Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Các lễ hội truyền thống của người H’ Mông tại xã Quảng Hòa huyện Đăk Glong tỉnh Đăk Nông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.47 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Từ bao đời nay, lễ hội truyền thống đã trở thành hình thức sinh hoạt văn hóa cộng
đồng, mang tính tâm linh và có ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Lễ hội là sự kết tinh từ sản
phẩm văn hóa truyền thống của dân tộc. Nó có một vị trí, vai trò khá quan trọng trong
đời sống văn hóa cuả một cộng đồng và cũng là một trong những sự kiện văn hóa nổi
bật. Để tìm hiểu về một nền văn hóa, người ta thường bắt dầu từ những gì gần gũi nhất,
gắn liền với đời sống sinh hoạt hàng ngày của con người . Trong đó lễ hội là một sinh
hoạt cộng đồng không thể thiếu trong mỗi tộc người .Bởi vì bên trong nó chứa đựng
những văn hóa phản ánh tới sinh hoạt đời sống của mỗi con người , mỗi dân tộc. Và
mỗi vùng miền, mỗi dân tộc, mỗi tộc người lại có một phong cách và những đặc sắc
riêng biệt trong văn hóa lễ hội. Đó thực sự là lời mời gọi hấp dẫn cho những ai muốn
tìm hiểu và nghiên cứu về văn hóa các dân tộc. Trong nền văn hóa của dân tộc Việt
Nam thì văn hoá H’ Mông là một trong những nền văn hoá có lịch sử lâu đời trên đất
nước ta. Trong những năm gần đây, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường đã làm
mai một phần nào đó những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc H’ Mông nên việc
nghiên cứu về lễ hội truyền thống của người H’mông là một việc cần thiết để mọi
người có thêm hiểu biết nhằm góp phần giữ gìn và phát huy những gía trị văn hoá
truyền thống ấy của dân tộc H’Mông.
Xuất phát từ những nhận thức trên, tôi đã chọn đề tài về: “ Các lễ hội truyền thống
của người H’ Mông tại xã Quảng Hòa huyện Đăk Glong tỉnh Đăk Nông”. Với việc
tìm hiểu này mục đích đặt ra trước hết của đề tài là dựng lại một bức tranh sinh động về
lễ hội của một xã cụ thể là xã Quảng Hòa huyện Đăk Glong tỉnh Đăk Nông. Thông qua
việc mô tả , phân tích các hoạt động cụ thể của các lễ hội, để từ đó góp phần vào việc
tìm hiểu những biến đổi của lễ hội hiện nay so với những lễ hội truyền thống. Và cũng
thông qua việc tìm hiểu này Tôi muốn khẳng định hơn nũa về vai trò của sinh hoạt lễ
hội truyền thống trong đời sống văn hóa tâm linh của những người dân sống trong cộng
đồng làng xã nông thôn hiện nay. Đồng thời từ những lễ hội cụ thể tại xã Quảng Hòa,
Tôi muốn góp phần làm tăng thêm sự hiểu biết của mình cũng như của tất cả mọi người
về bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số. Đặc biệt là dân tộc H’Mông.
1


Cuối cùng, với nghiên cứu của mình tôi muốn cung cấp thêm những tư liệu giúp
cho những nhà quản lí, các nhà nghiên cứu văn hóa trong việc bảo tồn, khai thác và
phát huy các giá trị của lễ hội truyền thống trong bối cảnh xã hội hiện đại.
2. Lịch sử nghiên cứu.
Việc tìm hiểu một số lễ của người hội truyền thống của người H’Mông được các
nhà nghiên cứu rất quan tâm từ trước đến nay. Dân tộc H’mông sống chủ yếu ở khu vực
miền núi phía Bắc nước ta nhưng trong quá trình sinh sống thì họ đã di cư đến khắp nơi
để tạo dựng cuộc sống riêng của mình.
Các nhà nghiên cứu Đặng Văn Lung, Thu Linh đã có đề cập ít nhiều đến các lễ hội
truyền thống của người H’mông trong cuốn: “ Lễ hội truyền thống các dân tộc Việt
Nam”, xuất bản năm 1984 bởi nhà xuất bản Văn hóa dân tộc. Hay các nhà nghiên cứu
Thạch Phương, Lê Trung Vũ cũng nghiên cứu tới các lễ hội truyền thống của các dân
tộc trên cả nước .
Bên cạnh đó, một số tạp chí Dân tộc học và các tạp chí văn học dân gian hay nguồn
tin trên internet cũng đã đưa ra những bài viết của mình về người H’mông để cho đọc
giả gần xa biết
Hay nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh cùng các đồng nghiệp đã viết nên cuốn sách “ Sơ
lược truyền thống văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam”, xuất bản năm 1999, nhà
xuất bản Giáo dục mà dân tộc H’mông cũng ở trong đó. Ngoài ra, còn rất nhiều các nhà
nghiên cứu khác cũng đang nghiên cứu vấn đề này.
Các nhà nghiên cứu trên tuy chỉ mới đề cập đến những vấn đề sơ lược nhưng phần
nào cũng cho ta biết nhiều điều bổ ích và lí thú về những lễ hội. Và đề tài mà tôi đang
tìm hiểu là đề tài khảo sát đầu tiên của tôi trong việc khái quát chung về một số lễ hội
truyền thống của người H’mông tại xã Quảng Hòa huyện Đăk Glong tỉnh Đăk Nông
nhằm nâng cao kiến thức của tôi trong việc tìm hiểu văn hóa các dân tộc. Qua việc tìm
hiểu về lễ hội truyền thống của người H’Mông tôi cũng muốn góp phần làm tư liệu
tham khảo cho những ai muốn nghiên cứu vấn đề này sâu hơn trong tương lai.
3. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu nhằm mục đích tìm hiểu các lễ hội truyền thống của người
H’Mông để giúp mọi người hiểu hơn về những lễ hội truyền thống của người

2
H’ Mông. Qua đó nhằm nâng cao ý thức bảo tồn và phát huy những gía trị văn hoá
truyền thống của dân tộc H’ Mông. Bên cạnh đó mục đích nghiên cứu của đề tài góp
phần làm tư liệu cho việc nghiên cứu sau này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng
Đề tài đi sâu vào nghiên cứư các lễ hội truyền thống của người H’ Mông trong đời
sống xã hội như trong những ngày lễ tết, lễ hội, ngày cưới …Đồng thời đề tài còn đi
sâu vào nghiên cứư bản sắc văn hoá riêng của dân tộc H’ Mông.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Do điều kiện chưa cho phép nên đề tài nghiên cứu chỉ giới hạn trong phạm vi của
người H’ Mông tại xã Quảng Hoà huyện Đăk Glong tỉnh Đăk Nông
5. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin: Đây là phưong pháp được xem
là cơ sở lý luận trong sự nhìn nhận đề tài, cấu trúc đề tài và sử lý nội dung.
- Phương pháp lịch sử: Để nghiên cứư về lễ hội truyền thống của người H’ Mông tại
xã Quảng Hoà dưới góc độ lịch sử.
- Phương pháp điền dã: Là công cụ cơ bản trong việc thu thập và khai thác các thông
tin văn hoá thông qua các lễ hội truyền thống.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích: Các phương pháp này được áp dụng trong việc
xử lý các thông tin được khai thác từ việc đi khảo sát để trình bày trong đề tài.
6. Đóng góp của đề tài.
Đề tài là công trình nghiên cứư và giới thiệu một cách có hệ thống và tương đối
đầy đủ về lễ hội truyền thống của người H’ Mông tại xã Quảng Hoà huyện Đăk Glong
tỉnh Đăk Nông và những giá trị văn hoá đặc sắc của người H’ Mông thông qua các lễ
hội truyền thống đó.
Đề tài còn góp phần bảo tồn và phát triển các giá trị văn hoá của người H’ Mông
nói riêng và của các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung.
Đề tài còn đem lại nguồn tư liệu cho các nhà nghiên cứư khoa học xã hội và văn
hoá dân gian.

3
7. Cấu trúc
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục. Đề tài gồm hai chương:
• Chương 1: Tổng quan về người H’ Mông
1.1. Nguồn gốc về người H’Mông
1.2. Dân số và địa bàn cư trú
1.3. Ngôn ngữ
1.4. Tiểu kết
• Chương 2: Tìm hiểu một số lễ hội truyền thống của người H’ Mông tại xã
Quảng Hoà huyện Đăk Glong tỉnh Đăk Nông.
2.1. Khái quát chung về xã Quảng Hòa huyện Đăk Glong tỉnh Đăk Nông
2.2. Khái niệm về lễ hội truyền thống
2.3. Tìm hiểu lễ hội truyền thống của người H’Mông tại xã Quảng Hòa huyện
Đăk Glong tỉnh Đăk Nông.
4
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGƯỜI H’MÔNG
1.1. Nguồn gốc của người H’Mông.
Tên tự gọi: H’Mông, Na, Miẻo.
Tên gọi khác: Mẹo, Mèo, Miếu hạ, Mán trắng.
Người H’ Mông chủ yếu sống ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
Tập trung nhiều ở tỉnh Hà Giang
Người H’Mông là nhóm người có nguồn gốc từ châu Âu, di dân dần đến vùng đồng
khô Siberia rồi mới đến định cư ở lưu vực sông Hoàng Hà vài ngàn năm trước. (Trong
thế kỉ XVII những nhà truyền giáo Tây phương lần đầu tiếp xúc với nhóm H’Mông
sống hoang dã ở vùng Vân Nam- Trung Quốc lấy làm ngạc nhiên thấy họ không có nét
thuần á châu mà lại có người có màu tóc hung, bạch kim và vài người lại có mắt xanh-
chính vì vậy mà người Hoa gọi họ là Miêu, hay mèo).
Hình ảnh những cô gái H’ Mông (Vân Nam-Trung Quốc)
ở tất cả các triều đại lớn của Trung Hoa đều có bóng dáng của những cuộc tàn sát giữa

Hoa tộc và Miêu tộc một cách tàn bạo và không cho họ tồn tại song song với Hoa tộc.
Cho đến năm 1855 khi bị quân Thanh truy sát xuống tận Vân Nam, người Miêu cùng
đường đã phải kéo xuống Miến Điện và Đông Dương (trong đó đến Việt Nam là
khoảng 6000 người kéo vào Đồng Văn ở gần biên giới.)
Và từ đó một nhóm người Miêu của Trung Hoa định cư sinh sống trên các thung lũng
của miền núi phía Bắc Việt Nam và được gọi theo cách của người Việt Nam là người
Mông.
Về lịch sử, theo các nhà nghiên cứu, dân tộc H’Mông là dân tộc thiểu số sống ở
Trung Quốc (người Trung Quốc gọi là Miêu). Trong lịch sử, từ thế kỷ thứ IV, ở Trung
Quốc đã hình thành Vương quốc H’Mông. Trong nhiều thế kỷ, họ phải liên tục đấu
tranh chống lại sức ép của người Hán. Đến thế kỷ X, Vương quốc H’Mông tan rã.
Tuy nhiên, người H’Mông không chịu sự đồng hóa của người Hán. Do sự chèn ép
của người Hán, người H’Mông di cư xuống phía Nam. Như vậy, người H’Mông sống ở
các nước trên thế giới hiện nay đều có nguồn gốc từ Trung Quốc. Những mâu thuẫn
5
giữa người Hán và người H’Mông ở Trung Quốc trong lịch sử dẫn tới sự di cư của
người H’Mông rất nặng nề, cho đến nay vẫn tồn tại dưới dạng này, dạng khác ..
1.2. Dân số và địa bàn cư trú
Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc H’Mông được coi là một thành viên
quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Dân tộc H’ Mông cư trú
thường ở độ cao từ 800 đến 1500 m so với mực nước biển gồm hầu hết các tỉnh miền
núi phía Bắc trong một địa bàn khá rộng lớn, dọc theo biên giới Việt - Trung và Việt -
Lào từ Lạng Sơn đến Nghệ An, trong đó tập trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc Đông và
Tây bắc Việt Nam như: Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La... Do tập quán du mục
nên một số người H'Mông trong những năm 1980, 1990 đã di dân vào tận Tây Nguyên,
sống rải rác ở một số nơi thuộc Gia Lai và Kom Tum.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người H’Mông ở Việt Nam có dân
số 1.068.189 người, đứng hàng thứ 8 trong bảng danh sách các dân tộc ở Việt Nam, cư
trú tại 62 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người H’Mông cư trú tập trung tại các tỉnh:
Hà Giang (231.464 người, chiếm 31,9 % dân số toàn tỉnh và 21,7 % tổng số người

H’Mông tại Việt Nam), Điện Biên (170.648 người, chiếm 34,8 % dân số toàn tỉnh và
16,0 % tổng số người H’Mông tại Việt Nam), Sơn La (157.253 người, chiếm 14,6 %
dân số toàn tỉnh và 14,7 % tổng số người H’Mông tại Việt Nam), Lào Cai (146.147
người, chiếm 23,8 % dân số toàn tỉnh và 13,7 % tổng số người H’Mông tại Việt Nam),
Lai Châu (83.324 người), Yên Bái (81.921 người), Cao Bằng (51.373 người), Nghệ An
(28.992 người), Đắk Lắk (22.760 người), Đắk Nông (21.952 người), Bắc Kạn (17.470
người), Tuyên Quang (16.974 người), Thanh Hóa(14.799 người).
Trên thực tế cho thấy các cư dân H’Mông ở Việt Nam vẫn có quan hệ với các cư
dân đồng tộc ở các nưóc khác, đặc biệt là những địa bàn sát biên giới giữa Việt Nam
với Trung Quốc và Lào.
6
1.3. Ngôn ngữ
Cho đến nay chúng ta đều biết đến tiếng H’Mông là một ngôn ngữ nằm trong hệ
ngôn ngữ Miêu-Dao (hay Mông-Miền). Nhưng trên thực tế vấn đề phân loại theo quan
hệ họ hàng của ngôn ngữ này đã từng có nhiều ý kiến khá khác nhau. Một số nhà ngôn
ngữ học xếp ngôn ngữ Mông thuộc nhánh Miêu-Dao trong hệ Hán-Tạng (trong đó phải
kể đến các nhà khoa học Trung Quốc). Trong những ý kiến đáng chú ý ta còn phải kể
đến Paul K. Benedict với quan điểm quy các ngôn ngữ trong khu vực thành 2 hệ cơ
bản: Hán-Tạng và Nam Thái (Austro-Thai). Trong đó vị trí các ngôn ngữ Miêu-Dao
được định vị trong hệ Nam Thái.
Còn André G. Haudricourt

từng bước đem so sánh cả hệ thống thanh điệu và cả lớp từ
vựng cơ bản giữa các ngôn ngữ Miêu-Dao với các ngôn ngữ của hệ Hán-Tạng và hệ
Nam Á. Ông đã cho rằng "các ngôn ngữ Miao-Yao hình như tạo nên mối liên hệ giữa
các ngôn ngữ Nam Á và các ngôn ngữ Tạng-Miến". Đây cũng chính là cơ sở để một
hướng các nhà ngôn ngữ sau này không xếp các ngôn ngữ Miêu-Dao vào Nam Á hay
Hán-Tạng mà là một họ ngôn ngữ độc lập vì những kiến giải của Haudricourt "không
thuần tuý là sự so sánh từ vựng mà là sự phục nguyên, một thao tác thể hiện tính quy
luật của những chuyển đổi âm thanh". Kế thừa những nghiên cứu đi trước, Martha

Ratliff đã đưa ra một bảng phân loại các ngôn ngữ Mông-Miền (hay Miêu-Dao) khá chi
tiết trong đó tác giả đã định vị ngành Mông trắng (Mông Đơư) như sau:
• Hệ ngôn ngữ (language family): Mông-Miền (Hmong-Mien)
• Nhóm ngôn ngữ: Mông (Hmongic)
• Nhánh: thuộc các phương ngôn Tứ Xuyên - Quý Châu - Vân Nam (Sichuan -
Quizhou - Yunnan), còn gọi là nhánh Mông phía Tây (West Hmongic branch)
• Tiểu nhánh: Tứ Xuyên - Quý Châu - Vân Nam
• Phương ngữ: Mông trắng (White Mông)
Trong cuốn từ điển Bách khoa thư ngôn ngữ đã phân các ngôn ngữ H’Mông-Miền
(hay Miêu-Dao) thành hai nhánh chính:
• Mông - gồm có: Dananshan Hmong, Hmong Đông, Hmong Bắc, Hmong Tây,
Hmong Daw, Hmong Njua, Miao Đỏ, Pa Heng, Punu
7
• Miền (hay Dao) - gồm có: Ba Pai, Mien, Biao Mien, Iu mien, Mun, She
ở đây Mông Leng (Mông Lềnh) được xác định như một tên gọi khác của ngành Mông
Njua (Mông Xanh) nằm trong nhánh Mông.
1.4. Tiểu kết
Nhìn chung ở Việt Nam, người H’Mông là dân tộc thiểu số có số dân đông, sinh
sống chủ yếu ở vùng núi phía Bắc. Theo điều tra dân số năm 1999, ở nước ta có
787,604 người H’Mông, chiếm 1% dân số cả nước. Trong những năm gần đây, có sự di
chuyển của người H’Mông vào các tỉnh phía Nam, chủ yếu vào các tỉnh Tây Nguyên,
bên cạnh xu hướng từ Đông sang Tây (Lào) vẫn tiếp tục.

CHƯƠNG 2: TÌM HIỂU CÁC LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI H’MÔNG
TẠI XÃ QUẢNG HÒA HUYỆN ĐĂK GLONG TỈNH ĐĂK NÔNG.
2.1. Khái quát chung về xã Quảng Hòa huyện Đăk Glong tỉnh Đăk Nông
8
2.1.1. Vị trí địa lí
Quảng Hòa là một xã vùng sâu, vùng xa cách trung tâm huyện 130km. Phía đông
giáp xã Đăk Sal huyện Đam Rông tỉnh Lâm Đồng, phía tây giáp xã Quảng Sơn huyện

Đăk Glong tỉmh Đăk Nông, phía nam giáp xã Liên SRôn’H huyện Đam Rông tỉnh Lâm
Đồng , phía bắc giáp xã Quảng Phú huyện Krông Nô tỉnh Đăk Nông điều kiện kinh tế
xã hội, an ninh quốc phòng còn gặp nhiều khó khăn, toàn xã có bảy thôn, từ thôn 6 đến
thôn 12 có 939 hộ, 4833 khẩu với 11 thành phần dân tộc, chủ yếu là dân tộc H’Mông di
cư từ phía bắc vào trình độ nhận thức rất thấp nên ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt
động của Uỷ ban nhân dân xã.
2.1.2. Dân số
Tổng số dân trên địa bàn xã có 10 thành phần dân tộc với 926 hộ và 4766 nhân
khẩu trong đó:

Dân tộc Số hộ Số khẩu
Kinh 105 360
M’nông 23 108
Ê Đê 1 1
Thái 9 59
Tày 190 775
Mường 28 147
Nùng 39 150
Dao 21 137
H’mông 509 3026
Hoa 1 3

2.1.3. Đời sống văn hóa
Do Quảng Hòa là một xã vùng sâu, vùng xa. Do đó điều kiện kinh tế còn gặp nhiều
khó khăn. Chính vì vậy có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống vật chất cũng như đời sống
văn hóa tinh thần của bà con. Hơn nữa do trình độ dân trí còn thấp kém nên cũng ảnh
hưởng rất nhiều tới vấn đề xây dựng văn hóa.
9
2.2. Khái niệm lễ hội truyền thống
2.2.1 . Khái niệm lễ hội

Là loại hình văn hóa tiêu biểu nhất trong sinh hoạt cộng đồng của người Việt Nam.
Lễ hội mang tính tổng hợp của truyền thống văn hóa Việt Nam.
Lễ Hội bao gồm 2 phần: Phần Lễ (tế rước mang màu sắc tâm linh) và Phần Hội (các trò
chơi dân gian, vừa thể hiện tính khéo léo vừa nêu cao tinh thần thượng võ, tính đoàn kết
của cộng đồng).
2.2.2. Khái niệm lễ hội truyền thống
Lễ hội truyền thống là loại hình sinh hoạt văn hoá, sản phẩm tinh thần của người
dân được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử và vẫn còn phát triển cho tới
ngày nay.
2.3. Một số lễ hội truyền thống của người H’Mông tại xã Quảng Hòa huyện Đăk
Glong tỉnh Đăk Nông
2.3.1. Lễ tết
Ngày nay lễ tết của dân tộc H’Mông tại xã Quảng Hòa vẫn còn giữ nguyên được
những nét truyền thống của những lễ tết cổ truyền trước đây. Lễ tết chính là dịp để cho
bà con cầu mong có một năm mới hạnh phúc và may mắn. Để hiểu về lễ tết cổ truyền
của dân tộc H’Mông tại xã Quảng Hòa diễn ra như thế nào chúng ta cùng tìm hiểu lễ tết
sau của dân tộc H’Mông.
10

×