Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

bao_cao_ra_soat,_danh_gia_vbqppl_trong_linh_vuc_ba o_ton_da_dang_sinh_hoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.99 KB, 5 trang )

BÁO CÁO RÀ SOÁT, ĐÁNH GIÁ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP
LUẬT TRONG LĨNH VỰC BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC

Trương Hồng Quang
Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp
(Cựu sinh viên Khóa 30, Khoa PLKT, HLU)

I. HIỆN TRẠNG ĐA DẠNG SINH HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Khái niệm Đa dạng sinh học
Theo Công ước về Đa dạng sinh học (ĐDSH) được đưa ra năm 1992[1] tại hội nghị Liên hợp
quốc về môi trường và sự phát triển, ĐDSH được định nghĩa là toàn bộ sự phong phú của các
thế giới sống và các tổ hợp sinh thái mà chúng là thành viên, bao gồm sự đa dạng bên trong
và giữa các loài và sự đa dạng của các hệ sinh thái. Mức độ ĐDSH của một quần xã sinh vật
thể hiện ở 3 dạng: đa dạng về loài – là tính đa dạng các loài trong một vùng; đa dạng di
truyền – là sự đa dạng về gen trong một loài; đa dạng hệ sinh thái – là sự đa dạng về môi
trường sống của các sinh vật trong việc thích nghi với điều kiện tự nhiên của chúng. Tính đa
dạng là một phạm trù bao trùm toàn bộ các thành phần tạo ra của hệ sinh thái đảm bảo sự
duy trì một hệ sinh thái đa dạng và phong phú.
Theo Luật ĐDSH năm 2008 của Việt Nam, ĐDSH được định nghĩa như sau: “ĐDSH là sự
phong phú về gen, loài sinh vật và hệ sinh thái trong tự nhiên” (khoản 5 Điều 3). Có thể
nhận thấy rằng khái niệm ĐDSH theo pháp luật của Việt Nam cụ thể, rõ ràng và chính xác
hơn so với khái niệm trong Công ước ĐDSH nêu trên. Điều này thể hiện ở một số điểm như:
(i) Luật ĐDSH xác định rõ sự phong phú về “gen” còn Công ước ĐDSH lại nêu chung chung là
“sự đa dạng bên trong”; (ii) Luật ĐDSH xác định rõ đa dạng về “loài sinh vật” chứ không chỉ
là “các loài” như trong Công ước ĐDSH; (iii) Luật ĐDSH xác định rõ sự đa dạng về gen, loài
sinh vật và hệ sinh thái trong “tự nhiên” còn Công ước ĐDSH chưa nêu rõ ý này. Bên cạnh
đó, Luật ĐDSH còn định nghĩa “Bảo tồn đa dạng sinh học” là việc bảo vệ sự phong phú của
các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng, đặc thù hoặc đại diện; bảo vệ môi trường sống tự nhiên
thường xuyên hoặc theo mùa của loài hoang dã, cảnh quan môi trường, nét đẹp độc đáo của
tự nhiên; nuôi, trồng, chăm sóc loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên
bảo vệ; lưu giữ và bảo quản lâu dài các mẫu vật di truyền (khoản 1 Điều 3).


2. Khái quát thực trạng Đa dạng sinh học của Việt Nam hiện nay
Việt Nam được biết đến như là một trung tâm ĐDSH của thế giới với các hệ sinh thái tự nhiên
phong phú và đa dạng. Nằm ở vùng Đông Nam châu Á với diện tích khoảng 330.541 km2,
Việt Nam là một trong 16 nước có tính đa dạng sinh học cao trên thế giới (Bộ Nông nghiệp và
phát triển nông thôn, 2002 - Chiến lược quốc gia quản lý hệ thống khu bảo tồn của Việt Nam
2002 - 2010). Đặc điểm về vị trí địa lý, khí hậu... của Việt Nam đã góp phần tạo nên sự đa
dạng về hệ sinh thái và các loài sinh vật. Về mặt địa sinh học, Việt Nam là giao điểm của các
hệ động, thực vật thuộc vùng Ấn Độ - Miến Điện, Nam Trung Quốc và Inđo - Malaysia. Các
đặc điểm trên đã tạo cho nơi đây trở thành một trong những khu vực có tính ĐDSH cao của


thế giới, với khoảng 10% số loài sinh vật, trong khi chỉ chiếm 1% diện tích đất liền của thế
giới (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2002 - Báo cáo quốc gia về các khu bảo tồn
và Phát triển kinh tế). ĐDSH có vai trò rất quan trọng đối với việc duy trì các chu trình tự
nhiên và cân bằng sinh thái. Đó là cơ sở của sự sống còn và thịnh vượng của loài người và sự
bền vững của thiên nhiên trên trái đất. Theo ước tính giá trị của tài nguyên ĐDSH toàn cầu
cung cấp cho con người là 33.000 tỷ đô la mỗi năm (Constan Za et al-1997). Đối với Việt
Nam nguồn tài nguyên ĐDSH trong các ngành Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thủy sản hàng
năm cung cấp cho đất nước khoảng 2 tỷ đô la (Kế hoạch hành động đa dạng sinh học của
Việt Nam - 1995)[2]. Các hệ sinh thái rừng, đất ngập nước, biển, núi đá vôi,… với những nét
đặc trưng của vùng bán đảo nhiệt đới, là nơi sinh sống và phát triển của nhiều loài hoang dã
đặc hữu, có giá trị, trong đó có những loài không tìm thấy ở nơi nào khác trên thế giới. Việt
Nam cũng là nơi được biết đến với nhiều nguồn gen hoang dã có giá trị, đặc biệt là các cây
thuốc, các loài hoa, cây cảnh nhiệt đới,… Quỹ Bảo tồn động vật hoang dã (WWF) đã công
nhận Việt Nam có 3 trong hơn 200 vùng sinh thái toàn cầu; Tổ chức bảo tồn chim quốc tế
(Birdlife) công nhận là một trong 5 vùng chim đặc hữu; Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới
(IUCN) công nhận có 6 trung tâm đa dạng về thực vật[3].
Tuy nhiên, hiện nay ĐDSH ở nước ta đang bị suy thoái nhanh. Diện tích các khu vực có các
hệ sinh thái tự nhiên quan trọng bị thu hẹp dần. Số loài và số lượng cá thể của các loài
hoang dã bị suy giảm mạnh. Nhiều loài hoang dã có giá trị bị suy giảm hoàn toàn về số

lượng hoặc bị đe dọa tuyệt chủng ở mức cao. Các nguồn gen hoang dã cũng đang trên đà
suy thoái nhanh và thất thoát nhiều. Suy thoái ĐDSH dẫn đến mất cân bằng sinh thái, ảnh
hưởng trực tiếp đến môi trường sống của con người, đe dọa sự phát triển bền vững của đất
nước. Nhiều hệ sinh thái và môi trường sống bị thu hẹp diện tích và nhiều Taxon loài và dưới
loài đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng trong một tương lai gần[4]. Những giá trị của
ĐDSH lại chưa được nhận thức một cách đầy đủ. Sự khai thác quá mức các giống loài, nguồn
gen động thực vật để phục vụ cho các nhu cầu trước mắt của con người, đặc biệt là trong
một số năm gần đây đã đẩy nhanh tốc độ suy thoái ĐDSH ở Việt Nam. Những mối đe doạ
chính đối với sự ĐDSH của Việt Nam là tình trạng khai thác rừng quá mức, tập quán du canh
du cư, tình trạng lấn chiếm đất trồng trọt, ô nhiễm nguồn nước, sự xuống cấp của môi
trường ven biển và những đòi hỏi đặt ra với nông dân trong quá trình chuyển đổi sang kinh
tế thị trường. Những sức ép khác là tình trạng dân số tăng nhanh và các hoạt động phát
triển nông nghiệp ở mức độ cao. Nhiều dự án xây dựng cơ sở hạ tầng đang được đề xuất như đập nước hay đường quốc lộ - và những dự án này cũng gây nguy hại tới ĐDSH, nếu
không được quy hoạch và quản lý tốt. Thách thức lớn nhất của Việt Nam là phải nhìn nhận sự
ĐDSH quý báu của mình như là một tài sản quý và làm thế nào để cân đối nhu cầu phát triển
với nhu cầu bảo tồn[5]. Bên cạnh đó, việc sử dụng phân bón, các loại thuốc bảo vệ mùa
màng, thuốc kích thích tăng trưởng một cách bừa bãi trong phát triển nông nghiệp ở nước ta
cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm đi số lượng các loài sinh vật có ích, giảm
tính ĐDSH, làm mất vệ sinh an toàn thực phẩm, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ con người, làm
ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí. Một số hiện trạng và diễn biến suy thoái ĐDSH ở
nước ta có thể được mô tả như sau[6]:
- Hầu hết các hệ sinh thái tự nhiên nước ta hiện đang phải chịu sức ép nặng nề từ các hoạt
động phát triển kinh tế. Hệ sinh thái rừng tự nhiên có nhiều biến động lớn trong hơn nửa thế
kỷ qua. Độ che phủ rừng tăng nhưng phần lớn diện tích tăng là rừng trồng, nếu tính về giá trị
ĐDSH thì cao. Hầu hết các vùng tự nhiên còn lại đều đang bị xuống cấp nghiêm trọng. Diện
tích rừng nguyên sinh chưa bị tác động chỉ còn tồn tại trong các vùng rừng nhỏ, rời rạc tại


các khu vực núi cao của miền Bắc và Tây Nguyên. Đây là mối đe doạ lớn đối với các cấu
thành ĐDSH của rừng bao gồm cả các loài thực vật và động vật phụ thuộc vào rừng.

- Xu hướng quần thể của rất nhiều loài thực vật đang suy giảm, càng ngày càng có nhiều loài
hơn phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng. Hoạt động buôn bán động thực vật hoang dã
chưa giảm bớt cũng là một trong những nguyên nhân tác động xấu tới số lượng các loài
trong tự nhiên.
- Hệ sinh thái nông nghiệp và giống cây trồng, vật nuôi bị ảnh hưởng. Các giống cây trồng
mới có năng suất cao ngày càng được đưa nhiều vào sản xuất và chiếm diện tích ngày càng
lớn. Do đó các giống địa phương ngày càng bị thu hẹp diện tích, vì vậy nhiều nguồn gen quý
của địa phương, đặc biệt là các nguồn gen chống chịu sâu bệnh bị mai một.
- Từ năm 1990 đến nay, diện tích rừng liên tục tăng, trong đó rừng trồng tăng rất nhanh, chỉ
sau chưa đầy 15 năm rừng trồng đã tăng lên 4 lần. Diện tích rừng tự nhiên tăng lên trên 1
triệu ha, nhưng chủ yếu là rừng phục hồi. Đến năm 2004, tỷ lệ che phủ của rừng đạt 36,7%.
Tuy nhiên, chất lượng của rừng vẫn chưa được cải thiện. Phần lớn rừng tự nhiên hiện nay
thuộc nhóm rừng nghèo, trong khi đó rừng nguyên sinh chỉ còn 0,75 triệu ha phân bố rải rác.
Những khu rừng tự nhiên ít bị tác động, còn tương đối nguyên sinh và có giá trị cao về đa
dạng sinh học tập trung chủ yếu ở các khu rừng đặc dụng. Riêng rừng trồng có diện tích trên
2 triệu hecta, chiếm tỷ lệ 18% diện tích có rừng. Rừng trồng công nghiệp hiện nay mang tính
thuần loại về cây trồng cao, do vậy tính ĐDSH thấp.
- Trong những năm gần đây, việc khai thác và sử dụng đất ngập nước diễn ra một cách ồ ạt
thiếu quy hoạch, nhiều diện tích rừng ngập mặn và các vùng đất ngập nước khác bị chuyển
thành đất canh tác nông nghiệp hoặc nuôi trồng thuỷ sản, làm cho diện tích đất ngập nước
bị thu hẹp, tài nguyên suy giảm, kéo theo đó là các tai biến xói lở, bồi tụ và môi trường bị ô
nhiễm nghiêm trọng. Diện tích đầm nuôi tôm tăng dần theo thời gian thì diện tích rừng ngập
mặn cũng giảm dần tương ứng. Trước đây, rừng ngập mặn trải dài suốt dọc bờ biển, nhưng
hiện nay diện tích này đã giảm đi rất nhiều, gây suy thoái hệ sinh thái rừng ngập mặn làm
thiệt hại không nhỏ cho vùng đất ngập nước ven biển và cho các ngành kinh tế quan trọng
trong khu vực.
- ĐDSH biển bị khai thác quá mức. Nguồn lợi hải sản suy giảm nhanh: trữ lượng hải sản của
Việt Nam năm 2003 là 3.072.800 tấn, giảm 25% so với năm 1990 (4,1 triệu tấn). Nhiều loài
tôm, cá kinh tế đã bị giảm sút cả về số lượng lẫn chất lượng, thay vào đó thành phần cá tạp
trong sản lượng tăng lên. Danh sách các loài thuỷ hải sản bị đe doạ, có nguy cơ tuyệt chủng

tăng từ 15 loài, năm 1989, lên 135 loài vào năm 1996. Các rạn san hô đang suy giảm về độ
phủ. Hầu hết các rạn san hô đang bị đe doạ, trong đó có 50% ở mức bị đe doạ cao và 17% ở
mức bị đe doạ rất cao. Khai thác quá mức đang bị đánh giá là mối đe doạ lớn cho khoảng
một nửa số rạn san hô. Có nhiều nơi độ phủ giảm đến trên 30%. Điều này cho thấy rằng rạn
san hô đang bị phá huỷ và có chiều hướng suy thoái.
- Hiện nay, nguồn gen (cây trồng, vật nuôi và cây thuốc) đang được các cơ quan, tổ chức
trong nước, quốc tế nghiên cứu, thu thập, khai thác và phát triển thành thương phẩm có giá
trị kinh tế. Tuy nhiên, trong phần lớn trường hợp, chưa có sự chia sẻ lợi ích giữa người sở hữu
và người khai thác, sử dụng nguồn gen, cũng như chia sẻ một phần lợi nhuận thu được để
góp phần duy trì và phát triển tài nguyên. Tri thức bản địa ở nước ta rất phong phú. Tri thức


bản địa đã được thừa nhận như một nguồn tài nguyên quan trọng không kém các nguồn tài
nguyên hữu hình khác. Tuy nhiên, tri thức bản địa cũng đang bị mất mát nhiều theo thời gian
do chưa ý thức được tầm quan trọng của nguồn tài nguyên này. Ngoài ra, cũng như nguồn
gen, việc chia sẻ lợi ích giữa người sở hữu và người khai thác, sử dụng tri thức bản địa không
lúc nào cũng được thực hiện một cách công bằng. Để bảo tồn tri thức bản địa cần có sự phối
hợp giữa người dân, nhà nước và các nhà khoa học. Việc xây dựng các chính sách khai thác,
phát triển và chia sẻ lợi ích nguồn gen và tri thức bản địa chưa được quan tâm đúng mức.
Các nguyên nhân gây suy thoái ĐDSH[7]:
- Chuyển đổi mục đích sử dụng đất thiếu quy hoạch.
- Khai thác và sử dụng không bền vững tài nguyên sinh học.
- Các loài sinh vật ngoại lai xâm lại.
- Ô nhiễm môi trường.
- Cháy rừng.
- Thiên tai.
- Quản lý còn nhiều bất cập.
Như vậy, có thể thấy có nhiều nguyên nhân khác nhau làm cho nguồn tài nguồn tài nguyên
ĐDSH của Việt Nam đã và đang bị suy giảm. Trong đó, nguyên do cơ bản nhất là ĐDSH luôn
thay đổi cùng sự tiến hoá của sinh vật trong quá trình hình thành loài mới, trong sự tham gia

vào hoặc sự mất đi của một loài. Nguyên nhân gây ra các biến đổi đó là do sự biến đổi bất
thường của tự nhiên hoặc do hoạt động của con người.
Để khắc phục tình trạng trên Chính phủ Việt Nam đã đề ra nhiều biện pháp, cùng với các
chính sách kèm theo nhằm bảo vệ tốt hơn tài nguyên ĐDSH của đất nước. Tuy nhiên, thực tế
đang đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến bảo tồn ĐDSH cần phải giải quyết như quan hệ giữa
bảo tồn và phát triển bền vững hoặc tác động của biến đổi khí hậu đối với bảo tồn ĐDSH,…
Trước khi có Luật ĐDSH được ban hành năm 2008, một trong những nguyên nhân chính dẫn
đến tình trạng trên là do còn nhiều tồn tại, bất cập trong các quy định của pháp luật về
ĐDSH[8] gây ra nhiều khó khăn trong quản lý, bảo tồn và phát triển ĐDSH. Sau khi Luật này
được ban hành, có hiệu lực vào ngày 01/07/2009, hệ thống pháp luật về ĐDSH đã được
thống nhất, quy về một mối. Tuy nhiên, nhận thức được bảo tồn ĐDSH là vấn đề phức tạp với
nhiều nội dung khác nhau (nhất là trong điều kiện Luật mới ban hành) nên việc đánh giá hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề này cũng như hiệu quả áp dụng, thi hành
trong giai đoạn hiện nay là một điều cần thiết để hoàn thiện các quy định cũng như đẩy
mạnh việc thực thi trong thực tế.
----------------------------------------------------------------[1] Công ước Đa dạng sinh học là một hiệp ước khung được thông qua tại Hội Nghị thượng
đỉnh về Môi trường và Phát triển bền vững năm 1992 tại Rio de Janero (Brazin), có hiệu lực từ
ngày 29/12/1993. Tính đến tháng 5 năm 2009 đã có 191 quốc gia là thành viên của Công


ước này. Việt Nam đã chính thức gia nhập Công ước vào ngày 16/11/1994. Chính phủ giao Bộ
Tài nguyên và Môi trường làm cơ quan đầu mối, giúp Chính phủ tổ chức thực hiện Công ước
này. Mục tiêu chính của Công ước nhằm bảo tồn ĐDSH; sử dụng bền vững các thành phần
của ĐDSH; và chia sẻ công bằng và hợp lý những lợi ích thu được từ việc sử dụng tài nguyên
sinh học. Để đạt được mục tiêu trên, nội dung cơ bản của Công ước tập trung vào bảo tồn
ĐDSH và sử dụng bền vững các thành phần của ĐDSH; tiếp cận và chuyển giao công nghệ;
quản lý công nghệ sinh học và chia sẻ lợi ích. Ngoài ra, Công ước cũng quy định về các biện
pháp khuyến khích bảo vệ ĐDSH, hợp tác quốc tế; trao đổi thông tin; các nguồn tài chính và
cơ chế tài chính, v.v… trong việc bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH trên phạm vi toàn
cầu. Thực hiện các nội dung trên, các nước cam kết tiến hành một số họat động chính như:

xây dựng hệ thống khu bảo tồn, trong đó tiến hành các biện pháp cần thiết để bảo tồn và
phát triển bền vững các hệ sinh thái; bảo tồn và phát triển bền vững các loài sinh vật và tài
nguyên di truyền; kiểm soát và quản lý rủi ro của sinh vật biến đổi gen đối với môi trường,
ĐDSH và sức khoẻ con người; kiểm soát các loài sinh vật ngoại lai xâm hại môi trường.
[2] Nguyễn Huy Dũng, Vũ Văn Dũng, Bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam - mối liên hệ với
Phát triển bền vững (SD) và biến đổi khí hậu (CC), Hội thảo chuyên đề về Đa dạng sinh học
và Biến đổi khí hậu: Mối liên quan tới Đói nghèo và Phát triển bền vững, Hà Nội, Ngày 22-23
tháng 5, 2007.
[3] Việt Nam còn là một trong 8 "trung tâm giống gốc" của nhiều loại cây trồng, vật nuôi,
trong đó có hàng chục giống gia súc và gia cầm. Đặc biệt các nguồn lúa và khoai, những loài
được coi là có nguồn gốc từ Việt Nam, đang là cơ sở cho việc cải tiến các giống lúa và cây
lương thực trên thế giới. Hệ sinh thái của Việt Nam rất phong phú, bao gồm 11.458 loài động
vật, hơn 21.000 loài thực vật và khoảng 3.000 loài vi sinh vật, trong đó có rất nhiều loài
được sử dụng để cung cấp vật liệu di truyền. Trong 30 năm qua, nhiều loài động thực vật
được bổ sung vào danh sách các loài của Việt Nam như 5 loài thú mới là sao la, mang lớn,
mang Trường Sơn, chà vá chân xám và thỏ vằn Trường Sơn, 3 loài chim mới là khướu vằn đầu
đen, khướu Ngọc Linh và khướu Kon Ka Kinh, khoảng 420 loài cá biển và 7 loài thú biển.
Nhiều loài mới khác thuộc các lớp bò sát, lưỡng cư và động vật không xương sống cũng đã
được mô tả. Về thực vật, tính từ năm 1993 đến năm 2002, các nhà khoa học đã ghi nhận
thêm 2 họ, 19 chi và trên 70 loài mới. Tỷ lệ phát hiện loài mới đặc biệt cao ở họ Lan.
[4] Nguyễn Huy Dũng, Vũ Văn Dũng, Bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam - mối liên hệ với
Phát triển bền vững (SD) và biến đổi khí hậu (CC), tlđd.
[5] />[6] />[7] Bộ Tài nguyên và Môi trường, Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm 2005
[8] Nguyễn Văn Tài, Pháp luật về ĐDSH: Thực trạng và những tồn tại trước khi có Luật ĐDSH,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (Văn phòng Quốc hội) số 17, tháng 10/2008, tr. 6.



×