Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Vận dụng một số phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực vào bài tổng kết lịch sử lớp 12 nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.63 KB, 37 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
A. MỞ ĐẦU………………………………………………………………………...
1. Lí do chọn đề tài………………………………………………………………...
2. Mục tiêu của sáng kiến…………………………………………………………
3. Giới hạn của sáng kiến…………………………………………………………
B. NỘI DUNG……………………………………………………………………...
1. Cơ sở viết sáng kiến……………………………………….……………………
1.1. Cơ sở khoa học………………………………………………………………..
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lí………………………………………………………
2. Thực trạng của vấn đề………………………………………………………….
2.1. Hiện trạng vấn đề cần giải quyết….……………………………………….
2.2. Các nhân tố, điều kiện ảnh hưởng đến vấn đề cần giải quyết ………...
3. Các giải pháp thực hiện………………………………………………………...
3.1. Sử dụng bảng biểu khái quát kiến thức…………………………………...
3.2. Hệ thống hóa kiến thức theo sơ đồ………………………………………...
3.3. Ứng dụng trò chơi vào tìm hiểu kiến thức….……………………………
3.4. Sử dụng câu hỏi trắc nghiệm khách quan tìm hiểu kién thức…………
4. Hiệu quả của sáng kiến………………………………………………………...
4.1. Ý nghĩa thực tiễn của sáng kiến……………………………………………
4.2. Đối tượng hưởng lợi của sáng kiến………………………………………..
C. KẾT LUẬN……………………………………………………………………..
1. Kết luận…………………………………………………………………………...
2. Kiến nghị…………………………………………………………………………
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
PPDHTC



Phương pháp dạy học tích cực

PPDH

Phương pháp dạy học

KTĐG
CNTT

Kiếm tra đánh giá
Công nghệ thông tin
-1-

1
1
2
3
4
4
4
7
10
10
12
17
18
21
24
27

30
30
32
33
33
34


THPT
GV
HS

Trung học phổ thông
Giáo viên
Học sinh

A. MỞ ĐẦU.
1. Lí do chọn đề tài.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế, xã hội trên toàn thế giới có nhiều
chuyển biến nhanh chóng. Ở nước ta trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, vấn
đề giáo dục luôn được coi là vấn đề quan trọng hàng đầu. Để đáp ứng được yêu cầu
của cách mạng khoa học kỹ thuật đang phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ, đòi hỏi
ngành Giáo dục và đào tạo phải thay đổi cách dạy và cách học nhằm tạo ra nguồn
-2-


nhân lực mới có tri thức khoa học cao, kĩ năng vận dụng vào thực tiễn và dễ dàng
thích ứng trong môi trường mới đầy năng động, sáng tạo để giải quyết tốt các vấn đề
trong cuộc sống.
Vì thế, chương trình giáo dục mới rất chú trọng đến việc phát huy tư duy tổng

hợp, sáng tạo, tự nghiên cứu, tự học của học sinh, trong đó bài tổng kết, ôn tập góp
phần rất quan trọng. Những bài tổng kết, ôn tập chỉ được đánh giá tốt khi nó phát
huy cao độ khả năng tổng hợp, hệ thống hóa kiến thức đã học, xác lập mối quan hệ
giữa các yếu tố tự nhiên, giữa tự nhiên với hoạt động sản xuất của con người, củng
cố các kĩ năng phân tích so sánh và giải thích các hiện tượng có liên quan. Bài tổng
kết, ôn tập trở nên vô cùng cần thiết cho vấn đề củng cố kiến thức cho các em trong
tất cả các môn học.
Khác với các môn Ngữ văn, Địa Lí, Sinh học, Giáo dục công dân…Lịch sử là
một môn học đặc thù với những chuỗi sự kiện, diễn biến đã diễn ra trong quá khứ. Vì
vậy, nhiệm vụ của dạy học Lịch sử là khôi phục lại bức tranh quá khứ để từ đó rút ra
bài học từ quá khứ, vận dụng nó vào cuộc sống hiện tại và tương lai. Đây là môn học
yêu cầu người học phải “biết sự kiện - hiểu sự kiện - nhớ sự kiện” từ đó có sự phân
tích, tư duy lôgic, khái quát và đánh giá sự kiện.
Đặc điểm của kiến thức môn Lịch sử có liên quan chặt chẽ đến việc củng cố,
ôn tập kiến thức cho học sinh. Kiến thức Lịch sử bao gồm các yếu tố: sự kiện lịch sử,
niên đại, địa danh, nhân vật lịch sử, các biểu tượng, khái niệm, quy luật lịch sử…Các
sự kiện, biến cố không xuất hiện một cách ngẫu nhiên mà là sản phẩm của những
hoàn cảnh nhất định, có những mối quan hệ nhân quả theo những quy luật nhất định.
Lịch sử chỉ diễn ra một lần, không bao giờ lặp lại y nguyên như cũ, cũng không thể
mô hình hóa, hay dựng lại nó trong phòng thí nghiệm. Mọi sự mô hình hóa trong
phòng thí nghiệm đối với lịch sử đều là không chính xác như nó vốn đã tồn tại.
Mặt khác, trong dạy học lịch sử, các kiến thức chỉ được học một lần nhất định
và không lặp lại, sau mỗi bài học, kiến thức lịch sử ngày càng nhiều lên, song không
được ôn tập một cách tự nhiên như các môn Toán học, Vật lý, Hóa học… do vậy mà
-3-


vai trò của tiết tổng kết, ôn tập là rất quan trọng trong môn Lịch sử. Kiến thức lịch sử
luôn có mối quan hệ với nhau giúp học sinh hiểu được sự phong phú, đa dạng, phát
triển hợp quy luật của lịch sử xã hội. Việc hướng dẫn học sinh ôn tập và tự ôn tập

kiến thức không chỉ giúp học sinh ghi nhớ được các sự kiện, hiện tượng mà còn giúp
các em nhận thức ra mối liên hệ biện chứng, logic giữa các sự kiện lịch sử.
Riêng đối với môn Lịch sử, bài tổng kết, ôn tập là một trong những bài khó
dạy, vì đây là bài tổng hợp với lượng kiến thức lớn. Chính vì lẽ đó giáo viên khi dạy
các tiết này thường gặp rất nhiều khó khăn, đòi hỏi giáo viên phải có sự chuẩn bị
công phu, kiến thức tổng hợp nhuần nhuyễn, kĩ năng phân tích thuần thục và phải có
phương pháp dạy học hợp lí, bên cạnh đó học sinh cũng phải có sự chuẩn bị đầy đủ
trước những nội dung ôn tập ở nhà thì tiết ôn tập mới không bị nhàm chán. Tuy
nhiên, khi tổ chức dạy học ở lớp, tiết ôn tập vẫn rất khó thành công; kết quả học sinh
không thích tiết ôn tập.
Hơn 10 năm trong nghề, tôi rất trăn trở về vấn đề này. Vì vậy đề tìm được
phương pháp nào hiệu quả vừa có khả năng truyền tải hết kiến thức bài học, vừa tạo
ra cho học sinh hứng thú học tập, vừa khắc sâu kiến thức, vừa làm cho các em yêu
thích môn học từ đó phát huy tính tích cực, tự giác và hứng thú học tập cho các em,
nhất là các em khối 12 để các em có đủ hành trang cho các kì thi tuyển (thi HSG, thi
THPT Quốc gia). Chính vì thế tôi đã chọn sáng kiến “Vận dụng một số phương
pháp, kỹ thuật dạy học tích cực vào bài tổng kết lịch sử lớp 12 nhằm tạo hứng thú
học tập cho học sinh trường THPT …." góp phần tổng hợp kiến thức nhanh gọn,
khái quát; đặc biệt hệ thống hóa kiến thức giúp học sinh hiểu bài, khắc sâu hơn kiến
thức và hứng thú hơn trong học tập.
2. Mục tiêu của sáng kiến.
Xuất phát từ thực tế dạy và học Lịch sử ở nhà trường cũng như của bản thân,
một vấn đề đặt ra là làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn Lịch sử.
Trong mỗi tiết học trò phải hứng thú, say mê, thầy phải phát huy được tính tích cực ở
trò, phải khơi dậy được niềm đam mê ở trò. Để đáp ứng được yêu cầu đó và yêu cầu
-4-


đổi mới phương pháp dạy học thì việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực
trong dạy và học Lịch sử là phương pháp tối ưu nhằm tạo hứng thú cho học sinh.

Vì vậy, mục đích của sáng kiến là giúp cho học sinh hứng thú, yêu thích môn
lịch sử hơn đặc biệt là dạng bài tổng kết, ôn tập, từ đó nâng cao chất lượng dạy và
học lịch sử trong nhà trường.
3. Giới hạn của sáng kiến
3.1. Về đối tượng nghiên cứu.
- Vấn đề: Một số biện pháp dạy học tích cực nhằm tạo hứng thú cho học sinh
trong dạng vài Tổng kết, ôn tập lịch sử.
- Phạm vi: Sáng kiến xoay quanh việc nghiên cứu một số biện pháp dạy học
tích cực nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong dạng bài Tổng kết lịch sử chương
trình lớp 12. Để thấy rõ được hiệu quả của việc thay đổi phương pháp trong dạy học
lịch sử.
- Đối tượng nghiên cứu mà tôi áp dụng cho sáng kiến này là các lớp 12 cụ
thể là lớp 12B3, 12B4 trường THPT Sốp Cộp năm học 2016 – 2017.
3.2. Về không gian.
Sáng kiến được xây dựng và vận dụng vào giảng dạy dạng bài Tổng kết lịch
sử lớp 12 tại trường THPT Sốp Cộp.
3.3. Về thời gian.
Sáng kiến xây dựng và vận dụng thử nghiệm trong năm học 2016-2017.
B. NỘI DUNG
1. Cơ sở viết sáng kiến
1.1. Cơ sở khoa học
Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ rút gọn, được
dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. PPDH tích cực hướng tới việc
hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung
-5-


vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy
tính tích cực của người dạy. Tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo

viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.
Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh có nghĩa là phải thay
đổi cách dạy và cách học. Chuyển cách dạy thụ động, truyền thụ một chiều “đọcchép”, giáo viên làm trung tâm sang cách dạy lấy học sinh làm trung tâm hay còn
được gọi là dạy và học tích cực. Trong cách dạy này học sinh là chủ thể hoạt động,
giáo viên là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn, tạo nên sự tương tác tích cực giữa
người dạy và người học.
Bài Tổng kết, ôn tập lịch sử nhằm mục tiêu:
+ Về kiến thức: Học sinh nhận thức một cách hệ thống, khái quát về quá
trình phát triển của lịch sử, đặc điểm lớn của từng thời kì. Đồng thời hiểu rõ nguyên
nhân cơ bản đã quyết định quá trình phát triển của lịch sử.
+ Về kĩ năng: Rèn luyện kĩ năng hệ thống hóa, lựa chọn sự kiện lịch sử cơ
bản, kĩ năng phân tích, xác định những đặc điểm lớn của từng thời kì.
Rèn luyện và vận dụng phương pháp tư duy phân tích, tổng hợp khái quát
các sự kiện, các vấn đề quan trọng đã diễn ra.
+ Về thái độ: Trên cơ sở nắm chắc quá trình phát triển của lịch sử dân tộc,
hiểu rõ nguyên nhân của quá trình phát triển lịch sử, củng cố niềm tự hào dân tộc,
niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự tất thắng và tiền đồ của cách mạng
1.1.1. Một số phương pháp dạy học tích cực.
* Phương pháp vấn đáp: Vấn đáp (đàm thoại) là phương pháp trong đó giáo
viên đặt ra câu hỏi để học sinh trả lời, hoặc học sinh có thể tranh luận với nhau và
với cả giáo viên; qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học. Căn cứ vào tính
chất hoạt động nhận thức, người ta phân biệt các loại phương pháp vấn đáp:
- Vấn đáp tái hiện: giáo viên đặt câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức
đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Vấn đáp tái hiện không được

-6-


xem là phương pháp có giá trị sư phạm. Đó là biện pháp được dùng khi cần đặt mối
liên hệ giữa các kiến thức vừa mới học.

- Vấn đáp giải thích – minh hoạ: Nhằm mục đích làm sáng tỏ một đề tài nào
đó, giáo viên lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để học
sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả khi có sự hỗ trợ của các
phương tiện nghe – nhìn.
- Vấn đáp tìm tòi (đàm thoại Ơxrixtic): giáo viên dùng một hệ thống câu hỏi
được sắp xếp hợp lý để hướng học sinh từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật,
tính quy luật của hiện tượng đang tìm hiểu, kích thích sự ham muốn hiểu biết. Giáo
viên tổ chức sự trao đổi ý kiến – kể cả tranh luận – giữa thầy với cả lớp, có khi giữa
trò với trò, nhằm giải quyết một vấn đề xác định. Trong vấn đáp tìm tòi, giáo viên
giống như người tổ chức sự tìm tòi, còn học sinh giống như người tự lực phát hiện
kiến thức mới. Vì vậy, khi kết thúc cuộc đàm thoại, học sinh có được niềm vui của sự
khám phá trưởng thành thêm một bước về trình độ tư duy.
* Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề: Trong một xã hội đang phát triển
nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh tranh gay gắt thì phát hiện sớm và giải quyết hợp
lý những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn là một năng lực đảm bảo sự thành công
trong cuộc sống, đặc biệt trong kinh doanh. Vì vậy, tập dượt cho học sinh biết phát
hiện, đặt ra và giải quyết những vấn đề gặp phải trong học tập, trong cuộc sống của
cá nhân, gia đình và cộng đồng không chỉ có ý nghĩa ở tầm phương pháp dạy học mà
phải được đặt như một mục tiêu giáo dục và đào tạo.
* Phương pháp hoạt động nhóm: Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ
4 đến 6 người. Tuỳ mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia
ngẫu nhiên hay có chủ định, được duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của
tiết học, được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau.
Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có thể phân công mỗi
người một phần việc. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực,
không thể ỷ lại vào một vài người hiểu biết và năng động hơn. Các thành viên trong
-7-


nhóm giúp đỡ nhau tìm hiểu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm

khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả
lớp. Để trình bày kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp, nhóm có thể cử ra một
đại diện hoặc phân công mỗi thành viên trình bày một phần nếu nhiệm vụ giao cho
nhóm là khá phức tạp.
* Phương pháp đóng vai: Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực
hành một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Phương pháp đóng
vai có những ưu điểm sau :
- Học sinh được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ
trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn.
- Gây hứng thú và chú ý cho học sinh.
- Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của học sinh.
- Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo chuẩn mực hành vi
đạo đức và chính trị – xã hội.
* Phương pháp động não: Động não là phương pháp giúp học sinh trong một
thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó.
Thực hiện phương pháp này, giáo viên cần đưa ra một hệ thống các thông tin làm
tiền đề cho buổi thảo luận.
1.1.2. Kiểu bài ôn tập, tổng kết.
- Bài ôn tập, tổng kết được tiến hành khi hoàn thành nghiên cứu một giai đoạn
hay một thời kỳ hoặc một quá trình lịch sử.
- Nhiệm vụ của bài tổng kết, ôn tập là củng cố, hệ thống kiến thức cơ bản, rèn
luyện kĩ năng, kĩ xảo.
- Loại bài cung cấp cho học sinh một bức tranh toàn diện về hiện tượng hoặc
quá trình lịch sử đã học, hệ thống hóa kiến thức đã tiếp thu, dựa vào những sự kiện
cơ bản đã biết giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích bản chất các sự kiện lịch sử,
giải thích sâu hơn nữa những khái niệm phức tạp đã được hình thành nhằm nâng cao
trình độ nhận biết của học sinh khi hiểu các hiện tượng mới của xã hội.
-8-



- Nhiệm vụ của bài học quy định nội dung và phương pháp tiến hành khác với
kiểu bài cung cấp kiến thức mới. Giáo viên không trình bày kiến thức mới mà hướng
dẫn học sinh nhớ lại những kiến thức đã học, uốn nắn những hiểu biết sai, khái quát
hóa và qua đó rút ra những kết luận để nhận thức sâu sắc toàn diện hơn.
- Số lượng bài tổng kết lịch sử: Mỗi khối có 2 bài tổng kết, tổng kêt lịch sử
Việt Nam (1 tiết) và tổng kết lịch sử thế giới (1 tiết).
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý.
1.2.1. Cơ sở chính trị.
Nghị quyết của Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần 8 khóa XI
về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh
mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp
đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự
học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển
năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng,
chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”.
Trong báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
5 năm 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2016 – 2020, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã khẳng định: “
Chất lượng giáo dục, đào tạo, nhất là giáo dục đại học và đào tạo nghề cải thiện
còn chậm; thiếu lao động chất lượng cao. Hệ thống giáo dục còn thiếu tính liên
thông, chưa thật hợp lý và thiếu đồng bộ. Công tác phân luồng và hướng nghiệp còn
hạn chế. Đổi mới giáo dục, đào tạo có mặt còn lúng túng. Tình trạng mất cân đối
trong cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo khắc phục còn chậm, công tác đào tạo
chưa gắn chặt chẽ với nhu cầu xã hội. Cơ chế, chính sách có mặt chưa phù hợp; xã
hội hóa còn chậm và gặp nhiều khó khăn, chưa thu hút được nhiều nguồn lực ngoài
nhà nước cho phát triển giáo dục, đào tạo. Cơ sở vật chất vẫn còn thiếu và lạc hậu.
-9-



Chất lượng dạy và học ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn thấp. Đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý chưa đáp ứng yêu cầu”.
Trên cơ sở đó Đại hội cũng đề ra giải pháp để thực hiện phương hướng phát
triển kinh tế- xã hội 5 năm 2016- 2020: “Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách,
giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo theo
hướng mở, hội nhập, xây dựng xã hội học tập, phát triển toàn diện năng lực, thể
chất, nhân cách, đạo đức, lối sống, ý thức tôn trọng pháp luật và trách nhiệm công
dân”. “Đổi mới mục tiêu, nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo
dục và đào tạo”.
Đổi mới phương pháp dạy học là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới giáo dục
trung học hiện nay. Luật Giáo dục (Điều 28) đã nêu: “Phương pháp giáo dục phổ
thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp
với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện
kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui và
hứng thú học tập cho học sinh”.
1.2.2. Cơ sở pháp lý.
Xác định nhiệm vụ chủ yếu năm học 2016-2017 của ngành Giáo dục, chỉ thị
số 3031/CT-BGDĐT đã chỉ rõ: “Năm học 2016-2017, ngành Giáo dục và đào tạo
đứng trước những thuận lợi, thời cơ, khó khăn và thách thức đan xen, đòi hỏi toàn
ngành phải quyết tâm,nỗ lực phấn đấu hơn nữa để thực hiện có hiệu quả Chương
trình hành động của chính phủ thực hiện nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị
quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016 - 2020, tiếp tục
triển khai chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29/NQTW của Trung ương Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”.
Trên cơ sở đó, công văn số: 1100/SGDĐT-GDPT về hướng dẫn thực hiện
nhiệm vụ Giáo dục trung học năm học 2016-2017 của Sở GDĐT Sơn La đã chỉ rõ:
“Thực hiện thường xuyên, hiệu quả các phương pháp, hình thức và kỹ thuật dạy học
- 10 -



tích cực. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học nhằm phát huy tính tích
cực, chủ động, tự lực, sáng tạo của học sinh; tăng cường kĩ năng thực hành, vận
dụng kiến thức, kĩ năng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn góp phần hình thành và
phát triển năng lực học sinh; đa dạng hóa các hình thức học tập, chú trọng các hoạt
động trải nghiệm sáng tạo, nghiên cứu khoa học của học sinh; đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”.
Như vậy, yêu cầu của thời đại mới đã đặt ra cho giáo dục và đào tạo vấn đề:
Làm thế nào, làm gì để nâng cao chất lượng, hiệu quả của giáo dục, đào tạo? Để thực
hiện thành công việc đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của giáo dục và đào tạo
không chỉ là nhiệm vụ của một lực lượng mà cần sự quan tâm, chung tay của toàn xã
hội trong đó việc nâng cao năng lực của đội ngũ giáo viên đổi mới phương pháp dạy
và học là một yêu cầu tiên quyết, thiết yếu, có vai trò quyết định đến thành công của
công cuộc đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của giáo dục và đào tạo.
2. Thực trạng của vấn đề:
2.1. Hiện trạng vấn đề cần giải quyết.
Thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc thực hiện
đổi mới PPDH, theo tinh thần tập huấn của Sở Giáo dục và Đào tạo Sơn La về việc
bồi dưỡng cho giáo viên trong toàn tỉnh tiếp cận với những phương pháp, kĩ thuật
dạy học mới, trong nhiều năm qua tại trường THPT Sốp Cộp, tinh thần đổi mới
phương pháp dạy học của mỗi giáo viên được nâng cao. Các thầy cô giáo ở tất cả
các bộ môn như Toán, Lý, Hóa, Văn, Địa lý, GDCD... trong trường luôn học hỏi, tìm
hiểu những PPDH tiến bộ, vận dụng những kỹ thuật mới vào trong dạy học để làm
mới bài giảng của mình, tăng sự hứng thú của học sinh trong các giờ học.
Không nằm ngoài xu thế đổi mới đó, các thầy cô giáo dạy Lịch sử cũng luôn
có ý thức tiếp cận các PPDH mới để mang lại sự hứng thú của học sinh trong các giờ
học, đặc biệt là các bài Tổng kết, ôn tập lịch sử vốn dĩ luôn được nặng về kiến thức,
đòi hỏi giáo viên trong một tiết phải khái quát lại một lượng kiến thức rất lớn đã học
trong các tiết trước và học sinh cũng phải ghi bài nhiều, chỉ ngồi thụ động trả lời
- 11 -



những câu hỏi do thầy cô đưa ra. Điều này sẽ dẫn đến sự rập khuôn máy móc trong
các giờ học, tạo tâm lí ỷ lại, bị động trong học sinh. Chính vì thế, việc vận dụng các
phương pháp dạy học tích cực vào bài Tổng kết sẽ khắc phục được những hạn chế
trên, tạo sự mới mẻ, hưng phấn với học sinh và cả người giáo viên đứng lớp.
Tuy nhiên, hiện nay, việc đưa vận dụng các phương pháp dạy học tích cực
vào trong quá trình dạy học đối với môn học Lịch sử vẫn còn là vấn đề còn nhiều
lúng túng đối với giáo viên, cụ thể như trong việc tổ chức, thiết kế các hoạt động dạy
học với việc sử dụng các phương pháp, các kỹ thuật dạy học tích cực. Qua dự giờ,
trao đổi kinh nghiệm chuyên môn đối với các đồng nghiệp trong tổ, tôi nhận thấy,
hầu hết các giáo viên chưa đã vận dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực
vào bài giảng, tuy nhiên còn vận dụng ít, chưa khai thác được hết những ưu điểm
của phương pháp, chưa phát huy hết được khả năng tích cực của học sinh
Không chỉ đối với giáo viên mà ngay học sinh trong trường có nhiều em chưa
thể đáp ứng được với các phương pháp dạy học tích cực, các em vẫn còn thụ động
trong tiếp thu kiến thức
Qua theo dõi, quan sát đồng nghiệp trong tổ chuyên môn về việc sử dụng các
phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào các tiết học tôi nhận thấy:
+ Các thầy cô sử đã sử dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực vào
giảng dạy song chưa thường xuyên chủ yếu vẫn là trong các tiết dạy chuyên đề, dạy
đổi mới phương pháp, tiết dự giờ…
+ Các thầy cô chưa thực sự nắm chắc về các phương pháp, kỹ thuật dạy học
tích cực, nên dẫn đến việc vận dụng vào bài dạy còn lúng túng.
+ Các thầy cô chưa dành nhiều thời gian cho viẹc nghiên cứu, tìm hiểu các
phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực.
Về lí do vì sao các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực chưa được sử dụng
rộng rãi trong việc dạy học môn Lịch sử; các thầy cô đều cho rằng đặc trưng của
môn lịch sử, lượng kiến thức trên một bài là rất nhiều, học sinh nhận thức còn yếu,
cơ sở vật chất của đơn vị còn hạn chế, nên vận dụng thường xuyên các phương pháp

- 12 -


kỹ thuật dạy học tích cực còn nhiều khó khăn. Nhưng nếu hội đủ các điều kiện thuận
lợi, thì các thầy cô sẽ thường xuyên sử dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích
cực trong các tiết dạy dạy lịch sử của mình.
2.2. Các nhân tố, điều kiện ảnh hưởng đến vấn đề cần giải quyết
2.2.1. Thuận lợi:
Năm học 2016 – 2017 là năm thứ hai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các
cấp: Nghị quyết Đại hội huyện Đảng bộ ………. lần thứ III; Đại hội Đảng bộ Tỉnh
Sơn La lần thứ XIV; Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
Tiếp tục thực Nghị quyết số 29-NQ/TW Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng ( khoá XI ) về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ”; Nghị quyết số 140-NQ/HĐND
ngày 10/12/2015 của Hội đồng nhân dân tỉnh Sơn La về việc điều chỉnh, bổ sung
một số nội dung Quy hoạch phát triển giáo dục và đào tạo tỉnh Sơn La giai đoạn
2008 - 2020.
- Nhờ sự chỉ đạo sát sao của Sở giáo dục và đào tạo Sơn La, sự quan tâm của
các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương đã tạo điều kiện tốt nhất cùng với cơ sở
vật chất của nhà trường cơ bản đảm bảo,việc thực hiện nội dung nghiên cứu đã diễn
ra thuận lợi: Có thư viện và các phòng trống để học sinh có thể tập trung học nhóm
và làm bài tập theo nhóm.
Đối với công tác quản lý: BGH nắm vững chủ trương đổi mới, đồng thời tạo
điều kiện thuận lợi cho giáo viên thực hiện đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra
đánh giá, động viên giáo viên tích cực đổi mới.
CBQL trong trường đã chú trọng tăng cường CSVC phục vụ đổi mới PPDH,
TĐG: đầu tư xây dựng các phòng học bộ môn; mua sắm trang thiết bị hiện đại phục
vụ dạy học, KTĐG; xây dựng nguồn học liệu; trang bị máy tính và mạng internet
phục vụ GV và HS .


- 13 -


Có biện pháp chỉ đạo, tổ chức thực hiện đổi mới dạy học có hiệu quả, thường
xuyên kiểm tra, đánh giá các hoạt động dạy học theo định hướng bám sát chuẩn kiến
thức kĩ năng. Đã tạo điều kiện tốt nhất để giáo viên nâng cao trình độ tay nghề qua
đẩy mạnh sinh hoạt tổ chuyên môm, sinh hoạt cụm chuyên môn, thực hiện có hiệu
quả hoạt động dạy học; Cử CB, GV tham gia tập huấn đổi mới PPDH, KTĐG thoe
chỉ đạo của Sở, và của Bộ GD&ĐT tổ chức, triển khai; tổ chức tập huấn cấp trường
các chuyên đề ứng dụng CNTT; biên soạn đề kiểm tra; đổi mới đồng bộ PPDH và
PPKTĐG; hướng dẫn học sinh tự học tích cực…, các Hội thi giáo viên dạy giỏi, thi
làm đồ dùng dạy học,…nhân rộng các điển hình thực hiện tích cực sáng tạo có hiệu
quả.
Về phía giáo viên: Thực hiện sự chỉ đạo đổi mới phương pháp giảng dạy,
kiểm tra đánh giá của Bộ giáo dục và Đào tạo, của các cấp lãnh đạo, giáo viên
đã thực hiện chương trình và kế hoạch dạy học theo quy định của Bộ, ngành. Đặc
biệt lưu ý đến việc dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng bộ môn; đã quan tâm đặc
biệt tới việc soạn bài theo hướng đổi mới, phát huy tính tích cực, chủ động của học
sinh, thiết kế bài giảng khoa học, sắp xếp hợp lí hoạt động của thầy và trò, hệ thống
câu hỏi hợp lí, lô gíc không làm phá vỡ tính chỉnh thể, thống nhất của bài học; tập
trung vào trọng tâm (nhất là với bài dài, bài khó, bài nhiều đơn vị kiến thức mới);
chú trọng đến bồi dưỡng năng lực suy nghĩ, vận dụng sáng tạo kiến thức đã học; giáo
viên tích cực nghiên cứu, học tập, cập nhật kiến thức nâng cao tay nghề, chủ động
tiếp cận với công nghệ thông tin, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong
dạy học, coi đó là công cụ hỗ trợ tích cực cho hoạt động dạy học có hiệu quả giúp
cho bài giảng của mình thêm phong phú.
Cùng với việc đổi mới PPDH là đổi mới KTĐG. Có thể nói đánh giá kết quả
học tập của học sinh là một trong những vấn đề được coi trọng trong hoạt động dạy học là công cụ quan trọng, chủ yếu để xác định năng lực nhận thức của người học,
điều chỉnh quá trình dạy - học, là động lực để đổi mới phương pháp dạy học, góp

phần nâng cao chất lượng đào tạo theo mục tiêu giáo dục.
- 14 -


Việc kiểm tra đánh giá chất lượng học tập sẽ giúp giáo viên và học sinh có
những thông tin xác thực và tin cậy để điều chỉnh bổ sung hoàn thiện sản phẩm trong
quá trình dạy học. Kiểm tra đánh giá còn giúp học sinh tự đánh giá được khả năng
tiếp thu bài giảng của mình, tự điều chỉnh được cách học, hoặc khắc phục những
thiếu sót trong việc tiếp nhận tri thức, phát triển kĩ năng và xây dựng thái độ học tập
cần thiết và nghiêm túc cho bản thân.
GV đã bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng, đổi mới các hình thức kiểm tra, đánh
giá học sinh ngay trong từng tiết học (Đầu giờ, giữa giờ, cuối giờ…), kết hợp hình
thức kiểm tra tự luận với trắc nghiệm đảm bảo việc đánh giá khách quan, công bằng,
đúng trình độ, đồng thời thể hiện ba mức độ: nhận biết, thông hiểu, vận dụng sáng
tao. Đề kiểm tra thể hiện được tính phân hoá học sinh, vừa sức với học sinh, bám sát
chương trình, nội dung học tập và sách giáo khoa, chú trọng đến dạng câu hỏi mở để
có thể phát huy tối đa khả năng tư duy, liên tưởng, sáng tạo, chính kiến cá nhân của
học sinh, nhất là đối với môn ngữ văn…
Đối với học sinh: HS đã tích cực, chủ động hơn trong hoạt dộng chiếm lĩnh
kiến thức; ngoài hoạt động học trên lớp, một số HS đã chủ động hơn trong việc tìm
kiếm tài liệu tham khảo để tự học, tự rèn luyện; nhiều HS có kĩ năng tốt trong việc sử
dụng CNTT, khai thác các nguồn học liệu trên mạng để chiếm lĩnh kiến thức...bước
đầu HS đã có ý thức tự đánh giá kết quả học tập của mình và đánh giá lẫn nhau khi
được yêu cầu...
2.2.2. Hạn chế
Bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông với nhiệm vụ cung cấp một khối lượng
kiến thức tương đối phong phú về lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc cần đặt ra yêu
cầu cao mới thực hiện được nhiệm vụ đó, mặt khác do đặc trưng của bộ môn Lịch sử
nó gây ra nhiều khó khăn cho quá trình nhận thức của các em. Vì đối tượng của lịch
sử là quá khứ đã diễn ra, không thể tái hiện, không thể “ trực quan sinh động”, cũng

không thể trực tiếp quan sát được. Lịch sử được phản ánh qua các nguồn sử liệu, vấn
đề đặt ra là làm sao để các em nhận thức được lịch sử một cách chính xác, chân thực
- 15 -


như nó đã tồn tại. Vì vậy, qua khảo sát tại đơn vị, bản thân nhận thấy công tác giảng
dạy của giáo viên lịch sử đối với bài Tổng kết và nhận thức của học sinh về kiểu bài
này còn nhiều hạn chế.
Thứ nhất, nội dung kiến thức môn Lịch Sử lớp 12 bao gồm cả lịch sử thế giới
và lịch sử Việt Nam rất nhiều giai đoạn, nhiều sự kiện. Đặc biệt trong hai bài tổng
kết với nội dung khá dài: Tổng kết lịch sử thế giới hiện đại từ 1945 đến 2000 phải hệ
thống lại kiến thức cho học sinh từ bài 1 đến bài 10; Tổng kết lịch sử Việt Nam từ
1919 đến 2000 phải tổng kết toàn bộ quá trình lịch sử Việt Nam từ sau chiến tranh
thế giới thứ nhất đến nay (1919-2000) với khối lượng kiến thức tương ứng 32 tiết lí
thuyết đã được cung cấp qua 16 bài. Trong khuôn khổ 1 tiết, với lượng kiến thức lớn
cần khái quát (mà đã học từ lâu) đòi hỏi giáo viên phải hệ thống một lượng kiến thức
lớn, phân tích, kết nối các sự kiện lịch sử…trong khi giáo viên rất khó có thể lược
dạy hay cho học sinh tự học vì sợ thi vào học sinh không làm được và ảnh hưởng đến
chất lượng chuyên môn. Nên sẽ khiến học sinh khó nhớ, khó hiểu và dễ gây ra tâm lí
nhàm chán, khó thu hút được học sinh vào nội dung của bài học
Thứ hai, Bài tổng kết lịch sử là kiểu bài mà nội dung và phương pháp tiến
hành khác với kiểu bài cung cấp kiến thức mới. Nhưng đã số giáo viên vẫn chưa đổi
mới về phương pháp, chưa xác định đúng phương pháp khi vận dụng vào bài, vẫn
vận dụng lối dạy học truyền thống, thầy đọc, trò chép, thầy hỏi, trò liệt kê lại các nội
dung trong sách; câu hỏi thầy đưa ra vẫn chủ yếu là câu hỏi mức độ nhận biết, thông
hiểu, rất ít các câu hỏi yêu cầu học sinh vận dụng, liên hệ…Chính vì vậy, với cách
dạy như lối cũ sẽ biến giờ tổng kết lịch sử thành dạy lại kiến thức; chỉ sau khi tiết
học kết thúc là kiến thức cũng trả cho giáo viên không có gì đọng lại trong các em.
Hiện nay, học sinh có trình độ, học lực không đều, đối với học sinh trung bình, yếu
các em không thích học tiết tổng kết, ôn tập; riêng đối tượng học sinh cá biệt thì khả

năng tiếp thu đã hạn chế, lại không có ý thức học, thì với cách dạy cách dạy lý thuyết
sáo mòn này thì học sinh sẽ không làm và chất lượng bài kiểm tra sẽ rất thấp. Từ đó

- 16 -


dẫn đến kết quả là học sinh không nắm được bài, hiểu vấn đề một cách đơn lẻ, manh
mún, không có sự liên kết kiến thức trước, sau.
Thứ ba, Giáo viên chuẩn bị chưa thật chu đáo cho tiết dạy: Một thực tế cho
thấy trong những tiết thao giảng, tiết dạy chuyên đề, tiết đổi mới do Tổ chỉ định giáo
viên đầu tư máy chiếu, tranh ảnh, video, tư liệu, đồ dùng dạy học rất công phu…Còn
ngoài ra đa số các tiết giáo viên chưa thực sự đầu tư cho bài dạy, vẫn chủ yếu dạy
chay, đã sử dụng một số phương pháp dạy học tích cực vào trong các hoạt động dạy
học những chưa thường xuyên. Như vậy, với cách dạy thụ động một chiều gây cho
học sinh tâm trạng chán nản, không hứng thú trong các bài giảng, nhất là các dạng
bài ôn tập, tổng kết.
Từ những nhận thức trên và từ kinh nghiệm của bản thân tôi nhận thấy trong
giảng dạy môn Lịch sử nếu giáo viên biết kết hợp nhiều phương pháp dạy học, nhiều
nguồn thông tin và kết hợp với các ví dụ thực tiễn trong bài giảng để gây hứng thú
cho học sinh là điều rất quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng dạy và học của
bộ môn.
2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế
- Nguyên nhân khách quan:
+ Cơ sở vật chất còn những hạn chế nhất định. Nhà trường chỉ có 2 phòng máy
chiếu, tách biệt, di chuyển xa... nên giáo viên thường ngại sử dụng phòng máy.
+ Phương tiện dạy học: Thư viện còn ít các đầu sách tham khảo cho giáo viên
và học sinh.
+ Những đổi mới liên tục của ngành giáo dục về áp dụng phương pháp đổi
mới trong dạy và học khiến cả người dạy và người học ở một số nội dung chưa bắt
kịp, hoặc có nhưng thiên về hình thức, máy móc.

+ Bản thân môn học với đặc trưng là nhiều giai đoạn, nhiều sự kiện, đặc biệt là
kiểu bài Tổng kết với khối lượng kiến thức lớn. Khiến cho việc vận dụng các phương
pháp, kỹ thuật dạy học tích cực chưa thực sự hiệu quả.
- Nguyên nhân chủ quan:
- 17 -


+ Bản thân giáo viên vẫn phải luôn trau dồi kiến thức mỗi ngày để đáp ứng
yêu cầu của công việc. Nhưng năng lực và thời gian tự học của người viết sáng kiến
có hạn.
+ Việc nghiên cứu khoa học một cách tỉ mỉ, và toàn diện chưa đảm bảo. Một
số vấn đề khoa học nghiên cứu còn hời hợt và đối phó dẫn đến hiệu quả học tập bộ
môn chưa cao.
+ Thời gian và chất lượng tự học của học sinh không đảm bảo. Trong khi đó
không có sự giám sát của gia đình. Việc chủ động tìm tòi, rở rộng kiến thức của học
sinh chưa cao, chưa được thường xuyên và hiệu quả nên khi giáo viên bận dụng các
phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh thì đa số học sinh chưa đáp ứng
được yêu cầu.
3. Các giải pháp thực hiện
Chương trình lịch sử lớp 12 chia làm 2 phần: Lịch sử thế giới và Lịch sử Việt
Nam. Chương trình lịch sử thế giới từ năm 1945 đến năm 2000 có thể khái quát
thành hai giai đoạn:
- Giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 1991.
- Giai đoạn từ sau năm 1991 đến năm 2000.
Chương trình lịch sử Việt Nam gồm 5 giai đoạn:
- Giai đoạn từ 1919-1930.
- Giai đoạn 1930-1945.
- Giai đoạn 1945-1954.
- Giai đoạn 1954 -1975.
- Giai đoạn 1975-2000

Nội dung kiến thức lịch sử cần khái quát trong hai bài Tổng kết lịch sử đã
bao hàm toàm bộ chương trình kiến thức kịch sử lớp 12. Để nắm được kiến thức cơ
bản của các giai đoạn này, đòi hỏi học sinh phải biết và hiểu lịch sử trên cơ sở phát
huy tính tích cực, trí thông minh và sáng tạo. Học sinh phải biết sử dụng kiến thức đã
học để tiếp nhận kiến thức mới, biết quá khứ để tìm hiểu hiện tại. Muốn giải quyết
- 18 -


được các vấn đề trên, sử dụng một số biện pháp dạy học tích cực sau vào bài Tổng
kết lịch sử để tạo hứng thú cho học sinh.
3.1. Sử dụng bảng biểu, sơ đồ hóa khái quát kiến thức.
Bảng biểu, sơ đồ hóa là những công cụ dùng để trực quan hóa thông tin giúp
chúng ta không chỉ dễ dàng nhận biết mà còn tìm ra mối liên hệ giữa các thông tin
ấy. Vận dụng vào quá trình dạy học, công cụ bảng biểu được sử dụng nhằm
hướng dẫn HS suy nghĩ, sắp xếp và trình bày những kiến thức đã học theo chủ đề
nhất định dưới dạng hình ảnh trực quan (bảng, biểu, sơ đồ…). Từ đó giúp các em
hiểu sâu được bản chất của lịch sử, quy luật phát triển của lịch sử và nhất là hiểu
được ý nghĩa của việc học môn lịch sử và dần yêu thích môn lịch sử hơn. Với cách
vận dụng này giáo viên cũng có thể lưu ý với học sinh có thể sử dụng vào bài kiểm
tra, bài thi khi đề bài yêu cầu.
* Mục đích, yêu cầu:
- Nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập.
- Rèn năng lực tư duy, năng lực tự học cho học sinh.
- Tổng hợp, hệ thống các kiến thức; ghi nhớ một cách có cơ sở vững chắc.
- Giáo viên tìm hiểu, nghiên cứu kỹ bài học, dự kiến phương pháp dạy học.
* Các điều kiện thực hiện:
- Máy tính xách tay hoặc máy tính bàn có kết nối internet; phòng học có máy
chiếu.
- Tài liệu tham khảo kiến thức.
- Học sinh đọc bài trước ở nhà, nắm bắt những kiến thức trọng tâm của bài.

* Các thức tiến hành:
Bước 1: Giáo viên chia lớp thành các nhóm nhỏ (4 hoặc 6 học sinh/nhóm); có
thể chia nhóm trước để chuẩn bị ở nhà hoặc chia nhóm trên lớp để trực tiếp tìm hiểu
kiến thức.
Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi cho các nhóm (có thể là 1 câu hỏi chung hoặc
câu hỏi riêng cho từng nhóm)
- 19 -


Giáo viên đưa sẵn mẫu bảng biểu để học sinh thào luận và trả lời theo mẫu.
Bước 3: Các nhóm trao đổi, thảo luận và trình bày kết quả.
Bước 4: giáo viên nhận xét, phân tích thêm và chốt kiến thức.
Ví dục khi học bài tổng kết lịch sử thế giới, để giúp học sinh nắm được các
xu thế phát triển của thế giới sau chiến tranh lạnh, giáo viên có thể hướng dẫn học
sinh lập bảng niên biểu liệt kê các sự kiện, nội dung cơ bản của giai đoạn. Bảng niên
biểu sử dụng trong mục II- Xu thế phát triển của thế giới sau chiến tranh lạnh, chia
làm 2 cột dọc gồm: Xu thế, biểu hiện của xu thế. Giáo viên hướng dẫn học sinh hoàn
thiện theo mẫu:
TT
Xu thế
Biểu hiện
1
Tất cả các quốc gia đều ra sức điều - Các quốc gia xây dựng sức mạnh tổng
chỉnh chiến lược phát triển lấy kinh hợp quốc gia, thay thế chạy đua vũ
tế làm trọng điểm.
trang.
- Xây dựng nền tài chính vững chắc,
nền công nghệ cao, quốc phòng hùng
mạnh.
2

Sự điều chỉnh quan hệ giữa các - Các nước vươn lên mạnh mẽ, xác lập
nước lớn theo chiều hướng đối một vị trí ưu thế trong trật tự thế giới.
thoại, thỏa hiệp, tranh xung đột trực - Mối quan hệ giữa các nước ngày nay
tiêp.
mang tính hai mặt: Muâu thuẫn và hài
hòa, cạnh tranh vf hợp tác, tiếp xúc và
kiềm chế,…
3
Nhiều khu vực vẫn diễn ra nội chiến - Nhiều nơi bộc lộ chủ nghĩa li khai,
và xung đột.
chủ nghĩa khủng bố.
- Cuộc khủng bố ngày 11/9/2001 ở Mĩ
gây ra những tác hại to lớn, báo hiệu
nhiều nguy cơ mới đối với thế giới.
4
Từ thập kỉ 90, thế giới đang chứng - Sự phát triển nhanh chóng của thương
kiến xu thế toàn cầu hóa mạnh mẽ. mại thế giới, sự phát triển và vai trò to
lớn của các công ty xuyên quốc gia; Sự
ra đời của các tổ chức kinh tế thương
mại, tài chính quốc tế và khu vực.
Qua bảng này học sinh sẽ thấy rõ được 4 xu thế phát triển của thế giới sau
chiến tranh và những biểu hiện của các xu thế.
Khi dạy bài 27: tổng kết lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 2000, tìm hiểu giai
đoạn 1930-1945, đây là giai đoạn gắn với nhiều giai đoạn có ý nghĩa quan trọng đến
- 20 -


thành công của cách mạng tháng Tám. Để giúp học sinh thấy được nội dung từng
giai đoạn, cũng như mối quan hệ giữa các giai đoạn đó, giáo viên có thể yêu cầu học
sinh hệ thống hoá kiến thức những vấn đề cơ bản của từng bài theo bảng sau :

Giáo viên đưa cho nhóm bảng mẫu và yêu cầu:
Phong
trào Nội dung

1930-1931

1936-1939

1939-1945

Chống phong kiến Chống đế quốc và phong Đánh đổ đế quốc và tay sai.
và đế quốc.
kiến .
Độc lập dân tộc Tự do – cơm áo- hòa bình. Tịch thu ruộng đất của đế quốc
Khẩu hiệu
người cày có
và việt gian chia cho dân cày
ruộng.
Mặt trận dân tộc Mặt trận nhân dân phản đế Mặt trận thống nhất dân tộc
Mặt trận
thống nhất chống
Đông Dương.
phản đế Đông Dương.
đế quốc và tay sai.
Đấu tranh chính trị Kết hợp các hình thức Đấu tranh đánh đổ chính quyền
Hình thức,
là chủ yếu.
công khai và bí mật, hợp
của đế quốc và tay sai.
phương pháp

pháp và bất hợp pháp
Kẻ thù

Tổng diễn tập
lần 1

Tổng diễn tập
lần 2

Tổng khởi nghĩa

Thông qua bảng hệ thống này học sinh sẽ biết rõ được kẻ thù, nhiệm vụ
cách mạng của từng giai đoạn lịch sử .Từ đó xác định được nhiệm vụ trọng tâm và
hình thức cách mạng cụ thể trong từng giai đoạn. Mặt khác còn giúp học sinh có thể
lí giải được tại sao lại có sự thay đổi sách lược chủ truơng của Đảng trong từng giai
đoạn lịch sử
Hoặc khi tìm hiểu giai đoạn 1975-2000, để học sinh nắm được các thành tựu
tiêu biểu của Việt Nam trên các lĩnh vực, giáo viên cũng có thể yêu cầu học sinh
hoàn thiện các sự kiện từ các mốc thời gian đã cho trước. Giáo viên đưa cho nhóm
bảng mẫu và yêu cầu:
Thời gian
30/4/1975
9/1977
12/1986
7/1995
28/7/1995

Sự kiện
Xe tăng và bộ binh của ta tiến vào Dinh Độc Lập
Việt Nam trở thành thành viên thứ 149 của Liên Hợp Quốc

Đại hội lần thứ VI của Đảng- mở đầu công cuộc đổi mới đất nước.
Việt Nam và Mĩ bình thường hóa quan hệ ngoại giao.
Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp hội các quốc gia ĐNA
(ASEAN)
- 21 -


2008-2009

Việt Nam làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ

Ví dụ, khi dạy bài 27: Tổng kết lịch sử Việt Nam từ 1919-2000, tìm hiểu về
giai đoạn 1930-1945, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh hệ thống kiến thức một
cách tổng quan, hiểu rõ được quy luật phát triển của lịch sử, thấy được mối quan hệ
lôgíc giữa các giai đoạn lịch sử và đặc biệt hiểu được một cách khái quát nhất trọng
tâm kiến thức của cả chương, từ đó xác định được những vấn đề cơ bản của từng bài
và tránh được tình trạng nhầm lẫn kiến thức giữa bài này với bài kia.

CM tháng Tám
thành công
CTTG2 bùng nổ, Pháp
thực hiện chính sách thời
chiến-> Đảng chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược
cách mạng trong HN6,
HN8

-Nguy cơ chiến tranh
phát xít
- Chính sách tiến bộ của

Mặt trận nhân dân Pháp

Phong trào CM
1939-1945

Phong trào CM
1936-1939

- 22 -

- Nhật đảo chính Pháp đảng
chủ trương khởi nghĩa từng
phần
- Nhật bị đồng minh đánh
bại.Tổng khởi nghĩa bùng nổ
- Phong trào dân sinh,dân chủ
rộng khắp
- Thành lập Mặt trận để đoàn
kết lực lượng
- Hình thức đấu tranh phong
phú; - Là cuộc tập dượt thứ 2
chuẩn bị cho CMT8


- Thực dân Pháp tiếp tục
khủng bố trắng
- Cơ sở cách mạng tan
vỡ phong trào cách
mạng tạm lắng


Phong trào CM
1932-1935

- Tác động khủng hoảng
kinh tế 1929 -1933
- Pháp khủng bố trăng sau
khởi nghĩa Yên Bái
- Đảng Cộng sản Việt Nam

Phong trào CM
1930-1931

ra đời

- Đấu tranh giữ vững lập
rường của Đảng
- ĐH lần 1 của Đảng
(3/1935); –Phong trào CM
được phục hồi

- Khẳng định đường lối của
Đảng
- Xây dựng liên minh công –
nông
- Thành lập chính quyền Xô
viết
- Là cuộc diễn tập đầu tiên

Đảng CS Việt Nam
ra đời (3/2/1930)


Qua sơ đồ trên học sinh sẽ khái quát được kiến thức của toàn bộ chương II
có cái nhìn tổng quan về lượng kiến thức trọng tâm trong từng giai đoạn lịch sử. Từ
đó thấy được quy luật phát triển của lịch sử một cách rõ nét. Cụ thể, từ khi Đảng
cộng sản Việt Nam ra đời, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam qua các
thời kì 1930-1931,1932-1935,1936-1939, 1939-1945, mỗi thời kì có một nhiệm vụ
khác nhau nhưng tựu chung lại nó là các cuộc diễn tập chuẩn bị cho Cách mạng
tháng Tám thành công. Đặc biệt qua sơ đồ này học sinh còn thấy được vai trò to lớn
của Đảng qua các thời kì phát triển cũng như thoái trào. Từ cái nhìn khái quát trên
học sinh có biểu tượng để phân tích triển khai những ý cơ bản trong bài.
* Kết quả thực hiện:
Phương pháp này giáo viên có thể hướng dẫn các em trong những bài tổng kết
ôn tập, liệt kê sự kiện, hoặc những nội dung khác nhau để so sánh. Với kiểu phương
pháp này giúp học sinh liệt kê được toàn bộ những sự kiện chính trong bài theo các
mốc thời gian ,hoặc có thể so sánh nội dung này với nội dung kia,từ đó tránh được
tình trạng nhầm kiến thức hoặc thiếu các sự kiện .

- 23 -


Qua thực hiện giảng dạy trên hai lớp thực nghiệm, tôi nhận thấy với cách tìm
hiểu kiến thức bằng bảng biểu, đa số học sinh rất hào hứng, chủ động tìm hiểu kiến
thức, đặc biệt là phát huy được khả năng phân tích, so sánh các sự kiện lịch sử .
3.2. Sử dụng sơ đồ tư duy vào tìm hiểu kiến thức.
* Mục đích, yêu cầu:
- Nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập.
- Rèn năng lực tư duy, năng lực tự học cho học sinh.
- Tổng hợp, hệ thống các kiến thức; ghi nhớ một cách có cơ sở vững chắc.
- Giáo viên tìm hiểu, nghiên cứu hệ thống lý thuyết, phần mềm vẽ sơ đồ tư
duy

- Vẽ sơ đồ tư duy hệ thống lý thuyết phần đọc hiểu:
* Các điều kiện thực hiện:
- Máy tính xách tay hoặc máy tính bàn có kết nối internet; phòng học có máy
chiếu.
- GV nghiên cứu, tìm hiểu phần mềm vẽ sơ đồ tư duy Imindmap 9.0
* Các thức tiến hành:
Bước 1: GV hệ thống hóa kiến thức thuyết bằng vẽ sơ đồ tư duy (Thực hiện
khi thiết kế bài học)
Bước 2: Cách khai thác, sử dụng Sơ đồ tư duy trong tiết học: Theo nội dung
bài tổng kết, ôn tập lịch sử; GV sử dụng một cách linh loạt trong giảng dạy, hướng
dẫn học sinh.
Lưu ý: Để khai thác, sử dụng hiệu quả GV cấn giới thiệu cho HS các yêu
cầu chung về cách “ghi chép” có hiệu quả trên BĐTD gồm các nội dung sau:
1). Dùng từ khóa và ý chính.
2). Viết cụm từ, không viết thành câu
3). Dùng các từ viết tắt.
4). Có tiêu đề.
5). Đánh số các ý
6). Liên kết ý nên dùng nét đứt, mũi tên, số, màu sắc,…
7). Ghi chép nguồn gốc thông tin để có thể tra cứu lại dễ dàng
8) Sử dụng màu sắc để ghi.
Ví dụ khi dạy bài 27 Tổng kết lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 2000, giáo viên có
thể hướng dẫn học sinh ôn tập lại kiến thức bằng sơ đồ tư duy:
- 24 -


* Kết quả thực hiện:
Khái quát kiến thức bằng sơ đồ tư duy là biện pháp đầu tiên làm cơ sở GV rèn
luyện, nâng cao kỹ năng khái quát, tổng hợp kiến thức.
Để phát huy tôi đa hiệu quả của sơ đồ tư duy trong ôn tập GV cần: Mỗi GV

phải nghiên cứu, rèn luyện kỹ năng xây dựng về SĐTD, sử dụng phần mềm vẽ sơ đồ
tư duy; cần xác định đúng kiến thức cơ bản, trọng tâm để thiết kế SĐTD tức là phải
biết chọn lọc những ý cơ bản, những kiến thức thật cần thiết; kết hợp sử dụng CNTT
trong dạy học gắn với hướng dẫn HS tự học ở nhà. Với HS, các em vừa biết sử dụng
sơ đồ tư duy để ghi bài, tái hiện kiến thức mà biết sử dụng nó như một công cụ tư
duy sáng tạo
3.3. Ứng dụng trò chơi vào tìm hiểu kiến thức.
Ứng dụng các trò chơi là một biện pháp, một hướng đi mới nhằm mang lại
những kết quả học tập tốt hơn cho học sinh ở trường THPT. Hiểu rõ mục đích – ý
nghĩa, nắm vững cách thức tiến hành, nội dung tổ chức phù hợp đúng đắn với những
yêu cầu đặt ra sẽ có những tác động tích cực đến việc học tập bộ môn lịch sử và có
tầm quan trọng đặc biệt. Tổ chức các trò chơi kết hợp với quá trình giảng dạy bộ
môn Lịch sử ở trường THPT còn là nơi để học sinh bày tỏ quan điểm, nhận thức tình
cảm của mình về các vấn đề mà họ quan tâm (ở từng bài học).
- 25 -


×