Tải bản đầy đủ (.ppt) (24 trang)

Phương pháp nghiên cứu khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 24 trang )

Phương pháp nghiên cứu khoa học


Mục đích môn học:
- Nắm vững kiến thức cơ bản nhất về khoa học, nghiên cứu
khoa học và phương pháp nghiên cứu khoa học. Bước đầu
lên kế hoạch thực hiên một nghiên cứu khoa học.
- Tự nâng cao trình độ, đặc biệt là kĩ năng nghiên cứu sử
dụng trong nghề nghiệp (kĩ năng phát hiện vấn đề đặt tên
đề tài, tìm tài liệu và chọn lọc, bố trí nghiệm, thu thập
thông tin và xử lý số liệu bằng một số chương trình, trình
bày kết quả thí nghiệm dạng văn viết, dạng hình (các loại
biểu đồ), tóm tắt kết quả thí nghiệm, rèn kĩ năng thuyết
trình báo cáo ….)


Sách tham khảo:
• Vũ Cao Đàm. Phương Pháp Luận Nghiên Cứu Khoa Học. Nxb
Khoa học-Kỹ thuật (1999)
• Phạm Viết Vượng. Phương Pháp Luận Nghiên Cứu Khoa Học.
Nxb Đại học Quốc gia Hà nội (2004)
• Vanhikov A.V., Babuskin G.A. Giáo trình môn phương pháp và
phương tiện nghiên cứu khoa học, tác gỉa Nhà xuất bản trường
đại học tổng hợp quốc gia Lomonosov MGU (http://
hi-edu.ru/e-books/xbook331/01/part-002.htm#i14)
• W.L. Newman. Social Research Methods. Prentice Hall, Inc
(2006)


CHƯƠNG I. KHÁI NIỆM KHOA HỌC VÀ NGHIÊN
CỨU KHOA HỌC


1.1. Khoa học
a. Khái niệm
b. Ý nghĩa của khoa học
1.2. Nghiên cứu khoa học
1.3. Đề tài nghiên cứu khoa học
a. Một số khái niệm
b. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
c. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu
1.4. Đạo đức trong nghiên cứu khoa học
Thảo luận và phân công nhiệm vụ


Pic. 1. Hạm đội của người La Mã
đang thiêu đốt hạm đội của kẻ thù
Ngọn lửa Hy Lạp - Vũ khí hóa học
bí ẩn

Một số phát minh cổ đại vượt xa hiểu biết
của con người hiện đại
Pic. 2. Bức tranh miêu tả cách
Archimedes – Nhà toán học Hy Lạp
(trước công nguyên) đốt cháy những
chiến hạm của kẻ thù bằng những tấm
gương cầu parabol.


1.1. Khoa học
a. Khái niệm

+ Khoa học là một hoạt động đặc biệt của con người nhằm nhận được

những hiểu biết, những tri thức về hiện thực xung quanh con người
(về tự nhiên, xã hội, và tư duy).
+ Những tri thức này là sản phẩm chủ yếu của hoạt động khoa học,
chúng có thể mới hơn thay thế dần những tri thức cũ không còn phù
hợp. Hoạt động khoa học thì tương ứng với từng môi trường hoạt
động của con người (như kinh tế, chính trị, lịch sử, tự nhiên, hay hoạt
động thường ngày); tương ứng đối với từng loại dụng cụ; cách bố trí
dụng cụ và phương pháp đã sử dụng nhằm tạo ra những sản phẩm
khoa học – những tri thức, những sản phẩm này được ứng dụng tiên
quyết là trong sáng tạo tư liệu sản suất.
+ Hoạt động khoa học còn phải là nguồn gốc của các giá trị đạo đức.


Khoa học bao gồm một hệ thống tri thức về qui luật của vật
chất và sự vận động của vật chất, những qui luật của tự nhiên, xã
hội và tư duy. Hệ thống tri thức này hình thành trong lịch sử và
không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội.
Phân biệt ra hai hệ thống tri thức: Tri thức kinh nghiệm và
tri thức khoa học.


Tri thức kinh nghiệm: Là những hiểu biết được tích lũy qua
hoạt động sống hàng ngày trong mối quan hệ giữa con người
với con người và giữa con người với thiên nhiên.
+ Qúa trình này giúp con người hiểu biết về sự vật, về cách
cải tạo thiên nhiên và hình thành mối quan hệ giữa những con
người trong xã hội.
+ Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm chưa thực sự đi sâu vào bản
chất, chưa thấy được hết các thuộc tính của sự vật và mối
quan hệ bên trong giữa sự vật và con người.



Tri thức khoa học: là những hiểu biết được tích lũy một cách
có hệ thống nhờ hoạt động NCKH, các hoạt động này có mục
tiêu xác định và sử dụng phương pháp khoa học.
+ Tri thức khoa học dựa trên kết quả quan sát, thu thập được
qua những thí nghiệm và qua các sự kiện xảy ra ngẫu nhiên
trong hoạt động xã hội, trong tự nhiên.
+Tri thức khoa học được tổ chức trong khuôn khổ các ngành
và bộ môn khoa học như: triết học, sử học, kinh tế học, toán
học, sinh học, hóa học ...


b. Ý nghĩa của khoa học
KH là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội, làm cho con người ngày
càng văn minh hơn, nhân ái hơn, sống tốt hơn và vững tin hơn vào
chính bản thân mình trong cuộc sống.
Cụ thể đó là:
 - Con người hiểu được tự nhiên, nắm được các qui luật biến đổi,
chuyển hóa của vật chất, chinh phục tự nhiên theo qui luật của nó.
  - Con người nắm được các qui luật vận động của chính xã hội mình
đang sống và vận dụng chúng để thúc đẩy xã hội ấy phát triển nhanh
chóng hơn.
  - Con người ngày càng có ý thức, càng thận trọng hơn trong việc
nhận thức KH: không vội vã, không ngộ nhận, không chủ quan, tiến
vững chắc đến chân lí của tự nhiên.
  - Khoa học chân chính chống lại những quan điểm sai trái (mê tín dị
đoan, phân biệt chủng tộc...).
  - Khoa học làm giảm nhẹ lao động của con người, cải thiện chất
lượng cuộc sống.



1.2. Nghiên cứu khoa học
a. Một số khái niệm

Trước tiên ta hiểu thế nào là nghiên cứu?
Nghiên cứu là một công việc mang tính chất tìm tòi, xem xét
cặn kẽ một vấn đề nào đó để bản thân nhận thức nó hoặc để
giảng giải cho người khác rõ.
Ví dụ: nghiên cứu một bài toán, nghiên cứu một câu nói để hiểu
nó, nghiên cứu bảng giờ tàu để tìm chuyến đi thích hợp cho
mình.
Vậy nghiên cứu khoa học là gì?
Là một hoạt động tìm kiếm, xem xét, điều tra, hoặc thử nghiệm
một cách có phương pháp. Dựa trên những số liệu, tài liệu, kiến
thức đạt được từ các thí nghiệm NCKH để phát hiện ra những
cái mới về bản chất sự vật, về thế giới tự nhiên và xã hội, và để
sáng tạo phương pháp, phương tiện kĩ thuật mới cao hơn, giá trị
hơn.


Ví dụ để so sánh, ở bậc đại học, sinh viên có thể tự thực hiện những
nhiệm vụ học tập mà thầy giáo cho, kiểu như nghiên cứu sự vận hành một
máy móc, nghiên cứu quá trình lọc dầu (điều này đã được sáng tỏ trước
đó) – đó là quá trình nghiên cứu, nhưng nếu người sinh viên nghiên cứu
bằng những phương pháp cụ thể với mục đích tìm ra 1 cách vận hành máy
mới nhằm tiết kiệm nhiên liệu hơn, quá trình đó được xem là nghiên cứu
khoa học.

Theo các em phương pháp lĩnh hội tri thức chủ yếu của sinh

viên đại học là gì?
Sinh viên tiếp nhận, lĩnh hội tri thức chủ yếu qua quá trình nghiên cứu
dưới sự hướng dẫn của giảng viên


1.3. Đề tài nghiên cứu khoa học

Đề tài là một hình thức tổ chức NCKH, trong đó có một hay một
nhóm người cùng thực hiện một nhiệm vụ nghiên cứu.


Một số hình thức tổ chức nghiên cứu khác không hoàn toàn mang
tính chất nghiên cứu khoa hoc, chẳng hạn như: Chương trình, dự
án, đề án.



Sự khác biệt giữa các hình thức nghiên cứu: chương
trình, dự án, đề án so với đề tài như sau:
Đề tài:  được thực hiện để trả lời những câu hỏi mang tính học thuật,
có thể chưa để ý đến việc ứng dụng trong hoạt động thực tế.
Dự án: được thực hiện nhằm vào mục đích ứng dụng, có xác định cụ
thể hiệu quả về kinh tế và xã hội. Dự án có tính ứng dụng cao, có ràng
buộc thời gian và nguồn lực.
Chương trình: là một nhóm đề tài hoặc dự án được tập hợp theo một
mục đích xác định. Giữa chúng có tính độc lập tương đối cao. Tiến độ
thực hiện đề tài, dự án trong chương trình không nhất thiết phải giống
nhau, nhưng nội dung của chương trình thì phải đồng bộ.
Đề án: là loại văn kiện, được xây dựng để trình cấp quản lý cao hơn,
hoặc gởi cho một cơ quan tài trợ để xin thực hiện một công việc nào đó

như: thành lập một tổ chức; tài trợ cho một hoạt động xã hội, ... Sau
khi đề án được phê chuẩn, sẽ hình thành những chương trình, dự án, đề
tài theo yêu cầu của đề án.


b. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: là bản chất của sự vật hay hiện tượng cần xem xét
và làm rõ trong nhiệm vụ nghiên cứu.
Khách thể nghiên cứu: là hệ thống sự vật tồn tại khách quan trong các mối
liên hệ mà người nghiên cứu cần khám phá, là vật mang đối tượng nghiên
cứu
Đối tượng khảo sát là một bộ phận đủ đại diện của khách thể nghiên cứu
được người nghiên cứu lựa chọn để xem xét.
Ví dụ về đề tài :” Xác định biện pháp hạn chế rủi ro của các ngân hàng
thương mại quốc doanh”
Đối tượng nghiên cứu

Khách thể nghiên cứu

Đối tượng khảo sát

biện pháp hạn chế rủi ngân hàng thương mại ngân hàng thương mại
ro
quốc doanh
quốc doanh ở Hà Nội


Phạm vi nghiên cứu: đối tượng nghiên cứu được khảo sát trong trong
phạm vi nhất định về mặt thời gian, không gian và lãnh vực nghiên cứu.



c. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu
Thí dụ: phân biệt giữa mục đích và mục tiêu của đề tài sau đây
"Ảnh hưởng của phân N đến năng suất lúa Hè thu trồng trên đất phù
sa ven sông ở Đồng Bằng Sông Cửu Long".

Mục đích của đề tài: Để tăng thu nhập cho người nông dân trồng lúa.
Mục tiêu của đề tài:
+Tìm ra được liều lượng bón phân N tối hảo cho lúa Hè thu.
+Xác định được thời điểm và cách bón phân N thích hợp cho
lúa Hè thu.


Mục đích

Mục tiêu

- Là hướng đến một điều gì hay một
công việc nào đó trong nghiên cứu mà
người nghiên cứu mong muốn để hoàn
thành, nhưng thường thì mục đích khó
có thể đo lường hay định lượng.

- Là thực hiện điều gì hoặc hoạt động
nào đó cụ thể, rõ ràng mà người
nghiên cứu sẽ hoàn thành theo kế
hoạch đã đặt ra trong nghiên cứu.

- Nói cách khác, mục đích là sự sắp đặt - Nói cách khác, mục tiêu là nền tảng
công việc hay điều gì đó được đưa ra

hoạt động của đề tài và làm cơ sở
trong nghiên cứu.
cho việc đánh giá kế hoạch nghiên
cứu đã đưa ra, và là điều mà kết quả
phải đạt được.
- Mục đích trả lời câu hỏi "nhằm vào
việc gì?", hoặc "để phục vụ cho điều
gì?" và mang ý nghĩa thực tiển của
nghiên cứu, nhắm đến đối tượng phục
vụ sản xuất, nghiên cứu.

- Mục tiêu trả lời câu hỏi “làm cái
gì?”


1.4. Đạo đức trong nghiên cứu khoa học
Những người nghiên cứu khoa học tạo nên một cộng đồng xã hội,
người ta gọi đó là công đồng khoa học.
Nhiều khía cạnh liên quan đến đạo đức của người nghiên cứu như:
-Lựa chọn mục tiêu nghiên cứu đảm bảo những mục tiêu đó không đi
ngược lại các truyền thống đạo đức của nhân loại.
-Đạo đức trong xử lý kết quả nghiên cứu, đảm bảo tính trung thực khoa học
đối với kết quả nghiên cứu, trung thực với bản thân và trung thực với tài
sản khoa học chung của cộng đồng. (không được đạo văn, nêu khống số
liệu…)
-Đạo đức trong sử dụng kết quả nghiên cứu, đảm bảo việc sử dụng kết quả
nghiên cứu không nhằm vào những mục đích phi nhân bản.
-Thực hiện nguyên tắc chung về chuẩn mực của cộng đồng khoa học (viết
tắt là CUDOS).



Thế nào là nguyên tắc chung về chuẩn mực của cộng
đồng khoa học (CUDOS)
+ Tính cộng đồng: Kết quả nghiên cứu là tài sản chung của toàn thể cộng
đồng khoa học. Các thành viên cộng đồng được tự do trao đổi thông tin
khoa học. Tuy nhiên điều này không hề mâu thuẫn với một nguyên tắc rất
quan trọng là phải tôn trọng quyền tác giả, thể hiện ở nguyên tắc trích dẫn
đã nêu trong phần trình bày kết quả.
+ Tính phổ biến có nghĩa là tất cả các nhà nghiên cứu có thể đóng góp phần
trí tuệ của mình vào sự phát triển khoa học, không phân biệt chủng tộc,
màu da, tín ngưỡng hay chính trị.
+ Tính không vị lợi: là người nghiên cứu không để kết quả nghiên cứu của
mình vướng bận vào những mục đích tín ngưỡng hoặc cá nhân.
+ Tính độc đáo: Có nghĩa là những công bố của người nghiên cứu phải
mới, đóng góp 1 điều gì đó vào kho tang tri thức và sự hiểu biết chung của
chúng ta.
+ Tính hoài nghi: Đây là hoài nghi về mặt khoa học. Mọi kết quả được
công bố cần phải được xem xét trước khi chấp nhận, phải được kiểm
chứng.


Có nhiều cách dẫn đến sai lệch chuẩn mực đạo đức trong
nghiên cứu khoa học, xét theo hậu quả tác động thì chia ra
lệch chuẩn tích cực và lịch chuẩn tiêu cực:
+ Lệch chuẩn tích cực: là loại lệch chuẩn của những người đi
tiên phong trong khoa học, hậu quả của dạng lệch chuẩn này lại
được ghi nhận như 1 bước tiến khoa học. Ví dụ: các nhà khoa
học tìm ra thuyết nhật tâm từng bị cho là đi ngược lại với quan
niệm xã hội, đi ngược lại với nhà thờ và ý nghĩa Kinh thánh.
+ Lệch chuẩn tiêu cực: là loại lệch chuẩn dẫn đến sự thụt lùi

trong xu thế tiến bộ khoa học. (do không biết mà dẫn đến lệch
chuẩn tiêu cực, hoặc do cố tình vì mục đích cá nhân) ví dụ nhà
khoa học tham vọng tìm ra động cơ vĩnh cửu.


Thảo luận



×