Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

NHÂN CÁCH VÀ BẢN LĨNH NGUYỄN TRÃI BIỂU HIỆN QUA THƠ CA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.27 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
KHOA NGỮ VĂN

MÔN: TÁC GIA NGUYỄN TRÃI
ĐỀ TÀI: NHÂN CÁCH VÀ BẢN LĨNH CỦA NGUYỄN TRÃI
BIỂU HIỆN QUA THƠ CA
GVHD: Đoàn Thị Thu Vân
SVTH: 1. Nguyễn Thị Mỹ Duyên

K39.606.003

2. Lê Thị Tố Huyên

K39.606.009

3. Phạm Thành Lâm

K39.606.012

4. Nguyễn Văn Thịnh

K39.606.034

5. Phạm Thị Thương (NT) K39.606.037
6. Lê Dương Thành Trí
7. Nguyễn Phan Hồng Ý

K39.606.041
K39.606.048

TP.HCM, ngày 19 tháng 10 năm 2015



1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
KHOA NGỮ VĂN

MÔN: TÁC GIA NGUYỄN TRÃI
ĐỀ TÀI: NHÂN CÁCH VÀ BẢN LĨNH CỦA NGUYỄN TRÃI
BIỂU HIỆN QUA THƠ CA
GVHD: Đoàn Thị Thu Vân
SVTH: 1. Nguyễn Thị Mỹ Duyên

K39.606.003

2. Lê Thị Tố Huyên

K39.606.009

3. Phạm Thành Lâm

K39.606.012

4. Nguyễn Văn Thịnh

K39.606.034

5. Phạm Thị Thương (NT) K39.606.037
6. Lê Dương Thành Trí
7. Nguyễn Phan Hồng Ý


K39.606.041
K39.606.048

TP.HCM, ngày 19 tháng 10 năm 2015

2


MỤC LỤC

3


NHÂN CÁCH VÀ BẢN LĨNH CỦA NGUYỄN TRÃI
BIỂU HIỆN QUA THƠ CA
I/ Nguyễn Trãi – một nhân cách cao đẹp
1. Trọn đạo vua tôi, yêu nước thương dân sâu sắc
Con người có nhân cách là người biết tự trọng, quyết chí tu thân, có lí
tưởng sống cao đẹp và suốt đời hành động theo lí tưởng đó. Nhắc tới Ức Trai,
người ta thường nhắc nhiều về tấc lòng “ái ưu vằng vặc trăng in nước”,về lý
tưởng nhân nghĩa trừ bạo yên dân mà suốt đời ông theo đuổi:
Còn có một lòng âu việc nước,
Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung.
(Thuật hứng, XXIII)
(nhẫn: đến, nẻo sơ chung: lúc có hồi chuông đầu tiên -> nỗi lo việc nước
đã khiến ông bao đêm thức trắng)
Chỉ vì tấm lòng thương dân của một người biết “lo trước cái lo của thiên
hạ” làm cho ông không sao chợp mắt nổi:
Bình sinh độc bão tiên ưu niệm,

Tọa ủng hàn khâm dạ bất miên.
(Hải khẩu dạ bạc hữu cảm, X)
(Bình sinh riêng ôm tấm lòng tiên ưu,
Ngồi quàng một mảnh chăn lạnh thâu đem không chợp mắt)
Ông ý thức được trách nhiệm của mình:

4


Nợ quân thân chưa báo được,
Hài hoa còn bợn dặm thanh vân
(ngôn chí, XI)
(bợn: vướng, dặm thanh vân: đường mây xanh, chỉ con đường công danh
--> ơn vua chưa báo đáp được thì vẫn phải tiếp tục làm việc, cống hiến)
Hay:
Niềm cũ sinh linh đeo ắt nặng,
Cật trưng hồ hải đặt chưa an.
(Tự thán, II)
(sinh linh: nhân dân nói chung; cật: cái lưng, ở đây chỉ thân mình; trưng:
bày ra, biểu lộ ra -> tấm lòng khắc khoải hướng về nhân dân sẽ luôn khiến ông
luôn trăn trở, không thể dứt ra mà yên tâm về ở ẩn, vui thú điền viên được)
Chính vì là một con người có trách nhiệm cao với dân với nước nên khi
không thể thực hiện được lý tưởng của mình, ông cảm thấy tự hổ thẹn trong
lòng:
Từ ngày gặp hội phong vân
Bổ báo chưa hề đặng mỗ phân

Quốc phú binh cường chăng có chước
Bằng tôi nào thửa ích chưng dân
(Trần tình, I)

(NT cảm thấy mình từ ngày gặp được minh chúa, vẫn chưa hề báo đáp ơn
vua được một phần nào. Người chẳng có kế sách gì giúp cho nước giàu dân
mạnh như ông thì nào có ích gì cho nhân dân)

5


Hay:
Vận trị cùng loàn chỉn mặc thì
Bằng ta sinh uổng có làm chi.
Ơn vua luống nhiều lần đội,
Việc nước nào ích mấy bề.
(Tự thán, bài 30)
Dù gặp nhiều khổ lụy nhưng tấm lòng trung với vua của NT luôn trước
sau như một:
Những vì thánh chúa, âu đời trị,
Há kể thân nhàn, tiếc tuổi tàn.
(Tự thán, II)
Quân thân chưa báo lòng canh cánh,
Tình phụ cơm trời áo cha
(Ngôn chí, VII)
Niềm trung quân còn chưa báo được thì những niềm riêng khác ông đành
gác lại, đành phụ bạc.
2. Tâm hồn trong sạch, nếp sống giản dị
Như bông sen vẫn tỏa hương thơm ngát giữa bùn lầy uế tạp, Ức Trai vẫn
giữ cho mình một tâm hồn trong sạch, liêm khiết:
Thời nghèo sự biến nhiều bằng tóc
Nhà ngặt quan thanh lạnh nữa đèn
(Thuật hứng, I)
(Thời thế hiểm nghèo khiến những việc chẳng lành cứ liên tiếp xảy ra, vì

ta là quan thanh liêm nên nhà nghèo, đến cả ánh đèn cũng trở nên lạnh lẽo)
6


NT đã cống hiến hết mình nhưng cuộc đời gặp nhiều nghịch cảnh. Thơ
ông không tránh khỏi có lúc phảng phất nỗi buồn nhân tình thế thái, nỗi trăn trở
chưa trọn chí “tiên ưu”. Nhưng vượt lên tất cả vẫn là một cái tâm trong sáng,
vững vàng của một con người biết sống, biết làm phong phú tâm hồn mình bằng
những niềm vui trong cuộc sống:
Cởi tục trà thường pha nước tuyết,
Tìm thanh trong vắt tiện chè mai.
(Ngôn chí, I)
(Cởi tục: giũ bỏ cái phàm tục, tìm thanh: hướng đến sự thanh cao, tiện: sẵn
có -> Ông lấy việc uống trà để biểu thị cái thanh cao)
Nếp sống giản dị:
Bữa ăn dầu có dưa muối,
Áo mặc nài chi gấm là.
(Ngôn chí, III)
3. Lánh đục tìm trong, không màng danh lợi
Nổi bật ở NT là một lối sống coi rẻ lợi danh
Người tham phú quý người hằng trọng,
Ta được thanh nhàn ta xá yêu.
(Mạn thuật, II)
Danh chăng chác lộc chăng cầu,
Được ắt chẳng mừng, mất chẳng âu.
(Tự thuật, X)
Mâu thuẫn thường trực của Nguyễn Trãi là mâu thuẫn giữa xuất và xử,
lánh trần hay nhập thế. Một mặt ông muốn “cởi tục, tìm thanh”, nhưng mặt khác
lại vẫn đeo đẳng: “Bui có một niềm chăng nỡ trễ, Đạo làm con với đạo làm tôi”.
7



Đây là vấn đè đặt ra thường xuyên cho nhà nho xưa. Riêng đối với Nguyễn Trãi
thì vẫn đề này trở thành day dứt và đau đớn.
Ức Trai vừa đau đáu tấc lòng nhân thế nhưng cũng vừa không nguôi day
dứt bởi tiếng gọi của tâm hồn. Tính cách ngay thẳng không cho phép ông thích
ứng với nếp sống hưởng lạc và trụy lạc của bọn vua quan, ông đành trở lại làm
bạn với thiên nhiên hoa sớm. Đối với cảnh lâm tuyền, con người hình như có hẹn
hò, duyên nợ. Chung trà, chén rượu, khúc đàn, nén hương có tác dụng giúp cho
tâm hồn thanh thản, không để cảnh ngoài làm bận rộn xao xuyến:
Hà thời kết ốc vân phong hạ,
Cấp giản, phanh trà, chẩm thạch miên.
(Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác)
(Bao giờ mới được làm nhà dưới núi mây,
Múc nước khe pha trà, gối đầu lên đá mà ngủ)
(Sau loạn về Côn Sơn cảm tác)
Trong hoàn cảnh:
Phú quý treo sương ngọn cỏ
Công danh gửi kiến cành hòe
(Tự thán, III)
Phượng những tiếc cao, diều hãy liệng,
Hoa thường hay héo, cỏ thường tươi.
(Tự thuật – bài 9)
Khoảng không cao đẹp lẽ ra chim phượng bay lượn, thì lại chỉ thấy có
chim diều thôi. Mặt đất tốt tươi tưởng nở đầy hoa thì lại thấy chỉ có sum suê
những cỏ. Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ của NT, ẩn dật còn có ý nghĩa là để giữ
mình, để an ủi, cũng là để quên :
8



Nhất niệm nhất lai thiên niệm tức,
Kê trùng tự thử liễu tương tranh.
(Một niềm đã tắt nghìn niềm tắt,
Cãi cọ “gà sâu” chuyện cũ rồi)
(Đất khách đêm thu cảm tác – bài 48)
Nơi tâm tư con người nhập thế như Nguyễn Trãi vẫn không tránh khỏi có
lúc băn khoăn sợ công danh phú quý làm tổn hại đến “thiên chân” và trói buộc
tinh thần tự do của mình.
Và ông hướng tới một lí tưởng mới: nếu không còn điều kiện để làm
một quốc sĩ thì hãy làm một con người thật sự trong sạch và thánh thiện.


Cũng thật lạ khi trong con người suốt đời tự nguyện dấn thân tích cực như
Nguyễn Trãi lại vẫn luôn mang niềm khao khát “trở về”. Trở về với núi cũ
Côn Sơn, với thiên nhiên hoang sơ mà thân thuộc là hoài niệm thường xuyên
trong tâm khảm Nguyễn Trãi. Tuy nhiên sẽ không phải là mâu thuẫn nếu nhận ra
rằng “dấn thân” và “trở về” thuộc hai bình diện khác nhau: một là nhu cầu của
con người XH, con người công dân và một là nhu cầu của con người cá nhân
cùng hiện diện trong nhân cách đặc biệt ấy. Điều đó đã tạo cho NT một phong
thái xưa nay ít thấy – một ông quan mà giống một “ông tiên trong lầu ngọc”
(Nguyễn Mộng Tuân)
Dường như không phải không có lí khi nhận xét chữ “nhàn”, “vắng”, “ẩn”,
… đi về luôn trong câu thơ, đã làm nhạt đi mất một ít những gì vốn là phần nồng
đậm trong thơ Ức Trai. Có lúc nhà thơ như đã chỉ còn có riêng mình sống giữa
một cảnh vật thần tiên và khoáng đạt. Ông vò gậy trúc để “bước qua lòng suối”,
“đạp bóng trăng” để “thưởng mai”. Ông yên tâm làm bạn bầu với chim muông
cây cỏ. Ông hoàn toàn thả mình trong cái thú sống một mình lặng tẻ, có bóng
thông làm nhà, cỏ xanh làm giường ; thậm chí ông còn lên tiếng gọi :
Vấn quân hồ bất quy khứ lai ?
Bán sinh trần thổ trường dao cốc.

9


(Côn Sơn ca)
(Hỡi ai nào chẳng sớm quay về ?
Nửa đời vùi mãi trong lầm đục)
Rõ ràng cái “nhàn” trong thơ Nguyễn Trãi chỉ là một cách nói của nhà thơ,
một cách ông che giấu những nỗi đau lòng, cái buồn của ông là cái buồn có
duyên cớ sâu sắc, và việc “quy sơn” đâu phải là một điều sảng khoái đối với ông,
nó chỉ là tình thế bất đắc dĩ, là cái kết quả bi thảm của trăm nghìn sóng gió trong
nội bộ giai cấp phong kiến lúc ấy mà thôi !
Có hiểu như thế thì mới không khe khắt trước cái triết lí “ở ẩn” thường
được nhắc đến trong thơ như một lẽ sống của Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi nói ẩn
cư và ông đã từng làm như thế, nhưng thực tình lòng ông đâu có nghĩ như ông
nói và làm. Bỏ triều đình mà tìm về núi cũ, sống khoáng đạt trước một tạo vật vô
cùng rộng lớn, tâm hồn nhà thơ như cũng được nâng lên đến tuyệt đỉnh
thanh cao. Ông mở lòng mình ra với mai với trúc ; con người ông cao khiết
đến mức gội đầu bằng sương, lót lòng bằng tuyết, đón một ánh trăng vào
nhà hay lắng nghe tiếng đàn của gió qua lá trúc rì rào ; như thế đâu có nghĩa
là cánh cửa nhìn xuống cuộc đời của ông đã khép chặt lại.

II/ Nguyễn Trãi – một bản lĩnh mạnh mẽ
1. Thẳng ngay, cứng cỏi, không khiếp sợ cường quyền bạo lực
Mang cốt cách đại trượng phu, Nguyễn Trãi không bao giờ thoả hiệp,
về hùa với những tà kiến của một số triều thần. Vì vậy, ông trở thành cái gai
trước mắt họ:

Cội rễ bền day chẳng động,
Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày.
(Tùng, II)


10


Sơn thủy nhàn chơi phận khó khăn,
Cửa quyền hiểm hóc ngại xun xoăn.
(Mạn thuật, V)
Với trách nhiệm của một bậc lương thần, ông ra sức chèo chống để hạn
chế những hành động sai quấy của cả vua lẫn bọn quan lại trong triều. Chính vì
vậy, ông trở thành tảng đá cản dòng đối với bọn gian thần. Cuối cùng, chúng lợi
dụng cái chết đột ngột của Lê Thái Tông ở Lệ Chi Viên, vu cáo ông âm mưu giết
vua và khép ông vào cái án tru di tam tộc!
Sống giữa bọn quyền thần gian ác, giữ vững lòng son có nghĩa là đừng để
cho khí tiết cứng cỏi bị lung lay :
Chớ cậy sang mà ép nề,
Lời chăng phải vưỡn khôn nghe.
(Trần tình, VIII)
Thế sự dầu ai hay buộc bện,
Sen nào có bén trong lầm.
(Thuật hứng, XXV)
Không để cho công danh phú quý làm mờ mắt:
Con mắt họa xanh đầu dễ bạc,
Lưng khôn uốn lộc nên từ.
(Mạn thuật, XIV)
Cơm kẻ bất nhân ăn, ấy chớ
Áo người vô nghĩa mặc, chăng thà.
(Trần tình, III)

11



2. Không sợ khó khăn
Có lúc NT bất lực, ông như đổ sụp cả về thể chất, tinh thần, chịu hàng
phục về số phận tai ương, ngang trái:
Nhìn thấy Ngu Công tua sá hỏi
Non từ nay mựa tốn công dời
(Thuật hứng, XV)
Nhưng không chịu để cho bi kịch của cuộc sống thế tục đè bẹp, ông
vươn lên tầm cao, hoà nhập vào đại tự nhiên cực kì diễm lệ. Hình ảnh của ông
khác nào một tiên ông, một thánh nhân giữa núi non, mây nước, cây cỏ, chim
muông:
Đủng đỉnh chiều hôm giắt tay,
Trông thế giới phút chim bay.
Non cao non thấp mây thuộc,
Cây cứng cây mềm gió hay…
(Mạn thuật, IV)
Nguyễn Trãi đã nhiều lần khẳng định ý chí bền bỉ, kiên định của mình:
Tính khí một đời nguyên nếp cũ,
Lênh đênh há giảm chí hào xưa!
(Đêm đậu thuyền ở cửa Lâm)
Hay:
Khó khăn thì mặc, có màng bao,
Càng khó bao nhiêu chí mới hào.
(Thuật hứng, XXI)
Và:
12


Càng thuở già càng cốt cách,
Một phen giá một tinh thần.

(Mai)
Con người Nguyễn Trãi là như vậy đấy ! Trong khi đang phải gánh chịu
một nổi cô đơn bất hạnh, con người ấy vẫn biết vượt qua đau khổ để hướng về
cái cao cả tốt lành. Trong muôn nghìn khó khăn chồng chất lên mình, con người
ấy vẫn biết chờ đợi và tin vào cái tốt lành sẽ xảy đến. Con người đó quả là một
tâm hồn Việt Nam trọn vẹn.
3. Tự tin khẳng định phẩm chất, tài năng của mình
Khẳng định tấm lòng trung, hiếu, nghĩa trước sau như một:
Bui có một lòng trung lẫn hiếu,
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.
(Thuật hứng, XXIV)
Đạo này để trong trời đất
Nghĩa ấy bền chưng đá vàng
(Tự thán, XXIII)

Tự hào vì luôn biết giữ mình:
Chữ học ngày xưa quên hết dạng,
Chẳng quên có một chữ cương thường.
(Tự thán, XII)
Nhật nguyệt dễ qua biên trắng,
13


Cương thường khôn biến tấc son.
(Tự thán, XVII)
(biên trắng: mái tóc bạc -> dù có quên hết chữ nghĩa, dù cho ngày tháng
trôi mau khiến mái tóc kia bạc màu thì vẫn giữ đạo cương thường không hề thay
đổi)
Chuốt lòng son chăng bén tục,
Bền tiết ngọc kể chi sương.

(Hồng cúc)
Phú quý chẳng tham thanh tựa nước,
Lòng nào vạy vọ hơi hơi.
(Ngôn chí, XXI)
Với bản lĩnh và nghị lực của một người anh hùng, ông luôn tự tin về năng
lực mình:
Lâm tuyền ai rặng già làm khách
Tài đống lương cao ắt cả dùng
(Tùng, I)
(Ai bảo rằng phải làm khách già ở chốn lâm tuyền, có tài giữ được trọng
trách của triều đình thì ắt sẽ được trọng dụng)
Thừa chỉ ai rằng thời khó ngặt
Túi thơ chứa hết mọi giang san
(Tự thán 2)
(Thừa chỉ: chức thừa chỉ học sĩ NT được Lê Lợi phong khi còn trong
nghĩa quân Lam Sơn -> ai bảo là làm quan thừa chỉ là nghèo khó, trong túi thơ
của ta đã chứa cả giang sơn rồi, đó mới là điều khiến ta giàu có nhất)
14


Ông tự nghiệm ra rằng mình có cả tài Văn lẫn Võ:
Đao bút phải dùng, tài đã vẹn,
Chỉ như nấy chép, việc càng chuyên…
(Như chính sử thần Phan Huy Chú đã khách quan đánh giá về ông: “Văn
chương mưu lược gắng liền với sự nghiệp kinh bang tế thế”). Ông còn tự khẳng
định công lao của mình cũng như Tiêu Hà giúp Hán Cao Tổ dựng nước và
đương nhiên cũng sẽ trường tồn với sử xanh:
Nghiệp Tiêu Hà làm khá kịp,
Xưa nay cũng một sử xanh truyền.
(Bảo kính cảnh giới – bài 56)

Hơn nữa ông còn ngẩng cao đầu, pha một vẻ khinh mạn bất cần:
Lừng lựng người rằng chuông ấy đá,
Đóng thì cũng có tiếng cong cong.
(Thuật hứng – bài 16)
Ông muốn bảo: nói ta là Chuông hay gọi ta là Đá cũng cứ được đi. Nhưng
nếu biết đến Ta, biết sử dụng Ta, biết “đóng” vào Ta – “cong cong” đấy !
Trên tinh thần chung ấy, ngay cả trong cảnh ngộ cùng đường, với lối nói
khiêm xưng nhún nhường, Nguyễn Trãi đã tự tin khẳng định mình là “ ngựa già
– kham rong ruổi”, là “thông qua rét – dạn tuyết sương”…, trong lời ngỏ cùng
ông vua trẻ Lê Thái Tông:
“thương thần như ngựa đến tuổi già còn kham rong ruổi, nghĩ thần như
thông qua năm rét càng dạn tuyết sương…”
(Biểu tạ ơn)

15


4. Để lại dấu ấn về ý thức cá nhân
Nguyễn Trãi khắc họa chân dung của mình một cách hóm hỉnh, tự
trào:
Vừa sáu mươi dư tám chín thu,
Lưng gầy da xỉ tướng lù khù.
(Ngôn chí, XIV)
Tựa gốc cây ngồi hóng mát,
Đìu hiu ta hãy một đìu hiu.
(Thuật hứng, XXII)
Không quan tâm miệng lưỡi thế gian
Hễ tiếng dữ lành tai quản đắp,
Cầu ai khen lẫn lệ ai chê.
(Thuật hứng, III)

(những chuyện thị phi ông bịt tai lại không nghe, không cần ai khen mà
cũng chẳng sợ ai chê)
Sự thế dữ lành ai hỏi đến,
Bảo rằng ông đã điếc hai tai.
(Ngôn chí, V)
Cá tính độc đáo:
Ít nhiều tiêu sái lòng ngoài thế,
Năng một ông này đẹp thú này.
(Ngôn chí, X)
Phong nguyệt dầu ta ai kẻ đoán,
16


Được ngâm nga ắt xá ngâm nga.
(Tự thuật, III)
(dù ai cấm thì ta cứ ngâm nga đã)

III/ Những yếu tố ảnh hưởng đến nhân cách và bản lĩnh của
Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống yêu
nước thương dân và tâm hồn nhân hậu rộng mở. Tâm hồn, chí hướng của cha
và ông ngoại đã ảnh hưởng rất sâu sắc đến Ức Trai.
Trần Nguyên Đán đã để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng đứa cháu nhỏ
qua hình ảnh: “Nếp nhà thi lễ, nòi giống thần minh, có hoài bão một lòng vì
nước” (Chuyện cũ về Băng Hồ tiên sinh). Trong khi được ông và cha giảng văn,
dạy chữ, Nguyễn Trãi cũng học được ở ông ngoại tấm lòng thương nhân dân đến
bạc đầu “Bạch đầu không phụ ái nhân tâm” (Nhâm Dần lục nguyệt tác – Trần
Nguyên Đán), học ở cha trong ngày gió rét “muốn thổi cơn gió ấm vào lòng mọi
người” (Xuân hận – Nguyễn Phi Khanh).
Nguyễn Trãi thuở nhỏ đã sống gần gũi với nhân dân lao động, lưu lạc và

cả khi ở ẩn, ông suốt đời gắn bó với nhân dân. Ở ông, yêu nước chính là yêu
những người lao động, những người đã đổ bao nhiêu máu và mồ hôi để đắp xây
cho non sông gấm vóc này. Nguyễn Trãi vĩ đại không chỉ ở tình cảm sâu sắc của
ông đối với nhân dân, mà còn ở chỗ, ông nhận thức được sức mạnh sâu sắc của
chính nhân dân: “Phúc chu thủy tính dân do thủy”. Nước có thể đẩy thuyền
nhưng cũng có thể lật thuyền.

IV/ Nhận định về nhân cách, bản lĩnh của Nguyễn Trãi
Vua Lê Thánh Tông đã viết: “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo” (Ức
Trai lòng dạ sáng như sao khuê).
Nguyễn Đăng Tĩnh, trong bài tựa Ức Trai di tập đã nhận định: “Ở nước ta
từ Đinh, Lê, Lý, Trần…đời nào cũng có những anh hùng mở nước và giữ nước
nhưng tìm một người toàn tài toàn đức như Ức Trai tiên sinh, thật là ít lắm”.
17


Nguyễn Hậu Trai viết: “Nguyễn Trãi có được môn học chính tông. Về văn
chương, về đức hạnh, dưới triều Lê, được vào hạng tuấn tú. Cứ coi việc lấy nhân
nghĩa định được nước, lấy hòa bình làm gốc yên vui thì biết rõ”.
Tô Thế Huy, trong bài tựa Quần hiền phú viết: “Từ thời Trần đến nay,
hạng mũ áo cân đai kể hàng trăm, hàng ngàn, thế mà văn chương để tiếng lại chỉ
có vài người thôi. Nguyễn Nhữ Bật khơi nguồn, Đào Sư Tích dẫn cho nước chảy,
(…) Nguyễn Ức Trai làm cho sóng gợn. Hùng văn trong nước không đâu lớn
hơn được. Đó là sông Giang, sông Hán trong các sông và sao Ngưu, sao Đẩu
trong các sao”.
Ngô Thời Sĩ đã nhắc đến Ức Trai bằng một giọng kính cẩn: “Nho sĩ ở cuối
đời Trần có Nguyễn Ức Trai là bậc nhất”.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận xét: “Nguyễn Trãi người anh hùng
của dân tộc, văn võ song toàn, (…) văn và võ đều là vũ khí, mạnh như vũ bão,
sắc như gươm đao”.

Ngài AMADOU - MAHTAR MBOW, Tổng giám đốc UNESCO khi nhận
xét về Nguyễn Trãi đã viết: “Những người chuyên nghiên cứu tác phẩm của
Nguyễn Trãi khẳng định rằng không thể tiến hành một sự lựa chọn cắt xén trong
công trình của ông. Mỗi thành tố trong bộ óc sớm uyên thâm của ông gắn liền
với những thành tố khác: nhà thơ không tách khỏi nhà ngoại giao; nhà triết học,
khỏi nhà chính trị; nhà đạo đức học khỏi nhà hành động. Cuộc đời và sự nghiệp
của ông, hành vi và tư tưởng của ông cùng tiến triển và chín muồi cho tới lúc
hoàn mãn, theo những đòi hỏi của thế kỷ XV ở Việt Nam”).

Thay lời kết: “Các bạn ơi! Hơn năm thế kỉ rồi thơ Nguyễn Trãi không
bao giờ ngủ… trong thơ Việt Nam, vời vợi cái lo âu điển hình của Nguyễn
Trãi… Tóc bạc trên đầu, hòa lẫn với đêm khuya không ngủ, thơ Nguyễn Trãi
thao thức một nỗi niềm gì… Người thi sĩ trước năm trăm năm đốt tâm hồn cháy
vòi vọi ở giữa trời đất… Khắc khoải như con cuốc suốt đời, cho dẫu chết rồi,
lòng ưu ái của ông vẫn cứ con cháy ra trên trang thơ, trong lịch sử” – Xuân Diệu.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Đoàn Thị Thu Vân (chủ biên), Văn học trung đại Việt Nam (Thế kỉ X – cuối thế
kỉ XIX), NXB Giáo dục Việt Nam, 2009.
2.Nguyễn Hữu Sơn (tuyển chọn và giới thiệu), Nguyễn Trãi – về tác gia và tác
phẩm, NXB Giáo dục, 2001.
3.Nguyễn Trãi toàn tập tân biên, TT Nghiên cứu quốc học, 2000
4.Đoàn Thị Thu Vân, Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kì trung đại,
NXB Giáo dục, 2007.

19




×