Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Đặc trưng văn hóa tây đô từ tiếp cận khu vực học (2013) nguyễn thị thúy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.97 MB, 14 trang )

ĐẶC TRUNG VÃN HÓA TÂY ĐÔ T Ừ T IÉ P CẬN KHU Vực HỌC






Nguyễn Thị Thúy*

1. Điều kiện tự nhiên
Từ tiếp cận khu vực học, điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái được coi
là tác nhân trực tiếp đến sáng tạo văn hoá và đồng thời cũng là yếu tổ quy định giới
hạn của không gian văn hoá. Sự tác động qua lại (interaction) giữa tự nhiên và con
người là nhân tố chính tạo nên đặc trưng văn hoá.
Tây Đô (hay An Tôn) là vùng đất thuộc phạm vi địa giới hành chính của
huyện Vĩnh Lộc (Thanh Hóa): phía Đông giáp huyện Hà Trung; phía Tây giáp
huyện Cẩm Thuỷ; phía Nam giáp huyện Yên Định và phía Bắc giáp huyện
Thạch Thành.
Tên gọi Tây Đô gắn với sự kiện Hồ Quý Ly xây thành, dời đô từ Thăng Long
vào vùng đất An Tôn. Khi trở thành kinh đô của nước Đại Việt những năm cuối thế
kỷ XIV, Thăng Long được đổi thành Đông Đô (kinh đô phía Đông) thì An Tôn
được gọi là Tây Đô (kinh đô phía Tây). Năm 1400, Hồ Quý Ly lấy ngôi nhà Trần
thì vùng đất này trở thành kinh đô của nước Đại Ngu dưới vương triều Hồ và thành
Tây Đô cùng được gọi là thành nhà Hồ.
Ngày nay, tên gọi Tây Đô hay khu vực thành nhà Hồ được hiểu là vùng đất cố
đô phong kiến thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá. Ở đây, Tây Đô được hiểu
theo nghĩa tương đối rộng, được xác định bời thành Tây Đô là trung tâm và mở
rộng phạm vi theo giới hạn tự nhiên của huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá.
Nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa đồng bằng và miền núi, Tây Đô là vùng đất có
vị thế quan trọng của xứ Thanh'. Với địa hình và cảnh quan môi trường phức hợp;
có núi đất, núi đá, đồi cao, đồi thấp đan xen với đồng bàng; có sông cái, sông con,



* TS. Đại học Hồng Đức.
1. Xem thêm Tinh ủy - Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2004), Địa chí
Thanh Hóa, tập 2, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

545


VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TÉ LẰN THỬ T ư

nhiều khe và suối, vừa tạo cho Tây Đô những thuận lợi phát triển kinh tế - văn hóa,
nhung đồng thời cũng đặt ra không ít những khó khăn thách thức buộc con người
phải luôn sáng tạo để khắc phục và thích ứng.
Thiên nhiên hiểm yếu của vùng đất này được tạo bởi hệ thổng núi đá vôi bao
quanh khu vực xây thành Tây Đô như núi An Tôn, Núi Đốn, Hý Mã, Du Anh, Vân
Đài, Tiến Sĩ, Mồng Cù, Hùng Lĩnh, Kim Sơn, Cô Sơn, Phú Thịnh, Nham Sơn,
Kim Tử... Hệ thống núi đá vôi ở đây được hình thành do chấn động của tạo sơn
Hymalaya không chỉ tạo thành những dải núi đá hiểm trở mà còn tạo nên những
danh thắng nổi tiếng như động Hồ Công (xã Vinh Ninh), động Kim Sơn (xã Vĩnh
An), núi Tiến Sĩ, núi Rồng, núi Tượng, núi Hắc Khuyển...
Tây Đô có thể xem là cả một vùng đồi xen kẽ đồng bằng. Hệ thống đồi đất cao
thấp kéo dài từ phía Tây xuống phía Đông, tạo thành một vùng đồi thuộc trung lưu
sông Mã và sông Bưởi. Đồi thấp phổ biến là đồi đá cuội và đồi đất. Đồi đất lại được
phân định rạch ròi thành hai: Hệ thống đồi đất thấp ở phía Đông và hệ thống đồi đất
cao ở phía Tây, làm thành ranh giới giữa châu thổ và vùng núi Thanh Hoá. Địa hình
như vậy chẳng những không cách trở về mặt giao thông mà cộn tạo điều kiện thuận
lợi cho sản xuất. Hơn thế, đá vôi, đá cuội và đất ở các dãy núi, đồi này còn là
nguyên liệu dồi dào cung ứng cho việc xây dựng thành Tây Đô và đàn Nam Giao.
Xen kẽ hệ thống núi đồi cao thấp là những cánh đồng bằng phăng. Trung tâm
đồng bằng là vùng đất Ngã-Ba-Bông. Đây là nơi sông Mã phân thêm nhánh (sông

Lèn) có lượng phù sa được bồi đắp rất lớn, nguồn nước tưới tự nhiên dồi dào, giao
lưu buôn bán ngược xuôi thuận tiện. Tuy không dồi dào diện tích canh tác nhưng
đồng bằng của Tây Đô được con người chiếm lĩnh khai phá từ rất sớm và có vị trí
khá quan trọng trong phát triển nông nghiệp.
Sự hợp lưu của sông Mã (phía Tây) với sông Bưởi (phía Đông) tại ngã ba cầu
Công tạo thành con hào nước tự nhiên hỉnh vòng cung bao quanh vùng đất Tây Đô.
Sự hợp lưu của sông Mã và sông Bưởi cùng một sổ sông suối nhỏ không những tạo
nên vị thế tự nhiên đặc biệt, mà còn ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của vùng
đất Tây Đô.
Tây Đô được coi là địa thế hiểm yếu, nhưng là vùng đất nằm trên con đường
thượng đạo Bắc - Nam, là nơi hợp lưu cùa sông Bưởi và sông Mã, nên đây là nơi có
ưu thế về giao thông cả đường bộ và đường thủy. Từ vùng đất này đi tới tất cả các
địa phương trong và ngoài tỉnh đều thuận tiện. Tuy đất đai khône thật phù nhiêu,
nhưng do điều kiện tự nhiên đa dạng, phong phú và giao lưu tiện lợi, vùng đất Tây
Đô có nhiều tiềm nărlg phát triển kinh tế và văn hóa.
54 6


ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA TÂY ĐÔ.

Xét từ phương diện địa - chính trị và dịa - quân sự, Tây Đô có nhiều lợi thế
phù hợp với việc xây dựng một trung tâm chi huy quân sự trong thời kỳ có chiến
tranh. Đây là vùng đất có thể tận dụng địa hình hiểm trở với hệ thống núi, đồi liên
hoàn để phòng thủ. Hơn thế, đá núi còn là nguồn vật liệu tại chỗ có thể dùng vào
việc xây dựng những công trình quân sự kiên cố. Việc Hồ Quý Ly quyết định xây
dựng tòa thành đá (thành Tây Đô) với chiến lược phòng thủ một phần xuất phát từ
vị thế này. Đây là bước ngoặt quan trọng tạo nên cho Tây Đô những giá trị văn hóa
đặc sắc.
Có thể khái quát rằng điều kiện tự nhiên Tây Đô đa dạng và phong phú. Đây là
một đặc điểm nổi bật và cũng là nhân tố đầu tiên tác động mạnh mẽ và thường

xuyên đến quá trình hình thành đặc trưng văn hoá Tây Đô.
2. T ác động của hoàn cảnh lịch sử và môi trường xã hội
Tây Đô là vùng đất có lịch sử lâu đời và có vị thế quan trọng trong dòng chảy
của xứ Thanh và lịch sử dân tộc.
Những dấu tích của văn hoá Sơn Vi, các di tích văn hóa Đa Bút, Đông Sơn và
vàn hoá vật chất thời kỳ các vua Hùng dựng nước còn lại trên đất Tây Đô không chỉ
là minh chứng vùng đất này sớm được khai phá và là địa bàn của bộ Cửu Chân một trong 15 bộ của nước Văn Lang mà còn khẳng định sự kết tinh của những thành
tựu về văn hóa đã đạt được trước đó và bước đầu định hình một bản sắc văn hoá
trên vùng đất này.
Đặc biệt, cuối thế kỷ XIV quyết định xây thành, dời đô đã làm chuyển biến
lịch sử phát triển của vùng đất Tây Đô. Từ một huyện trực thuộc (huyện Vĩnh
Ninh), vùng đất này đã trở thành kinh đô - trung tâm chính trị cả nước (Tây Đô). Dù
là kinh đô trong thời gian không lâu (những năm cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV)
nhưng sự kiện lịch sử này đã ảnh hưởng khá mạnh mẽ đến sự phát triển và diện mạo
của Tây Đô.
v ề điều này, sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: "Đinh Sửu (Quang Thái)
năm thứ mười (1397) (Minh Hồng Vũ năm thứ 30), mùa xuân, tháng giêng sai Lại
bộ Thượng thư kiêm Thái sử Đo Tình đi xem xét đo đạc động An Tôn phủ Thanh
Hóa, đắp thành đào hào, lập tông miếu, dựng nền xã tắc, dựng đường phổ, có ý
muốn dời kinh đô đến đó, tháng 3 thì công việc hoàn tất”[.

1. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1998), Đại Việt sừ ký toàn thư (Dịch theo bản khăc năm
Chính Hòa thứ 18 -1697), tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 190.

547


VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TÉ LẦN THỨ T ư

Mặc dù quyết định xây thành, dời đô của Hồ Quý Ly đã được chuẩn bị và suy

tính kỹ lưỡng, nhưng kết cục của việc dời đô là sự thất bại nhanh chóng trước cuộc
xâm lược của đế chế Minh (1407). Dù được nhìn nhận ở góc độ khác nhau, nhưng
có thể khẳng định dấu ấn một thời là trung tâm chính trị, quân sự và văn hoá của cả
nước vẫn còn in đậm trên vùng Tây Đô.
Dấu ấn của Kinh thành Tây Đô còn lại là tòa thành đá cùng các công trình
kiến trúc vệ tinh có liên quan đến trước hoặc sau khi xây thành và đời đô. Tiêu biểu
như cung Bào Thanh và đàn Nam Giao.
Trong số các thành luỹ Việt Nam thời trung đại, có thể nói Tây Đô là toà
thành kiên cố nhất với kiến trúc độc đáo và được xây dựng trong thời gian nhanh
nhất. Nếu lấy thành Tây Đô làm trung tâm, ngoài những công trình kiến trúc vệ tinh
có liên quan, đồ án về quy mô cấu trúc của thành gồm 3 bộ phận cấu thành: hệ
thống bảo vệ bên ngoài là La thành (thành ngoại) và hào thành; tường thành (thành
nội); Hoàng thành (cấu trúc trong thành). Nhưng một kinh đô xưa hiện còn lưu lại
tương đối nguyên vẹn là khu thành nội với bốn bức tường thành và cổng thành đá,
còn mọi kiến trúc cung điện trong thành chỉ là dấu tích phần móng và đôi bệ cửa
rồng đá cụt đầu.
Bốn bức tường thành đều được cấu tạo theo hình thang vuông; bên trong đắp
dốc bằng đất thoải đần, ở giữa được chèn bằng lớp đá nhỏ (đá xô bồ) dày gần 4m và
bên ngoài được ốp bằng đá theo phương thẳng đứng không cần có mạch vữa. cấu
trúc từng lớp tường như vậy, vừa vận chuyển đá lên cao dễ dàng lại vừa tạo ra sự
vững chãi của tường thành và cũng đáp ứng một trong hai yêu cầu của một kinh đô
phong kiến mang nặng tính quân sự phòng thủ (thành cao và hào sâu).
Cổng thành là phần còn lại tương đối nguyên vẹn và cũng là hạng mục công
trình kiến trúc đặc sắc nhất. Thành Tây Đô có 4 cổng; Đông, Tây, Nam và Bắc (còn
gọi là Hữu, Tả, Tiền và Hậu). Bốn cổng thành Tây Đô đều được mở tại trung điểm
các mặt thành, cổng Bắc, Đông và Tây được xây theo kiểu đơn môn (một vòm
cuốn), riêng cửa Nam là cửa chính (cửa tiền) nên quy mô lớn hơn với 3 vòm (vòm
giữa to cao hơn, hai vòm bên nhỏ thấp hơn). Toàn bộ cổng thành đều được xây
ghép bằn đá phiến khéo léo, vòm cửa xây cuốn tò vò trên những tường trụ hơi
nghiêng theo hình thang cân (trên nhỏ, dưới to). Phía trên cửa Nam và cửa Bắc

được xây lầu canh, dấu tích còn lại là các hàng lỗ cột.
Tây Đô là kết tinh sức lao động và trí sáng tạo không chỉ của người dân xứ
Thanh mà của nhân dân cả nước. Nếu sự độc đáo của thành Thăng Long thể hiện ở
sự kết hợp hài hoà giữa công năng sử dụng của công trình với địa hình tự nhiên và
548


ĐẶC TRƯNG VÁN HÓA TÂY Đ Ổ ...

hệ thòng lũy đất bao bọc nương theo dịu hình sông, hồ khiến cho hình dáng vòng
thành ngoài không có hình đáng thường thá> ở các kiến trúc thành luỹ thì Tây Đô

lại (lược xây dựng trên một bình đồ gần viiòim vứi hệ thốn« tưừne đá đồ sộ, kiên cố.
Đá là nguyên liệu sẵn có ở vùng Tây Đô. nhưng loại vật liệu quý và khó vận
chuyển này cũng không bị lạm dụng. Trone tổng khối lưựnu tạo ncn kiến trúc, chỉ
khoáng 25- 30% được làm bàng đá. Có điều đất ỉà phần cốt lõi bcn trong các lớp
bọc bằng đá nên khó nhận ra khiến người ta dỗ dàng nhâm lẫn Tây Đô là một toà
thàrh đá. Phái chăng đó cũng là sự kết hợp kinh nghiệm truyền thống với kỹ thuật
hiện đại đương thời1.
Cấu trúc thành Tây Đô là hoàn toàn hợp lý, dã chủ ý két hợp yếu tố thành và
yeutố thị của một kinh đô. Với tầm nhìn cùa một kinh dô. kết cấu thành như vậy, có
thể khẳng định được Hồ Quý Ly không chỉ là nhà quân sự, chính trị mà còn là một
nhà kiến trúc có tầm nhìn rộng và Việt Nam chỉ có duv nhất ở thành Tây Đô.
Cho đến nay, cùng với nhân vật Hồ Quý Ly, thành Tày Đô hiện còn chứa
đụng nhiều ẩn số cần được lý giải. Với những giá trị toàn cẩu, Tây Đô đã trở thành
di sin vãn hoá nhân loại. Điều đó không chi chứng tỏ giá trị của toà thành mà còn
góp phần tạo cho Tây Đô trở thành một không gian văn hoá dặc sắc.
Lấy thành Tây Đô làm trung tâm, ngoài các di vật ử Tây Đô thì cần phải kể
đến một sổ công trình kiến trúc vệ tinh. Trơng số đó, cung Bảo Thanh là công trinh
kiến trúc được xây dựng trước khi xây thành Tây Đô với dự định ban đầu của Hồ

Q'U' Ly là dời đô đến đây. Cung Bảo Thanh hiện chì còn lại những dấu vết nền
mióng chìm trong lòng đất được phát hiện qua các đợt khai quật khảo cổ học.
Trong tiến trình đời đô, cung Bảo Thanh có vai trò như là hành cung của nhà
Trầi. Cùng với khu hoàng thành Tây Đô, cung này nằm trong hệ thống cung thất
của một kinh đô.
Một công trình quan trọng khác là dàn Nam Giao được xây dựng trên núi Đốn
sau khi vương triều Hồ thiết lập (1402). Hiện đàn Nam Giao chỉ còn lại dấu vết của
nen móng, nhưng dựa vào dấu tích dược khảo cổ học phát hiện, có thể biết đàn Nam
G ia3 không chỉ có hình dáng gần vuôrm như bình đồ thành nội Tây Đô, mà còn là
đạc trưng cùa kiến trúc thời Hồ trona việc sử dụng chất liệu đá phiến.
1. >em thêm Nguyễn Thị Thúy (2009), Thành Tùy Đô va vùng iỉất lĩnh Lộc (Thanh Hóa) từ
Ciối thế kỳ X IV đến giữ a thẻ kỳ XIX, Luận án Tiên sĩ Lịch sư. Trường Oại học Sir phạm Hà
Nội, Hà Nội.

549


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUÓC TÉ LẰN THỨ T ư

Tây Đô không chỉ là trung tâm của đất nước và sau đó là đất trung hưng cùa
nhà Lê mà còn là đất “phát tích” của chúa Trịnh nên nơi đây còn có nhiều công
trình kiến trúc lớn. Khi vương nghiệp nhà Trịnh được củng cổ, Tây Đô trở thành đất
“quý hương” và nơi đặt lăng mộ của dòng họ Trịnh thì vùng đất này cũng được
hưởng nhiều bổng lộc và quyền lợi riêng biệt. Chúa Trịnh đã huy động nhiều nhân
tài vật lực xây dựng các công trình kiến trúc kỳ vĩ với trình độ kỹ thuật và giá trị
nghệ thuật cao.
Nghè Vẹt, phủ Trịnh và chùa Hoa Long là các công trình kiến trúc đặc sấc
(các công trình này đến nay đã được xếp hạng là các di tích lịch sử - văn hoá).
Đặc biệt khu điện thờ Thái Phi Ngọc Diễm thuộc làng Đa Bút (xã Vĩnh Tân)
là nơi có nhiều tác phẩm điêu khắc như tượng võ sĩ, thềm. rồng., điển hình cho

phong cách giai đoạn cuối thời Hậu Lê. Tại đây hiện vẫn còn 6 khối tượng rồng đá
còn nguyên vẹn được xếp vào loại đẹp nhất Việt Nam. Khối tượng rồng này đều có
kích thước dài gần 2m hiện bị chìm dưới đất 1/3 không bị lộ, đế cao chừng 80cm
được tạo bằng loại đá trắng xanh, rắn có độ nháp... Những con rồng này nghệ nhân
đã tạo tác với dáng vóc uyển chuyển, thanh thoát hơn rồng thời Trần, Hồ và dữ dội
như rồng thời Lê1...
Gần kề các khối rồng đá là 12 pho tượng võ sĩ được xếp thành 2 dãy và tượng
ngựa chiến cũng được tạc bằng đá nguyên khối. Nhóm tượng đá được tạo tác thời
chúa Trịnh Tráng với trang phục võ quan giáp trụ, được các nhà nghệ thuật đánh giá
là “tượng đẹp nhất của nước ta hiện nay, cho ta nhiều thông tin về trang phục quân
đội thời chúa Trịnh ”2.
Phản ánh về trình độ nghệ thuật và điêu khắc trong các di tích, kiến trúc thời
Lê - Trịnh ở vùng “Bồng Báo” hiện dân vùng Tây Đô còn lưu truyền câu ca đao:
A i lên phù Bảo mà coi
Đường chạm, đường đục, đường soi rành rành
Liên quan đến các hoạt động văn hoá - xã hội cung đình, ngoài các công trình
kiến trúc thì nhiều làng trên đất Tây Đô còn có đền thờ Khổng Tử, các khu văn chỉ
và các di tích, địa danh như vườn Thượng Uyển, Vườn Hoa, Bàn Cờ, xóm Hát3. ..

1, 2. Trịnh Quang Vũ (1995), “Nghệ thuật tạo hình thời Trịnh thế kỷ XVI- XVIII”, Chúa Trịnh
vị trí và vai trò lịch sừ, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Thanh Hoá, tr. 362, tr. 366.
3. Trần Minh Báo (1995), “Các di tích nhà Trịnh ờ Vĩnh Lộc những vấn đề cần quan tâm”. Kỳ
yếu Hội thảo khoa học, Thanh Hoá, tr. 40.

550


ĐẶC TRƯNG VẢN HÓA TÂY Đ Ô ...

Vùng đât Tây Đô là nơi có nhiều ngôi chùa nổi tiếng với kiến trúc độc đáo của

xứ Thanh. Những chùa được xây dựng từ thời Lý - Trần như chùa Linh Xứng (xã
Ngọ Xá, trước thuộc huyện Vĩnh Lộc nay thuộc huyện Hà Trung) được xây dựng từ
thời Lý Thường Kiệt kinh lý các xứ Thanh Hoá và Nghệ An; chùa Du Anh và chùa
Kim Âu (xã Kim Âu) xây dựng thời Trần.
Cùng với điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử thì môi trường xã hội là
những nhân tổ có ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình sáng tạo văn hóa. Đối với môi
trường xã hội vùng Tây Đô, di sản các làng cổ vừa là nhân tổ tác động tạo nên nền
cành vừa là điểm tựa làm tôn vinh giá tri văn hoá của vùng đất này.
Trong khu vực của di sản văn hoá thể giới thành Tây Đô, hiện còn tồn tại
nhiều làng cổ, có lịch sử đồng đại hoặc lịch đại so với sự ra đời và tồn tại của vương
triều Hồ và kinh thành Tây Đô. Ngoài những làng cổ sát vùng lõi như Tây Giai,
Đông Môn, Xuân Giai, trong khu vực đệm còn có các làng cổ như làng Trác, c ổ
Điệp, Bái Xuân, Cao Mật, cầm Hoàng, Yên Tôn Thượng, Thọ Đồn, Thổ Phụ, Nhân
Lộ, Hà Lương và làng Xoài. Trong sổ đó, đáng lưu ý là các làng cổ như Tây Giai và
Đông Môn.
Tây Giai là ngôi làng cổ nằm ở phía Tây (cửa Tây) gắn liền với sự ra đời của
thành nhà Hồ. Cuối thế kỷ XIV, Hồ Quý Ly đã cho xây thành, dời đô đến “địa phận
thôn An Tôn, làng Tây Giai, phủ Quảng Hoả nên tên gọi cùa toà thành cũng gắn
với thôn An Tôn (thành An Tôn) và làng Tây Giai (thành Tây Giai)2. Hiện làng Tây
Giai vẫn còn lưu lại những truyền thuyết, địa danh và các di tích lịch sử - văn hoá
gán với vùng đất kinh đô xưa như chợ Tây, đường cổng Đá... Một trong những di
sản vàn hoá vật thể độc đáo của làng là ngôi nhà cổ của ông Phạm Ngọc Tùng được
xây dựng từ năm 1810 và đã được UNESCO công nhận là một trong 10 nhà cổ dân
gian có kiến trúc tiêu biểu nhất của Việt Nam. Năm 2002 tổ chức JICA của Nhật
Bản đầu tư kinh phí nghiên cứu, bảo tồn, trùng tu di tích này.
Làng Đông Môn nằm sát tường thành phía Đông (cửa Đông) thành nhà Hồ.
Cũng như Tây Giai, đây là ngôi làng cổ gắn liền với sự ra đời của toà thành này.
1. Loui Bezacier (1954), L a rt Viet Namien, Editions de L union française 3, Rue Biaise Desgoffe, Pariis - vi (Bản dịch lưu tại Viện Bảo tàng Việt Nam), tr. 83.
2. Trong số các ngôi làng cổ Việt Nam, thành nhà Hồ là một trong những toà thành mang
nhiều tên gọi khác nhau như thành An Tôn, Tây Đô, Tây Giai, thành nhà Hồ, thành Vĩnh

Lộc... Tên gọi thành Tây Giai xuất hiện từ vương triều Nguyễn. Cũng như Thăng Long Đông Kinh được đổi tên thành trấn Bắc Thành và sau đó được đổi tên là tinh Hà Nội thì
thành An Tôn lúc này cũng mang tên mới (thành Tây Nhai). Tây Nhai là mang tên gọi cùa
một làng ờ cùa Tây thành (làng Tây Nhai). Sau đó, từ “Nhai” được đồi thành “Giai” , làng
“Tây Nhai” thành làng “Tây Giai” ncn toà thành cũng được gọi là "thành Tây Giai” .

551


VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LÀN THỨ T ư

Làng cổ Đông Môn hiện còn lưu giữ một số hiện vật, di tích, truyền thuy ết và
nhừng sinh hoạt truyền thống gắn với kinh thành Tây Đô. Đền thờ nàng Bình
Khương, bia mộ cống Sinh và đoạn tường thành phía Đông bị sụt lở thuộc địa phận
làng cổ Đông Môn là một trong số các dấu tích phản ánh về việc Hồ Quý Ly xây
thành, đắp luỹ kiên cố và phu phen tạp dịch nặng nề. Chuyện xưa cho biết về sự tích
bi ai, oan nghiệt của Trần Công Sĩ (còn gọi là cống Sinh), người được Hồ Quý Ly
giao cho trọng trách đốc phu xây thành phía Đông, nhưng do mạch nước ngầm làm
sụt lở phần móng nên một đoạn thành cứ xây xong lại bị sụt đổ. Hồ Quý Ly cho
rằng Cống Sinh mưu phản, không đốc thúc phu phen, cổ tình trì hoãn việc xây
thành đắp luỹ, nên đã bị xử tội chết. Nàng Bình Khương vì quá thương xót về cái
chết oan ức của chồng, nên đã đập đầu vào tường đá tự vẫn. Trong đền thờ nàng
Bình Khương, phía trước bài vị của bà hiện còn một phiến đá nguyên khối dài 4m,
rộng 2m, có dấu tích đá lún in hình đầu người và hai bàn tay.
Bên cạnh những nét chung mang tính phổ biến của làng truyền thống Việt
Nam thì các làng cổ Tây Đô còn có đặc trưng riêng biệt của một vùng đất cố đô
phong kiến. Vì thế các làng cổ trên vùng đất cố đô không chỉ là cơ sở cho việc hình
thành thành Tây Đô, góp phần tạo nên toà thành này có giá trị nhiều mặt mà còn là
một trong những thành tố quan trọng tạo nên giá trị truyền thống và đặc tnm,;g văn
hoá Tây Đô.
3. N hững đặc điểm dân cư

Nói tới đặc trưng văn hoá không thể không xét tới chính chủ thể của văưi hoá
nên nguồn gốc cư dân, quá trình tộc người và đặc điểm của cả cộng đồng ỉà những
yếu tố cần được xem xét. Đặc biệt, Tây Đô là vùng đất cổ, vì thế ngoài những cur dân
khai phá đất đai từ buổi đầu lập làng thì điều kiện tự nhiên, môi trường xã hội và
hoàn cảnh lịch sử là những yếu tố tác động mạnh mẽ làm biển đổi, tạo nên nét riêng
biệt của cộng đồng cư dân và chi phối những đặc trưng văn hoá củavùng đất này.
Tây Đô là vùng đất giáp ranh giữa miền núi và miền xuôi, từng là cố) đô trung tâm chính trị của cả nước một thời, rồi sau đó trở thành một địa bàn có vị trí
đặc biệt quan trọng về địa - chính trị, địa - quân sự qua nhiều thời kỳ lịch sử mên đã
tạo điều kiều kiện thuận lợi để nhiều dân tộc cùng cư trú. Ngoài người Kinh lià chủ
yếu, Tây Đô còn là địa bàn cư trú của người Mường và người Chăm.
Không những có sự khác biệt về thành phần dân tộc mà so với các vùng đất
khác, Tây Đô còn có nét đặc thù trong nguồn gốc cư dân. Cụ thể là nguồn dán cư từ
nhiều vùng quê trong tỉnh và các tinh phía Bắc, phía Nam đến ngụ cư lại chiếm ti lệ
cao hơn dân bản địa.
552


ĐẶC TRƯNG VẰN HÓA TÂY ĐỔ.

Gia phả các dòng họ ở Tây Đô cho biết những người sớm đến khai phá, lập
làng trên vùng đất này là vùng đồng bằng trư ớ c núi ven bờ trung lưu sông M ã (Tây
Đô là một trong những địa bàn phân bồ chủ yếu của văn hoá Đa Bút). Nguyên do
cùa hiện tượng này rất có thể từ xa xưa Tây Đô vốn là vùng đất có vị trí địa lý và hệ
thống giao thông đường thuỷ thuận lợi cùa xứ Thanh. Hơn nữa, khi Hồ Quý Ly
quyết định xây thành, dời đô về Tây Đô, một lượng lớn nhân công đã dồn về đây
phục vụ nhu cầu xây dựng kinh đô cũng như mọi sinh hoạt của một trung tâm chính
trị cả nước. Nhiều người trong số này vốn là những người thợ thủ công, binh lính
nhà Hồ giải ngũ... đã lưu lại sinh cơ lập nghiệp khu vực gần kinh đô. Điều này đã
tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình giao lưu văn hoá giữa vùng đất Tây Đô với các
vùng đất khác.

Đặc điểm đa dang về dân cư đã có tác động không nhỏ tạo cho Tây Đô trở
thành một vùng văn hoá truyền thống với nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá dân
gian đặc sắc. Ngoài những lễ hội và sinh hoạt văn hoá của người Việt, các lễ hội của
người Mường và nghệ thuật điêu khắc của Chăm ở Tây Đô càng làm cho giá trị văn
hoá của vùng đất này thêm thêm đa dạng.
v ề sinh hoạt văn hoá truyền thống, ở các làng xã Tây Đô có rất nhiều lễ hội.
Trong chu trình thời gian một năm: từ tết nguyên tiêu mở đầu năm mới, tết thanh
minh, tết khai hạ, tết cơm mới, tết đoan ngọ cho đến tết nguyên đán khép lại chu
trình sản xuất nông nghiệp. Giữa hai chu trình sản xuất nông nghiệp là thời kỳ nghỉ
ngơi sinh hoạt văn hoá.
Hầu hết cư dân vùng Tây Đô đều có sinh hoạt văn hoá với các hình thức tín
ngưỡng: tín ngưỡng vòng đời của một con người; đầy cữ, đầy tháng, đầy năm, lễ
cưới, lễ lên lão, lễ thượng thọ, lễ tiễn đưa về nơi an nghỉ cuối cùng, lễ kỵ; lễ tế nông
nghiệp, lễ động thổ, lễ mở cửa rừng (đối với người Mường), lễ xuống đồng, lễ thực
điền, lễ rửa lá lúa, lễ hú vía lúa, lẽ cơm mới, lễ cầu vũ, càu đảo và các lễ hội văn hoá
xã hội như lễ chùa, lễ đền, lễ nghè tiêu biểu là lễ hội đền Hàn, đền Ông, đền Ba
Bông, Đức thánh Trần, đền thờ Trịnh Khả...
Lễ hội đền Tam Tổng mà trung tâm là đền thờ Trần Khát Chân dưới chân Đốn
Sơn và đền Tam Tổng trước cửa Nam thành Tây Đô là một trong những lễ hội lớn
ven sông Mã thuộc vùng đất Tây Đô nhằm tưởng niệm danh tướng Trần Khát Chân.
Lẻ hội đền thờ Trịnh Khả ở xã Vĩnh Hoà nhàm tôn vinh danh tướng Trịnh Khả,
người có công trong khởi nghĩa Lam Sơn.
Lễ hội đền Ông và đền Hàn ở vùng Ngã-Ba-Bông (Tây Đô) là lễ hội tín
ngưỡng kVn của xứ Thanh thu hút khách thập phương trong một thời gian dài. Lễ
553


VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TÉ LẦN TH Ứ TƯ

hội này nằm trong hệ thống lễ hội nhằm tôn vinh mẫu Liễu Hạnh vốn phổ liến ở

vùng Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hoá.
Tây Đô là vùng đất cổ nơi có những trầm tích và những đường hoá thạih văn
hoá. Ở đây còn bảo tồn rất nhiều tín ngưỡng cổ, thờ cúng các lực lượng tự nhiên
như thờ đá, thờ cây, thờ sông, thờ núi (Cao Sơn đại vương, bà chúa Thượng ngàn)
và ở ven sông thì thờ hà bá. Đặc biệt, ở làng Còng (xã Vĩnh Hưng) có đền thr thần
săn bắn. Đây là các tín ngưỡng có liên quan đến một thời kỳ mà nghề săn bài còn
có vị thế trong đời sống cư dân.
Bên cạnh những sinh hoạt văn hoá của người Việt (Kinh), Tây Đô là đa bàn
cư trú và nằm trong vùng giao thoa văn hoá Việt - Mường nên ở đây còn có ;ác lễ
hội và hình thức sinh hoạt văn hoá của người Mường. Các hình thức sinh hoit văn
hoá của người Mường như hát Sét Bùa (hát chúc mừng năm mới) và hát đ»i đáp
nam nữ. Cùng với các lễ hội là các phong tục tập quán và sinh hoạt văn hot của
người Mường càng làm cho lễ hội dân gian ở vùng Tây Đô thêm đặc sắc.
Tây Đô đã có thời kỳ là kinh đô, nên ngoài phong tục, tập quán, lễ hội ruyền
thống của địa phương còn là nơi hội tụ và lưu giữ nhiều phong tục tập quán mang
dấu ấn của một trung tâm văn hoá nhất là các làng xã khu vực quanh thành Tiy Đô
(vùng đất thuộc kinh đô cũ). Tiêu biểu như gái Hoa Nhai rất giỏi ca hát; tra Nhật
Chiếu, Phú Lâm và Đông Môn (trước thuộc tổng Binh Bút) giỏi võ thuật; (ân xã
Nam Cai (trước là tổng Nam Cai) thích uống rượu và tục đấu trí ờ tổng Ngọ Xá...
Đặc biệt, ở tổng Biện Thượng vào mùa hạ thường tổ chức thi chọn viên chù t«. Tục
lệ này “thuần phác,... thời họ Trịnh toàn thịnh cũng không thay đổi, cỏ lẽ là từ
phong tục cố "1.
Để phục vụ sinh hoạt cung đình, hát ca công đã trở thành nhu cầu khôig thể
thiếu. Hơn 600 năm đã trôi qua, hát ca công của kinh thành xưa dần theo thờ gian
mà mai một. Nhưng loại hình nghệ thuật cung đình này vẫn còn lại dấu tích ( làng
Phú Lĩnh và làng Tây Giai (xã Vĩnh Tiến). Bằng chứng là những năm 1920 -1945,
ở phố Giáng gần thành Tây Đô vẫn còn cửa hàng cô Đầu. Và trong dân giai hiện
còn lưu truyền giai thoại về mối kỳ duyên giữa cụ Vọng Tân Đặng Hy Trứ. bic đại
nho thời Tự Đức được sung chức Nhiếp biện ấn vụ phủ Quảng Hoá (tức hu}ệr Vĩnh
Lộc ngày nay) với cô đào hát họ Trần thuộc dòng họ hát ca công ở làng Tây Gai2.


1. Lưu Công Đạo (Gia Long 15- 1816), Thanh Hóa Vĩnh Lộc huyện chí, Ký hiệu VH\ 1.71, Lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội (Dịch và hiệu đính của Trần Kim A:.h Trần
Kim Măng, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, tr. 99-100, tr. 34-35.
2. Lê Huy Trâm (2002), Khảo sát hát ca công ở Thanh Hoá, Nxb. Văn hoá Dân tộc, r. ‘7-51.

55 4


ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA TÂY ĐỒ.

Lhông chỉ là địa bàn giao lưu và tiếp biến văn hoá Việt - Mường mà Tây Đô
CÒI lí-vùng đất m ang đậm dấu ấn văn hoá C hăm . Từ rất sớm , n gư ời Chăm đã tiếp
XÚI V c ù n g c h u n g s ố n g vớ i c ộ n g đ ồ n g V iệ t trê n n h iề u v ù n g lãnh th ổ v à d ần d ần trở

thàihnột bộ phận của dân tộc Việt Nam. Vùng đất Tây Đô không những có vị trí
cậr k chiến tranh và quê hương của nhiều công thần mà còn là nơi có nhiều công
trim Hen trúc và đặc biệt là việc xây thành Tây Đô - từng là trung tâm chính trị của
cả 11PC, nên Tây Đô sớm trở thành nơi tụ hội đ ôn g đảo n gư ời C hăm , số người
Chirr này có nguồn gốc chủ yếu là tù binh và nghệ nhân, hoặc vũ nừ bị bắt trong
các cộc chiến tranh.
4ặc dù chưa có số liệu cụ thể về thời gian và số lượng các tướng lĩnh, tù binh
Chirr bị bắt sau mỗi trận chiến thắng cũng như bao nhiêu làng, trang của người
Chín được lập nên trên đất Tây Đô, nhưng qua khảo sát ngôn ngữ, phong tục, tập
qiun ùng như nhừng dấu vết, ảnh hưởng của văn hóa Chăm có thể biết rằng Tây
Đô làvùng đất không chỉ có sổ lượng người Chăm khá đông mà các làng Chăm ờ
đâ' c*n điển hình nhất trong số làng Chăm ở Thanh Hóa (thể hiện qua phương ngữ
cư iâ thuộc xã Vĩnh Thịnh).
’hần đông người Chăm ở Tây Đô đã được đưa về đây sau lần chinh phạt
Chíroa của Hô Quý Ly (1402) và Lê Thánh Tông (1471). Ngoài ra, “có rất nhiều
khc nng là khi dời đô, Hồ Quý Ly đã đưa vào Tây Đô toàn bộ các vũ nữ, nghệ nhân

Chín đang phục vụ tại kinh đô Thăng Long. Vào thời Trần, sổ lượng này khả lớn.
Nết ùy, người Chăm có mặt tại Kinh thành Tây Đô cuối thể kỷ X IV đầu thế kỷ X V
khcnịchi là những tù binh được nhà Hồ đưa về sau mỗi lần chinh phạt, mà trong sổ
đó cò có cả vũ nữ, nghệ nhân Chăm chủ yếu phục vụ nhu cầu cung đình
'ỉgười Chăm ở xen kẽ cùng người Kinh và người Mường. Từ các trại, sở đồn
điền t binh Chăm như Quan Bổ, Quan Bốn do triều đình quản lý dần dần thành làng
Chín . Dấu tích địa bàn cư trú của tù binh Chăm hiện vần còn lưu lại trên vùng đất
TâỴ ỉô như xã Bản Thuỷ, Hà Son, Hà Đông, Hà Lĩnh, Hà Tân. Làng Bản Thuỷ (xã
VTnhlnnh) được xem là “ốc đảo” của ngôn ngữ Chăm ở châu thổ sông Mã.
Qua khảo sát ngôn ngữ, phong tục tập quán cũng như những dấu vết ảnh
hưm của văn hoá Chăm có thể biết rằng Tây Đô không chi có sổ lượng người

1. Ngyễi Thị Thuý (2011), “Dấu ấn văn hoá Chăm trên vùng đất Tày Đô - Từ góc nhìn lịch
òr" Tip chí Nghiên círu Đông Nam Á, số 6 (135), tr. 57, tr. 58.
2. Lư Cìng Đạo (Gia Long 15 - 1816), Thanh Hóa Vĩnh Lộc huyện chí, Ký hiệu VHv 1371,
Lư tạ Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội (Dịch và hiệu đính của Trần Kim Anh - Tràn
K.ir ỉvăng, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, tr. 99-100, tr. 34-35.

555


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUỐC TẾ LÀN THỨ T ư

Chăm khá đông mà các làng Chăm ở đây còn điển hình nhất trong sổ làng Chăm ở
Thanh Hoá.
Tiêu biểu là phong cách kiến trúc, điêu khắc đá ở chùa Hoa Long và chùa
Thông. Nhìn vào điêu khắc đá ở hương án thờ phật chùa Hoa Long (xã Vĩnh
Thịnh), có thể thấy bệ đá đặc tả các thiếu nữ dâng hoa lên Phật với các động tác
múa uyển chuyển mang phong cách giống các bức tượng vũ nữ Chăm được chạm
khắc phổ biến ở các tháp Chăm cổ. Hình tượng sấu đá ở chùa Thông (Vĩnh Ninh),

hay tượng võ sĩ, tượng phỗng quỳ ở di tích đá Đa Bút đều chịu ảnh hưởng của kiến
trúc Chăm.
Dấu tích địa bàn cư trú của tù binh Chăm hiện vẫn còn lưu lại trên vùng đất
Vĩnh Lộc như xã Vĩnh Thịnh và các xà Hà Sơn, Hà Đông, Hà Lĩnh, Hà Tân (nay
thuộc Hà Trung).
Ở xã Hà Đông1 "vẫn còn rất nhiều dấu tích Chăm như một vài giếng cỏ hình
vuông, rồi ngôi đình làng Thượng Phú là công trình kiến trúc cổ mà các mảng điêu
khắc... còn lại cho đến nay đều là vũ nữ Chăm... về ngôn ngữ, nhiều từ Chăm và
ngữ điệu Chăm vẫn còn rơi rớt lại trong cách nói cùa người dân địa phưomg''2.
Làng Kênh Thủy (xã Vĩnh Thịnh) được xem như ià "ốc đảo" của ngôn ngữ Chăm ở
châu thổ sông Mã.
Một trong những điểm tạo nên nét đặc sắc văn hóa Chăm trên vùng đất Tây Đô
không chỉ là nguồn gốc cư dân Chăm mà còn do tỉnh đặc thù của địa bàn cư trú.
Ngoài những truyền thống văn hoá giống với người Chăm gốc - chủ nhân của vương
quốc Chămpa thì người Chăm trên vùng đất cố đô - Tây Đô còn có những điểm khác
biệt3. Trước hết, về nguồn gốc người Chăm ở Tây Đô không phải dân thường mà
phần lớn họ là những tù binh, thợ thủ công chế tác đá hoặc vũ công... Có nghĩa người
Chăm ở đây chi là một bộ phận chứ không phải là hiện tượng di dân, nên trước khi
hoà lưu vào văn hoá Việt, họ vốn là tinh hoa văn hoá Chăm với lịch sử 15 thế kỷ tồn
tại và phát triển. Thứ hai, trải qua lịch sử phát triển lâu dài, vùng đất Tây Đô là nơi
hội tụ của nhiều luồng cư dân và cũng là nơi diễn ra quá trình giao thoa văn hoá của
những truyền thống văn hoá khác nhau, nên với đặc tính chung là “dễ tiếp thu và

1. Xã Hà Đông trước thuộc vùng đất Tây Đô (huyện Vĩnh Lộc), từ thế kỷ XIX thuộc huyện Hà
Trung, Thanh Hoá.
2. Huyện ủy - Hội đồng nhân dân - Uỳ ban nhân dân huyện Hà Trung (2005), Địa chí huyện
Hà Trung, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 335.
3. Nguyễn Thị Thuý (2011), “Dấu ấn văn hoá Chăm trên vùng đất Tây Đô - T ừ góc nhìn lịch
sử”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6 (135), tr. 57, tr. 8.


55 6


ĐẶC TRƯ NG VĂN HÓA TẰY ĐÔ.

chuyển hoá nhanh’A, người Chăm ở Tây Đô dã có sự giao thoa văn hoá với cư dân
bàn địa chứ không còn giữ nguyên những tổ chất văn hoá Chăm như cư dân ở địa bàn
của họ ở Phan Rang, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà...
Trải qua lịch sử phát triển lâu dài, vùng đất Tây Đô là nơi hội tụ của nhiều
luồng c ư dân và cũng là nơi diễn ra quá trình giao thoa văn hóa của những truyền
thống văn hóa khác nhau. Dấu ấn văn hóa Chăm trên vùng đất Tây Đô vẫn dễ dàng
nhận ra không chỉ qua phơng ngữ, các công trình kiến trúc mà còn ỉà tên gọi của các
địa danh gắn với địa bàn cư trú của tộc Chăm ở Biển Đông - “cồn”, như cồn Ông
Voi, Cồn Q uýt... ở Biện Thượng (Tây Đô).
Di sản văn hoá Chăm ở Tây Đô không chi là bằng chứng thể hiện mối liên hệ
trên cùng một địa vực cư trú mà còn là mối liên hệ về lịch sử và văn hóa. Theo dòng
chảy của thời gian và cùng những biến động của lịch sử nên đến nay, người Chăm ở
Tây Đô đã Việt hóa. Mặc dù đã bị bản địa hóa, nhưng là vùng giao thoa văn hóa
Việt- Chăm nên Tây Đô còn mang đậm dấu ấn văn hóa Chăm.
4. Kết luận
Như vậy, theo cách nhìn khu vực học có thể khái quát rằng mặc dù cũng là
cộng đồng cư dân trồng lúa nước đôi bờ sông Mã, nhưng do những tác động từ sự
phức hợp của điều kiện tự nhiên, đặc biệt của cảnh lịch sử và tính phong phú
nguồn gốc cư dân nên trong văn hoá truyền thống Tây Đô, bên cạnh những mặt
tương đồng, còn có những nét riêng biệt. Chính sự khác biệt này là một trong
những căn nguyên để lý giải vì sao Tây Đô lại trở thành một vùng văn hoá đặc sắc
của xứ Thanh.
Những nét tạo nên đặc trưng văn hoá Tây Đô không chi là văn hoá truyền
thổng của vùng đất cổ mà còn là di sản văn hoá mang dấu ấn của vùng đất kinh đô
và đất “phát tích” chúa Trịnh. Tuy chi tồn tại với tư cách là kinh đô trong một thời

gian ngắn, nhung khi trở thành trung tâm chính trị của cả nước, trên vùng đất này đã
diễn ra nhiều biến đổi sâu sắc. Từ chỗ chỉ là địa bàn giao thoa văn hoá liên vùng,
Tày Đô đã trở thành nơi giao tiếp của nhiều nền văn hoá trong cả nước.
Với lịch sử phát triển lâu đời và trong thế ứng xử với điều kiện tự nhiên cùng
quá trình biến đổi tộc người, cư dân Tây Đô luôn thể hiện được bản sắc văn hoá của
dân tộc. Điều này phản ánh sự đa dạng văn hoá trong thống nhất của cộng đồng cư
dân Tây Đô. Đồng thời khẳng định vị thế và những giá trị văn hoá của vùng đất này
trong dòng chảy văn hoá dân tộc.
1. Lương Ninh (2006), Vương quốc Chămpa, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

557


VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TÉ LÀN THỨ T ư

Quá trình giao thoa văn hoá Việt - Mường và văn hoá Việt - Chăm ở Tây Đô
không chi làm cho giá trị văn hoá của vùng đất này thêm phong phú mà còn tác
động tạo nên những đặc trưng văn hoá đặc sắc của các cộng đồng cư dân Tây Đô.
Những di sản văn hoá Tây Đô đã góp phần vào dòng chảy văn hoá xứ Thanh, làm
cho vùng đất đôi bờ sông Mã, sông Bưởi trở thành một trong những trung tâm văn
hoá dân tộc. Trong xu hướng phát triển văn hoá du lịch hiện nay, cùng với sự
trường tồn và giá trị văn hoá toàn cầu của thành Tây Đô, vùng đất Tây Đô đã và
đang trở thành điểm đến hấp dẫn của hành trình du lịch xứ Thanh.

558



×