Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Com kinh nghiem hoa ky ve quan ly kiem soat hanh vi han che canh tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (47.41 KB, 3 trang )

KINH NGHIỆM CỦA HOA KỲ VỀ QUẢN LÝ KIỂM
SOÁT HÀNH VI THỎA THUẬN HẠN CHẾ
CẠNH TRANH
MINH NGỌC (Tổng hợp)
Mỹ là một nước mà chủ nghĩa tư bản đã có bước phát triển nhanh trong thế kỷ
XIX. Sự tích tụ tư bản dưới hình thức Tơrớt đã làm cho một số nghành công nghiệp
ở Mỹ như sắt thép, đường,thuốc lá… rơi vào những tập đoàn tư bản lớn.Sự lạm
dụng vị thế của những tập đoàn này trên thị trường vào cuố thế kỷ XIX làm cho
người dân Mỹ họ đã gây sức ép để cho nhà nước phải ban hành những đạo luật
chống Tơrớt với sự mở đầu bằng đạo luật Sherman năm 1890 luật Clayton năm
1914 hai luật cơ bản cho chính sách chống Tơrớt của Mỹ.
Năm 1936 luật Robinson- Patman đã ban hành và nghiêm khắc hơn trong việc xử lý các
hành vi phân biệt đối xử . Đến đầu năm 1980 chính sách cạnh tranh của Mỹ được coi là
chính sách chặt chẽ và nghiêm khắc nhất của thế giới.
Trên thực tế hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Mỹ theo luật Sherman là nghiêm
cấm mọi hành vi ngăn cản thương mại theo chiều ngang và chiều dọc. Theo chiều ngang,
các thỏa thuận giữa các đối thủ cạnh tranh về những khía cạnh, cạnh tranh quan trọng
như giá cả và sản lượng có thể được coi là phạm pháp và phải chị hình phạt rất nặng về
tiền hoặc bỏ tù.Tác động thực tế hoặc sự hợp lý của giá cả hoặc phân chia thị trường
được thỏa thuận không được chấp nhận là lý do cho thỏa thuận chiều ngang. Bản thân
của các thỏa thuận này là vi phạm pháp luật. Người ta có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn
như chấm dứt hoặc dình chỉ thỏa thuận. Các thỏa thuận theo chiều ngang khác cũng coi
như là phạm pháp nhưng tính pháp lý của chúng lại phụ thuộc vào kết quả kiểm tra tức là
phụ thuộc vào tác động thực tế của cạnh tranh đối với thỏa thuận.
Ngăn cản thỏa thuận chiều ngang thường được sử dụng để bảo đảm rằng các nghành
được giải quy chế không tiếp tục thói quen cũ của mình.Sau khi giải quyết quy chế của
nghành hàng không hành vi ngoan cố đã bị phát giác. Nghành hàng không đã bị kiện khi
họ duy trì các thỏa thuận giá thông qua các tín hiệu truyền trên mạng . Các thỏa thuận về
tiền cước xe tải đã bị kết tội ấn định giá theo chiều ngang.Các thỏa thuận cạnh tranh
không lành mạnh của các hãng truyền hình cáp bị kết tội phân chia thị trường.
Các quy định của hiệp hội cũng là một đối tượng của pháp luật về cạnh tranh đã được sử


dụng để phá vỡ hạn chế kiểu ( đạo đức nghề nghiệp ) do những người hành nghề chuyện
nghiệp hoặc cung ứng dịch vụ áp đặt thông qua các hiệp hội nghề nghiệp của mình.
Sức mạnh của luật về ấn định giá có nguồn gốc từ cơ sở kinh tế của chính sách cạnh tranh
của Mỹ ngoài ra còn có yếu tố đạo đức một số người đã chứng minh sự cần thiết phải
trừng phạt nặng bằng cách chỉ ra sự tương đồng giữa luật ấn định giá với luật chống ăn
cắp vì với hai hành vi này đều lấy tiền túi của người tiêu dùng mà họ không hề biết và
không muốn.. Nhưng về pháp lý thì mức độ xử phạt có giảm bớt vì vậy các hoạt động


thỏa thuận theo chiều ngang là các vụ kiện dân sự (ngoại trừ trường hợp ngoan cố kéo dài
ấn định giá khi mà các phương pháp ấn định giá từng là hợp pháp đã chính thức hủy bỏ).
Khi luật pháp cạnh tranh có hiệu lực,trên thực tế thường có nhiều lập luận về vấn đề này
cho rằng một hạn chế nào đấy có thể giúp đạt được mục tiêu xác đáng hoặc kích thích
cạnh tranh. Các cơ quan có thẩm quyền và toàn án đã cố gắng áp dụng một cách tiếp cận
để nhận thức và đánh giá hiệu quả tiềm năng của hạn chế chiều ngang, đồng thời giảm
mức tối thiểu phương pháp phân tích mất nhiều thời gian và tiền bạc.Trong những năm
80 FPC đã chấm dứt cách tiếp cận trách nhiệm dẫn chứng và các chuẩn mực , phương
pháp thử trong việc xóa bỏ các quy định do các hiệp hội nghề đặt ra.Ngày nay, chống độc
quyền được thử ba buớc là: thứ nhất , xác định thỏa thuận giữa các doanh nghiệp cạnh
tranh có hạn chế cạnh tranh hay không. Nếu là có nhưng thỏa thuận lại không rơi vào
nhóm tự bản thân thỏa thuận là hạn chế cạnh tranh. Thì bươc tiếp theo là yêu cầu các bên
tham gia thỏa thuận giải thích thỏa thuận của họ tạo ra tác động khuyến khích cạnh tranh
mặc dù có thể có rủi ro về bằng chứng.Nếu các bên mà không chứng minh được vụ
chống độc quyền thắng kiện cho dù họ không chứng minh tác động cạnh tranh ròng trên
thực tế. Nếu các bên đưa ra được bằng chứng về hiệu quả lớn hơn hoặc tác động khuyến
khích cạnh tranh thì sẽ thực hiện bước thứ ba đó là phép thử dựa vào nguyên tắc hợp lý
và cách tiếp cận chỉ dựa vào bản thân sự thỏa thuận có thể tác động đến chi phí và các ưu
tiên thực thi làm giảm hiệu quả các biện pháp chống hạn chế chiều ngang.
Về phía pháp lý , luật pháp Mỹ về thỏa thuận chiều ngang ít hữu dụng hơn do đó khó
khăn tồn tại trong việc xử lý các hành vi phối hợp âm mưu ngầm , ngay cả đối với ủy ban

thương mại liên bang có phần linh hoạt hơn. Tuy vậy những phân tích kinh tế cẩn trọng
và việc đưa ra các bằng chứng đã hỗ trợ cho việc vần dụng thành công luật Sherman đối
với các âm mưu ngầm trong nghành hàng không sau khi được giải quy chế, đồng thời cho
thấy điểm yếu này có thể vượt qua trong những trường hợp phù hợp.
Một vấn đề quan trọng hơn đó là hình phạt chưa hợp lý. Các lập luận cho rằng các hình
phạt là quá hà khắc có thể nuôi dưỡng ý nghĩ rằng các hành vi bị quy định trước đây có
thể không phải là đối tượng của luật chống độc quyền.Vì lý do này mà đã có nhiều quy
định đặc biệt hạn chế áp dụng hình phạt hình sự hoặc phạt tiền gấp ba:
Các thỏa thuận theo chiều dọc , các hình phạt ngăn cản các thỏa thuận chống cạnh tranh
trong cung ứng và phân phối.Tương tự như pháp luật cạnh tranh ở các nước khác, pháp
luật cạnh tranh của Mỹ không phân biệt các thỏa thuận chiều ngang và các thỏa thuận
chiều dọc.Tuy nhiên quan điểm của tòa án và các cơ quan thực thi lại phân biệt rõ ràng
các thỏa thuận này.Chỉ có một thỏa thuận theo chiều dọc bản thân của nó được coi là bất
hợp pháp, đó là ấn định giá bán tối thiểu.Tuy là bị coi là phạm pháp, nhưng mà hành vi
duy trì giá bán lại không bị đối xử về pháp lý và thi hành như hành vi ấn định giá theo
chiều ngang. Các cơ quan thi hành rất ít khi xử lý và thi hành và áp dụng hính sự đối với
hành vi này. Một thỏa thuận ràng buộc đôi khi bản thân nó cũng coi là bất hợp pháp,
nhưng tính chính xác của kết luận này còn gây nhiều tranh cãi . Như vậy hầu hết các quan
hệ theo chiều dọc được đánh giá theo quy tắc hợp lý và chỉ bị coi là bất hợp pháp khi tác
động chông cạnh tranh ròng được chứng minh.Biện pháp xử lý là cảnh cáo, dừng hoặc bỏ
các thỏa thuận hoặc bồi thường cho các vụ kiện tư nhân.


Đối với các quan hệ theo chiều dọc đã cho thấy pháp luật của Mỹ theo nguyên tắc kinh tế
như thế nào.Các cơ quan thực thi và tòa án rất khó khăn trong việc xác định động cơ cạnh
tranh của hầu hết các hạn chế theo chiều dọc và họ có thể đạt đựoc một số mục tiêu hữu
dụng và hiệu quả. Cách tiếp cận này nhất quán với quan điểm của người Mỹ theo quan
điểm tự do.Với quan điểm các bên tham gia hợp đồng kinh doanh có thể tham gia hợp
đồng một cách tự do, pháp luật cạnh tranh thường không can thiệp để điều chỉnh sự mất
cân bằng thấy rõ trong sức mạnh đàm phán.

Với mục tiêu nâng cao việc đảm bảo của doanh nghiệp và hạn chế phạm vi và khả năng
đưa ra quá nhiều các quyết định khác nhau của tòa án, một loạt các phương thức xét xử
của tòa án đã được xác định là án lệ, làm mẫu cho những trường hợp xét xử sau đó( ví dụ
thỏa thuận về giá, hạn chế sản xuất….) Như vậy xu hướng mới của tòa án tối cao là mở
rộng hơn các án để xử lý những trường hợp thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Cũng như những nước khác Mỹ đưa ra những trường hợp ngoại lệ như cartel xuất khẩu
được pháp luật công nhận. Trong đó năm 1958 luật kinh doanh chấp nhận sự hợp tác giữa
các doanh nghiệp vừa và nhỏ.Những doanh nghiệp này được miễn trừ hoàn toàn về
chống độc quyền, nguyên tắc hợp lý cũng được áp dụng. Các doanh nghiệp này được
hưởng một hình thức miễn trừ pháp lý nhưng thực ra không phải là miễn trừ vì hành vi
miễn trừ có thể không vi phạm pháp luật..Một số thỏa thuận được giới hạn trong phạm vi
hẹp giữa các doanh nghiệp nhỏ độc lập về sở hữu và quản lý.Các doanh nghiệp vừa và
nhỏ không được hưởng bảo hộ về trách nhiệm pháp lý trong trường hợp là người bị kiện
nhưng lại có những quy định mang lại lợi ích cho họ là người khởi kiện. Một trong các
lập luận ủng hộ việc áp dụng mức bồi thường gấp ba lần thiệt hại và trả phí luật sư, cho
phép các bên cùng kiện tập thể là để khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ hơn với nguồn
lực ít hơn khởi kiện tư nhân.
SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH, BỘ
CÔNG THƯƠNG



×