Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Com luat cac vung bien viet nam cong cu thuc hien chinh sach bien trong tinh hinh moi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.27 KB, 8 trang )

Luật các vùng biển Việt Nam: Công cụ thực hiện chính sách
biển trong tình hình mới

TS Nguyễn Hồng Thao
Ủy ban biến giới quốc gia, Bộ Ngoại Giao
Bài đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 06/2009
Là một quốc gia ven biển, nằm dọc Biển Đông, trải dài qua 16 vĩ độ, (giữa vĩ tuyến 230 và 70
Bắc), Việt Nam có lợi thế và khả năng để tiến ra biển, trở thành một nước mạnh về biển vào
năm 2020 như mục tiêu mà Nghị quyết số 27/NQ-CP, ngày 30/5/2007 về Chiến lược biển Việt
Nam đến năm 2020 đưa ra. Một trong những công cụ quan trọng thực hiện chính sách biển
trong tình hình mới là Luật Các vùng biển Việt Nam, xác định khung pháp lý cơ bản cho việc
tiến ra biển của đất nước, phù hợp với pháp luật và thực tiễn quốc tế, tạo điều kiện phát
triển và xây dựng đất nước. Trong bài viết này, tác giả nêu một số quan điểm về những vấn
đề mới phát sinh trong xây dựng Luật Các vùng biển Việt Nam.
1. Sự cần thiết ban hành Luật Các vùng biển Việt Nam
Vùng biển Việt Nam nằm trên tuyến đường thông thương huyết mạch giữa các đại dương, có
nguồn tài nguyên hết sức đa dạng và phong phú, có vị trí chiến lược quan trọng về quốc
phòng, an ninh, kinh tế, cũng là nơi chứa đựng nhiều vấn đề tranh chấp biên giới - lãnh thổ,
đặc biệt là ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; nhất là khi hoạt động trên biển đang ngày
càng tăng lên, đa dạng, mới mẻ trong một bối cảnh quan hệ quốc tế đan xen và cạnh tranh
gay gắt.
Năm 2009 đánh dấu một bước ngoặt trong sự tiến triển các sự kiện trên Biển Đông. Với quy
định ngày 13/5/2009 là thời hạn cuối cùng để các nước nộp hồ sơ xác định đòi hỏi ranh giới
thềm lục địa của mình, Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (Công ước Luật
biển 1982) đã làm nóng lên cuộc chạy đua khẳng định về mặt pháp lý và sự hiện diện trên
thực tế của các nước ven Biển Đông. Việt Nam là nước đầu tiên trong khu vực Đông Nam á
ra Tuyên bố về vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa bằng Tuyên bố của Chính
phủ về các vùng biển Việt Nam ngày 12/05/1977 (Tuyên bố 1977). Tuyên bố 1977 và Tuyên
bố của Chính phủ năm 1982 về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải (Tuyên bố
1982) và Nghị quyết ngày 23/6/1994 của Quốc hội khoá IX phê chuẩn Công ước Luật biển
1982 là cơ sở pháp lý cơ bản cho việc xây dựng hệ thống pháp luật về biển của Việt Nam và


điều chỉnh các hoạt động trên biển từ trước đến nay. Năm 2003, Quốc hội Việt Nam thông
qua Luật Biên giới quốc gia khẳng định chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Trung Quốc ban hành Luật Lãnh hải và vùng biển tiếp giáp ngày 2/2/1992; Luật về vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa ngày 26/6/1998; Luật Quản lý và sử dụng các vùng biển của
nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ngày 2/10/2001; Quy hoạch chức năng các vùng biển
toàn quốc tháng 12/2002; Quy định về việc quản lý bảo vệ và sử dụng các đảo không có
người ở tháng 7/2003, Quy định về quản lý sản xuất nghề cá “Nam Sa” năm 2004; Quy chế
cho phép sử dụng các đảo không người ở năm 2008, Trung Quốc cũng đơn phương công bố
đường cơ sở quần đảo Hoàng Sa ngày 15/6/1996 vi phạm chủ quyền Việt Nam. Ngày


10/3/2009, Philipin thông qua Luật Cộng hoà RA 9522 xác định đường cơ sở của Philippin và
quản lý Trường Sa và bãi cạn Hoàng Nham theo quy chế đảo. Malaysia cũng đã công bố bản
đồ ranh giới thềm lục địa Malaysia năm 1979.
Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, Việt Nam cần sớm nâng cấp Tuyên bố của Chính phủ về
các vùng biển lên tầm Luật quốc gia. Các văn bản pháp lý hiện hành của Việt Nam mới chỉ
nêu những nguyên tắc chung về xác định phạm vi, chế độ pháp lý của các vùng biển và
thềm lục địa Việt Nam, chưa cụ thể hoá công tác quản lý nhà nước về biển, nên hiệu lực
pháp lý còn thấp. Hơn nữa, Nhà nước ta chưa có một văn bản luật mang tính tổng thể xác
định phạm vi, chế độ pháp lý của từng vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam; quy định các
nội dung quản lý nhà nước về biển; bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và
lợi ích quốc gia trên biển; vấn đề bảo vệ quốc phòng, an ninh, kinh tế - xã hội, giữ gìn và bảo
vệ môi trường biển. Các quy định tiến bộ của luật biển quốc tế, đặc biệt là Công ước Luật
biển 1982 mà nước ta là thành viên từ năm 1994 chưa được nội luật hoá. Tuyên bố 1977 và
Tuyên bố 1982 mới chỉ là văn bản cấp Chính phủ và đã bộc lộ một số hạn chế so với nội
dung của Công ước Luật biển 1982.
Biển là môi trường đồng nhất, đặc thù, liên quan đến hoạt động của nhiều chủ thể, nhiều bộ,
ngành, địa phương khác nhau, mang cả tính đối nội và đối ngoại. Về nguyên tắc, Chính phủ
thống nhất quản lý nhà nước về biển nhưng trên thực tế, công tác quản lý nhà nước về biển
của chúng ta còn nhiều bất cập. Hệ thống văn bản về biển hiện tại mới chỉ có tính cấp thời,

đáp ứng nhiệm vụ trước mắt. Một số quy định không còn phù hợp với các quy định của các
điều ước quốc tế về biển mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Các văn bản do các bộ, ngành
chuẩn bị, từ quan điểm của bộ, ngành, địa phương nên có nhiều quy định chồng chéo, trùng
lặp và thậm chí mâu thuẫn. Năm 2008, Chính phủ đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường thực
hiện chức năng quản lý tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo (1). Tuy nhiên việc ra đời
của Tổng cục Biển và hải đảo khó có thể khắc phục được việc quản lý biển còn chồng chéo,
chưa hiệu quả trên thực tế do chức năng, nhiệm vụ quản lý biển cũng được giao cho nhiều
bộ, ngành khác nhau. Thực tế khách quan đặt ra yêu cầu cần phải sớm xây dựng và hoàn
thiện cơ chế, bộ máy quản lý nhà nước và hệ thống chính sách pháp luật về biển, đảo trên
cơ sở kết hợp hài hoà lợi ích giữa trung ương và địa phương, giữa trước mắt và lâu dài, giữa
kinh tế và quốc phòng, kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ, phát huy tối đa sức
mạnh tổng hợp trong quản lý và phát triển kinh tế biển, tăng cường vai trò và quyền hạn của
các cấp chính quyền địa phương trong quản lý và phát triển kinh tế biển. Để thực hiện các
chủ trương của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên các
vùng biển, đảo Việt Nam, triển khai thực hiện Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, xây
dựng Nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tất yếu chúng ta phải xây dựng và
hoàn thiện một văn bản luật thống nhất, đồng bộ và tương đối hoàn chỉnh về biển của Việt
Nam, tạo thành một khung pháp lý cơ bản của Nhà nước về biển, để điều chỉnh các quan hệ
pháp luật nảy sinh trên biển trong tình hình mới.
2. Các vấn đề chính của Luật Các vùng biển Việt Nam
2.1. Muc đích, nguyên tắc và cơ sở xây dựng Luật Các vùng biển Việt Nam
Luật Các vùng biển Việt Nam đã được tiến hành xây dựng ngay sau khi Việt Nam phê chuẩn
Công ước Luật biển 1982. Nghị quyết ngày 23/6/1994 của Quốc hội phê chuẩn Công ước
Luật biển 1982, đã giao cho “Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ nghiên cứu để có


những sửa đổi, bổ sung cần thiết đối với các quy định liên quan của pháp luật quốc gia cho
phù hợp với Công ước Luật biển 1982, bảo đảm lợi ích của Việt Nam”. Mục đích xây dựng
Luật nhằm nội luật hoá Công ước Luật biển 1982, quy định các nguyên tắc thống nhất để
xác định rõ phạm vi các vùng biển Việt Nam, điều chỉnh đối tượng và các hoạt động trên

biển nhằm bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia, các quyền và lợi
ích chính đáng của Việt Nam trên biển, tăng cường sử dụng, khai thác, bảo vệ và quản lý
nhà nước về biển, khuyến khích sự phát triển và hợp tác quốc tế, giữ gìn hoà bình và ổn định
trong khu vực và trên thế giới. Dự án Luật về Các vùng biển Việt Nam đã được đưa vào
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XI (2002 - 2007), Nghị
quyết về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2009 và bổ sung Chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XII (2007 - 2011).
Luật Các vùng biển Việt Nam được xây dựng tuân theo các nguyên tắc chỉ đạo sau:
- Bảo đảm tính thống nhất và phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước Việt Nam (Luật
Biên giới quốc gia năm 2003, các Tuyên bố 1977 và 1982) và pháp luật quốc tế.
- Thể chế và cụ thể hoá chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về bảo vệ đất nước và
phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là trong việc quản lý và phát triển các vùng biển trong tình
hình mới (2).
- Nội luật hoá các quy định cơ bản của Công ước Luật biển 1982 và các điều ước quốc tế Việt
Nam đã ký kết với các bên liên quan cho phù hợp với tình hình, đặc điểm cụ thể của các
vùng biển Việt Nam.
- Tổng kết kinh nghiệm quản lý, bảo vệ vùng biển, đảo và quá trình đổi mới việc quản lý, bảo
vệ biên giới lãnh thổ quốc gia trong thời gian qua, cũng như tham khảo và tiếp thu những
kinh nghiệm tốt về quản lý, bảo vệ vùng biển và luật pháp của các nước tiên tiến.
Luật Các vùng biển của Việt Nam sẽ tạo cơ sở pháp lý cao trong việc xác định phạm vi và
chế độ pháp lý của các vùng biển Việt Nam, nhằm bảo vệ chủ quyền và các quyền chủ
quyền, quyền tài phán quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh, trật tự, phát triển kinh tế - xã
hội, mở rộng quan hệ quốc tế trên các vùng biển Việt Nam, tạo môi trường hoà bình và ổn
định trong khu vực.
2.2. Phạm vi điều chỉnh của Luật Các vùng biển Việt Nam
Công ước Luật biển 1982 và các điều ước quốc tế liên quan đã mở rộng quyền và nghĩa vụ
của các quốc gia không chỉ trong các vùng biển tiếp giáp mà cả ở biển cả, vùng đáy biển di
sản chung của loài người cũng như tại vùng biển của các quốc gia khác. Với mục đích và tính
chất như một luật khung của hệ thống pháp luật về biển của Việt Nam, Luật Các vùng biển
Việt Nam chủ yếu điều chỉnh các hoạt động trong vùng biển Việt Nam, phù hợp với tên gọi

của Luật. Đối với hoạt động của cá nhân, tổ chức và tàu thuyền Việt Nam ở vùng biển nằm
ngoài phạm vi vùng biển Việt Nam, dự thảo Luật nên quy định nguyên tắc theo hướng Nhà
nước bảo hộ hoạt động nêu trên và được thể hiện trong các điều về nội dung quản lý nhà
nước về biển. Luật này cũng khẳng định một lần nữa lập trường nhất quán của hệ thống
pháp luật và quan điểm của Việt Nam về chủ quyền lãnh thổ đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa. Điều này là phù hợp với Hiến pháp năm 1992, Luật Biên giới quốc gia năm


2003, các Tuyên bố năm 1977 và 1982 cũng như Nghị quyết của Quốc hội năm 1994 phê
chuẩn Công ước Luật biển 1982.

Điều 76 Công ước Luật Biển xác định thềm lục địa của một quốc gia ven biển là đáy biển và
lòng đất của phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ quốc gia ven biển đến mép ngoài của rìa lục
địa. Nếu rìa lục địa nhỏ hơn 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải
của quốc gia ven biển, thì thềm lục địa của quốc gia ven biển là 200 hải lý. Nếu rìa lục địa
của quốc gia ven biển rộng hơn 200 hải lý, thì quốc gia đó có quyền mở rộng thềm lục địa
của mình ra quá 200 hải lý, nhưng tối đa không quá 350 hải lý.
Theo khoản 8 của Điều này, để xác định thềm lục địa vượt quá 200 hải lý, quốc gia ven biển
phải nộp báo cáo lên ủy ban Ranh giới thềm lục địa với đầy đủ các thông tin đo đạc khảo sát,
khoa học, kỹ thuật theo bản hướng dẫn của ủy ban để chứng minh. Các quốc gia ven biển có
thể tự nộp báo cáo toàn diện hoặc báo cáo từng phần và cũng có thể phối hợp với nhau trình
báo cáo chung cho ủy ban. Đối với các quốc gia ven biển đã trở thành thành viên Công ước
trước ngày 13/5/1999, trong đó có Việt Nam, thì thời hạn cuối cùng để nộp báo cáo quốc gia
là ngày 13/5/2009.
Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát toàn diện về tình hình địa chất, địa mạo của thềm lục địa
Việt Nam, các cơ quan hữu quan của nước ta đã xây dựng báo cáo quốc gia về ranh giới
ngoài thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Bắc và phối hợp với Malaysia xây dựng báo cáo
chung về khu vực phía Nam Biển Đông và đã trình ủy ban Ranh giới thềm lục địa LHQ đúng
thời hạn quy định. (BT)
Để xác định rõ phạm vi các vùng biển Việt Nam, đáp ứng cho việc thực thi các hoạt động và

quản lý biển hiện nay của nước ta, vấn đề đầu tiên là cần quy định cụ thể tọa độ vị trí của
đường cơ sở. Tuyên bố 1982 đã đưa ra những nguyên tắc và hệ thống 12 điểm cơ sở. Tuyên
bố này đã đóng góp một vai trò lịch sử quan trọng trong quá trình xác lập và bảo vệ chủ
quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển và thềm lục địa Việt
Nam cũng như việc sử dụng và khai tác các vùng biển đó phục vụ phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Tuy nhiên, có một số hạn chế: 1) điểm đầu trong Vịnh Bắc Bộ và điểm cuối
cùng trong Vịnh Thái Lan chưa được xác định do chưa giải quyết dứt điểm vấn đề phân định
biển với Trung Quốc và Cămpuchia; 2) một số điểm cơ sở còn cách xa đất liền; 3) chưa quy
định cụ thể đường cơ sở các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Văn bản này được
ban hành trước khi Công ước Luật biển 1982 có hiệu lực và Việt Nam chưa phải là thành viên
của Công ước. Đến nay tình hình đã có nhiều thay đổi. Việt Nam và Trung Quốc đã ký Hiệp
ước về phân định lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa và Hiệp ước về hợp tác nghề
cá trong Vịnh Bắc Bộ ngày 30/12/2000. Để quản lý tốt các vùng biển và tài nguyên biển
trong Vịnh Bắc Bộ cần thiết phải sớm bổ sung đoạn đường cơ sở trong Vịnh. Nghị quyết của
Quốc hội, ngày 23/6/1994 phê chuẩn Công ước Luật biển 1982 đã giao cho Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội và Chính phủ nhiệm vụ nghiên cứu để có những sửa đổi bổ sung cần thiết đối
với các quy định liên quan của pháp luật quốc gia cho phù hợp với Công ước Luật biển 1982.
Ngày 7/5/2009, Chính phủ Việt Nam đã trình ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên hợp
quốc (LHQ ) báo cáo quốc gia xác định ranh giới thềm lục địa nằm ngoài phạm vi 200 hải lý
tính từ đường cơ sở của Việt Nam. Trước đó, ngày 6/5/2009, Việt Nam và Malaysia cũng đã
phối hợp trình ủy ban Ranh giới thềm lục địa báo cáo chung về khu vực thềm lục địa kéo dài


liên quan đến hai nước. Việc trình các báo cáo này là để thực hiện các quy định liên quan
của Công ước biển năm 1982.
2.3. Cơ chế quản lý biển
Môi trường biển là đồng nhất, không chia cắt nhưng đồng thời lại là nơi tập trung nhiều hoạt
động biển đan chéo với những lợi ích ngành, địa phương cục bộ, thậm chí mâu thuẫn. Trong
khi có nhận thức chung là Chính phủ cần phải thống nhất quản lý nhà nước đối với các vùng
biển Việt Nam, lại có nhiều ý kiến trái chiều về thẩm quyền, phân cấp và cơ quan quản lý

nhà nước về biển.
Trên tinh thần đổi mới, cải cách hành chính, phân cấp một cách mạnh mẽ cho các địa
phương, một số ý kiến cho rằng Chính phủ nên giao quyền về quản lý, khai thác, sử dụng đối
với một số lĩnh vực và trong phạm vi nhất định ở nội thuỷ cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương ven biển, tạo điều kiện cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tham gia
quản lý nhà nước về biển. Trong một số văn bản luật hiện hành đã có nhiều quy định cụ thể
quy định việc quản lý nhà nước về biển thuộc lĩnh vực chuyên ngành. Do vậy, trong dự thảo
Luật cần cân nhắc, xem xét sao cho đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Cũng
có ý kiến cho rằng nên phân định cụ thể các vùng biển cho các địa phương quản lý. Các nước
như Mỹ, Australia cũng giao cho các bang quản lý một số vùng biển. Tuy nhiên cần lưu ý, các
vùng biển không chỉ là đối tượng điều chỉnh của nội luật mà còn cả các điều ước quốc tế,
đồng thời liên quan đến nhiều lĩnh vực trên cùng một không gian quản lý, cho nên việc giao
quyền quản lý cho các địa phương, đặc biệt là trên lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa, dễ dẫn đến tính địa phương chủ nghĩa trong quản lý, cản trở việc phát triển kinh tế xã hội đối với môi trường biển của cả nước. Theo Tuyên bố năm 1977 và 1982 thì nội thuỷ tại
một số vùng khá rộng và xa bờ trong khi năng lực quản lý, cơ sở hậu cần của các địa phương
còn yếu. Vấn đề giao quyền cụ thể như thế nào cho cấp tỉnh ở trong vùng nội thủy sẽ cần
được xem xét kỹ và giải quyết đồng bộ cùng với việc xác định cơ cấu tổ chức, chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan tham gia vào việc quản lý nhà nước về biển. Cơ cấu
tổ chức quản lý biển của Việt Nam hiện nay khá phân tán, thiếu hiệu quả. Về nguyên tắc,
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về biển nhưng các chức năng cụ thể được giao cho
các ngành. Hiện có tới 15 Bộ, ngành liên quan trực tiếp và có chức năng về quản lý biển.
Nhiều lực lượng hoạt động trên biển với các chức năng nhiệm vụ chồng chéo và mâu thuẫn
nhau, nhưng lại chưa có một cơ quan chuyên trách nào giúp Chính phủ trong xây dựng, quản
lý thống nhất các hoạt động trên biển đang ngày càng đa dạng và phức tạp. Việc thiếu quy
hoạch tổng thể dễ dẫn đến sự xung đột lợi ích giữa các ngành hoặc không tận dụng được
tiềm năng của biển để phát triển kinh tế, sự kết hợp giữa phát triển kinh tế biển và quốc
phòng - an ninh, bảo vệ tài nguyên môi trường, sự kết hợp giữa các yêu cầu đối nội và đối
ngoại cũng như tham gia giải quyết các vấn đề biển chung mang tính toàn cầu và khu vực.
Để khắc phục điểm này, trên cơ sở tiếp thu ý kiến của Quốc hội khoá XI, năm 2008, Chính
phủ đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường thành lập Tổng cục Biển và hải đảo Việt Nam, cơ

quan chuyên môn thực hiện chức năng quản lý tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo
(3). Tuy nhiên đây mới chỉ là bước đi đầu tiên theo hướng kiện toàn cơ chế quản lý biển.
Chức năng quản lý biển của Tổng cục Biển và hải đảo được quy định khá rộng, mang tính
tổng hợp, nhưng trên thực tế cơ quan này còn phải nỗ lực rất nhiều để thực hiện chức năng
chính của mình là điều tra và quản lý tài nguyên môi trường biển. Vấn đề quản lý tổng hợp
điều hành thống nhất các hoạt động trên biển theo một quy hoạch, chiến lược phát triển
biển chung, bao hàm cả tính đối nội và đối ngoại đã vượt quá khuôn khổ của một cơ quan


Tổng cục của một ngành.
Quốc hội khoá XI cho rằng, cần thiết phải có một cơ chế hữu hiệu, đủ mạnh để tổ chức phối
hợp thống nhất giữa các cơ quan trong việc quản lý, khai thác sử dụng có hiệu quả, bền
vững các nguồn tài nguyên biển ở nước ta. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều ý kiến đề nghị xem
xét các phương án:
- Thành lập một cơ quan tham mưu tổng hợp do một đồng chí Phó Thủ tướng Chính phủ trực
tiếp phụ trách, có thẩm quyền thực hiện một số nội dung quản lý nhà nước và điều phối hoạt
động của các bộ, ngành liên quan; các bộ, ngành trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của
mình có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về biển theo chuyên ngành; hoặc
- Thành lập một cơ quan ngang bộ hoặc Uỷ ban quốc gia về biển giúp Chính phủ thực hiện
quản lý nhà nước về biển.
Kiện toàn cơ quan quản lý biển thống nhất còn liên quan đến vấn đề phân cấp lực lượng
kiểm tra, kiểm soát trên biển. Hiện tại tất cả các ngành chuyên môn đều có lực lượng tàu
thuyền kiểm tra, kiểm soát riêng của mình trên biển như Kiểm ngư thuộc Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, Thanh tra Hải quan thuộc Bộ Tài chính. Nhiệm vụ kiểm tra tổng hợp
được pháp luật hiện hành giao cho lực lượng Hải quân, Bộ đội Biên phòng và Cảnh sát biển.
Hiện nay, đa số đều nhất trí quy định trong Luật, lực lượng Hải quân có chức năng chính là
bảo vệ chủ quyền biển đảo, không trực tiếp tuần tra kiểm soát, duy trì trật tự an ninh, bảo
đảm tuân thủ pháp luật trên biển mà chỉ hỗ trợ các lực lượng có thẩm quyền tuần tra kiểm
soát trên biển thực hiện nhiệm vụ khi được yêu cầu.
Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng, ngày 28/3/1997 quy định Bộ đội Biên phòng có nhiệm vụ tuần

tra kiểm soát bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia trên biển từ ranh giới ngoài của lãnh hải trở
vào. Pháp lệnh Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam, số 03/2008/PL-UBTVQH12, ngày
26/1/2008 quy định Cảnh sát biển chủ trì thực hiện nhiệm vụ tuần tra kiểm soát biển chung
trên toàn bộ các vùng biển Việt Nam. Như vậy, đã có sự chồng lấn khu vực tuần tra kiểm
soát giữa hai lực lượng trên vùng nội thủy và lãnh hải. Trong thời gian Cảnh sát biển đang
xây dựng lực lượng, chưa đủ sức vươn ra, vùng nội thuỷ của Việt Nam lại khá rộng thì việc
tồn tại mâu thuẫn chồng lấn trong pháp luật ảnh hưởng chưa nhiều. Song đã đến lúc cần
khắc phục điểm yếu này, cần sớm phân biệt rõ khu vực tuần tra kiểm soát của hai lực lượng.
Bộ đội Biên phòng chủ trì thực hiện nhiệm vụ tuần tra kiểm soát biển từ ranh giới ngoài lãnh
hải trở vào và Cảnh sát biển chủ trì thực hiện nhiệm vụ tuần tra kiểm soát biển từ ranh giới
ngoài lãnh hải trở ra. Từng bước đầu tư, xây dựng Cảnh sát biển thành một lực lượng mạnh
đa chức năng, chủ trì thực hiện nhiệm vụ tuần tra kiểm soát trên toàn bộ các vùng biển Việt
Nam trong tương lai. Mặt khác, cũng cần đặt vấn đề tách lực lượng Cảnh sát biển khỏi Bộ
Quốc phòng. Xu hướng trên thế giới, để giữ gìn hình ảnh hoà bình, giải quyết các vi phạm
mang tính hành chính, dân sự, lực lượng cảnh sát biển thường được tổ chức trực thuộc một
bộ dân sự. Cảnh sát biển của Mỹ thuộc Bộ Giao thông vận tải, của Trung Quốc thuộc Cục Hải
dương Quốc gia. Trên một vùng biển phức tạp và nhạy cảm như Biển Đông, Cảnh sát biển
Việt Nam nên từng bước chuyển thành lực lượng dân sự và trực thuộc cơ quan ngang bộ
hoặc Uỷ ban quốc gia về biển. Mô hình tổ chức Cục Hải dương Quốc gia Trung Quốc có nhiều
ưu điểm cho chúng ta rút kinh nghiệm xây dựng một cơ quản quản lý nhà nước về biển cho
phù hợp.


2.4. Quyền sử dụng biển và vấn đề phát triển kinh tế biển
Với sự gia tăng các hoạt động sử dụng biển, việc quy định chế độ về quyền sử dụng biển là
cần thiết, tạo cơ chế rõ ràng khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư vào việc khai thác, sử
dụng tài nguyên biển, phát triển kinh tế biển. Các quy định hiện nay về sử dụng biển theo
từng lĩnh vực chuyên ngành đã dẫn đến việc hoặc là buông lỏng quản lý, hoặc là xung đột lợi
ích giữa các ngành, ví dụ như giữa đánh cá và khai thác dầu khí, giữa nhu cầu quốc phòng
và phát triển kinh tế... Luật Các vùng biển Việt Nam cần quy định cụ thể, chi tiết hơn về

quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức sử dụng biển; xác định rõ trách nhiệm, thẩm quyền
của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý các hoạt động sử dụng biển. Tuy nhiên,
do là một luật khung và do vấn đề phức tạp, liên quan đến nhiều văn bản pháp luật hiện
hành nên Luật Các vùng biển Việt Nam không thể quy định đầy đủ ngay các hoạt động cụ
thể mà chỉ nêu ra các nguyên tắc chung. Chính phủ sẽ căn cứ tình hình thực tế để có quy
định cụ thể, đúc rút kinh nghiệm qua hoạt động thực tiễn, từ đó sẽ từng bước xây dựng và
hoàn thiện chế định này tương tự như các quy định của Luật Đất đai, có tính đến đặc thù
riêng của môi trường biển.
2.5. Quan hệ giữa quyền chủ quyền và tài phán của quốc gia ven biển và quyền tự
do biển cả của tàu thuyền nước ngoài
Vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa là những vùng biển siêu đặc thù, trong đó quốc gia
ven biển có các quyền chủ quyền về mặt kinh tế, về tài nguyên và các quyền tài phán về lắp
đặt và sửa chữa các đảo nhân tạo, các công trình thiết bị trên biển, về nghiên cứu khoa học
biển và bảo vệ môi trường biển, còn các quốc gia khác có quyền tự do bay, tự do hàng hải,
tự do đặt dây cáp và ông dẫn ngầm. Trong khi thực hiện các quyền của mình, các quốc gia
phải tôn trọng các quyền của quốc gia ven biển và ngược lại. Tuy nhiên, Công ước Luật biển
1982 không quy định rõ một số điểm, đặc biệt là hoạt động huấn luyện và diễn tập quân sự
của tàu thuyền quân sự nước ngoài. Vụ đụng độ giữa tàu thám sát của Mỹ với 5 tàu ngư
chính của Trung Quốc trong Biển Đông ngày 8/3/2009 đã gây ra những tranh cãi. Phía Trung
Quốc cho rằng các hoạt động thu thập tin tức của tàu Mỹ là vi phạm quy chế vùng đặc
quyền kinh tế của Trung Quốc, trong khi Mỹ cho rằng tàu thuyền quân sự có quyền miễn trừ
và được tự do hàng hải trong vùng biển này. Hoạt động của tàu thuyền quân sự nước ngoài
trong vùng biển quốc gia ven biển, nhất là các quốc gia đang phát triển như Việt Nam luôn
là một vấn đề nhạy cảm có ảnh hưởng trực tiếp đến độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
Một số người có quan điểm cứng rắn cho rằng, Công ước Luật biển 1982 không đề cập đến
việc cấm các hoạt động diễn tập, huấn luyện quân sự trên vùng tiếp giáp và vùng đặc quyền
kinh tế của quốc gia ven biển, nhưng vì tính chất nhạy cảm đối với việc bảo vệ an ninh quốc phòng của nước ta, đề nghị có quy định cấm các hoạt động này. Nghị định số 30/NNĐCP ngày 29/1/1980 của Chính phủ về hoạt động của tàu thuyền nước ngoài trong các vùng
biển Việt Nam quy định, tàu thuyền quân sự nước ngoài khi đi vào vùng tiếp giáp và lãnh hải
Việt Nam phải xin phép. Quy định này được ban hành trước khi Việt Nam phê chuẩn Công
ước Luật biển 1982 và không phù hợp với nội dung của Công ước, vì vậy chúng ta nên điều

chỉnh tàu thuyền quân sự nước ngoài được hưởng quyền qua lại không gây hại trong lãnh hải
Việt Nam không phải xin phép để tạo quan hệ tốt với các nước. Đối với các hoạt động diễn
tập, huấn luyện quân sự trên vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển, Công ước Luật
biển 1982 không có quy định cấm, nhưng vì tính chất nhạy cảm đối với việc bảo vệ an ninh,
quốc phòng của Việt Nam, cần có quy định cấm các hoạt động nói trên. Tuy nhiên, cũng cần
để ngỏ khả năng chúng ta có thể có các hoạt động hợp tác với các nước trong tương lai về


các hoạt động này.
Xây dựng Luật Các vùng biển Việt Nam là một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp. Quá trình xây
dựng khá dài và phần lớn các vấn đề đều đã có giải đáp thoả đáng. Tuy nhiên, những vấn đề
lớn như phạm vi điều chỉnh, cơ chế quản lý biển vẫn còn có nhiều ý kiến. Đây cũng là việc
bình thường, vì cơ chế quản lý biển đang trong quá trình hoàn thiện và không có một hình
mẫu nào riêng biệt cho từng nước. Luật Các vùng biển Việt Nam cần sớm hoàn thiện ở mức
cao nhất và sớm được thông qua.
Xây dựng Luật Các vùng biển Việt Nam là bước đi cần thiết phục vụ quá trình tiến ra biển, là
công cụ để thực hiện chính sách biển trong tình hình mới nhằm mục tiêu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Luật Các vùng biển Việt Nam sẽ tạo cơ sở pháp lý
vững chắc cho các bước tiến của Việt Nam chinh phục biển và đẩy mạnh hợp tác quốc tế
trên biển, vì một nước Việt Nam mạnh về biển trong tương lai gần.
--------------------------------------------------------

(1) Nghị định số 25/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 4/3/2008.
(2) Nghị quyết của Quốc hội phê chuẩn Công ước Luật biển 1982; Nghị quyết Đại hội lần thứ
IX, Đại hội lần thứ X của Đảng; Các Nghị quyết của Đảng, Chỉ thị của nhà nước về phát triển
kinh tế biển và đảm bảo an ninh quốc phòng, nhất là Nghị quyết số 27/NQ-CP, ngày
30/5/2007 về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020.
(3) Nghị định số 25/2008/NĐ-CP của Chính phủ, ngày 4/3/2008.




×