Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Com van de tra tien tac quyen khi su dung tac pham van hoa dan gian va co che bao ho van

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.55 KB, 10 trang )

Vấn đề trả tiền tác quyền khi sử dụng tác phẩm văn hóa dân
gian
và cơ chế bảo hộ văn hóa dân gian

Nhóm sinh viên Quân - Phú - Khiêm - Ảnh - Long
K06501 khoa Kinh tế-Luật, Đại học quốc gia tp HCM

I. Dẫn nhập
Như chúng ta đã biết, việc sử dụng văn hóa nghệ thuật dân gian(VHNTDG) của các cộng
đồng dân tộc đem lại lợi ích đáng kể về kinh tế, văn hóa, xã hội cho mỗi quốc gia, đặc biệt
đối với các nước đang phát triển như nước ta. Tuy nhiên vấn đề đặt ra ở đây là: trước tiên
chúng ta phải hiểu được văn hóa dân gian là gì ? và cần phải có những công cụ pháp lí để
bảo vệ văn hóa dân gian đó.
Theo định nghĩa của WIPO/UNESCO: Dân gian (theo nghĩa rộng là văn hoá truyền thống và
dân gian thông thường) là một sáng tạo mang tính định hướng cộng đồng và dựa trên truyền
thống của các nhóm người hoặc các cá nhân phản ánh ước vọng của cộng đồng như một
hình thức thể hiện đầy đủ đặc điểm văn hoá và xã hội của nó; các chuẩn mực của nó được
truyền miệng, thông qua sự bắt chước hoặc các hình thức khác. Các thể loại tác phẩm dân
gian bao gồm ngôn ngữ, văn học, âm nhạc, điệu múa, trò chơi, thần thoại, nghi lễ, tập quán,
thủ công, kiến trúc và các nghệ thuật khác.
Theo quan điểm truyền thống thì : Văn hóa nghệ thuật dân gian là cội nguồn, là bản sắc, là
hệ giá trị biểu tượng của văn hóa dân tộc, nhưng tựu chung lại thì văn hóa dân gian là những
sản phẩm chung của cộng đồng. Văn hóa dân gian có thể dưới dạng ngôn ngữ (truyện, thơ,
câu đố dân gian…); âm nhạc (các bài hát dân gian, âm nhạc truyền thống…); động tác (múa
dân gian, động tác thực hiện nghi lễ…) hoặc các dạng thể hiện hữu hình khác (các tác phẩm
hội họa, điêu khắc, nghệ thuật tạo hình, sản phẩm thủ công mỹ nghệ…) và các tài sản văn
hóa vật thể khác.
Tại khoản 1 điều 23 luật sở hữu trí tuệ cũng có quy định : Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân
gian là sáng tạo tập thể trên nền tảng truyền thống của một nhóm hoặc các cá nhân nhằm
phản ánh khát vọng của cộng đồng, thể hiện tương xứng đặc điểm văn hoá và xã hội của họ,
các tiêu chuẩn và giá trị được lưu truyền bằng cách mô phỏng hoặc bằng cách khác. Tác


phẩm văn học, nghệ thuật dân gian bao gồm:
i.
Truyện, thơ, câu đố;
ii.
Điệu hát, làn điệu âm nhạc;
iii.
Điệu múa, vở diễn, nghi lễ và các trò chơi;
iv.
Sản phẩm nghệ thuật đồ hoạ, hội hoạ, điêu khắc, nhạc cụ, hình mẫu kiến trúc và
các loại hình nghệ thuật khác được thể hiện dưới bất kỳ hình thức vật chất nào.
Tuy văn hóa dân gian là sản phẩm chung của cộng đồng nhưng không phải là sản phẩm
không có chủ, mà nó được cất giữ, bảo tồn, truyền tụng bởi các làng xã, bởi các già làng,
trưởng bản ... vì vậy có thu phí bản quyền sử dụng tác phẩm trong VHNTDG hay không? Nếu
có, thì tiền đó sẽ phân chia như thế nào: cho cộng đồng có tác phẩm hay để lập quỹ bảo tồn
VHNTDG ? Có phải đóng thuế không? Đặc biệt, có cấp phép sử dụng không? Nếu có thì ai
cấp phép: cơ quan Nhà nước, đại diện cộng đồng có tác phẩm, hay là Hội văn nghệ dân gian
Việt Nam ?


Trên thực tế pháp luật của nước chúng ta hoàn toàn chưa có một cơ chế pháp lí đủ mạnh để
kiểm soát và bảo hộ vấn đề này mặc dù trong luật sở hữu trí tuệ năm 2005 tại đểm L khoản
1 điều 14 có quy định tác phẩm VHNTDG được bảo về quyền tác giả. Và tại khoản 2 điều 23
luật sở hữu trí tuệ cũng quy đinh : Tổ chức, cá nhân khi sử dụng tác phẩm văn học, nghệ
thuật dân gian phải dẫn chiếu xuất xứ của loại hình tác phẩm đó và bảo đảm giữ gìn giá trị
đích thực của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian.
Như vậy việc đặt ra vấn đề thu phí đặt ra ở đây có vẻ như nó không cần thiết vì luật đã quy
định rất rõ. Nhưng suy cho cùng thì VHNTDG cũng là những tác phẩm văn học nghệ thuật rất
đặc sắc và từ nó đã đưa ra lợi ích kinh tế rất lớn cho những người sử dụng tác phẩm
VHNTDG, mà họ không phải trả một chút tiền bản quyền tác giả nào, không những vậy có
nhiều trường hợp khác đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến giá trị nghệ thuật của chính những

tác phẩm nghệ thuật mà họ sử dụng, họ không quan tâm đến nghệ thuật, những giá trị văn
hóa dân tộc mà chỉ quan tâm đến lợi nhuận đã làm cho những tác phẩm này giảm giá trị và
đôi khi làm lệch lạc tác phẩm khiến cho VHNTDG không còn chuẩn mực, không còn đúng với
giá trị của chính nó như: lễ hội chợ tình ở Spa trở thành nơi mua vui của rất nhiều khách du
lịch, nhã nhạc cung đình Huế trở thành một loại hình giải trí phục vụ vô tội vạ cho khách du
lịch ở mọi nơi, trong khách sạn, trên sông ... và nó dường như đã làm hao mòn đi giá trị nghệ
thuật. Vậy trách nhiệm này thuộc về ai?
Và trong giới hạn bài tiểu luận này chúng tôi xin được làm sáng tỏ cũng như đưa ra cơ chế
bảo hộ cho VHNTDG trong vấn đề trả tiền tác quyền khi sử dụng tác phẩm VHNTDG.

II. Nội dung
1. Việc trả tiền tác quyền khi sử dụng tác phẩm văn hóa dân gian.
Để đi đến được kết luận cho việc cần thiết phải trả tiền tác quyền khi sử dụng tác phẩm
VHNTDG, trước tiên chúng ta cần có sự so sánh đối chiếu với những tác phẩm văn học, nghệ
thuật khác ở trên nhiều khía cạnh để nêu rõ sự cần thiết phải trả tiền tác quyền và đảm bảo
công bằng cho những giá trị sáng tạo ở trên các lĩnh vực khác nhau.
Trước tiên là về vấn đề giá trị kinh tế của tác phẩm thì dường như đã có nhiều khẳng định
cho giá trị to lớn của tác phẩm VHNTDG trong cuộc sống đương đại như: quan họ Bắc Ninh,
đàn ca tài tử ở Miền Đông Nam Bộ, cải lương, chèo, nhã nhạc cung đình Huế, .... và rất nhiều
loại hình nghệ thuật khác của đồng bào dân tộc trên cả nước. Nó đã trở thành đặc sản, trở
thành những nét đặc sắc mà dựa vào đó có thể khai thác thương mại, thu hút khách du lịch,
và từ đó nó tạo ra được những giá trị vật chất vô cùng lớn. Bên cạnh đó chúng ta phải kể đến
những tác phẩm phái sinh, chuyển thể, cải biên dựa trên VHNTDG như: Mưa bay tháp cổ của
nhạc sĩ Trần Tiến, Ra khơi của Trần Lập, Trống Cơm... đã tạo nên được những giá trị vật chất
rất lớn, tạo nên cả danh tiếng cho những tác giả đó nhưng hầu như chưa ai quan tâm đến
vấn đề từ đâu mà mình có những tác phẩm đó, và khi sử dụng tác phẩm thu được lợi nhuận
thì cũng chưa ai nghĩ đến vấn đề trả tiền bản quyền tác giả cho chủ sở hữu những tác phẩm
văn hóa dân gian đó là cộng đồng làng xã...
Những tác phẩm với giá trị văn hóa nghệ thuật đặc sắc và mang cả tâm hồn dân tộc thì
hoàn toàn chưa được quan tâm. Trong khi đó chúng ta thử liên hệ với thực tế khi những tắc

phẩm âm nhạc, văn học, thơ ca, kịch ... hiện đại chúng ta cũng có thể nhận biết được một
điều là giá trị thực tế của những tác phẩm mới hoàn toàn không phải là khi nào cũng tốt hơn,
đặc sắc hơn các tác phẩm VHNTDG, và đôi khi còn kém giá trị hơn rất nhiều so với tác phẩm
VHNTDG lại được bảo hộ về quyền tác giả, được trả tiền tác quyền khi một người khác sử
dụng tác phẩm của họ thì có phải là vô hình chung chúng ta làm xuất hiện một sự bất công
bằng giữa những giá trị sáng tạo nghệ thuật, bất công cho những sáng tạo nghệ thuật đích


thực.
Sự không công bằng còn thể hiện ở khía cạnh nữa là việc làm tác phẩm phái sinh, tác phẩm
chuyển thể, ... thì sau khi có tác phẩm thì người chuyển thể hay người làm tắc phẩm phái
sinh đều có quyền hưởng lợi ích khi có ngưởi khác sử dụng những tác phẩm đó. Vậy có phải
chúng ta đã bảo vệ một cái lợi ích khác mà thật sự giá trị sáng tạo không có nhiều, họ chỉ
dựa trên trí tuệ của người khác để tạo ra một lợi ích mà thực ra họ không có sự sáng tạo
nhiều ở trên thực thế trong khi những tác phẩm VHNTDG luôn mang trong nó một sự sáng
tạo nghệ thuật to lớn, một giá trị dân tộc sâu sắc, một nét văn hóa đặc trưng lại không có
một sự bảo hộ nào cho nó.
Thứ hai là chúng ta sẽ xét trên giá trị nghệ thuật, giá trị văn hóa và giá trị dân tộc của tác
phẩm VHNTDG. Khi chưa có cơ chế bảo hộ và vấn đề về việc trả tiền tác quyền chưa được
bảo vệ thì đương nhiên dẫn đến việc sao chép, đánh cắp, xuyên tạc tác phẩm sẽ làm cho giá
trị tác phẩm giảm sút, giá trị văn hóa dân tộc và những nội dung nghệ thuật cần truyền đạt
trong tác phẩm bị biến dạng trở thành thứ văn hóa thứ cấp. Vì hoàn toàn chưa có cơ chế bảo
hộ nên việc sử dụng văn hóa dân gian một cách công khai vào những mục đích khác nhau
kể cả những mục đích tốt cũng như những mục đích xấu ví dụ như những sự xuyên tác thành
những tác phẩm nhạc chế, tác phẩm văn hóa đồi trụy... gây ảnh hưởng lớn đến thuần phong
mĩ tục và văn hóa của dân tộc khi mà nó được phát tán ra nhiều nước trên thế giới từ đó sẽ
làm giảm tính hấp dẫn, thu hút, làm xấu hình ảnh của đất nước trong con mắt của bạn bè
thế giới. Cũng như thế là trường hợp các tốp đờn ca tài tử ở một số nơi ở đồng bằng sông
Cửu Long, nơi mà các nghệ sĩ cố gắng rút ruột ra ca cho mùi mẫn sáu câu vọng cổ sâu đậm,
còn khách thì nhồm nhoàm ăn uống và cười nói ồn ào. Vậy chúng ta phải xử lý thế nào khi

đem vốn âm nhạc rất mực hào hoa, phong nhã của các tài tử làm nền cho những bữa ăn xô
bồ, làm nên những cuộc vui vô vị của một thiểu số người mà lại để lại cả một nỗi tủi nhục
cho cả một giá trị nghệ thuật dân tộc. Từ đó nó tạo ra những hệ lụy đau lòng, những nét văn
hóa đặc sắc thể hiện giá trị nhân văn sâu sắc trở thành một trò lặp đi lặp lại nhằm tìm kiếm
lợi nhuận trước mắt, lãng quên biểu tượng của dân tộc, bỏ qua giá trị truyền thống cao cả và
vì thế dần theo thời gian nó sẽ trở nên nhàm chán đối với khách du lịch, nó sẽ bị biến đổi
theo những ý tưởng kinh doanh, và mai một dần.
Yếu tố thứ ba là những lợi ích đạt được sau khi có cơ chế bảo hộ. Đó là những lợi ích vật chất
đạt được khi có người sử dụng tác phẩm VHNTDG. Ví dụ như : các công ty du lịch dựa vào
văn hóa truyền thống để thu hút khách du lịch tạo ra lợi nhuận, những nhạc sĩ, ca sĩ sử dụng
những tác phẩm VHNTDG... từ đó cộng đồng làng xã sẽ có được những nguồn tiền nhất định,
khuyến khích được tính sáng tạo của cộng đồng. Bên cạnh đó còn có thêm nguồn vốn để
hoàn thiện hay phát huy thêm nhiều tác phẩm văn hóa dân gian, có vốn để quảng cáo hình
ảnh văn hóa, những nét đặc sắc, tinh hoa dân tộc ra bạn bè thế giới ...
Ngoài ra khi có cơ chế bảo hộ tốt thì có thể ngăn chặn được sự xâm phạm về sở hữu trí tuệ
trong lĩnh vực văn hóa dân gian, nhất là khi sự thương mại hóa toàn cầu phát triển nhanh
chóng, sự xâm phạm về sở hữu trí tuệ của các tổ chức, cá nhân người nước ngoài dựa vào
những nét văn hóa của những nước khác đem vào khai thác lợi ích thương mại, thông qua
việc khai thác đó nó sẽ làm giá trị truyền thống suy giảm.
Sự phát triển ngày càng gia tăng của công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực ghi âm, nghe
nhìn, phát sóng, truyền hình cáp, điện ảnh có thể dẫn đến việc khai thác bất hợp lý di sản
văn hoá này cũng như việc thương mại hoá trên quy mô toàn cầu thông qua các phương tiện
đó, thiếu sự tôn trọng cần thiết đối với các lợi ích văn hoá hay kinh tế của các cộng đồng nơi
chúng được sinh ra. Cùng với việc thương mại hoá, các loại hình dân gian thường bị làm sai
lệch đi cho phù hợp với suy nghĩ là điều này sẽ giúp tiếp thị chúng tốt hơn. Và nói chung,
không chia sẻ bất cứ cái gì được xem là lợi nhuận thu được từ việc khai thác các loại hình
dân gian cho những người phát triển và duy trì chúng.


Sự phát triển của một quốc gia phụ thuộc rất lớn vào khả năng sáng tạo của người dân ở

quốc gia đó, và việc khuyến khích khả năng sáng tạo cá nhân và truyền bá nó là điều kiện
thiết yếu cho sự tiến bộ. Quyền tác giả là yếu tố cấu thành quan trọng của quá trình phát
triển. Kinh nghiệm cho thấy, sự giàu có của di sản văn hoá quốc gia phụ thuộc trực tiếp vào
trình độ bảo hộ đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật. Số lượng các sáng tạo trí tuệ của
quốc gia càng nhiều thì danh tiếng của quốc gia ấy càng cao; số lượng các sản phẩm trong
văn học và nghệ thuật càng nhiều thì càng có nhiều cộng sự trong các ngành công nghiệp
giải trí, sách báo, ghi âm; và thực vậy, suy cho cùng thì việc thúc đẩy sáng tạo trí tuệ là một
trong những cơ sở tiên quyết cho mọi sự phát triển xã hội, kinh tế và văn hoá.
Như vậy từ những phân tích ở trên thì việc trả tiền tác quyền khi sử dụng VHNTDG là việc
cần thiết phải được thực hiện để đảm bảo lợi ích thiết thực cho những sự sáng tạo nghệ
thuật nghiêm túc.
Và để có thể làm rõ hơn vấn đề này, khẳng định chắc chắn hơn quan điểm của mình chúng
tôi xin được so sánh, đối chiều với những quan điểm ngược lại là không nên bảo hộ. Những
tác giả này đưa ra những luận cứ như:
• Khi nói tới văn hóa dân gian tức là ta chấp nhận đặc trưng của nó, đó là không có
tác giả, hoặc chưa có tác giả. Khởi thủy của văn học - văn hóa dân gian có thể là
một tác giả, nhưng sau đó, cộng đồng đã biến nó thành sở hữu của cộng đồng.
Quyền tác giả là của cộng đồng vậy thì khi trả tiền tác quyền thì trả cho ai, nếu trả
cho cộng đồng thì việc quản lí và phân chia số tiền này như thế nào.
• Giới trẻ hiện nay dường như đang lãng quên dần văn hóa dân gian, và việc bảo hộ
quyền tác giả trong văn hóa dân gian vô hình chung đã kìm hãm sự phát triển của
lĩnh vực này, dần dần làm cho văn hóa dân gian bị mai một.
• Các nhà quản lí chưa có kinh nghiệm và chưa đưa ra được quan điểm thống nhất
thì không nên đặt ra vấn đề bảo hộ ...
Những luận cứ trên đưa ra có vẻ không thuyết phục vì như luận cứ thứ nhất thì nếu như việc
không xác đinh được tác giả mà không bảo hộ thì đó là điều có thể chấp nhận được nhưng ở
trong trường hợp này chúng ta đã xác định được rằng VHNTDG là của cộng đồng, như vậy
nếu như là của cộng đồng thì không phải trả tiền, không có quyền tác giả hay sao? Có sự
khác nhau gì giữa sự sáng tạo của cộng đồng và của cá nhân cụ thể, chẳng lẽ tác giả là cá
nhân cụ thể thì mới là sáng tạo nghệ thuật và nó mới có giá trị nghệ thuật còn của cộng

đồng thì nó không có những yếu tố trên. Điều đó thật là vô lí và có vẻ nó có tác động làm
giảm sự sáng tạo của cộng đồng.
Luận cứ thứ hai đưa ra cũng không thuyết phục ở những điểm như là: việc mà lớp trẻ hiện
nay dường như lãng quên VHNTDG không phải là hậu quả của việc bảo hộ vì như chúng ta
đã biết hiện tại thì nước ta chưa có bảo hộ nhưng thực tế đó vẫn diễn ra, và theo chúng tôi
thì vấn đề lớp trẻ không có hứng thú với VHNTDG phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như : sự
giáo dục, sự tiếp nhận tri thức, niềm đam mê, tính phổ biến của VHNTDG, phụ thuộc vào lối
sống hiện đại, tư duy hiện đại ... cũng không phải chính nó đã kìm hãm sự phát triển của văn
hóa dân gian. Sự bảo hộ sẽ giúp ích cho xã hội, đảm bảo lợi ích cho con người có hoạt động
sáng tạo đích thực, đảm bảo lợi ích và khuyến khích con người sáng tạo nghệ thuật, hoạt
động nghệ thuật nghiêm túc, khi đó sẽ mang lại được những tác phẩm có giá trị, sử dụng và
khai thác có tri thức sẽ giúp cho sự phát triển.
Và luận cứ cuối cùng đưa ra lại càng không hợp lí khi nói rằng các nhà quản lí không có kinh
nghiệm thì không nên bảo hộ. Vì vấn đề của các nhà quản lí khi nhận trách nhiệm quản lí,
nhận lương nhà nước thì rõ ràng phải có nghĩa vụ nâng cao kiến thức, hoàn thiện kinh
nghiệm của mình, và cũng không vì sự khó khăn của một vài cá nhân làm công việc quản lí
mà bỏ qua lợi ích của cộng đồng.
Như vậy theo quan điểm của chúng tôi thì bảo hộ là vấn đề cần thiết nhưng bảo hộ như thế


nào, cơ chế bảo hộ ra sao là vấn đề mà cần giải quyết tiếp theo.
2. Cơ chế bảo hộ
Văn hóa nghệ thuật dân gian là sản phẩm của cả cộng đồng, nó là sáng tạo cua tập thể
nhưng không có nghĩa là vô chủ,mặc ai muốn khai thác sử dụng thế nào cũng được vì nó là
tài sản của 1 quốc gia, là những tinh hoa bản sắc cua một dân tộc, biểu hiện của nền văn
hóa dân tộc mà chủ nhân của nó là cộng đồng làng xã. Trong đó, người lưu giữ là già làng;
nghệ nhân người diễn xướng; nhà nghiên cứu, sưu tầm. Đó cũng là đối tượng cần bảo hộ nếu
coi VHNTDG là sản phẩm vô chủ thì rất dễ “chảy máu di sản”.
Những sản phẩm vô giá của dân tộc đã được bảo tồn duy trì phát triển như thế nào? Đã có
những cơ chế pháp lý gì để bảo tồn duy trì và phát triển trong việc khai thác sử dụng chúng?

Trong khi giá trị của chúng là vô giá, lợi ích từ việc khai thác sử dụng chúng là rất lớn.
Nhìn từ góc độ của các nhà lập pháp và quán lý Việt Nam thí đang còn rất mới mẻ, mơ hồ
chưa đánh giá được tầm quan trọng của nó, trong khi những người khai thác sử dụng đã
nhận thấy được lợi ích lợi nhuận mà những sản phẩm này đã, đang và sẽ đem lại là rất lớn
(Đơn cử như du lịch được coi là ngành rất biết cách tận dụng các sản phẩm văn hóa truyền
thống để kinh doanh mà chưa bao giờ phải trả tiền bản quyền) nhưng việc chia sẻ lợi ích đó
cho những chủ nhân (cộng đồng làng xã) của nó như thế nào,sự bảo vệ tính toàn vẹn giá trị
đích thực của nó và cơ chế kiểm tra,giám sát quán ly việc khai thác sử dụng nó như thế nào
là một câu hỏi lớn đang bỏ lửng.
Theo pháp luật Việt Nam thì ít nhiều cũng có đề cập đến nhưng việc bảo hộ cụ thể như thể
nào vẫn chưa có câu trả lời. Theo quy định của pháp luật SHHTT-Điều 23:

1. Tác phẩm VHNTDG là sáng tạo tập, thể trên nền tảng truyền thống của một nhóm hoặc
các cá nhằm phản ảnh khát vọng của cộng đồng, thể hiện tương xứng đặc điểm văn hóa xã
hội của họ, các tiêu chí và giá trị được lưu truyền bằng cách mô phóng hoặc bằng cách khác;
2. Tổ chức cá nhân khi sử dụng tác phẩm VHNTDG phải dẫn chiếu xuất xử của loại hình tác
phẩm đó và bảo đảm giữ gìn giá trị đích thực của tác phẩm VHNTDG

Xuất phát từ nội dung của quy định này Luật Sở hữu Trí tuệ chỉ yêu cầu việc sử dụng tác
phẩm VHNTDG phải "dẫn chiếu xuất xứ của loại hình tác phẩm đó và bảo đảm giữ gìn giá trị
đích thực của tác phẩm". Nghĩa là, Luật chỉ yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tinh thần (nhân thân)
đối với tác phẩm dân gian chứ không yêu cầu các nghĩa vụ kinh tế, bao gồm việc trả tiền
bản quyền. Với cách tiếp cận này thì việc bàn xem có thu phí bản quyền văn nghệ dân gian
hay không đã trở thành một việc không cần thiết đối với các nhà ban hành pháp luật.
Bên cạnh đó việc đăng ký hay xin phép, giám sát quán lý như thế nào để đảm bảo “giá trị
đích thực của tác phẩm” chưa được đề cập đến trong khi việc khai thác sử dụng để thương
mại hóa ngày cáng tràn lan tùy tiện dẫn đến giá trị của các tác phẩm ngày một giảm
dần,việc thể hiện hình thức nào là tự do không kiểm soát được (vì vậy phải đặt ra những
nguyên tắc chung cơ bản để hạn chế việc khai thác một cách tùy tiện dẫn tới tình trạng “cha
chung không ai khóc”)

Trong khi đó WIPO, yêu cầu cơ bản trong quy định về bảo hộ pháp lý đối với các hình thức
thể hiện dân gian là việc cần thiết duy trì sự cân bằng hợp lý giữa một bên là việc bảo hộ


chống lại sự lạm dụng tác phẩm dân gian, và bên kia là việc tự do, khuyến khích sự phát
triển tiếp theo của chúng, việc truyền bá cũng như sửa đổi các tác phẩm sáng tạo nguyên
gốc của tác giả lấy cảm hứng từ dân gian.
Do bản chất của VHNTDG là tồn tại dưới dạng thông tin được lưu truyền qua các thế hệ hoặc
được trao đổi giữa các cộng đồng nếu nhiều tác phẩm quý giá có nguy cơ bị mai một dần
theo thời gian hoặc bị chiếm đoạt, khai thác trái phép ngoài phạm vi kiểm soát của cộng
đồng nắm giữ nó. Những hành vi đó không chỉ gây thiệt hại về kinh tế cho cộng đồng mà
nguy hại hơn là phá vỡ nguyên tắc cân bằng lợi ích giữa cộng đồng nắm giữ và chủ thể khai
thác tri thức truyền thống, hủy hoại nỗ lực bảo tồn và phát triển tri thức, đi ngược lại truyền
thống văn hóa, phong tục tập quán, tín ngưỡng của cộng đồng. Do đó các biện pháp, công
cụ thích hợp nhất để bảo vệ hữu hiệu loài tài sản đặc biệt này là gì?Thực chất là bảo hộ khía
cạnh SHTT của nó. Vấn đề được lưu tâm là liệu sự bảo hộ sản phẩm VHNTDG có thực sự đầy
đủ và thích hợp hay không thông qua hệ thống bảo hộ các quyền SHTT vốn có hay cần phải
thiết lập một hệ thống bảo hộ riêng. Tuy nhiên, kinh nghiệm thực tiễn của các nước cho thấy
các biện pháp bảo hộ SHTT, kể cả bảo hộ bằng hệ thống riêng, không phải là sự lựa chọn
duy nhất, mà chỉ là các công cụ bảo vệ bổ sung. Trong khi rất nhiều loại hình VHNTDG có thể
được bảo hộ theo hệ thống SHTT, thì các cơ chế bảo hộ SHTT hiện nay không thể bảo vệ một
cách đầy đủ mọi loại hình VHNTDG, vì các cơ chế này không thể bao quát hết các đặc trưng
của tri thức truyền thống như xuất phát từ tín ngưỡng, là thành quả sáng tạo của tập thể và
được lưu truyền, bảo tồn bằng miệng.
Như ở Mỹ các hình thức thể hiện văn hóa dân gian được bảo hộ bằng rất nhiều cách, từ các
Luật sở hữu trí tuệ đến các luật và các chương trình thiết kết riêng biệt để bảo vệ và bảo tồn
di sản văn hóa của người dân bản xứ.Chính quyền Hoa Kỳ cũng đã áp dụng một số biện pháp
khác để bảo tồn các hình thức thể hiện dân gian trong cộng đồng dân cư của họ: thành lập
các trung tâm lưu trữ cơ sở dữ liệu về biểu hiện chính thức của người bản địa. Sự có mặt của
biển hiệu chính thức trong cơ sở dữ liệu đảm bảo rằng một người giám định sẽ có thể tìm ra

bất cứ biển hiệu chính thức nào để có thể cản trở việc đăng ký nhãn hiệu khi nhãn hiệu đó
không liên hệ với nhóm người trên; các trung tâm đời sống dân gian Mỹ trong thư viện quốc
hội Mỹ.
Hệ thống bảo hộ SHTT đối với tri thức truyền dân gian nhằm bảo hộ các quyền kinh tế và
quyền tinh thần của những cộng đồng nơi sản sinh ra nó, những người nắm giữ. Cần lưu ý
rằng, bảo hộ SHTT đối với tri thức dân gian trước hết nhằm bảo vệ quyền tinh thần của cộng
đồng, người nắm giữ tri thức truyền thống (chẳng hạn như quyền bảo đảm sự toàn vẹn của
tác phẩm, quyền cấm người khác xuyên tạc, cắt xén, sửa đổi tác phẩm của mình, quyền
được ghi nhận dưới danh nghĩa tác giả…)và quyền ngăn cấm người khác thương mại hóa tri
thức của mình. Việc bảo hộ SHTT đối với tri thức dân gian nhằm làm tăng sự chắc chắn và ổn
định về mặt pháp lý và mang lại lợi ích không chỉ cho những người nắm giữ tri thức dân gian.
Việc khai thác thương mại các tri thức dân gian rõ ràng cũng sẽ mang lạo lợi ích kinh tế cho
bản thân những người nắm giữ nó (thông qua các hợp đồng cho phép người khai thác tri
thức truyền thống và trả phí chuyển giao) và nguồn thu nhập mà cộng đồng có được từ việc
cấp phép đó được sử dụng để phát triển phúc lợi của cả cộng đồng. Hơn nữa, sự bảo hộ
quyền SHTT đối với tri thức dân gian cho phép các cộng đồng bản địa tham gia một cách có
hiệu quả hơn vào thị trường toàn cầu và từng bước thoát khỏi cảnh đói nghèo và lệ thuộc, do
đó được coi là một công cụ tiềm năng trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới của
những nước đang phát triển và kém phát triển.


VHNTDG là sản phẩm của một cộng đồng làng xã mang tính dị bản trong khi đó sự phát triển
ngày càng gia tăng của công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực ghi âm, nghe nhìn, phát sóng,
truyền hình cáp, điện ảnh có thể dẫn đến việc khai thác bất hợp lý di sản văn hoá này cũng
như việc thương mại hoá trên quy mô toàn cầu thông qua các phương tiện đó, thiếu sự tôn
trọng cần thiết đối với các lợi ích văn hoá hay kinh tế của các cộng đồng nơi chúng được sinh
ra. Cùng với việc thương mại hoá, các loại hình dân gian thường bị làm sai lệch đi cho phù
hợp với suy nghĩ là điều này sẽ giúp tiếp thị chúng tốt hơn.
Thiết nghĩ đối với loại hình VHNTDG đặc biệt nên cần phải có cơ chế bảo hộ đặc biệt riêng
không giống như loại hình cụ thể khác. Vậy nên cần phải đăt ra những quy tắc chung, những

nguyên tắc cơ bản vừa tạo ra được hành lang pháp lý an toàn cho việc bảo tồn duy trì đảm
bảo được tính nguyên gốc, toàn vẹn, vừa phát huy được sự tự do sáng tạo phát triển trong
cộng đồng, đồng thời đảm bảo duy trì được sự chia sẻ cân bằng hợp lý lợi ích giữa một bên là
việc bảo hộ chống lại sự lạm dụng tác phẩm dân gian, và bên kia là việc tự do, khuyến khích
sự phát triển tiếp theo của chúng, việc truyền bá cũng như sửa đổi các tác phẩm sáng tạo
nguyên gốc của tác giả lấy cảm hứng từ dân gian.
Vấn đề được đề cập trước hết là tính toàn vẹn, giá trị đích thực của sản phẩm VHNTDG luôn
được bảo đảm, nghiêm cấm việc cắt xén xuyên tạc tác phẩm gây phương hại đến giá trị đích
thực của tác phẩm trong mọi trường hợp dưới mọi hình thức thể hiện. Những hành vi đó đều
là hành vi gây phương hại? Theo WIPO có 2 loại hành vi chủ yếu mà các hình thức thể hiện
dân gian cần được bao hộ chống lại chúng: khai thác bất hợp pháp và các hành vi gây tốn
hại khác.
Khai thác bất hợp pháp: là bất kỳ việc sử dụng nào được thực hiện nhằm mục đích thu lợi,
ngoài phạm vi truyền thống hay tập quán và không được sự đồng ý của cơ quan có thẩm
quyền hoặc cộng đồng liên quan tới nó. Nghĩa là, việc sử dụng - kể cả nhằm mục đích thu lợi
- trong phạm vi truyền thống hoặc tập quán thì cũng không phải là đối tượng được phép.
Mặt khác, việc sử dụng, kể cả bởi các thành viên của cộng đồng nơi sự thể hiện dân gian
được phát triển và duy trì, cũng đòi hỏi phải được đồng ý nếu nó được tiến hành ngoài phạm
vi đó và với mục đích thu lợi. Trong đó "phạm vi truyền thống" được hiểu là cách thức sử
dụng hình thức thể hiện dân gian trong khuôn khổ nghệ thuật phù hợp của nó dựa trên cơ sở
cộng đồng sử dụng liên tục; “phạm vi tập quán” liên quan nhiều hơn tới việc sử dụng các
hình thức thể hiện dân gian phù hợp với các tập quán trong cuộc sống hàng ngày của cộng
đồng.
Qua đó xác định các hành vi sử dụng phải xin phép. Cần phải phân biệt giữa trường hợp sử
dụng có các bản sao hình thức thể hiện dân gian và trường hợp không nhất thiết phải có các
bản sao. Trong trường hợp thứ nhất, các hành vi cần xin phép gồm việc công bố (theo nghĩa
rộng nhất của thuật ngữ này, bao gồm tất cả các hình thức đưa đến công chúng bản gốc,
bản sao hoặc các bản sao hình thức thể hiện dân gian được trình bày ở bất kỳ dạng vật chất
nào, kể cả các bản ghi), nhân bản và phân phối; trong trường hợp thứ hai, các hành vi cần
xin phép bao gồm việc trình tấu trước công chúng, trình diễn trước công chúng, truyền bằng

phương tiện không dây hoặc có dây và bất kỳ hình thức nào khác truyền bá tới công chúng.
Sử dụng được phép: Quy định này không nhằm ngăn chặn các cộng đồng bản địa sử dụng


các di sản văn hóa truyền thống của mình theo các cách truyền thống và tập quán, và phát
triển nó thông qua việc mô phỏng không ngừng. Việc giữ cho nghệ thuật truyền thống bình
dân sống mãi có mối liên hệ gần gũi với việc nhân bản, trình tấu hoặc trình diễn, trong một
lối trình bày phong phú và có phong cách, các hình thức thể hiện truyền thống trong cộng
đồng khởi thủy. Một yêu cầu không hạn chế cần xin phép để sửa chữa, sắp xếp, nhân bản,
trình tấu hoặc trình diễn các sáng tạo này có thể tạo một rào chắn trên con đường phát triển
tự nhiên của văn hóa dân gian và không thể bị cưỡng chế trong các xã hội, nơi văn hóa dân
gian là một phần của cuộc sống hàng ngày. Vì vậy, Quy định này cho phép bất kỳ thành viên
nào trong cộng đồng được tự do nhân bản hoặc trình diễn các hình thức thể hiện dân gian
của cộng đồng mình trong phạm vi truyền thống và tập quán của họ, bất kể họ làm việc đó
nhằm hoặc không nhằm mục đích thu lợi, thậm chí được thực hiện bằng phương tiện công
nghệ hiện đại nếu công nghệ đó được cộng đồng chấp nhận như một trong các phương tiện
dẫn tới sự phát triển của nền văn hóa dân gian sống động của họ.
Ngoài ra, cần phải loại trừ các trường hợp ngọai lệ đặc biệt mà không cần xin phép, kể cả khi
việc khai thác hình thức thể hiện dân gian được thực hiện để lấy tiền và ngoài phạm vi
truyền thống hay tập quán. Các trường hợp ngoại lệ đó là:
– Sử dụng hoặc khai thác nhằm mục đích giáo dục, nghiên cứu.
– Sử dụng bằng cách minh họa, dẫn chiếu trong bất kỳ tác phẩm gốc nào của một tác giả,
với điều kiện việc sử dụng đó thích hợp với thực tiễn hợp lý.
– Khi hình thức thể hiện dân gian được “vay mượn” để sáng tạo nên tác phẩm gốc của một
tác giả. Điều này cho phép phát triển tự do khả năng sáng tạo cá nhân lấy cảm hứng từ dân
gian.
– "Sử dụng ngẫu nhiên", đặc biệt bao gồm việc sử dụng để làm báo cáo về các sự kiện hiện
tại và sử dụng các hình ảnh nơi hình thức thể hiện dân gian được đặt cố định tại một địa
điểm công cộng.
Các hành vi gây tổn hại khác, có hại cho các lợi ích liên quan tới việc sử dụng các hình

thức thể hiện dân gian, và tùy theo mức độ lỗi và hậu quả thiệt hai mà bị chế tài hành chính
hay hình sự.
Như một nguyên tắc, rằng trong tất cả các xuất bản phẩm dạng in và bất kỳ sự truyền bá
nào tới công chúng đối với bất kỳ hình thức thể hiện dân gian nào có thể nhận biết được, thì
nguồn của nó phải được chỉ rõ một cách thích hợp, thông qua việc lưu ý về cộng đồng, địa
điểm địa lý nơi phát sinh hình thức thể hiện dân gian được sử dụng. Việc không tuân thủ yêu
cầu chỉ dẫn về nguồn sẽ bị xử phạt.
Việc sử dụng không xin phép đối với các hình thức thể hiện dân gian khi việc xin phép là bắt
buộc cũng cấu thành hành vi xâm phạm. Điều này được hiểu là, nếu việc sử dụng vượt quá
giới hạn hoặc trái với các điều kiện đã được cấp phép thì cũng được coi là hành vi xâm phạm
về sử dụng hình thức thể hiện dân gian trái phép. Việc lừa gạt công chúng bằng cách tạo ra
ấn tượng rằng một vật nào đó là hình thức thể hiện dân gian của một cộng đồng mà trên
thực tế không phải vậy, thì cũng sẽ bị phạt.
Việc sử dụng nhằm mục đích công “làm méo mó” hình thức thể hiện dân gian, với bất kỳ
cách thức trực tiếp hay gián tiếp nào gây tổn hại tới các lợi ích văn hoá của “cộng đồng liên
quan”, đều là hành vi xâm phạm. Khái niệm “làm méo mó” bao gồm bất kỳ hành động nào
làm sai lệch, cắt xén hoặc làm giảm giá trị của hình thức thể hiện dân gian được công bố,


nhân bản, phân phối, trình diễn hoặc truyền bá bằng cách nào đó khác tới công chúng bởi
người vi phạm.
Việc cấp phép sử dụng và cơ chế giám sát:
Môt vấn đề được đặt ra là ai có thẩm quyền cấp? Theo quy định của WIPO thì đưa ra hai chủ
thể đó là “cơ quan có thẩm quyền” và “cộng đồng có liên quan”. Ở các quốc gia, nơi các
cộng đồng thổ dân hoặc cộng đồng truyền thống khác được thừa nhận như các chủ sở hữu
được trao quyền đầy đủ trong việc tùy ý sử dụng văn hóa dân gian của họ, nơi các cộng
đồng được tổ chức một cách hiệu quả để quản lý khai thác các hình thức thể hiện dân gian
của mình, thì việc sử dụng như vậy có thể được chính cộng đồng đó cho phép. Cộng đồng
cấp phép cho người sử dụng theo cách tương tự như các tác giả cấp phép. Ở các nước khác,
nơi di sản VHNTDG của cộng đồng về cơ bản được xem như một phần của di sản văn hóa

dân tộc, hoặc nơi mà các cộng đồng liên quan không thể tự quản lý một cách có hiệu quả
việc sử dụng các hình thức thể hiện dân gian của mình, thì “các cơ quan có thẩm quyền” có
thể được chỉ định để tiến hành cấp phép dưới hình thức các quyết định theo luật công. Ở
Việt Nam di sản VHNTDG được xem là nột tài sản quốc gia, là một phần của di sản văn hóa
dân tộc được thể hiện rất phong phú và đa dạng trải rộng trên khắp 54 dân tộc thế nhưng
gần như chưa có cơ quan nào đươc thành lập để thực hiện việc này.
Vì vậy cần phải có một cơ quan nhà nước đủ lớn, đủ mạnh đủ khả năng đứng ra tổ chức thực
hiện và chịu trách nhiệm về vấn đề này. Cơ quan này phải có sự phối hợp chặt chẽ với “cộng
đồng có liên quan” được tổ chức thành hệ thống từ Trumg Ương đến cơ sở (có thể tương ứng
với đơn vị hành chính từ cấp bộ đến thôn bản) chịu trách nhiệm hệ thống hóa di sản VHDG,
rà soát, kiểm tra giám sát, cấp phép sử dụng và thu phí. Vì “một tác giả hoặc cộng đồng
không thể tự mình biết được mọi chuyện đang diễn ra trên cả nước, còn nếu đem ra kiện
tụng thì rất tốn kém”.
Nhiệm vụ cụ thể của cơ quan này là cấp phép cho các loại hình sử dụng nhất định đối với
các hình thức thể hiện dân gian, tiếp nhận đơn xin phép sử dụng, xem xét và quyết định, xác
định lệ phí và thu lệ phí sau khi cấp phép, nếu pháp luật có quy định. Liên quan tới cơ quan
giám sát, cơ quan giám sát sẽ lập định mức lệ phí cho việc cấp phép sử dụng, hoặc phê
duyệt định mức phí đó. Cơ quan giám sát có thẩm quyền có thể là Bộ Văn hóa.
Bên cạnh đó cần phải xác định rõ mục đích sử dụng lệ phí đã thu, theo đó, đưa ra một lựa
chọn giữa việc thúc đẩy hoặc bảo vệ nền văn hóa dân tộc hay nền dân gian dân tộc. Thông
thường, nền dân gian dân tộc là một bộ phận của văn hóa dân tộc, nhưng so với dân gian
dân tộc, văn hóa dân tộc liên quan tới một lượng lớn hơn những người hưởng lợi tiềm năng.
Trong bất kỳ trường hợp nào, cũng nên bảo đảm dành một tỷ lệ nhất định lệ phí thu được bởi
cơ quan có thẩm quyền cho cộng đồng nơi phát sinh các hình thức thể hiện dân gian đã
được sử dụng và nộp lệ phí. Quy định này có thể cho phép cơ quan có thẩm quyền giữ lại
một phần lệ phí thu được để trang trải các chi phí quản lý hệ thống cấp phép, giam sát.
Khi không có cơ quan thẩm quyền được chỉ định và cả hai việc cấp phép và thu lệ phí đều
được thực hiện bởi cộng đồng, thì đương nhiên, việc sử dụng lệ phí thu được phải được quyết
định bởi cộng đồng. Nhà nước cần đảm bảo có sự chia sẻ lợi nhuận bằng cách đánh thuế
hoặc đưa ra các biện pháp thích hợp khác.



Hình thức chế tài:
Tùy theo mức độ vi phạm, phạm vi, hậu quả của những hành vi vi phạm gây ra mà bị xử lỳ
hành chính hoặc có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

III. Kết luận
Rõ ràng là các công cụ pháp lý nhằm bảo hộ quyền SHTT đối với VHNTDG nói riêng và tri
thức truyền thống nói chung sẽ thúc đẩy sự sáng tạo trên cơ sở tri thức đó. Bảo hộ SHTT đối
với các tri thức truyền thống không chỉ là việc ghi nhận các quyền được bảo hộ, công nhận
những thành quả trí tuệ của người sáng tạo mà còn mang lại lợi ích cho toàn xã hội trong
việc tiếp cận những thành quả sáng tạo dựa trên truyền thống đã được bảo hộ, là cơ sở thúc
đẩy hoạt động tái đầu tư cho nghiên cứu, triển khai trong mọi lĩnh vực khoa học kỹ thuật,
văn học và nghệ thuật của cả cộng đồng, đồng thời thiếp lập sự cân bằng lợi ích giữa cộng
đồng truyền thống với xã hội và tạo lập môi trường kinh doanh, canh tranh lành mạnh, trung
thực, thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Từ những lý giải trên buộc pháp luật phải đặt ra một hệ thống hành lang pháp lý đủ an toàn
để bảo tồn duy trì được nền di sản VHNTDG nói riêng và xa hơn nữa là cả nền tri thức truyền
thống dân tộc nói chung, nhưng đồng thời nó không phải là rào cản cho sự sáng tạo phát
triển được lấy cảm hửng từ nền di sản VHNTDG bất tận, cho sự truyền bá lan tỏa,và đồng
thời đảm bảo sự chia sẽ hài hòa lợi ích từ đó mang lại./.



×