh của TCTD (khoản 3)
4.3. Về yêu cầu ban hành quy định nội bộ (Điều 93):
15





Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Luật ngân hàng

Luật các TCTD 2010 quy định TCTD phải xây dựng và ban hành các quy định nội
bộ đối với mọi hoạt động nghiệp vụ của tổ chức tín dụng . Đây là những quy định mang
tính chất đổi mới so với luật cũ, bao gồm: Quy định về cấp tín dụng, quản lý tiền vay;
Quy định về phân loại tài sản có, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro; Quy định về đánh
giá chất lượng tài sản có và tuân thủ tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu; Quy định về quản lý thanh
khoản; Quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ và cơ chế kiểm toán nội bộ; Quy định về
hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ; Quy định về quản trị rủi ro trong hoạt động của tổ
chức tín dụng...
4.4. Về góp vốn, mua cổ phần của NHTM (Điều 103):
Theo quy định tại luật này, NHTM chỉ được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp
vốn, mua cổ phần vào các doanh nghiệp khác. Để hoạt động trong các lĩnh vực chứng
khoán , cho thuê tài chính và bảo hiểm, NHTM phải thành lập công ty con, công ty liên
kết. Đối với các lĩnh vực quản lý tài sản bảo đảm, kiều hối, kinh doanh ngoại hối, bao
thanh toán, phát hành thẻ tín dụng, tín dụng tiêu dùng, dịch vụ hỗ trợ thanh toán, NHTM
có thể lựa chọn trực tiếp thực hiện các hoạt động này hoặc gián tiếp thực hiện thông qua
thành lập công ty con, công ty liên kết. Tuy nhiên, việc góp vốn, mua cổ phần của NHTM
phải tuân thủ các giới hạn quy định tại Điều 129 của Luật. Việc mua, nắm giữ cổ phiếu
của NHTM, công ty con của NHTM trong các TCTD khác được thực hiện theo quy định
(về giới hạn và điều kiện) của NHNN.
Việc quy định rõ ràng như vậy giúp các NHTM có thể hoạt động các lĩnh vực một
cách có hiệu quả, chủ động hơn.
4.5. Về kinh doanh, cung ứng dịch vụ ngoại hối, sản phẩm phái sinh của

NHTM (Điều 105):
Có nhiều tiến bộ hơn khi quy định rằng NHTM được kinh doanh, cung ứng dịch
vụ cho khách hàng ở trong nước và nước ngoài các sản phẩm ngoại hối; phái sinh về tỷ
giá, lãi suất, ngoại hối, tiền tệ và tài sản tài chính khác theo quy định của pháp luật về
ngoại hối sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.
16




Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Luật ngân hàng

Ngoài ra, các NHTM được trực tiếp thực hiện một số hoạt động kinh doanh khác
(Điều 107) như quản lý tiền mặt, tư vấn tài chính, quản lý, bảo quản tài sản, cho thuê tủ,
két an toàn, tư vấn tài chính doanh nghiệp... Đối với các nghiệp vụ như lưu ký chứng
khoán, kinh doanh vàng và các hoạt động kinh doanh khác liên quan đến hoạt động ngân
hàng, NHTM sẽ được thực hiện sau khi được NHNN cho phép.
4.6. Về phạm vi hoạt động của công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính:
Nhận thấy có nhiều điêm mới của luật về vấn đề này. Cụ thể là:
-

Theo quy định (Điều 108) của Luật các TCTD 2010, công ty tài chính có thể thực

hiện một (công ty tài chính chuyên doanh) hoặc một số các hoạt động ngân hàng (công ty
tài chính tổng hợp) tùy theo nhu cầu hoạt động của mình. Luật giao quyền cho Chính phủ
quy định cụ thể về điều kiện (vốn, địa bàn hoạt động...) để công ty tài chính thực hiện các
hoạt động ngân hàng theo quy định (một hoạt động-công ty tài chính chuyên doanh hoặc
một số hoạt động - công ty tài chính tổng hợp)

-

Công ty tài chính cũng được thực hiện một số hoạt động kinh doanh khác (Điều

111) và được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp,
quỹ đầu tư.
-

Đặc biệt, như đã đề cập ở phần trên, Luật 2010 quy định các TCTD phi ngân hàng

(công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính) chỉ được nhận tiền gửi của tổ chức và
không được cung cấp dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng.
-

Đối với công ty cho thuê tài chính, Luật 2010 quy định rõ công ty cho thuê tài

chính là loại hình công ty tài chính có hoạt động kinh doanh chủ yếu là hoạt động cho
thuê tài chính. Ngoài ra, công ty cho thuê tài chính được cho vay bổ sung vốn lưu động
đối với bên thuê tài chính; cho thuê vận hành với tổng giá trị tài sản cho thuê vận hành
không vượt quá 30% tổng tài sản có của công ty cho thuê tài chính và được thực hiện các
hình thức cấp tín dụng khác sau khi NHNN cho phép. Công ty cho thuê tài chính được
thực hiện một số hoạt động kinh doanh khác theo quy định tại Điều 116 của Luật 2010
17




Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Luật ngân hàng


nhưng không được góp vốn, mua cổ phần, thành lập công ty con, công ty liên kết dưới
bất cứ hình thức nào.
5. Các quy định về bảo đảm an toàn trong hoạt động TCTD
Luật 2010 đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng nhằm thực hiện nguyên tắc coi
bảo đảm an toàn hệ thống trong hoạt động ngân hàng là một trong những mục tiêu hàng
đầu.
5.1. Các quy định về tăng cường quản lý, ngăn chặn sự lũng loạn
Luật 2010 bổ sung quy định chặt chẽ về điều kiện của cổ đông sáng lập, thành
viên sáng lập TCTD, điều kiện, tiêu chuẩn đối với người quản lý, điều hành, yêu cầu
công khai lợi ích liên quan có liên quan đến TCTD, giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần nhằm
bảo đảm điều kiện tài chính, năng lực quản trị, điều hành của cổ đông, thành viên sáng
lập, người quản lý, người điều hành TCTD, ngăn ngừa khả năng lũng đoạn hoạt động
ngân hàng của các cá nhân tổ chức là cổ đông lớn và hạn chế xung đột lợi ích tiềm tàng.
Đồng thời, Luật 2010 bổ sung quy định chặt chẽ về điều kiện khai trương hoạt động của
TCTD để bảo đảm TCTD khi khai trương hoạt động có đầy đủ các điều kiện về bộ máy
nhân sự, cơ sở vật chất, quy trình quản lý, kiểm soát nội bộ, kiểm soát rủi ro.
5.2. Về trường hợp cấm, hạn chế cấp tín dụng
Luật 2010 (Điều 126) quy định cụ thể về những trường hợp không được cấp tín
dụng. Theo đó, TCTD không được cấp tín dụng hoặc nhận bảo đảm để cấp tín dụng hoặc
thực hiện việc bảo đảm để TCTD khác cấp tín dụng đối với:
(i) Thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Ban kiểm soát, Tổng Giám
đốc, Phó Tổng Giám đốc của TCTD, pháp nhân là cổ đông có người đại diện phần vốn
góp là thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát của TCTD cổ phần, pháp nhân là
thành viên góp vốn, chủ sở hữu của TCTD;
(ii) Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên HĐQT Hội đồng quản trị, Hội đồng
thành viên, Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc của TCTD.
18





Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Luật ngân hàng

Ngoài ra, Luật còn cấm TCTD không được cấp tín dụng cho doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán mà TCTD nắm quyền kiểm soát; không
được cấp tín dụng trên cơ sở cầm cố bằng cổ phiếu của chính TCTD hoặc công ty con
của TCTD; không được cho vay để góp vốn vào một TCTD khác trên cơ sở nhận tài sản
bảo đảm bằng cổ phiếu của chính TCTD nhận vốn góp.
Để đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng của TCTD, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài và nhằm tránh xung đột lợi ích, Điều 127 Luật 2010 quy định về những
trường hợp hạn chế cấp tín dụng. Theo đó, TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
không được cấp tín dụng không có bảo đảm, cấp tín dụng với điều kiện ưu đãi đối với
tổ chức kiểm toán, kiểm toán viên đang kiểm toán tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài; thanh tra viên đang thanh tra tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; kế toán
trưởng của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; cổ đông lớn, cổ đông sáng lập, thành
viên góp vốn; doanh nghiệp có một trong những đối tượng bị cấm cấp tín dụng theo quy
định tại khoản 1 Điều 126 sở hữu trên 10% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó; người thẩm
định, xét duyệt cấp tín dụng; công ty con, công ty liên kết của TCTD hoặc doanh nghiệp
mà TCTD nắm quyền kiểm soát.
Luật cũng quy định các giới hạn về tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với các đối
tượng nêu trên nhằm bảo đảm an toàn cho TCTD, tránh trường hợp TCTD bị ảnh hưởng
khi công ty con, công ty liên kết của TCTD hoặc doanh nghiệp mà TCTD nắm quyền
kiểm soát gặp rủi ro hoặc sự cố.
5.3. Về giới hạn cấp tín dụng (Điều 128)
Về cơ bản, các giới hạn cấp tín dụng là các quy định kế thừa từ Luật các TCTD
năm 1997. Tuy nhiên, khái niệm cấp tín dụng đã được làm rõ hơn, bao gồm tất cả các
nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và

các nghiệp vụ cấp tín dụng khác. Ngoài ra, tổng mức giới hạn cấp tín dụng còn gồm cả
tổng mức đầu tư vào trái phiếu do khách hàng là doanh nghiệp phát hành. Đối với các chi
19




Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Luật ngân hàng

nhánh ngân hàng nước ngoài, các giới hạn cấp tín dụng sẽ được tính trên vốn tự có của
chi nhánh ngân hàng nước ngoài
Một quy định mới khác so với Luật các TCTD năm 1997 là tổng mức dư nợ cấp
tín dụng đối với một khách hàng và tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng
và người có liên quan áp dụng đối với tổ chức tín dụng phi ngân hàng được quy định cao
hơn so với các mức áp dụng đối với ngân hàng thương mại (các tỷ lệ tương ứng 25% và
50% vốn tự có của tổ chức tín dụng phi ngân hàng so với 15% và 25% vốn tự có của
ngân hàng thương mại). Vấn đề này cũng đã được đề cập ở trên, quy định này phù hợp
với thông lệ quốc tế và thực tiễn hoạt động của các TCTD vì các TCTD phi ngân hàng
không nhận tiền gửi của cá nhân và cung cấp dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách
hàng nên mức độ rủi ro ảnh hưởng đến hệ thống TCTD thấp hơn nhiều so với các ngân
hàng thương mại. Ngoài ra, quy định này sẽ tạo điều kiện cho các TCTD phi ngân hàng
phát triển và hoạt động hiệu quả hơn.
Luật cũng quy định mở đối với các trường hợp đặc biệt, để thực hiện nhiệm vụ
kinh tế - xã hội mà khả năng hợp vốn của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
chưa đáp ứng được yêu cầu vay vốn của một khách hàng thì Thủ tướng Chính phủ có thể
quyết định mức cấp tín dụng tối đa vượt quá các giới hạn quy định đối với từng trường
hợp cụ thể. Tuy nhiên, tổng các khoản cấp tín dụng vượt giới hạn không vượt quá 04 lần
vốn tự có của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

5.4. Về giới hạn góp vốn, mua cổ phần (Điều 129)
Các giới hạn về góp vốn, mua cổ phần được quy định chặt chẽ hơn và thực tế được
xây dựng trên cơ sở các quy định của các văn bản dưới luật hiện hành (Quyết định 457).
Trong đó, tỷ lệ giới hạn góp vốn, mua cổ phần của các TCTD được tính trên cơ sở
hợp nhất (bao gồm cả phần góp vốn, mua cổ phần của công ty con, công ty liên kết theo
tỷ lệ sở hữu tương ứng). Theo mức độ rủi ro đối với hệ thống, Luật 2010 quy định tỷ
lệ giới hạn góp vốn, mua cổ phần của công ty tài chính cao hơn so với NHTM.
20




Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Luật ngân hàng

Đồng thời Luật cũng có quy định cấm TCTD góp vốn, mua cổ phần của các
doanh nghiệp, TCTD khác là cổ đông, thành viên góp vốn của chính TCTD (cấm sở
hữu chéo). Việc này nhằm tránh trách nhiệm chồng chéo giữa các phần vốn góp.
5.5. Về các tỷ lệ bảo đảm an toàn (điều 130)
Luật 2010 quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn mà TCTD phải duy trì, bao gồm:
tỷ lệ khả năng chi trả, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (8% hoặc cao hơn, theo Thông tư 13 là
9%), tỷ lệ tối đa của vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn. Các tỷ lệ bảo đảm an toàn mới
được bổ sung gồm: trạng thái ngoại tệ, vàng tối đa so với vốn tự có; tỷ lệ dư nợ cho vay
so với tổng tiền gửi và các tỷ lệ tiền gửi trung, dài hạn so với tổng dư nợ cho vay trung,
dài hạn. NHNN sẽ quy định cụ thể các tỷ lệ bảo đảm an toàn nói trên đối với từng loại
hình TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Ngoài ra, Luật 2010 còn bổ sung quy định
NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng
quốc gia phải nắm giữ số lượng tối thiểu giấy tờ có giá được phép cầm cố tại Ngân hàng
Nhà nước theo quy định của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ.

Luật 2010 cũng quy định rõ tổng số vốn của một TCTD đầu tư vào TCTD khác,
công ty con của TCTD dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần và các khoản đầu tư dưới
hình thức góp vốn, mua cổ phần nhằm nắm quyền kiểm soát các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán phải trừ khỏi vốn tự có khi tính các tỷ
lệ an toàn. Đảm bảo được trách nhiệm của các tổ chức tín dụng khác, công ty con...
Luật còn trao quyền cho NHNN áp dụng các biện pháp cần thiết khi các TCTD,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài không duy trì được hoặc có khả năng không duy trì
được tỷ lệ bảo đảm an toàn theo quy định, bao gồm cả việc hạn chế phạm vi hoạt động,
xử lý tài sản của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhằm bảo đảm để TCTD, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài đạt tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.
5.6. Về kinh doanh bất động sản
Theo Điều 132, TCTD không được kinh doanh bất động sản, trừ trường hợp
TCTD mua, đầu tư, sở hữu bất động sản để sử dụng làm trụ sở kinh doanh, địa điểm làm
21




Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Luật ngân hàng

việc hoặc cơ sở kho tàng phục vụ trực tiếp cho các hoạt động nghiệp vụ. TCTD được
phép cho thuê một phần trụ sở kinh doanh chưa sử dụng hết thuộc sở hữu của TCTD.
Trường hợp TCTD nắm giữ bất động sản do việc xử lý nợ vay thì trong thời hạn 03 năm
kể từ ngày quyết định xử lý tài sản bảo đảm là bất động sản, TCTD phải bán, chuyển
nhượng hoặc mua lại bất động sản này để đảm bảo thực hiện đúng tỷ lệ đầu tư vào tài sản
cố định và mục đích sử dụng tài sản cố định.
5.7. Về nhóm công ty mẹ - công ty con
Luật 2010 bổ sung quy định về quyền và trách nhiệm của công ty kiểm soát

(những công ty mà theo định nghĩa quy định tại Luật các TCTD 2010, nắm giữ, sở hữu
trực tiếp hoặc gián tiếp trên 20% vốn điều lệ của một NHTM) nhằm hạn chế các quan hệ
tín dụng, hùn vốn, góp vốn chéo (góp vốn, mua cổ phần lẫn nhau) giữa TCTD với các
công ty có quan hệ về vốn liếng, tránh rủi ro cho các NHTM do sự can thiệp quá mức của
các công ty kiểm soát. Để đạt được mục đích này, Luật đưa ra các quy định buộc phải
minh bạch hoá các quan hệ giữa công ty kiểm soát với các NHTM, giữa NHTM với các
công ty con của mình; quy định không cho phép NHTM và các công ty con, liên kết của
cùng một công ty kiểm soát được sở hữu chéo cổ phần; công ty con, công ty liên kết của
cùng một TCTD không được góp vốn, mua cổ phần của TCTD; TCTD là công ty con,
công ty liên kết của công ty kiểm soát không được góp vốn, mua cổ phần của công ty
kiểm soát. Ngoài ra, Điều 141 cũng có quy định yêu cầu các công ty con, công ty liên kết
của TCTD phải gửi báo cáo tài chính, báo cáo hoạt động của mình cho NHNN khi được
yêu cầu.
TCTD , chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải thực hiện chế độ báo cáo theo quy
định của pháp luật về kế toán, thống kê, và báo cáo hoạt động nghiệp vụ định kì theo quy
định của NHNN.
5.8. Về kiểm soát đặc biệt
Để chủ động xử lý các TCTD có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng
thanh toán, bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, trên cơ sở kế thừa các quy định
22




Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Luật ngân hàng

pháp luật hiện hành, các nội dung về kiểm soát đặc biệt đã được quy định đầy đủ, chi tiết
hơn và tăng thẩm quyền cho NHNN áp dụng các biện pháp cần thiết khi TCTD được đặt

trong tình trạng kiểm soát đặc biệt. Ngoài các trường hợp kế thừa từ Luật các TCTD năm
1997, Luật 2010 bổ sung thêm hai trường hợp mà NHNN sẽ xem xét, đặt TCTD vào
kiểm soát đặc biệt là:
(i)

TCTD hai năm liên tục bị xếp loại yếu kém theo quy định của NHNN;

(ii)

khi TCTD không duy trì được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định
trong thời hạn một năm liên tục hoặc tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu thấp hơn
4% trong thời hạn 06 tháng liên tục.

Ngoài ra, nhằm tạo điều kiện để NHNN có thể chủ động can thiệp sớm hơn khi
phát hiện thấy những yếu kém cơ bản của một TCTD với mục đích giảm bớt khả năng rủi
ro cho hệ thống do không có sự can thiệp kịp thời của cơ quan quản lý, Luật các TCTD
2010 quy định NHNN có quyền yêu cầu chủ sở hữu tăng vốn, bắt buộc sáp nhập, hợp
nhất, mua lại; trực tiếp hoặc chỉ định TCTD khác góp vốn, mua cổ phần của TCTD được
kiểm soát đặc biệt trong trường hợp TCTD được kiểm soát đặc biệt không có khả năng
thực hiện yêu cầu tăng vốn của NHNN hoặc khi NHNN xác định số lỗ lũy kế của TCTD
đã vượt quá giá trị vốn điều lệ và các quỹ dự trữ của TCTD được kiểm soát đặc biệt.
NHNN sẽ xem xét đặt các TCTD vào tình trạng kiểm soát đặc biệt và thành lập
ban kiểm soát đặc biệt khi TCTD lâm vào các trường hợp :
(i) có nguy cơ mất khả năng chi trả
(ii) nợ không có khả năng thu hồi dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanhtoán
(iii) khi số lỗ lũy kế của tổ chức tín dụng lớn hơn 50% giá trị thực của vốn điều lệ
và các quỹ dự trữ ghi trong báo cáo tài chính đã được kiểm soát gần nhất.
(iiii) hai năm liên tục bị xếp loại yếu kém trong quy định của ngân hàng nhà nước.
(iiiii) không duy trì được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu quy định tại điểm b khoản 1
điều 130 của luật trong thời hạn 1 năm liên tục hoặc tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu thấp hơn

4% trong thời hạn 6 tháng liên tục
23




Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Luật ngân hàng

5.9. Về giải thể, thanh lý
Để tạo điều kiện cho việc xử lý phá sản một TCTD có thể được thực hiện nhanh
chóng, hạn chế tác động đến hệ thống TCTD, Luật các TCTD 2010 quy định: khi xử lý
phá sản TCTD, Toà án có thể áp dụng ngay thủ tục thanh lý tài sản sau khi NHNN đã có
văn bản chấm dứt áp dụng kiểm soát đặc biệt hoặc chấm dứt áp dụng, không áp dụng các
biện pháp phục hồi, mà TCTD vẫn lâm vào tình trạng phá sản. Như vậy, quá trình phục
hồi theo trình tự phá sản các doanh nghiệp thông thường không cần phải áp dụng đối với
các TCTD đã được NHNN kiểm soát đặc biệt (thực chất là để phục hồi) nhưng đã xác
định không còn khả năng thanh toán./.
Sau khi NHNN có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản chấm dứt áp
dụng hoặc văn bản không áp dụng các bỉện pháp phục hồi khả năng thanh toán mà TCTD
vẫn lâm vào tình trạng phá sản, thì TCTD đó phải làm đơn yêu cầu tòa án mở thủ tục giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản.
Tiếp đó, khi nhận được thủ tục phá sản thì tòa án mở thủ tục giải quýet yêu cầu
tuyên bố phá sản và áp dụng ngay thủ tục thanh lý tài sản của TCTD theo quy định của
pháp luật về phá sản.

III. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Ưu điểm
Luật các TCTD 2010 được xây dựng theo hướng điều chỉnh cả tổ chức, quản lý và

hoạt động của các loại hình TCTD, trong đó các quy định chung áp dụng cho tất cả các
TCTD và các quy định cụ thể áp dụng cho từng loại hình TCTD. Các quy định về quản trị,
điều hành, kiểm soát được phân loại theo hình thức pháp lý của TCTD (công ty cổ phần,
công ty trách nhiệm hữu hạn, hợp tác xã); trong khi các quy định về hoạt động của Luật
được phân loại theo loại hình hoạt động của TCTD (ngân hàng thương mại, công ty tài
chính, công ty cho thuê tài chính, tổ chức tài chính vi mô, quỹ tín dụng nhân dân). Kết cấu

24




Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Luật ngân hàng

Luật TCTD mới giảm bớt được các quy định trùng lặp, đồng thời đảm bảo tính chặt
chẽ, logic.
Nguyên tắc áp dụng Luật các TCTD cũng được xác định theo hướng quy định cụ thể
các đặc thù trong việc thành lập, tổ chức, quản lý và hoạt động TCTD; khi có các quy định
khác nhau giữa Luật các TCTD và luật khác thì Luật các TCTD sẽ được ưu tiên áp dụng;
tùy theo hình thức pháp lý của TCTD, các nội dung không được quy định trong Luật sẽ
được thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã. Bên cạnh đó, so
với Luật các TCTD 1997, Luật các TCTD 2010 dành khá nhiều dung lượng cho các quy
định liên quan đến quản trị, điều hành của TCTD (60 điều so với 6 điều trong Luật các
TCTD 1997). Các quy định này chủ yếu là các quy định được luật hóa từ các quy định của
Nghị định 59/2009/NĐ-CP, Quyết định 24/2007/QĐ-NHNN và các văn bản quy phạm pháp
luật khác do NHNN ban hành, bám sát 25 nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng hiệu
quả của Ủy ban Basel nhằm đảm bảo hoạt động của TCTD được an toàn, hiệu quả. Những
thay đổi đó góp phần giảm bớt thủ tục hành chính, nâng cao yêu cầu đối với người quản lý,

điều hành của TCTD, khẳng định xu hướng đại chúng hóa các ngân hàng thương mại cổ
phần…
Ngoài ra, Luật các TCTD năm 2010 cũng có những thay đổi, bổ sung liên quan đến
hoạt động kinh doanh, các quy định về bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng của
TCTD, các tỷ lệ đảm bảo an toàn… Việc kiểm soát đặc biệt đối với các TCTD có nguy cơ
mất khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán, bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD
cũng được quy định đầy đủ, chi tiết hơn và tăng thẩm quyền cho NHNN áp dụng các biện
pháp cần thiết khi TCTD được đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt.
So với luật các TCTD năm 1997, luật các TCTD mới năm 2010 quy định cụ thể hơn
phạm vi điều chỉnh và bỏ phần quy định về “các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng” ,
khắc phục bất cập cơ bản của Luật các TCTD 1997. Điều này có nghĩa là, để được cấp phép
hoạt động ngân hàng, các tổ chức phải được thành lập như một TCTD. Những tổ chức
không phải là một TCTD đang có hoạt động ngân hàng đều phải được tổ chức lại dưới hình
25




×