Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Phục dựng các lễ hội truyền thống ở việt nam bảo tồn hay sáng tạo truyền thống (2013) nguyễn chí bền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.43 MB, 17 trang )

PHỤC DỤNG CÁC LẺ HỘI TRUYỀN THỐNG Ỏ VIỆT NAM:








BẢO TÒN HAY “SÁNG TẠO TRUYỀN THÓNG”
Nguyễn Chí Bền
Lòi m ở
Đã mây năm trôi qua, mà tôi không thể quên được cảm xúc vui mừng của một
ngày đầu xuân năm 2010. Sán2 sớm. tôi dời Hà Nội để về huyện Duy Tiên, tỉnh Hà
Nam. dự lễ hội Tịch điền CỈO Viện Văn hóa N ehệ thuật Việt Nam, Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch tỉnh Ha Nam phục dựne theo yêu cầu của ủ y ban Nhân dân tỉnh Hà
Nam. Tôi không thể nào quên nét mặt hồ hởi, phấn khởi của những người dân trong
vùng. Khi Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết bắt đầu cầm cày, cày những đường
cày đẩu tiên trên mảnh ruộng lất phất hơi sương thì xung quanh tôi những tiếns
trầm trồ, vui mừng: “ Hoan hô Chủ tịch nước đi cày! Hoan hô “ nhà vua” đi cày!’';
“Có thế chứ, lãnh đạo Đảng, Nhà nước hôm nay biết kế tục truyền thống của cha
ông, ngày xưa, nhà vua Lê Đại Hành từng về đây đi cày mà!” ; “Năm nay ắt được
mùa đây. Đảng, Nhà nước chăm lo phát triển nông nghiệp đến thế kia mà!” . Chỉ đạo
phục dựng lễ hội Tịch điền ở Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, tôi cứ đinh
ninh, mình đã làm đúng và làm được một việc có ích cho những người dân lam lù ờ
một vùng quê nghèo. Trở về Hà Nội thì tôi được đọc những bình luận của một số
nhà khoa học đầu ngành trên các phương tiện truyền thông đại chúng: người thì băn
khoăn việc lành đạo Đảng, Nhà nước dự ỉễ Tịch điền 1; người thì ủng hộ việc tổ
chức lễ hội Tịch điền, ủng hộ việc Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đi cày đầu
xuân, nhưng không ủng hộ việc “vẽ trâu” của Ban tổ chức lễ hội Tịch điền'.


* PGS. TS., Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam.
1. PGS.TS. Nguyễn Văn Huy: "Tôi rất băn khoăn việc hàng loạt lành đạo nhà nước, từ cấp cao
nhất đến các quan chức các bộ ngành, các địa phương thực hành... làm lỗ Tịch điền từ vài
năm nay... Lễ Tịch điền xưa là nhà vua với tư cách là thiên tử cùa đất nước nông nghiệp, là
con trời nên ông ta mở luống cày đầu năm m ang ý nghĩa giao hòa Trời - Đất, cầu cho những
mùa vụ bội thu, sinh sôi này nở. Thái Lan, Cam puchia là nước quân chủ, còn vua nên vẫn
giữ lễ này. Ở Việt Nam, lễ này đã mất từ lâu, ý nghĩa và bối cảnh không còn nữa, nay lại
phục hồi như một di sản văn hoá có đúng không? Neu muốn thực hành khuyến nông thì có
lẽ có nhiều cách làm hay hơn" {Tuần Việt Nam, Vietnaninel.vn ngày 10-3-2010).
2. GS.TS. Ngô Đức Thịnh: "Theo quan điểm của tôi, truyền thống và đương đại luôn song
hành. Bàn thân tôi ùng hộ đưa nhu cầu, hình thức hoạt động cùa xã hội đương đại vào truyền
44


PHỤC DỰNG CÁC LỀ HỘI TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM.

í Ôi hoang mang, có lúc không tin ở ý tưởng cho phục dựne một số lễ hội truyền
thống của mình và cảm giác vui buồn lần lộn, nghi nghi hoặc hoặc cứ đeo đẳng tôi,
mồi khi quyết định giao cho các cộng sự của mình phục dựng một lễ hội truyền
thống nào đó trong Chươne trình mục tiêu quốc gia về văn hóa!
1. Phục dựng lễ hội truyền thống, chuyện không hề đon giản
Thực ra, phục dựne lễ hội Tịch điền ở xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà
Nam không phải là trường hợp đầu tiên với Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam
trong Chương trình mục tiêu quổc sia về văn hóa. Trước đó, Viện Văn hóa Nghệ
thuật Việt Nam đã phục dự n s hai lễ hội khác là lễ hội Lam Kinh và lễ hội đền Kiếp
Bạc. Mỗi trường hợp phục dựng này là một cách tiến hành, cái được và chưa được
cua mỗi trường hợp cũng khác nhau.

1.1. Trường hợp lễ hội Lam Kỉnh (tỉnlí Thanh Hóa)
Thực ra, lễ hội Lam Kinh là một trường hợp thử nghiệm đầu tiên cho một

quan điểm phục dựne lễ hội truyền thống. Trước năm 2005, lễ hội này được tố chức
bằng cách: giao cho các diễn viên của các đoàn nghệ thuật trone tỉnh thực hiện.
Ngành văn hóa đưa các diễn viên về làm các nhiệm vụ: đọc văn tế, trình diễn các
nghi lễ, v.v... Người ta xác định đây là một lễ hội khá đặc biệt: lễ hội tưởng niệm
Lê Lợi - Lê Thái Tổ, bởi Lam Sơn là đất phát tích của nhà Lê. Sau khi đánh thắng
giặc Minh, lèn ngôi vua, Lô Lợi trở về Lam Sơn, năm 1429, "tháng 11, vua ngự về
Tây đô, bái yết sơn lăng, thướng cho các tướng hiệu quân nhân theo hầu mỗi người
thăng tước một bậc"1. Tháng 8 nhuận năm 1433, vua Lê Lợi về Lam Kinh, rồi qua
đời ở đây. Thái tử Nguyên Long lên ngôi, tức vua Lê Thái Tông - (NCB chú), cho
xây dụng điện Lam Sơn đến năm 1449 thì xong. Từ ấy về sau, việc về bái yết son lăng
thống. Làm gì có truyền thống thuần tủy... Vói lễ hội Tịch điền tôi cho rằng nên khôi phục
lại, nhất là trong bối cảnh xã hội hiện nay. Thái Lan đến nay vẫn tổ chức lễ hội này. Nhưng
ờ lỗ hội vừa qua vẫn có những điểm tôi chưa tâm đắc. Ờ Thái, họ mặc cho con trâu một
chiếc áo thêu, điều đó biến con trâu bình thường thành con trâu thần, trâu tiên. Tôi thì không
thích cách người ta vẽ lên m ình trâu như ỏ' ta. Mình phải “thiêng hóa” các con vật là biểu
tượng của lễ hội. Lỗ hội Tịch điền năm nay theo tôi đã khắc phục được điếm chưa được của
năm ngoái. Nghi lễ xưa, nhà vua xuống cày ruộng. Năm nay, Chủ tịch nước Nguyễn Minh
Triết cũng đích thân xuống ruộng cày. Theo tôi, đó là “chính danh” ... Vừa qua, Thừa Thiên
Huế có nhờ tôi giúp trong việc làm hồ sơ cho lễ tế Nam Giao đề nghị UNESCO công nhận
là di sản thế giới. Quan điểm của tôi là không được, vi lễ tế này chưa “chính danh” . Theo
truyền thống, nghi lễ này phải do vua đứng ra, nhưng hiện nay, đó chỉ là hoạt động sân khấu
hóa, phục vụ khách du lịch m à thôi. Đà là nghi lễ phải khác bình thường!" (Báo Thể thao &

Vãn hóa số ra ngày 3-3-2010).
1. Đại Việt sử ký toàn thư, Cao Huy Giu dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội, in lần 2, 1972, tập 3, tr. 74.
45


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUÔC TÉ LÀN THÚ TƯ


ở Lam Kinh được diễn ra. Theo Đ ại Việt sử ký toàn thư, thời vua Lê Nhân Tông cỏ
hai lần nhà vua về Lam Kinh vào các năm 1448, 14561. Thời vua Lê Thánh l ông,
cũng theo sách này, có mười một lần nhà vua về Lam Kinh vào các năm 1461.
1464, 1467, 1468, 14 70, 1473, 1476. 1482, 14 8 8, 1491, 14962. Cũng lại theo sách
này, vua Lê Hiến Tông về Lam Kinh vào năm 1506 và vua Lê Tương Dực về Lam
Kinh vào các năm 1511, 15143. Như vậy, từ thời vua Lê Thái Tổ đến thời vua Lè
Tương Dực, việc vê Lam Kinh bái yết sơn lăne gần như là hoạt động thường xuyên.
Điều cần phải thấy, khi các vua Lê và quần Ihần về Lam Kinh, người dân Lam
Kinh phải đi đón rước, chào mừng. Chủ thể của lễ bái yết sơn lăng là các vua Lê,
và đám quần thần, nhưng khách thể phái là nsười dân vùng Lam Kinh. Thời Lê
Nhân Tông, Đ ại Việt sử ký toàn thư chép: "... vua ngự về Lam Kinh, thái hậu và
các vương đều đi theo... Dân Thanh Hoá thấy vua đến, trai gái đem nhau hát rí ren
ở hành tại. Tục hát rí ren một bên con trai, một bên con gái, dắt tav nhau hát, hoặc
tréo chân tréo cổ nhau, gọi là cam hoa kết hoa, thói rất là xấu. Đài quan Đồne.
Hanh Phát bẩm với thái uý K hả rằng: "Lối hát ấy là thói dâm tục xấu, không nên
cho người hát nhảm trước xa giá". Khả liền sai cấm hẳn” .
Ngày Nhâm Níĩọ, vua đến Lam Kinh, làm ỉề bái yết lăng m iế u 1. Hãy tạm đặt
ra ngoài thái độ của vương triều Lê Thái Tông với một loại diễn xướng dân gian
thời ấy, những dòng ghi chép của tác giả Đ ại Việt sứ ký toàn thư cho thấy người
dân Thanh ỉlo á nói chung, người dân Lam Kinh nói riêng là khách thể, là đối tượng
tham gia vào nghi lễ của các vua Lê và quần thần khi về Lam Kinh. M ặt khác, cũng
vua Lê Nhân Tông vào năm 1449, đã cho múa nhạc Bình Ngô p h á trận khi ban yến
cho các quan vào mùa xuân: "Tháng giêng, ban yến cho các quan, m úa nhạc Bình
Ngô phá trận. Trước kia Thái tô dùnẹ vũ cônẹ định thiên hạ, Thái tôn nhớ lại công
trước, làm khúc nhạc múa Bình Ngô. Đen đây, vua nghĩ đến việc sáng nghiệp khỏ
nhọc, không quên công của tổ tiên, lại sai múa khúc nhạc ấy, công thần có người
cảm xúc đến phải khóc"5. Năm 1456, khi về Lam Kinh bái yết sơn lăng, vua Lê
Nhàn Tông đã ra lệnh: “Phàm các việc ở đền thờ cần phải thành kính, tinh khiết,
như việc chặt cây chặt tre, kiếm ỉấy củi đóm. Tế tẩm miếu dùne 4 con trâu, đánh

trống đồng, quân lính hò reo ứng theo, v ề nhạc, vũ thì múa nhạc Bình Ngô phủ
trận, văn thì múa nhạc Chư hầu lai triều'
1. Đại

Việt sử ký toàn

thư, sđd. tr. 139, ! 64.

2. Đại

Việt sử ký toàn thư , sđd, từ tr. 173 đến tr. 313.

3. Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, tập 4, Hà Nội, 1973, tr. 37.
4. 5, 6.
46

Đại Việt sứ ký tocm thư , sđd, tập 3, tr. 139, tr. 150, tr. 164.


PHỤC DỰNG CÁC LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG Ở VIÊT NAM...

Nhìn lại tư liệu lịch sử ấy, để thấy khởi thủy của lễ hội Lam Kinh là nghi lễ
của vương triều. Sau khi nhà Lê suy vong, thăng trầm lịch sử, dâu bể cuộc đời khiến
cho cả di tích lẫn lễ hội đều mai một, những nshi lễ của vương triều nhà Lê chỉ còn
qua ghi chép của các nhà nho của vương triều nhà Lê, nhà Nguyễn. Tuy nhiên, cần
thấy trong hơn ba. bốn trăm năm qua, cái mai một là lễ bái yết sơn lăng, bái yết
Lam Kinh, bái yết lăng miếu gắn với vương triều nhà Lê khônẹ còn, chứ không thê
nói ràng lễ hội Lam Kinh không còn hay mai một!? Mấy trăm năm qua, người dân
làng Chain (xã Xuân Lam, Thọ Xuân), đền vua Lê (phường Đông Vệ, thành phố
Thanh Hoá). dền Tép (làng Thành Sơn, xã Kiên Thọ, huyện N sọc Lạc), v.v... vẫn

tổ chức lễ hội. Bởi vậy, vẩn đề của lễ hội Lam Kinh không chỉ là sự chuyển đổi của
nghi lề một vương triều thành lễ hội dân gian mà vẫn có một đường dây tín ngưỡng
là việc thờ phụng nhân vật lịch sử. Lễ hội Lam Kinh là lễ hội thờ nhân vật lịch sử,
thực chất lề hội Lam Kinh (dù là lễ bái yết sơn lăng của vương triều nhà Lê hay lễ
hội của dân làng Cham, làng Tép, làng Bố Vệ) là lễ hội thờ nhân vật lịch sử. Giáo
dục truyền thống lịch sử, biết ơn nhân vật lịch sử, tưởng niệm nhân vật lịch sử là
mục đích tối thượng của lễ hội truyền thống kiểu lễ hội Lam Kinh. Lịch sử là một
dòng chảy liên tục từ quá khứ đến hiện tại, đến tương lai, lễ hội thờ các nhân vật
lịch sử Lê Lợi, Lê Lai, rõ ràng phải là một lễ hội mang tầm vóc lớn hơn, quy mô
hơn, hoành tráng hơn. Phục dựng lễ hội Lam Kinh truyền thống, phải xác định phục
dựng một lề hội lịch sử, người dân tổ chức lễ hội truyền thống, nhàm tưởng niệm
lịch sử. Công việc ấy, có thể nói khôn s hề đơn giản.
Để thực hiện công việc phục dựng, nhóm thực hiện dự án phục dựng lễ hội
Lam Kinh năm 2005 đã tiến hành nghiên cứu điền dã và thư tịch. Kết quả, dự án do
PGS.TS. Bùi Quang Thắng chủ trì đã khôi phục lễ cáo yết của người Mường tại đền
Tép - nơi thờ Lê Lai; khôi phục lễ rước của đền vua Lê với sự tham gia của gần 500
người dân ở xã Xuân Lam và làng Cham, thị trấn Lam Sơn, lễ rước của đền Tép với
khoảng 300 người dân gồm đội cờ, đội rồng, đội kiệu, đội chấp kích, đội bát âm, đội
tế nam, đội dân binh và đội thiếu nữ Mường; khôi phục nghi lễ giao kiệu khi kiệu
vua Lê gặp kiệu Lê Lai và đám rước chung của cả hai đoàn rước kiệu Lê Lợi và
kiệu Lê Lai; tổ chức ở làng Cham, thị trấn Lam Sơn một đội trống, chiêng (21
trống, 4 chiêng và 4 cặp não bạt), luyện tập, hoà tấu ở trình độ nghệ thuật cao những
bài trống để phục vụ những nghi lễ, diễn xướng chính của lễ hội; truyền bá trò diễn
kéo chữ “Thái - Bình” với sự tham gia của 200 người dân, trò diễn “Diễu quân” với
sự tham gia của gần 300 người dân; tổ chức cho người dân làng Tép (xã Kiên Thọ,
huyện Ngọc Lặc) tập luyện trò diễn múa rồng và các trò chơi dân gian khác. Trong
hai trò diễn mà thời vua Lê Nhân Tông cho thực hiện ở Lam Kinh, hiện tại chưa
phục dựng được trò diễn Bình Ngô p h á tr ậ n , n h ư ns đã đưa trò Xuân phả vào diễn
trình của lễ hội coi như trò diễn C hư hầu lai triều . Đề án được thực hiện năm 2005,
47



VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUỐC TÉ LÀN TH Ứ TƯ

duy trì ở năm sau theo đề án được phê duyệt, nhưng đên các năm eần đây, ngành
văn hóa, thể thao và du lịch lại trở về cách tổ chức cũ: đưa các diễn viên đoàn nghệ
thuật chuyên nehiệp của tỉnh về đóng nhữne vai như đọc văn tế, trình diễn những
nehi lễ trong ngày lễ chính. Đây là bước thụt lùi về quan điểm phục dựng lễ hội của
ngành văn hóa. thể thao và du lịch địa phương.

1.2. Trường hợp lễ hội Kiếp Bạc (tinh Hải Dương)
Lễ hội Kiếp Bạc lại là một trường hợp khác. Trước đây, người dân Kiếp Bạc'
mở lễ hội hàne năm vào nsày 20 tháng 8, đó là ngày chính hội, nhưng từ ngày rằm,
khách thập phương đã kéo về, bến sông thuyền bè đậu chật bến. Diễn trình gồm ỉễ tế,
lễ rước. Bài vị đức Thánh Trần được đặt trên kiệu sơn son thếp vàng, đi qua tam quan
rước ra bờ sône. Kiệu có bài vị của đức Thánh Trần được rước lên thuvền rồng để
rước trên sông chừng 2 tiếne đồng hồ rồi rước trở về. Theo TS. Phạm Lan Oanh, diễn
trình của lễ hội được tổ chức như sau: “Dần đầu là 2 lá cờ của Thiên Đế ban cho Đức
Thánh khi ngài hiển linh và trở thành Thượng Đẳng Tối Linh Thần. Tiếp theo là 5 lá
cờ ngũ sắc xanh, đỏ, vàng, trắng, đen tượng trưng cho ngũ hành, 5 đạo quân. 8 lá cờ
bát quái thêu tên 8 quẻ: Càn, Khảm, cấn , Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Chiêng trống
tượng trưng cho hiệu lệnh của đức thánh, voi ngựa, tàn tán, nghi trượng, bát bảo,
v.v... kiệu thần làm thành một đoàn rước hoành tráng... Dân làng Vạn Yên trước
kia có 8 giáp, phân công mỗi giáp chuẩn bị 4 thuyền. Dân làng Dược Sơn có 4 giáp,
mỗi giáp chuẩn bị 7 thuyền, Thuyền chỉ gồm hai loại. Thuyền nan nhỏ chở được 4
đến 6 người, thuyền gỗ lớn hơn, chở được 8 đến 12 người. Thuyền lớn sẽ chở đồ
nghi trượng, đồ lễ. Thuyền nhỏ chở quan viên hàng eiáp và đội cờ, đội nhạc. Vào
ngày chính hội 20 tháng 8, từ sáng sớm, dân làng Vạn Yên có mặt tại chùa Bắc
Đẩu, dàn làng Dược Sơn có mặt tại chùa Nam Tào đế chờ hiệu lệnh nghênh rước đồ
xuổng thuyền đậu trước bến sông. Theo thứ tự quy định, dân hai làng tuần tự chia

thành hai hàng song song trong đám rước. 10 thuyền rước cờ đi đầu. 5 cờ ngũ hành
bên tả, bên hữu đi đầu là cờ thêu chữ Trần (Đông A), tiếp theo là 4 cờ tứ linh long
ly quv phượng.
4 thuyền chở đội bát âm.
2 thuyền chở thủ hiệu trống và thủ hiệu chiêng.
i . Theo TS. Phạm Lan Oanh, Kiếp Bạc là tên ghép của hai làng Vạn Yên (làng Kiếp) và Dược
Son (làng Bạc) là nơi thờ phụng Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Làng Vạn Yên còn
được gọi là làng Vạn An, gọi nôm na là làng Kiếp, thời Nguyễn thuộc phù Lạng Giang trấn
Kinh Bắc. Làng Dược Sơn gọi nôm na là làng Bạc có nghĩa là bến sông, dưới thời Nguyễn
tluiộc trấn Hải Dương. Sau Cách mạng tháng Tám, Vạn Yên và Dược Sơn sáp nhập thành
hai thôn của xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương vào năm 1946.
48


PHỤC DỰNG CÁC LỄ HỘỈ TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM...

4 thuyền chở bát bừu và chấp kích.
16 thuyền của 8 2Ìáp làne Vạn Yên và 8 thuyền của 4 giáp làns Dược Sơn đều
sắm lễ chay gồm bánh trái hoa quả và lễ mặn có lợn, gà, xôi, bánh... nối tiếp nhau
thành đoàn rước thánh.
Thuyền chở lone đình nối tiếp thuyền lễ vật rước cồ tiến thánh. Trên long đình
có neũ quả, hương hoa và văn tế thánh. Hai bên thuyền chở long đình có thuyền nhỏ
chở tàn và lọng đi kèm. Tiếp theo là thuyền chở long kiệu với 8 đô tùy trai tráng đi
theo. Hai thuyền chở đội tế và theo sau là các thuyền chở bô lão. quan viên chức sấc
và nhân dân trong vùng cùng các vùng lân cận tham dự lễ rước thành đoàn dài mấy
cây số” .
Nói đến lễ hội Kiếp Bạc, là nói tới một sinh hoạt văn hóa dân gian từng tồn tại
ở đây trước kia: lên đồna. Truyền thuyết vẫn kể rằng Trần Quốc Tuấn là Thanh tiên
đồng tử giáng sinh. Thượng đế phái Thanh Tiên đồng tử xuống trần gian, mang theo
phi thần kiếm, cờ ấn, tam bảo của Lão Tử, ngũ tài của Thái Công, giáng sinh vào

một nhà thân vương, làm danh tướng, trừ họa cho dân, cứu nạn cho nước, khi mất
trở thành phúc thần. Vì thế, dòng thanh đồng hay đến nơi thờ Trần Quốc Tuẩn để
hầu đồng. Trước năm 2006, hầu đồne vẫn là một sinh hoạt văn hóa dân gian bị cấm
đoán2. Ngành văn hóa - thông tin (cũ) tỉnh Hải Dương đã xây dựng một Đề án tổ
chức lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc. Trong 5 ngày, từ 7-10 đến 11-10-2006, lễ hội Kiếp
Bạc đã tổ chức với các hành động hội: lễ cáo yết, lễ ban Án, lễ tưởng niệm anh
hùng dân tộc Trần Hưng Đạo và liên hoan các diễn xướng dân gian hầu Thánh. Đẻ
tổ chức được liên hoan diễn xướng dân gian hầu Thánh, chúng tôi ý thức rất rõ đây
là một công việc “nhạy cảm”, nên đã báo cáo Thường trực Tỉnh ủy Hải Dương chi
tiết để xin được chấp thuận. Giải pháp mà Ban tổ chức phải thực hiện là xây dựng
một sân khấu ngoài trời, trong không gian thiêng của di tích, các ông đồng, bà đồng
đã trình diễn các diễn xướne dân gian, thực hiện các giá đồng ngoài sân, trên sân
khấu, nên không xuất hiện tình trạng các ông đồng, bà đồng phán bảo con nhang đệ
tử. Bởi, thông thườne, phải trước thần điện, trước đức Thánh Trần thì các ông đồng,
bà đồng mới bị “ốp” để phán bảo. Thành thử, liên hoan các diễn xướng dân gian
hầu Thánh hoàn toàn chỉ còn là việc trình diễn các diễn xướng dân gian liên quan
đến các giá đồng, vốn là các nhân vật lịch sử - văn hóa của dân tộc. Các thanh đồng
không có sự “phán bảo” khi trình diễn. Từ ấy đến nay, liên hoan diễn xướng dân gian
1. Đền Kiếp Bạc, lề hội và di tích, bản thảo chưa xuất bản.
2. Nghị định 75/CP/2010 của Chính phủ, Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt
động văn hóa chính thức có hiệu lực tù' ngày 1-9-2010 vẫn xác định: thực hiện xử phạt hành
chính từ 1 - 3 triệu đồng đối với các hành vi tổ chức hoạt động lên đồng, xem bói, gọi hồn,
xin xăm ... có tính chất mê tín dị đoan.
49


VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỎC TÉ LẦN T H Ứ TƯ

hầu Thánh được tổ chức vào dịp lễ hội Kiếp Bạc. Cộng đồne CU' dân trone vùns,
nhất là những người có “càn đồng”, được thỏa mãn một nhu cầu của họ, và naười

dân được chiêm ngưỡng quan sát những giá đồng tái hiện những nhân vật lịch sử văn hóa của dân tộc.

1.3. Trường hợp lễ hội Tịch điền Đọi Son (tỉnlì Hà Nam)
Khác với lễ hội Lam Kinh (tỉnh Thanh Hóa), lễ hội Kiếp Bạc (tỉnh Hải
Dươne), lễ hội Tịch điền Đọi Sơn (tỉnh Hà Nam) là một trường hợp khác biệt hơn.
Vào thế kỷ thử X, Lê Hoàn (941-1005) lên ngôi vua năm 980, cai quản đất nước.
Ông là vị vua m ở đầu cho lễ Tịch điền khuyến khích sản xuất nông nghiệp, mở đầu
cho một lễ nẹhi trọna đại mà các vương triều quân chủ về sau noi theo để khuyến
khích phát triển nông nehiệp: “Đinh Hợi, năm thứ 8 (987)... Mùa xuân, vua bắt đầu
cày ruộns tịch điền ở núi Đọi. được một chĩnh nhỏ vàne, lại cày ở núi Bàn Hải,
được một chĩnh nhỏ bạc, vì thế đặt tên là ruộns Kim Ngân” 1. “M ùa hạ, tháng 4,
ngày mồng 1, vua ngự đến Tín Hương ở Đồ Động Giang cày ruộng tịch điền”2.
"Mậu Dần, năm thứ 5 (1038),... mùa xuân tháng 2, vua ngự ra Bố Hải Khẩu cày
ruộng tịch điền. Sai quan dọn cỏ đắp đàn. Vua thân tế Thần Nông xong, cầm cày
muốn làm lễ tự cày, các quan tả hữu có người can ngăn rằng: “Đó là việc của nông
phu, bệ hạ cần gì làm thế?”. Vua nói: “Trẫm không tự cày thì lấy gì làm xôi cúng,
lấy gì để xướng suất thiên hạ?". Thế rồi đẩy cày ba lần rồi thôi”3. Đến nhà Lê, thời
vua Lô Thánh Tông “Quý Tỵ, Hồng Đức năm thứ tư (1473),... mùa xuân tháng
giêng, vua thân đi cày ruộng Tịch điền và đốc xuất các quan cày”4. Thời vua Lê
Hiến Tông, năm 1499: “Cày ruộng tịch điền”5. Thời vua Lê Tương Dực, năm 1514,
“Vua cày ruộng tịch điền”6. Sử gia Phan Huy Chú sau này chép: “ Xét: Đời xưa,
Thiên tử lấy ngày tế trời ở đàn N am Giao, tế phổi thần Hậu Tẳc để làm lễ cầu được
mùa. Tế xone, vua thân đi cày ở Tịch điền. Nước Việt ta từ nhà Lí về trước còn theo
lễ chế cổ, hàng năm, ngày đầu xuân vua ra đồng cày Tịch điền... Đến đầu nhà Lê
thì theo lễ chế nhà Minh, lấv ngày đầu xuân hợp tế Trời Đất, mà ngàv càv Tịch điền
thì chỉ tế thần Hậu Tắc mà không tế Trời nữa. Nhưng trong khoảng các đời Quang
Thuận, Hồng Đức, vua còn thân làm lễ, đem quần thần đi cày, còn là không bỏ ỉễ
chế cô. Đen Trung Hưne về sau, chúa Trịnh đến đàn tế thay việc của vua, mà lễ cày
Tịch điền thì ủy cho Phủ doãn là m ...”7. Đến triều Nguyễn, lễ Tịch điền dược tổ
chức quy 1Ĩ1Ô, do bộ Lễ chủ trì với những quy định cụ thể, và thời vua Khải Định, lễ

Tịch điền không được tổ chức nữa. Như vậy, lễ Tịch điền là nghi lễ quan trọng của
1, 2, 3, 4. Đại Việt sừký’ toàn thư , sđd, tập 3, tr. 171, tr. 209, tr. 214, tr. 249.
5, 6. Đại Việt sừ ký toàn thư , sđd, tập 4, tr. 12, tr. 78.
7. Lịch triều hiến chương loại chí , bản dịch của Tổ phiên dịch Viện Sừ học Việt Nam, Nxb Sừ
học. tập 2, Hà Nội, 1961, tr. 203.
50


PHỤC DƯNG CÁC LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM.

các vương triều quân chủ ở những quốc 2Ía mà phương thức canh tác chủ yếu là
trồng lúa nước. Coi lễ Tịch điền là một di sản văn hóa phi vật thể đã bị mai một,
nhóm thực hiện dự án do PGS.TS. Bùi Quang Thắng làm chủ nhiệm đã phục hồi lễ
hội này gồm các nahi lễ và diễn xướng như rước chân nhanẹ thờ Lê Đại Hành từ
đền Lăng, xã Liêm c ầ n , huyện Thanh Liêm về xã Đọi Sơn. huyện Duy Tiên tỉnh Hà
Nam. lễ rước nước, lễ sái tịnh. N shi lề chính là "nhà vua" đi cày. Từ năm 2009, lễ
hội này được phục hồi. Năm 2010, lần đầu tiên, Chủ tịch nước Cộna, hòa xã hội chủ
nehĩa Việt Nam Nguyễn Minh Triết đã về dự lễ Tịch điền, mặc áo nông dân, cày
những đường cày đầu tiên. Năm 2012, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang lại về dự lễ
Tịch điền và cầm cày, cày những đường cày đầu tiên. Như vậy, lễ Tịch điền đã
được phục hồi, trở thành một sinh hoạt văn hóa tiêu biểu cho lễ hội truyền thốns
của tỉnh Hà Nam từ năm 2009 đến nay.
Với các nhà quản lí ở tỉnh Hà Nam, lễ Tịch điền Đọi Sơn được phục dựng, tiến
hành là một mong muốn được thực hiện, v ấ n đề không chỉ dừng ở phục dựng một
lễ hội truyền thống đã mai một mà còn là một cơ hội tạo ra cú hích cho sự phát triển
du lịch của tỉnh, cho quảng bá hình ảnh của tỉnh. Ông Neuyễn N hư Lâm, Phó chủ
tịch ủ y ban Nhân dân tỉnh bày tỏ: “Lễ hội Tịch điền được khai mạc, đây là một
điểm nhấn về văn hóa đối với người dân vùne chiêm trũng và nẹười dân trồng lúa.
Chúng tôi rất phấn khởi, rất vinh dự và rất tự hào cùng với bà con nhân dân tham
gia cày tịch điền tại cái vùng ruộng m à nơi đây, cách đây hơn 1.000 năm vua Lê Đại

Hành tham gia cày tịch điền tại đây. Và chúng tôi hy vọng rằng, từ lễ hội Tịch điền
nó sẽ quảng bá cho Hà Nam và phát triển sang một số khu du lịch khác và gắn du
lịch với du lịch tâm linh, gán du lịch với văn hóa của tỉnh Hà N am ” 1. Người lãnh
đạo ngành văn hóa, thể thao và du lịch địa phương, ông Trần Quốc Hùng. Giám đốc
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hà Nam phấn khởi: “Nước ta có 70% dân số
là nône dân, vì vậy, lễ Tịch điền hoàn toàn có thể phục đựng thành quốc lễ từng tồn
tại trong quá khứ. N hân dân Hà N am mong muốn, sau này sẽ có sự công nhận và
giúp sức của các cơ quan ban ngành từ Trung ương để lễ Tịch điền dần trở lại được
với vai trò vốn có của nó, trước khi được chính thức trở lại thành quốc lễ”2.

1.4. Không chỉ là những trường hợp đơn lẻ
Không chỉ ba lễ hội trên, phục dựng lễ hội truyền thốne đang là một nhu cầu
có thực của người dân ở các vùng miền và cán bộ quản lí văn hóa các cấp. Năm
2008, Cục Văn hóa Cơ sở thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, đã cùng các Sở
1, 2. Chuyển dẫn từ Cao Trung Vinh, bài “ Phát triển lễ hội truyền thống - nhìn từ cộng đồng, qua
trường hợp lễ hội Tịch điên Đọi Sơn và lễ hội Lảnh Giang - Hà Nam ", in trong tập Dào tôn và
phát huy lẽ hội cổ truyền trong x ã hội Việt Nam đương đại, trường hợp hội Gióng, Nxb Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội, 2012, tr. 795.
51


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUỐC TÉ LẦN T H Ứ Tư

Văn hóa, Thể thao và Du lịch điều tra, thốne kê và cho ra mắt một bộ sách thốn2 kê
về các lề hội truyền thống của tất cả các tỉnh trong cả nước, với một con sô: gần
8.000 lễ hội truyền thống1. Nhiều làng quê, lễ hội truyền thống đã thất truyền, đã
mai một nên lễ hội truyền thống của làng xã không có trong danh mục thốne; kè này.
Vì vậy, mong ìnuốn phục dựng lễ hội truyền thống ở các làng xã khá mãnh liệt; có
cả thái độ tích cực muốn phục dựne lễ hội của làng quê mình, nhưng khôns, phải
không có thái độ, không muốn làng mình thua kém các làng quê khác, v ấ n đề đặt ra

là sự phục hồi ấy có đúne với bản chất của lễ hội truyền thống hay không? Có cần
thiết hay không? Thực ra, với tính chất lễ hội truyền thống là một thực thể văn hóa,
tôn tại trong tâm thức con nsười, trải qua thời gian, trải qua các thế hệ, sự biến đổi
của nó tất yếu sẽ diễn ra. N eư ời dân các thế hệ có thể "thêm vào” hay “ bớt đi”
một số trò diễn, trò chơi, hay nghi thức nào đó. M inh chứng cho điều ấy chúng ta
có thê thây từ sự quan sát của GS.TS. Nguyền Văn Huyên với hội G ióng ừ đền
Phù Đống vào năm 1938: Vào năm 1938, nhà dân tộc học Nguyễn Văn Huyên đã
ghi nhận được m ột chi tiết thú vị về tính linh hoạt trong cách ứng xử của hội
Gióng mà ít người nhận ra. Ô ng dự hội năm 1937 và năm 1938 ông lại tham dự
một lân nữa.
Nhờ sự tỉ mỉ, cụ thể và tinh tế, ông nhận ra rằng có ba khúc hát mới do
phường Ái Lao trinh bày đã xuất hiện năm này (1938). Ông đã kể về bối cảnh của
sự thay đổi đó: viên tri huyện Tiên Du (làng Phù Đổng thuộc huyện này) năm trước
cũng dự lễ hội này và cho rằng ca khúc đó không mấy giá trị, không xứng đáng với
Đại lịnh được tôn thờ ở đây.
Vừa hay, người trợ tá của ông lại là một nho sĩ của nền cổ học. Thế là, các
quan chức trong huyện bấy giờ mới bắt tay vào việc sáng tạo ra bài thơ 8 câu theo
thể lục bát. Bài thơ được chuyển cho phườns, Ải Lao hát. Các ca sĩ của phường đã
linh hoạt sử dụne lời mới nhưng giữ làn điệu cũ. Trone bản tiếng Pháp, ông Huyên
viết: "đoàn ca sĩ hát lên những bài ca đó theo nhịp vốn có của chúnu băng cách biến
cải hai câu hát liên tiếp thành một đoạn ca 6 câu”2.
Như vậy, cuộc đời sẽ chấp nhận những sáng tạo hợp lí như ý kiến của Heghen;
cái gì hợp lí thì tồn tại, cải gì tồn tại thì hợp lí. Sáng tạo những tình tiết mới, hoạt
động mới cho lễ hội truyền thống, nếu nó phù hợp, ắt những sáng tạo ấv sẽ tồn tại.
May chục năm đã trôi qua, mấy khúc hát của một nhà nho ià trợ tá của viên tri
huvện huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh năm 1938 đă tồn tại. được cộne đồna chù

1. Thống kè lễ hội truyền thống, Cục Văn hóa Cơ sờ xb, Hà Nội, 2009.
2. Nguyễn Văn Huy, Tuần Việt Nam , Vietnamnet. vn ngày 17-2-2011.
52



PHỤC DƯNG CÁC LỀ HỘI TRUYỀN THỐNG Ở VIỂT NAM..

nhân của lề hội thờ Thánh GiónÉì đền Phù Đổng chấp nhận. Suy rộng ra, có thể phục
dựng được nhữne lề hội truyền thốnơ đã thất truyền, đã mai một, nếu người làm
công tác bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể nói chune. cône tác phục dựng lễ hội
truyền thống nói riêng tuân thủ và tôn trọng những nsuyên tắc của cône tác này,
cùns như giải quyết thật tốt các vấn đề đặt ra trone quá trình phục dựng lễ hội
truyền thống.
2. Tư liệu thành văn hay tư liệu điền dã, tu liệu ký ức?
Phục dựng lễ hội truyền thốns đã mai một, đã thất truyên là một công việc
khoa học, nhưne mang tính chất nehệ thuật, đó không chỉ là côna việc của người
làm công tác bảo tồn di sản văn hóa phi vật thề. mà còn là công việc của một nhà tổ
chức sự kiện, đạo diễn lề hội. Yếu tố quan trọne là phải tạo dựne một đường dây sự
kiện liên quan đến nhân vật phụns thờ, mà lâu nay, nsười ta hay sọi là “kịch bản lễ
hội” . Đe sắp xếp được trình tự, diễn biến của các thành tố trong lễ hội truyền thống,
người làm công tác tổ chức lễ hội truyền thống phải có tư liệu về lễ hội truyền thống
dự kiến phục hồi. Đặc điểm chung của ba lễ hội truyền thống Lam Kinh, Kiếp Bạc
và Tịch điền Đọi Sơn là các lễ hội này đều đã mai một, tuy mức độ mai một, thất
truyền có khác nhau.
Với lễ hội Lam Kinh, thực ra ghi chép về lễ hội chỉ còn mấy dòne ngắn ngủi
trong thư tịch. Các cán bộ thực hiện dự án Phục hồi lễ hội Lam Kinh năm 2005, do
PGS.TS. Bùi Quang Tháng chủ trì đã tiến hành điều tra điền dă tại các cộng dồng có
liên quan như người dân làng Chain, thị trấn Lam Sơn, xã Xuân Lam, huyện Thọ
Xuân, xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa. Điều thú vị là người dân còn
nhớ khá nhiều các chi tiết về lễ hội Lam Kinh trước năm 1945. Ống Đỗ Văn Yên,
82 tuổi (vào năm 2005), quê thôn Phú Lâm, xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh
Thanh Hóa nhớ rõ: “Trước năm 1945, lễ hội ở đây. tức lễ hội Lam Kinh - (NCB
chủ), do dân làng làm ... lễ vật ở làng Tép là cỗ 3 tầ n g " 1. Ông Bùi Văn Quang, 61

tuổi vào năm 2005, quê tại làng Thành Sơn, xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc, tỉnh
Thanh Hóa nhớ: "Ngày xưa chơi đu, ném còn, kéo co, bấn cung, ban nỏ. Đó là
những trò chơi dân gian. Chúno tôi muốn đề nghị để khôi phục lại cái đó để ngày lễ
hội mang tính chất là phone tục của địa phươne nơi đây"2. Với những tư liệu điền
dã ấy, các cán bộ thực hiện dự án đã xây dựna một “kịch bản tống thể”, rồi đưa kịch
bản này đến cộne đồne thảo luận, aóp ý. Các nhà nghiên cứu chỉ đưa ra những phác
thảo ban đầu, cộne đồng (gồm đại diện trực tiếp, người quản lý ở địa phương, cán bộ
1. 2. Băng tư liệu của Dự án Phục hồi lẽ hội Lom Kinh 2005 do PGS.TS. Bùi Quang Thắng chủ
trì lưu trữ tại Viện Văn hóa Nghệ tluiật Việt Nam.
53


VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TÉ LÀN T H Ử T ư

quản lí) sẽ góp ý những chi tiết. Với một kịch bản lễ hội như vậy. khi triển khai phục
dựng lễ hội Lam Kinh, nhóm cán bộ thực hiện dự án Phục hồi lễ hội Lam Kinh năm
2005 đã khắc phục được những gì còn thiếu của tư liệu thư tịch, tư liệu thành văn.
Tư liệu về lễ tịch điền rất ít, chủ yếu là về lễ tịch điền thời N euvễn của vua
Gia Long. Như vậy có thể thấy, không ai dám khẳng định lễ tịch điền thời Nguyễn
là nguyên mẫu từ thời nhà Tiền Lê, qua nhà Lý. đến nhà Trần rồi nhà Lê. Mà có thể
sau này nhà N guyễn điến chế hóa nó. xây dựna bố sunơ thêm rất nhiều. Để phục
dựna lễ Tịch điên, ch ú n s tôi chỉ sử dụna hạt nhân cơ bản nhất, tức là xác định đây
là một nghi lễ khởi đầu mùa màng vào dịp đầu năm mới.
Cần phải thấy ở Việt Nam có rất nhiều nghi lễ mở đầu năm mới. Tịch điền là
nshi lễ mở đầu hoạt độrm cho một năm của cư dân trồng lúa nước, là hành động
động thô đầu tiên, bắt đầu những đường cày đầu tiên của một mùa vụ mới. Nghi lễ
này thiêng liêng ở chõ nó được thực hiện bởi người đứna đầu của một quốc gia, của
một vương triều. Chúng tôi đề nghị với tỉnh Hà Nam là chỉ giữ lấy hạt nhân cơ bản
chứ không quá phụ thuộc vào tư liệu về lễ tịch điền của nhà Nguyễn. Xử lí quan hệ
giữa tư liệu thư tịch, tư liệu điền dã và tư liệu ký ức, phải chăng ý kiến của Eric

Hobsbawm đáng cho chúng ta suy ngẫm: "Đ áng chú V hơn, từ quan điểm của chúng
ta, là việc sử dụng; các nguyên liệu cổ để xây dựng nên các truyền thống được sáng
tạo từ một dạng tiểu thuyết cho những mục đích rất tiểu thuyết. M ột lượng lưu trữ
lớn những nguyên liệu như vậy luôn tích tụ lại trong quá khứ của bất kỳ xã hội
nào, và thứ ngôn ngữ tinh vi của thực hành trừu tượng cùng giao liên thì luôn sẵn
có. Đôi khi các truyền thống mới có thể được
truyền thổna cũ, đôi khi chúng lại có

nhào nặn ra dễ dàne, dựa trên nền

thể được cấu thành bằng cách vav mượn từ

những "kho chử a” dân gian luôn luôn sẵn hàng, nơi lưu trữ những lễ nghi chính
thống,
cổ vũ đao đứ c” !. Tuv nhiên,•J trong thưc
C7" hê' thống
o hình tư ơ
•' n os và nền tảng o
tiễn, có những ỉễ hội truyền thống không xử lí thật tốt quan hệ giữa tư liệu thư tịch
và tư liệu điền dã, tư liệu ký ức, nên dạng thức mới mẻ của sáng tạo truyền thốn a
ở các lễ hội truyền thống được phục dựng đã trở nên giả tạo. tỏ ra khône, ãn nhập
với đường dây tín ngưỡng của lễ hội ấy. Chảng hạn, trong lễ hội đền vua Mai ở
Nghệ An, một bài văn tể do một nghệ sĩ trình diễn không có sức lane đọneu nhưng
trong lề Tịch điền, bài văn trình do lãnh đạo tỉnh đọc trước một ban thờ dựng lên
eiừa đồng lại có sức lôi cuốn và nó không tạo ra sự khập khiễng tro ns chuỗi sự
kiện của lễ hội này. Bài văn tế vua Mai trong lễ hội đền vua Mai chính lá một hiện
tượng “giả” folklore.

1. Bản tiếng Việt của N guyễn Hoàng Nhị Hà, TS. Bùi Hoài Sơn hiệu đính, tạp chí Văn hóa
học, số 1-2012, tr. 90.

54

’o


PHỤC DƯNG CAC LỄ HÔI TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM...

3. Cộng đồng, chu thê lễ hội truyền thống hay khách tham quan?
Lỗ hội là sinh hoạt của cộns đồng, sinh ra trong cộng đồng, phục vụ cho nhu
cầu cua cộna đồne. Nauyên tắc cơ bản của phục dựng lề hội truyền thống phải là
xác định được vai trò của cộng đồna. Cộna done là chủ thể sánR tạo, nhưng cũng là
khách thể tiếp nhận lề hội truyền thốne. Vì thế. phải đặt lên hàng đầu nguyên tắc
của lề hội truyền thống là sinh hoạt văn hóa của người dân trong khi phục dựng lễ
hội. Khi tổ chức sinh hoạt văn hóa ấy. không được để n g ư ờ i dân làm những vị khách
tham quan đứng ở bên lề của lễ hội và nhà quán lí không làm thay cộng đồng, không
làm mất vai trò của cộng đồng. Đáno tiếc là trong quá trình phục dựng, phục hồi một
số lỗ hội truyền thôna. nsuyên tắc này đã không được chú trọng, và tuân thủ.
Vì vậv. vấn đề đặt ra trone việc phục dựng lễ hội Lam Kinh là quan niệm về
chủ thể sáng tạo vả khách thể tiếp nhận của lề hội v ù n s Lam Kinh. Neu xác định
bản chất của lễ hội vùng Lam Kinh là lễ hội thờ nhân vật lịch sử thì chủ thế sáng
tạo, bảo tồn và lưu giữ lễ hội phải là người dân vùng Lam Kinh. Thời trước, các vua
quan nhà Lê giữ vai trò người bái yết sơn lăng, còn người diễn trò, diễn tích và thực
thi toàn bộ lễ hội, phải là toàn bộ nhân dân vùng Lam Kinh. Chủ thế sáng tạo lễ hội
Lam Kinh là người dân vùng Lam Kinh, vì vậy sự chuyển đổi về mặt nguyên tắc trả
vai trò chủ thể của lễ hội cho cộng đồng người dân, các cơ quan quản lí nhà nước
giữ vai trò tổ chức, quản lí là một chủ trương đúng về mặt lí luận. Ket quả, dự án
Phục hồi lễ hội Lam Kinh năm 2005 đã khôi phục lễ cáo yết của người Mường tại
đền Tép - nơi thờ Lê Lai; khôi phục lễ rước của đền vua Lê với sự tham eia của gân
500 người dân ở xã Xuân Lam và làng Cham, thị trấn Lam Sơn. Lễ rước của đền
Tép với khoảng 300 người dân gồm đội cờ, đội rồng, đội kiệu, đội chấp kích, đội

bát âm, đội tế nam, đội dân binh và đội thiếu nữ M ường; khôi phục nghi lễ giao
kiệu khi kiệu vua Lê eặp kiệu Lê Lai và đám rước chuns của cả hai đoàn rước kiệu
Lê Lợi và kiệu Lê Lai; tổ chức ở làng Cham, thị trấn Lam Sơn một đội trống, chiêng
(21 trống, 4 chiêng và 4 cặp não bạt), luyện tập, hòa tấu ở trình độ nghệ thuật cao
những bài trổng để phục vụ những nghi lễ, diễn xướng chính của lễ hội; truyền bá
trò diễn kéo chữ "Thái - Bình'’ với sự tham gia của 200 người dân, trò diễn “Diễu
quân” với sự tham gia của gần 300 người dân; tổ chức cho người dân làng Tép (xã
Kiên Thọ. huyện N eọ c Lặc) tập luyện trò diễn múa rồng và các trò chơi dân gian
khác. Thực tế, lễ hội Lam Kinh 2005 đã thành công tốt đẹp. Sau lễ hội, trong Hội
thảo khoa học "Phục hồi lễ hội Lam Kinh, lí luận và thực tiễn”, các nhà khoa học,
nhà quản lí đã khẳng định tính đúng đắn về chủ trương và hiệu quả tâm lí xã hội của
lễ hội Lam Kinh 2005. Người dân hồ hởi, phấn khởi vì được nhận vai trò chủ thể
vốn có của họ trong tổ chức, thực hiện lễ hội, chứ không còn đóng vai khán giả,
khách tham quan như những mùa lễ hội đã qua, đứng naoài xem các diễn viên của
55


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUỐC TÉ LÀN TIIỬ T ư

các đoàn nghệ thuật chuyên nehiệp của tỉnh trình diễn các trò diễn lễ hội của què
hương mình. Chưa kể, tác dụng của dự án về mặt kinh phí, đã tiết kiệm rất nhiều
cho ngân sách nhà nước, về mặt quản lí nhà nước, ngành văn hóa thôns tin cù, đà
thực hiện đủng vai trò của mình, không phải “làm thay” cho người dân.
Nhưne thật đáng tiếc, dự án Phục hồi lễ hội Lam Kinh năm 2005 chi thực hiện
được năm đâu và duy trì qua năm sau. Rồi ngành Văn hóa thông tin (nay là ngành
Văn hóa, Thể thao và Du lịch) địa phương lại bỏ tất cả những kết quả đã đạt được,
tổ chức lễ hội Lam Kinh như mô hình cũ: đưa diễn viên chuyên nghiệp từ thành phố
Thanh Hóa về "làm thay” nsười dân Lam Kinh ở mọi khâu mà họ cho là quan
trọna!?. Thực ra, họ đã nhà nước hóa công tác phục dựng lễ hội truyền thống, khiến
cho người dân bị mất vai trò chủ thể lễ hội, trở thành người khách tham quan, dứng

bên lề xem những trình diễn văn hóa, vốn là di sản văn hóa phi vật thể mà tỏ tiên
của họ trao truyền cho họ từ bao đời nay, do các diễn viên chuyên nghiệp thực niện
một cách vô hồn!
Vấn đề đặt ra trong phục dựng lễ hội Tịch điền Đọi Sơn, còn khó khăn hơn
nhiều cho nhóm thực hiện đề án do PGS.TS. Bùi Quang Thắng chủ trì. Tư liệu
thành văn, hầu như khône có, là một khó khăn cho những người thực hiện, nhưng là cơ
hội đề tạo cho người dân phát huy vị thế vừa là chủ thể, vừa là khách thể của n inh.
Trong suốt thời gian trước khi diễn ra lễ hội. nhóm công tác đã chủ động khai thác
những di sản văn hóa phi vật thể của địa phương, rồi triển khai khai thác khả năng '.hực
hiện của người dân trong vùng, ví dụ khả năn2 đánh trống của người dân làng Đọi
Tam, múa rồng của cư dân trong xã, v.v... Quả thực, người dân xã Đọi Sơn đà thể
hiện vai trò chủ thể sáng tạo của mình từ khâu tham gia tập luyện đến tham gia các
diễn xướng cùa lễ hội. Những người phụ nữ làng Đọi Tam đã tự nguyện bỏ tiền
mua trống, trang phục tham gia luyện tập như đội rồng, đội cờ, đội nghi lễ. Iheo
nhóm phục hồi lễ hội Tịch điền Đọi Sơn năm 2009: “trong quá trình tập duyệt, ban
tổ chức lễ hội cũng hỗ trợ kinh phí cho người tập là 20.000đ/ngày, nhưng những
người dân ở đây nói rằng, số tiền đó đổi với họ chẳng là bao, vì với họ chẳng cằn đi
đâu xa chỉ làm thuê trong các xưởng trống ở làng, hoặc phụ xây... cũng có thế kiếm
được 50.000 - 70.000đ/ngày. Họ đi vì đó là lễ hội của chính họ, một người tâm sự:
"Vì công việc chung của xã nên ai cũng nhiệt tình tập luyện, chưa bao giờ chúng tôi
có một lễ hội to và đẹp như thế này"1.
Bởi tham gia vào quá trình phục dựng lề hội như một chủ thể sáne tạo nên
người dân Đọi Sơn rất phấn khởi. Cụ Nguyễn Cộng Hòa ở thôn Đọi Trung, xã Đọi
Sơn. huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. đã 80 tuổi (năm 2009), phấn khởi nói: "Tô đã

1. Chuyển dẫn từ Cao Trung Vinh, bđd, tr. 796.
56


PHỤC DỰNG CÁC LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM.


ở cái tuổi "aần đất xa trời" rồi vậy mà năm nay lại được chứng kiến tận mắt lễ hội
Tịch điền của quê hương, phấn khởi lắm. Đảng, Nhà nước đã quan tâm khôi phục
lại lề hội truyền thống của tổ tiên không chỉ giữ gìn nét đẹp truyền thốns của cha
ône để lại mà còn giáo dục thế hệ con cháu đời sau tiếp bước cha ông xây dựng quê
hương, đất nước ngày càne eiàu đẹp” 1. Nói cách khác, cộng đồne đã thực hiện tất
cả công việc của quá trình phục dim e với tư cách là chủ the sáng tạo. Theo Cao
Trung Vinh, người tham gia nhóm phục hồi lễ hội Tịch điền Đọi Sơn năm 2009,
ông Phạm Tư Lành. Bí thư Huvện ủy huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam đã phát biếu:
“Chúng tôi đánh giá rất cao vai trò của các tans lớp nhân dân tham gia lễ hội, và
trong thực tế của lễ hội Tịch điền, nhân dân tham gia từ các hoạt độns lễ hội cho
đến các hoạt động cày, tất cả phần lễ phần hội do nhân dân và các tín đồ phật tử
tham gia và tôi nghĩ ràns với một tinh thần như vậy thì từ nhữna năm sau, lề hội
chắc chắn sẽ là một truyền thống của địa phương"2.
Như vậy, phục dựng lễ hội truyền thống luôn đứng trước một thách thức: làm
sao để cộng đồng thực sự là chủ thể sáng tạo của lễ hội, chứ không phải là khách
tham quan, đứng bên lề đường, bên ngoài “không gian thiêng” đế xem lễ hội của
quê hương mình, làng xã mình. Xu hướng khá phổ biến trong đời sống văn hóa
hiện nay là một số lễ hội, festival đương đại đã bị hành chính hóa, quan phương
hóa, do các đoàn nghệ thuật tinh hoặc trung ương thực hiện. Nhiều lí do được đưa
ra để biện luận cho cách làm này như: đây là nghi lễ quan trọng mang tầm cấp
tỉnh, cấp trung ương nên chỉ diễn viên đoàn nghệ thuật chuyên nehiệp mới tác
nghiệp được, nào là kịch bản quy định như vậy, v.v... Với những lễ hội được thực
hiện như thế, chưa kể những tốn kém cho ngân sách nhà nước, nỗi vất vả của cơ
quan quản lí nhà nước v .v ..., mà hậu quả là lễ hội nhanh chónơ rơi vào quên lãng,
bởi chúne không khác một cuộc “mít tinh” là bao?!
4. Bảo tồn “ nguyên gốc” hay sáng tạo truyền thống
Như vậy, phục dựng lễ hội truyền thổna qua ba lễ hội mà Viện Văn hóa Nghệ
thuật Việt Nam thực hiện tronc khuôn khổ của Chương trình mục tiêu quốc gia về
văn hóa, là một quá trình sáng tạo truyền thống. “Thuật ngữ “truyền thống qua sáng

tạo" được sử dụng theo một nghĩa rộng, tuy nhiên khôn? hẳn là thiếu chính xác. Nó
bao gồm những “truyền thống” thực tế đã được sáns tạo ra, được xây dựng thành,
được hợp thức hóa; và bao gồm cả những eì đang nhen nhóm theo một lối khó truy
nguyên hơn, trona một khoảng thời ?ian naan và dễ xác định niên đại hơn - cứ cho

1, 2. Chuyển dẫn từ Cao Trung Vinh, bđd, tr.796, tr.794.
57


VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QƯỐC TÉ LẦN T H Ử T ư

là trong vòng vài năm chẳng hạn - nhưng lại có khả năng định hình nhanh chóng
hơn trong tiềm thức cộng đồna” 1. Xác định điều ấy, tôi hiểu sẽ gặp tranh luận: lễ
hội truyền thốns nói riêng, di sản văn hóa phi vật thế nói chune cần bảo tồn theo
quan điểm bảo tồn neuyên gốc. không được làm biến dạng di sản văn hóa phi vật
thê. Vấn đề đặt ra là di sản văn hóa phi vật thể tồn tại tronơ tâm thức con người, mà
con người luôn có các thế hệ khác nhau, và nó có thể bị biến đổi vì con người, phục
vụ cho mục đích hưởng thụ văn hóa của con người. Mặt khác, thế nào là nguyên gốc
với một di sản văn hóa phi vật thể? Tính thời điểm cho sự nguyên gốc của một di sản
văn hóa phi vật thể quả thực là công việc khó khăn không khác gì "mò kim đáy biển”.
Khi xác định tính nguyên gốc đã khó khăn thì xác định tính truyền thống của di sản
văn hóa phi vật thể càng khó khăn hơn. Chẳng hạn, với dân ca Quan họ Bắc Ninh,
xác định tính nguyên gốc thì nên lấy thời điểm nào: 1930, 19-45 hay 1954?! Bài ca An
ở trong rừng do ông Nguyễn Đức Sôi, nguyên Trưởng đoàn Dân ca Quan họ Bắc
Ninh sáng tác những năm sáu mươi của thế kỷ XX, có được cho là truyền thống, là
nguyên gốc cần được bảo tồn? Cộng đồng nghệ nhân, nghệ sĩ của đoàn Dân ca Quan
họ Bắc Ninh vẫn coi nó là một sáng tác tuyệt vời, luôn trình diễn mà chả băn khoăn
về tính truyền thống hay nguyên gốc của nó. Nghĩa là, cộng đồng có chấp nhận sáng
tạo ấy hay không!
Nói vậy, không có nghĩa sáng tạo truyền thống là sự phủ định bảo tồn di sản

văn hóa phi vật thể, mà chúng cần hỗ trợ nhau, làm giàu cho nhau. Trong sự nghiệp
bảo tôn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể, hai hoạt độns, sáne tạo truyền thống
và bảo tồn di sản phải được chú trọng như nhau. Phục đựnẹ lễ hội truyền thống phải
được chú trọng như bảo tồn lễ hội truyền thống2.
5. Phát huy hay phát triển lễ hội truvền thống?
Câu chuvện phục dựng lễ hội truyền thống còn chịu một sức ép của truyền
thôna đại chúng. Cứ vào mùa lễ hội, câu hỏi thế nào là phát huy lễ hội truyền thống?

]. Bản tiếng Việt cùa Nguyễn Hoàng Nhị Hà, bđd, tr. 85.
2. Trong việc sử dụng các thuật ngữ về lễ hội, rõ ràng không có sự nhất quán. Tôi nghĩ cần
phân biệt rành mạch ba loại: thứ nhất là lễ hội truyền thống; thứ hai là những cuộc mít tinh
(lễ kỷ niệm) có trình diễn văn nghệ và thứ ba là các liên hoan vãn hóa nghệ thuật và du [ịch
mà một số người hay gọi một cách dễ dãi, pha chút tâm lý sính ngoại: festival, v ấ n đề không
chỉ đặt ra là sự phân biệt khái niệm, mà do hiểu lẫn lộn, m ột số người hay khái quát rằng:
hiện nay nước ta tổ chức lễ hội tràn lan, tốn kém sức của, sức người. Lễ hội truyền thống ở
các làng xã chắc không tốn kém ngân sách nhà nước, mà tốn kém cho ngân sách nhà nước
và hiệu quả thỉ chưa thể nói là cao chính là các festival, nhưng lại chưa là vấn đề đặt ra từ
bài viết này
58


PHỤC DỰNG CÁC LỄ HÔI TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM...

Thế nào là phát triển lề hội truyền thống? Làm thế nào để lễ hội truyền thốne, trở
thành nội lực phát triển, nhất là phát triển du lịch lại rộ lên trên mặt các báo. Phát
huy và phát triển là các khái niệm khôns đồng nhất. GS. Đào Duy Anh trong Hán
Việt từ điển giải nahĩa ph á t huy là “ đem cái ý tứ thầm kín trong tâm lí mà phát triển
cho rộng” . Từ điển tiếng Việt của nhóm các tác gia Nguyễn Ngọc Bích, Trân Thu
Hằng, Chu Anh Tuấn, Quanẹ ú y , Quang Minh thì giải thích phát huy là "làm tỏa ra
tác dụng tốt”2. T rons khi đó từ phát triển được GS. Đào Duy Anh giải nghĩa: “mở

manu ra"3 và các tác giả Từ điển tiếng Việt giải thích: “mở mang từ nhỏ thành lớn”4.
Hai phạm trù này, mới nghe, tưởng là gần nghĩa, nhưng thực ra, có sự khác biệt.
Phát huy giá trị của lễ hội truyền thống là làm cho nó phát lộ ánh sáng, có thể sẽ
không làm thay đổi cấu trúc, còn phát triển là sự thêm vào, mở mang các yếu tố của
nó. Trong đời sống văn hóa hiện nay, nhiều festival văn hóa được tổ chức như:
festival dừa, festival cà phê, festival lúa gạo, festival Huế, festival biển, v.v...
Người ta cứ đinh ninh ràng, các festival này là sự phát huy lễ hội truyền thống, nhất
là nó được gắn bó với câu chuyện phát triển du lịch của địa phương, như một hạt dẻ
mầu nhiệm có khả năng biến lễ hội truyền thống thành con gà đẻ trứng vàngì Chưa
bản đến sự khác biệt căn bản giữa lễ hội truyền thống và festival đương đại, "‘phần
lớn các lễ hội và sự kiện được tạo ra không chỉ để kiếm lợi nhuận. Chúng được hình
thành từ nhu cầu sâu sắc hơn của cộng đồng trong việc kỷ niệm, biến đổi hay thăng
hoa’'5. Nói khác đi, lễ hội truyền thống là câu chuyện của tín ngưỡng, của niềm tin
dân dã, đôi khi thô ráp n h ư n g sâu lắng, mang vẻ xa mờ của thời tiền sử, nhưng cũng
nóng hổi không khí của ngày hôm nay, nó không liên quan đến đồng tiền. Nó là câu
chuyện của cộng đồng, cho nên cái phát triển phải được cộng đồng chấp nhận. Ghi
nhận của GS.TS. Nguyễn Văn Huyên vào năm 1938 với những câu hát mới được
sáng tạo, đưa vào hội Gióng, không gây ra phản cảm gì, rõ ràng đó là sự phát triển
hợp lí, mà chúng ta luôn cần lưu ý khi quan sát các lễ hội truyền thống trên lát cắt
đương đại. Bản chất di sản văn hóa phi vật thể không phải là một hiện tượng nhất
thành bất biến mà luôn có sự thay đổi, đắp bồi của các thế hệ con người khác
nhau. Bởi vậy, sự phát triển lễ hội truyền thống là điều từng xảy ra trone lịch sử.
Trường hợp lễ hội Tịch điền là ví dụ rõ ràng nhất cho việc phát triển lễ hội truyền
thống? Sử dụng các di sản từng có để cấu thành một sáng tạo truyền thống,

1. In lần thứ 3, Trường Thi xb, Sài Gòn, 1957, tập Hạ, tr. 102.
2. 4. Từ điển tiếng Việt, Nxb T ừ điển Bách khoa, Hà Nội, 2005, tr. 673, tr 674.
3. Hán Việt từ điển, sđd, tập hạ, tr. 104.
5. Jo Caust, 2012, “G iữ gìn tính toàn vẹn cùa lễ hội, cách để không làm mất đi “con ngỗng
vàng”, trong tập Bào tồn và phát huy lễ hội cồ truyền trong xã hội đương đại, trường hợp

hội Gióng , N xb Văn hóa - T hông tin, Hà Nội, tr. 347.
59


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUÔC TÉ LẦN TH Ứ T Ư

trên một đường dây tín ngưỡng để xây dựng một chuồi các sự kiện của ngày hội
Tịch điền, phải chăng là một cách phát triển lễ hội truyền thống?!
Vấn đề còn lại là quan niệm về công việc phát huy giá trị của lễ hội truyền
thống? Làm sao để những giá trị ấy trở thành tài sản của thế hệ hôm nay, lan tỏa
trong cuộc sổng hôm nay. Những gì là sáng tạo của cộng đồna, đưọ’c cộng đồng
chấp nhận sẽ có sức sons trong thời gian, những sì khône là sáne tạo của cộng đồne
thì sẽ không tồn tại lâu dài với cộng done. Một vài festival đương đại của chúng ta,
không có sức sổng trong cộng đồng, bởi chúng không có tác động nhiều lắm trong
cộng đồng.
Lòi đóng
Phục dựne lễ hội truyền th ốn s là một hoạt độno sáng tạo truyền thống như lí
thuyết của Eric Hobsbraw m và Terrence Ranger trone The invention o f traditions.
Nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan đã khiến một số lễ hội truyền thốna ở
các làng quê trone cả nước mai một, thất truyền? Nhu cầu của cộng đồng mong
m uốn các lễ hội ấy được phục hồi. Đáp ứng nhu cầu ấy là một C Ô I1S việc cần làm.
Khoản 3, điêu 25 của Luật D i sản văn hóa năm 2001, được sửa đôi bo sung năm
2009 đã khẳng định: “ Phục dựne. có chọn lọc một số nghi thức lễ hội truyền
thống” 1. Nghĩa là, ở Việt Nam, công việc này đã có một cơ sở pháp lí hẳn hoi. Tuy
nhiên, nếu không đảm bảo những nguyên tắc, xử lí tốt các quan hệ, các chiều kích:
tư liệu thư tịch, tư liệu điền dã, tư liệu ký ức và vai trò của cộng đồng, công việc ấy
khó đạt được như chúng ta m o n s muốn. N hững năm qua, Viện Văn hóa Nehệ thuật
Việt Nam trong vai trò cơ quan thực hiện Chương trình mục tiêu quốc sia về văn
hóa, đã phục dựng m ột số lễ hội truyền thống. Có thể còn những tranh luận về các lễ
hội được phục dựng ấy, nhưng; tôi nghĩ, khởi dựng những sáng tạo văn hóa, tìm

được liến2 nói đồng thuận, âu cũng là công việc khỏ. Nhìn từ phía cộng đồng, với
tư cách vừa là chủ thể, vừa ỉà khách thể của lễ hội truyền thốne, người dân có được
niềm vui, sự phấn khởi khi lễ hội của làng xã có từ xa xưa, tưởng đã mất, đã mai
một nay lại được phục dựng để lưu trữ ià quý giá vô cùng.

1. Luật Di sán văn hóa năm 2001, được sứa đổi bố sung năm 2009. Nxb Chính trị quốc gia. Hà
Nội, 2009, tr. 44.



×