Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

quan điểm của Leenin về xuất khẩu tư bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.44 KB, 20 trang )

A. MỞ ĐẦU
V.I.Lênin (1870 -1924) kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác, đứng trước
những quan điểm, những tư tưởng bảo thủ, làm sai lệch chủ nghĩa Mác V.I. Lê nin
đã đưa ra những quan điểm luận giải bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác. Khi
nghiên cứu chủ nghĩa tư bản độc quyền, V.I.Lênin đã xuất phát từ những quy luật
mà C.Mác đã phát hiện: Cạnh tranh tự do thúc đẩy tích tụ sản xuất, tích tụ sản xuất
đến một mức nào đó sẽ dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền. Đồng thời xuất
phát từ chỗ cho rằng, trước hết chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là cơ sở
kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền, cho nên, chủ nghĩa tư bản độc quyền
không phải là một hình thái kinh tế - xã hội mới so với chủ nghĩa tư bản, mà chỉ là
giai đoạn cao nhất trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nhưng nó là một giai
đoạn mới vì nó có những biểu hiện mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trong tác phẩm "Chủ nghĩa đến quốc - giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản",
V.I. Lênin đã xác định những đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền,
nghĩa là sự biểu hiện của sự thống trị của độc quyền trong nền kinh tế của mỗi nước
tư bản chủ nghĩa và cả trong hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thế giới.
Nghiên cứu những đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền: Tích tụ
sản xuất và sự xuất hiện các tổ chức độc quyền; Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài
chính; Xuất khẩu tư bản; Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các liên minh tư bản
độc quyền; Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc tư bản chủ
nghĩa. Trong đó đã làm rõ những hình thức biểu hiện mới của tư bản tài chính và
những biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản trong giai đoạn hiện nay của chủ nghĩa
tư bản. Từ sự phân tích những đặc điểm đó đã làm rõ bản chất và địa vị lịch sử của
của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của xuất
khẩu tư bản đối với sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia tôi chọn đề tài:
“Quan điểm của V.I.Lê nin về xuất khẩu tư bản. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn” để
nghiên cứu làm đề tài tiểu luận của mình.
1


B. NỘI DUNG


Chương 1: Những lý luận chung của V.I.Lê nin về xuất khẩu tư bản
1.1.

Khái niệm “xuất khẩu tư bản”

Để hiểu vấn đề này, V.I.Lênin đã nhắc lại một loạt những quan điểm lý luận
quan trọng: Trước chủ nghĩa tư bản độc quyền, sự bóc lột thuộc địa chủ yếu bằng
con đường trao đổi không ngang giá trong thương nghiệp (cùng với sự bóc lột phi
kinh tế). Từ khi chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền, chỉ trong những điều
kiện đã được tạo ra, khi sự bóc lột các nước lạc hậu và phụ thuộc dựa trên việc xuất
khẩu tư bản được đặt lên hàng đầu. "Đặc điểm của chủ nghĩa tư bản cũ, trong đó
cạnh tranh tự do hoàn toàn thống trị là xuất khẩu hàng hóa. Điểm điển hình của chủ
nghĩa tư bản mới nhất, trong đó các tổ chức độc quyền thống trị là xuất khẩu tư
bản”.
Xuất khẩu tư bản là đem tư bản đầu tư ra nước ngoài bóc lột giá trị thăng dư
(thu lợi nhuận cao) ở đó.
Ở đây cần phân biệt xuất khẩu tư bản và xuất khẩu hàng hóa. Xuất khâu tư
bản khác xuất khẩu hàng hóa ở chỗ:
Xuất khẩu hàng hóa là đem hàng hóa ra nước ngoài bán để
thực hiện giá trị và giá trị thặng dư tạo ra trong nước. Xuất khẩu
tư bản là đen tư bản ra nước ngoài bóc lột giá trị thặng dư trực
tiếp tại nước nhập khẩu tư bản.
Xuất khẩu hàng hóa nhằm bóc lột thêm lợi nhuận bằng trao
đổi còn xuất khẩu tư bản nhằm bóc lột siêu lợi nhuận độc quyền
bằng cách bành trướng quan hệ sản xuấ ra nước ngoài.
1.2 Bản chất của xuất khẩu tư bản
Xuất khẩu tư bản là quá trình ăn bán bình phương. Để chứng minh luận điểm
này, V.I.Lênin đã xem xét một cách chi tiết khả năng và tính tất yếu của xuất khẩu

2



tư bản. Đầu thế kỷ XX đến nay, xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu và phổ biến.
Tình hình đó do những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, tư bản tài chính đã tích lũy được một số tư bản khổng lồ nhưng nếu
đem đầu tư trong nước thì lợi ích bị hạn chế;
Thứ hai, trong thời kỳ độc quyền có những điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu
tư bản. Điều kiện đó là, đại đa số các nước đã bị lôi cuốn vào thị trường quốc tế.
Hàng hải phát triển, đường bộ, đường sắt đã được xây dựng ở các nước thuộc địa.
Như vậy thời kỳ chủ nghĩa tư bản độc quyền đã tạo ra những điều kiện và khả năng
cho xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu và phổ biến.
V.I.Lênin đã chỉ rõ, tại sao ở các thuộc địa, lợi nhuận của tư bản đầu tư cao
hơn đáng kể so với ở chính quốc: Tư bản “thừa” xuất khẩu chủ yếu sang những
nước lạc hậu vì ở đây tư bản còn ít, giá nguyên liệu, giá ruộng đất, giá cả sức lao
động thấp. Ngoài ra tư bản còn được xuất khẩu sang các nước tư bản phát triển
đang thiếu vốn hoặc bị tàn phá trong chiến tranh. Còn có những nước vừa nhập
khẩu tư bản vừa xuất khẩu tư bản như Anh, Tây Đức… vừa vay tiền của Mỹ vừa
đầu tư tư bản vào Mỹ la tinh, vào châu Phi, châu Á.
1.3. Hình thức của xuất khẩu tư bản
Xuất khẩu tư bản tồn tại dưới nhiều hình thức, xét theo cách thức đầu tư được
thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu: Xuất khẩu tư bản trực tiếp và xuất khẩu tư
bản gián tiếp.
Xuất khẩu tư bản trực tiếp: lập ở nước ngoài những xí nghiệp công nghiệp,
thương nghiệp, ngân hàng, đường xe lửa, thuê hoặc mua lại những xí nghiệp ở
nước ngoài, chung vốn hoặc mua cổ phiếu ở nước ngoài biến nó thành một chi
nhánh của công ty mẹ. Các xí nghiệp mới hình thành thường tồn tại dưới dạng hỗn
hợp song phương, nhưng cũng có những xí nghiệp mà toàn bộ số vốn là của một
công ty nước ngoài.

3



Thực hiện những hình thức xuất khẩu đó có thể do tư nhân (các tổ chức độc
quyền), có thể là do nhà nước tư sản.
Xuất khẩu tư bản gián tiếp: là hình thức xuất khẩu tư bản dưới dạng cho vay
thu lãi, thông qua các ngân hàng tư nhân hoặc các trung tâm tín dụng quốc tế và
quốc gia, tư nhân hoặc các nhà tư bản cho các nước khác vay vốn theo nhiều hạn
định khác nhau để đầu tư vào các đề án phát triển kinh tế ngày nay hình thức xuất
khẩu này còn được thực hiện bằng viêc mua trái khoán hay cổ phiếu của các công
ty ở nước nhập khẩu tư bản
Xét theo chủ sở hữu có xuất khẩu tư bản nhà nước và xuất khẩu tư bản tư nhân.
Xuất khẩu tư bản nhà nước: là hình thưc xuất khẩu tư bản mà nhà nước xuất
khẩu tư bản lấy tư bản từ ngân quỹ của mình đầu tư vào nước nhập khẩu tư bản
hoặc viện trợ hoàn lại hay không hoàn lại để thực hiện những mục tiêu về kinh tế,
chính trị và quân sự.
Về kinh tế, xuất khẩu tư bản nhà nước thường hướng vào các ngành thuộc kết
cấu hạ tầng để tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư tư bản tư nhân
Về chính trị, viện trợ nhà nước xuất khẩu tư bản nhằm cứu vãn chế độ chính
trị thân cận đang bị lung lay hoặc tạo mối liên hệ phụ thuộc lâu dài.
Về quân sự, viện trợ nhà nước xuất khẩu tư bản nhằm lôi kéo các nước phụ
thuộc vào các khối quân sự hoặc buộc cá nước nhận viện trợ phải đa quân tham
chiến chống nước khác, cho nước xuất khẩu lập căn cứ trên lãnh thổ của mình hoặc
để bán vũ khí…
Xuất khẩu tư bản tư nhân: là hình thức xuất khẩu tư bản do tư bản tư nhân
thực hiện. Ngày nay, hình thức này chủ yếu do các công ty xuyên quốc gia, đa quốc
gia tiến hành thông qua hoạt động đầu tư kinh doanh. Hình thức xuất khâu tư bản
tư nhân thường được đầu tư vào các ngành kinh tế có vòng quay tư bản ngắn và thu
được lợi nhuận độc quyền cao. Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức chủ yếu của
xuất khẩu tư bản có xu hướng tăng nhanh chiếm tỉ lệ cao trong tổng tư bản xuất
4



khẩu. Nếu những năm 70 của thees kỷ XX xuất khẩu tư bản tư nhân đạt trên 50%
thì đến những năm 80 của thế kỷ XX xuất khẩu tư bản tư nhân đạt 70% trong tổng
tư bản xuất khẩu
Xuất khẩu tư bản của tư nhân có sớm hơn và chiếm ưu thế trong thời kỳ trước
chiến tranh thế giới thứ hai, ngày nay nó vẫn chiếm vị trí quan trọng. Xuất khẩu tư
bản nhà nước được tăng cường từ sau chiến tranh thế giới thứ 2, nó có đặc điểm là:
nguồn vốn tư bản xuất khẩu lấy từ ngân sách và từ số tiền các tổ chức độc quyền
cho nhà nước vay. Nhà nước phải xuất khẩu để xây dựng các kết cấu hạ tầng phục
vụ cho các tổ chức độc quyền đầu tư ra nước ngoài.
Điều quan trọng là phải phân tích hậu quả của xuất khẩu tư bản. V.I.Lênin
nhấn mạnh rằng, xuất khẩu tư bản đẩy nhanh sự phát triển chủ nghĩa tư bản trong
các nước thuộc địa, nhưng đồng thời nền kinh tế của các nước đó mang tính chất
què quặt, mất cân đối, các nước thuộc địa trở thành nơi cung cấp nguyên liệu nông nghiệp cho các chính quốc.
Cần phải chú ý rằng, xuất khẩu tư bản, mặc dù là có tính chất điển hình trong
điều kiện chủ nghĩa tư bản độc quyền, nhưng không loại bỏ và không thay thế xuất
khẩu hàng hóa.
Hiện nay xuất khẩu tư bản xuất hiện hàng loạt các hiện tượng mới, như các tổ
chức độc quyền Mỹ xâm nhập vào nền kinh tế của hàng chục nước, tăng nhanh vốn
đầu tư ở đó, thiết lập sự kiểm soát những vị then chốt trong nền kinh tế. Xuất khẩu
tư bản hằng năm từ Mỹ sang các nước khác nhiều hơn rất nhiều so với từ Anh, Đức
và Pháp.
Vai trò của nhà nước với tư cách là người xuất khẩu tư bản vào các nước đang
phát triển tăng lên đáng kể.
Do cách mạng khoa học - kỹ thuật và sự thay đổi cơ cấu sản xuất đang diễn ra
sự biến đổi hướng xuất khẩu tư bản. Nếu vào đầu thế kỷ XX, như V.I.Lênin đã chỉ
ra rằng, cơ sở của sự bành trướng của các tổ chức độc quyền là các thuộc địa và các
5



nước phụ thuộc, thì hiện nay tư bản tư nhân hướng vào các nước tư bản công
nghiệp phát triển. Xuất khẩu tư bản vào các nước này chiếm tới 70% đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của các nước tư bản phát triển (năm 1914 chỉ chiếm 43%).
1.4 Những biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản
Vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, luồng xuất khẩu tư bản chủ yếu từ các
nước tư bản phát triển sang các nước kém phát triển (chiếm tỷ trọng trên 70%).
Nhưng những thập kỷ gần đây, đại bộ phận dòng đầu tư chảy qua lại giữa các nước
tư bản phát triển với nhau. Tỷ trọng xuất khẩu tư bản giữa ba trung tâm tư bản chủ
nghĩa tăng nhanh; đặc biệt, dòng đầu tư chảy mạnh theo hướng từ Nhật Bản vào
Mỹ và Tây Âu, cũng như từ Tây Âu chảy sang Mỹ. Do đó, trước đây Mỹ là một
nước đầu tư lớn nhất thì nay trở thành nước nhận đầu tư lớn nhất. Trước tình hình
đó, nhiều nhà lý luận tư sản cho rằng, xuất khẩu tư bản không còn là thủ đoạn và
phương tiện mà các nước giàu dùng để bóc lột các nước nghèo. Theo họ, xuất khẩu
tư bản đã trút bỏ bản chất cũ của nó và trở thành hình thức hợp tác cùng có lợi
trong mối quan hệ quốc tế. Sự hợp tác này diễn ra chủ yếu giữa các nước tư bản với
nhau.Đó là quan niệm hoàn toàn sai lầm.
Như ta biết, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đã tạo ra những biến đổi nhảy
vọt trong sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vào những năm 1980, nhiều ngành
công nghiệp mới ra đời như: ngành công nghệ sinh học, ngành chế tạo vật liệu mới,
ngành bán dẫn và vi điện, ngành vũ trụ và đại dương… Những ngành này có thiết
bị và quy trình công nghệ hiện đại, tiêu tốn ít nguyên, nhiên, vật liệu. Trong nền
kinh tế của các nước tư bản phát triển, đã diễn ra sự biến đổi cơ cấu kinh tế theo
hướng tăng nhanh các ngành sản xuất mũi nhọn có hàm lượng khoa học - kỹ thuật
cao. Sự xuất hiện những ngành nghề mới đã tạo ra nhu cầu đầu tư hấp dẫn, vì trong
thời gian đầu nó tạo ra lợi nhuận siêu ngạch rất lớn. Việc tiếp nhận kỹ thuật mới chỉ
diễn ra ở các nước tư bản phát triển, vì ở các nước đang phát triển không có kết cấu
hạ tầng phù hợp, tình hình chính trị kém ổn định, tỷ suất lợi nhuận của tư bản đầu
6



tư không còn cao như trước… Thời gian này, xu hướng liên kết các nền kinh tế ở
các trung tâm tư bản chủ nghĩa phát triển rất mạnh. Kết quả là hình thành các khối
kinh tế với những đạo luật bảo hộ rất khắt khe. Để nhanh chóng chiếm lĩnh thị
trường, các công ty xuyên quốc gia đã biến các chi nhánh của mình thành một bộ
phận cấu thành của khối kinh tế mới nhằm tránh đòn thuế quan nặng của các đạo
luật bảo hộ. Nhật và Tây Âu đã tích cực đầu tư vào thị trường Mỹ bằng cách đó.
Sự biến động về địa bàn và việc tăng tỷ trọng đầu tư của các nước tư bản phát
triển vào nhau không làm cho đặc điểm và bản chất của xuất khẩu tư bản thay đổi,
mà chỉ làm cho hình thức và xu hướng của xuất khẩu tư bản thêm phong phú và
phức tạp hơn. Một là, sự xuất hiện các ngành mới có hàm lượng khoa học - kỹ thuật
cao ở các nước tư bản phát triển cao bao giờ cũng dẫn đến cấu tạo hữu cơ của tư
bản nâng cao và điều đó tất yếu dẫn đến tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm xuống.
Hiện tượng thừa tư bản tương đối - hệ quả của sự phát triển đó là không tránh
khỏi. Hai là, sự phát triển mạnh mẽ các thiết bị và quy trình công nghệ mới đã dẫn
đến sự loại bỏ các thiết bị và công nghệ ít hiện đại hơn ra khỏi quá trình sản xuất
trực tiếp (do bị hao mòn hữu hình và vô hình). Đối với nền kinh tế của thế giới
đang phát triển thì nhưng tư liệu sản xuất này rất có ích và vẫn là kỹ thuật mới mẻ.
Nhằm mục đích thu lợi nhuận độc quyền cao, các tập đoàn tư bản độc quyền đưa
các thiết bị sang các nước đang phát triển dưới hình thức chuyển giao công nghệ.
Rõ rang, khi chủ nghia tư bản còn tồn tại thì xuất khẩu tư bản từ các nước tư bản
phát triển sang các nước đang phát triển là điều không tránh khỏi. Xét trong một
giai đoạn phát triển nhất định, có thể diễn ra sự thay đổi tỷ trọng tư bản đầu tư vào
khu vực này hay khu vực khác của thế giới, nhưng phân tích một thời kỳ dài hơn ở
quy mô thế giới cho thấy, xuất khẩu tư bản vẫn là vũ khí chủ yếu mà tư bản độc
quyền sử dụng để bành trướng ra nước ngoài. Tình trạng nợ nần của các nước đang
phát triển ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh là thực tế chứng minh cho kết luận trên.

7



Xuất khẩu tư bản luôn thể hiện kết quả hai mặt. Một mặt, nó làm cho các quan
hệ tư bản chủ nghĩa được phát triển và mở rộng ra trên địa bàn quốc tế, góp phần
thúc đẩy nhanh quá trình phân công lao động và quốc tế hóa đời sống kinh tế của
nhiều nước, là một trong những nhân tố cực kỳ quan trọng tác động từ bên ngoài
vào làm cho quá trình công nghiệp hóa ở các nhập khẩu tư bản phát triển nhanh
chóng. Song, mặt khác, xuất khẩu tư bản cũng để lại cho các quốc gia nhập khẩu
tư bản những hậu quả nặng nề như: nền kinh tế phát triển mất cân đối và lệ thuộc,
nợ nần chồng chất, do bị bóc lột quá nặng nề… Lợi dụng mặt tích cực của xuất
khẩu tư bản, nhiều nước đã mở rộng việc tiếp nhận đầu tư để đẩy mạnh quá trình
công nghiệp hóa ở nước mình. Vấn đề đặt ra là phải biết vận dụng mềm dẻo, linh
hoạt nguyên tắc cùng có lợi, lựa chọn phương án thiết thực và tăng cường kiểm
soát có hiệu quả để xây dựng nền sản xuất hiện đại.

8


Chương 2: Ý nghĩa của lý luận xuất khẩu tư bản đối với Việt Nam hiện nay
2.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài - nguồn đầu tư quan trọng đối với nước
ta hiện nay
Về bản chất đầu tư nước ngoài là hình thức xuất khẩu tư bản, một hình thức
cao hơn của xuất khẩu hàng hóa. Luôn bổ sung và hỗ trợ cho nhau trong chiến lược
xâm nhập, chiếm lĩnh thị trường của các công ty, tập đoàn lớn của nước ngoài hiện
nay. Nhiều trường hợp việc buôn bán hàng hóa là bước đi tìm hiểu thị trường, luật
lệ để đi đến quyết định đầu tư. Cùng với hoạt động thương mại quốc tế, hoạt động
đầu tư nước ngoài này ngày càng phát triển mạnh mẽ, hợp thành những dòng trào
lưu có tính quy luật trong liên kết kinh tế toàn cầu hiện nay. Sự phát triển của đầu
tư nước ngoài bắt nguồn từ một số nguyên nhân chủ yếu sau:
- Xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tự do
hóa thương mại và đầu tư quốc tế.

- Sự phát triển nhanh chongs của cách mạng khoa học công nghệ và những
tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực thông tin, truyền thông đã đẩy mạnh mẽ quá trình
đổi mới cơ cấu kinh tế của các nước, tạo nên sự dịch chuyển vốn giữa các quốc gia.
- Sự thay đổi các yếu tố sản xuất, kinh doanh ở các nước sở hữu vốn tạo nên
“lực đẩy” đối với đầu tư quốc tế.
- Nhu cầu vốn đầu tư để thực hiện công nghiệp hóa ở các nước đang phát
triển là rất lớn, tạo nên “sức hút” mạnh mẽ với nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Như vậy, vốn đầu tư quốc tế có hai dòng chính là đầu tư của tư nhân (trong đó
chủ yếu là đẩu tư trực tiếp nước ngoài – FDI) và đầu tư của Chính phủ hay các tổ
chức quốc tế.
9


Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Ngày nay, FDI trở thành một tất yếu kinh tế trong điều kiện quốc tế hóa sản
xuất và lưu thông. Không có một quốc gia nào, dù lớn hay nhỏ, dù phát triển theo
con đường tư bản chủ nghĩa hay XHCN lại không cần đến nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài và tất cả đều coi đó là nguồn lực quốc tế quan trọng cần khai thác
để từng bước hòa nhập vào cộng đồng quốc tế trong đó có Việt Nam. Ngay cả
những quốc gia có tiềm lực kinh tế mạnh như Mỹ, Nhật, dưới tác động của khoa
học công nghệ hiện nay cũng không thể tự mình giải quyết được những vấn đề kinh
tế, xã hội đã, đang và sẽ tiếp tục đặt ra. Chỉ có con đường hợp tác, trong đó có FDI
là quá trình đầu tư, hợp tác có hiệu quả.
Đầu tư FDI tồn tại dưới nhiều hình thức, song những hình thức chủ yếu là
hợp đồng hợp tác kinh doanh; doanh nghiệp liên doanh; doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài.
Vai trò của nguồn vốn FDI
Trước hết, nói đến vai trò của FDI đối với các nước đi đầu tư được thể hiện
ở một số ích lợi sau:
- Thông qua đầu tư FDI, các nước đi đầu tư tận dụng được những lợi thế về

chi phí sản xuất thấp của các nước nhận đầu tư (giá nhân công rẻ, chi phí khai thác
nguyên, vật liệu tại chỗ thấp) để hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí vận chuyển
đối với việc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu ở các nước tiếp nhận đầu tư. Nhờ đó,
mà nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư.
- Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cho phép các công ty có thể kéo dài chu kỳ
sống của sản phẩm đã được sản xuất và tiêu thụ ở thị trường trong nước. thông qua
10


FDI, các công ty của các nước phát triển chuyển được một phần các sản phẩm công
nghiệp ở giai đoạn cuối của chu kỳ sống sản phẩm sang các nước nhận đầu tư để
tiếp tục sử dụng chúng như những sản phẩm mới ở các nước này, tạo thêm lợi
nhuận cho nhà đầu tư.
- Giúp các công ty chính quốc tạo dựng được thị trường cung cấp nguyên,
vật liệu dồi dào, ổn định với giá rẻ.
- Cho phép chủ đầu tư bành trướng sức mạnh về kinh tế, tăng cường khả
năng ảnh hưởng của mình trên thị trường quốc tế, nhở mở rộng được thị trường tiêu
thụ sản phẩm, tăng cường sức cạnh tranh với các hàng hóa nhập từ các nước khác.
Đối với các nước tiếp nhận đầu tư (chủ yếu là các nước đang phát triển),
nguồn vốn FDI có những tác dụng sau:
- FDI giải quyết tình trạng thiếu vốn cho phát triển kinh tế xã hội do tích lũy
nội bộ thấp, cản trở đầu tư và đổi mới kỹ thuật trong điều kiện khoa học, kỹ thuật
thế giới phát triển mạnh. Các nước NÍC trong gần 30 năm qua, nhờ nhận được trên
50 tỷ USD đầu tư nước ngoài cùng với chính sách kinh tế năng động, hiệu quả đã
trở thành những con rồng châu Á.
- Cùng với việc cung cấp vốn, thông qua FDI các công ty nước ngoài đã
chuyển giao công nghệ từ nước mình hoặc nước khác sang cho nước tiếp nhận đầu
tư, do đó các nước tiếp nhận đầu tư có thể nhận được những công nghệ, kỹ thuật
tiên tiến hiện đại (thực tế, có những công nghệ không thể mua được bằng quan hệ
thương mại đơn thuần), những kinh nghiệm quản lý, năng lực marketing, đội ngũ

lao động được đào tạo, rend luyện về mọi mặt (trình độ kỹ thuật, phương pháp làm
việc, kỷ luận lao động…).
- Đầu tư FDI làm cho các hoạt động đầu tư trong nước phát triển, thúc đẩy
tính năng động và khả năng cạnh tranh trong nước, tạo điều kiện khai thác có hiệu

11


quả các tiềm năng của đất nước. Điều đó có tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ
cấu king tế theo hướng tích cực.
- Với tiệc tiếp nhận FDI, không đẩy các nước vào cảnh nợ nần, không chịu
những rằng buộc về chính trị, xã hội. FDI góp phần tăng thu cho ngân sách nhà
nước thông qua việc đánh thuế vào các công ty nước ngoài. Thông qua hợp tác với
nước ngoài, nước tiếp nhận đầu tư có điều kiện thâm nhập vào thị trường thế giới.
Như vậy các nước có khả năng tốt hơn trong việc huy động tài chính cho các dự án
phát triển.
Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của các nước tiếp nhận đầu tư, bên cạnh những
ưu điểm thì FDI cũng có những hạn chế nhất định. Đó là, nếu đầu tư vào nơi có
môi trường bất ổn về kinh tế và chính trị, thì đầu tư nước ngoài dễ bị mất vốn. Còn
đối với nước sở tại, nếu không có quy hoạch cho đầu tư cụ thể và khoa học thì sẽ dễ
dẫn tới chỗ đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá
mức và nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Việt Nam hiện nay vừa là nước tiếp nhận đầu tư vừa là nước đi đầu tư chúng
ta cũng có những kế sách, sách lược phù hợp để giúp thu hút nguồn vốn đầu tư một
cách hiệu quả. Theo quan điểm đại hội XII của Đảng hiện nay thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài là quan trọng. Trong chính sách thu hút đầu tư của Việt Nam hiện
nay chính phủ có những chỉ đạo rất sâu sát chúng ta thu hút đầu tư tập trung vào
những ngành công nghệ cao, không thu hút đầu tư bằng mọi giá, thu hút đầu tư gắn
với bảo vệ môi trường.
Hiện nay một số tập đoàn của nước ta xuất khẩu tư bản ra nước ngoài nhằm

thu lợi nhuận cao như Viettheo hiện chúng ta đầu tư kinh doanh lên tới 10 nước, thị
trường 270 triệu dân (bằng 3 lần dân số Việt Nam). Doanh thu từ hoạt động tại
nước ngoài của Viettel đạt gần 1,5 tỷ đôla tương đương mức tăng trưởng 25%.

12


Hay như tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai đầu tư sang Lào với các dự án trồng
cao su, mía đường, nuôi bò… thu lợi nhuận cao, tạo công ăn việc làm cho bà con
lao động.
Ngoài ra còn một số tập đoàn khác của Việt Nam đang từng bước đầu tư ra các
nước mở đường cho các doanh nghiệp Việt đầu tư, thu hút đầu tư đạt hiệu quả cao
2.2. Đầu tư gián tiếp nguồn vốn thúc đẩy kinh tế - xã hội
Khác với đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư gián tiếp nước ngoài là khoản
đầu tư được thực hiện thông qua một định chế tài chính trung gian như quỹ đầu tư
hoặc đầu tư trực tiếp vào cổ phần của công ty niêm yết trên thị trường chứng
khoán, còn gọi là đầu tư portfolio. Hình thức đầu tư này không kèm theo việc tham
gia vào các hoạt động quản lý điều hành và nghiệp vụ của doanh nghiệp giống như
hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài. Với bản chất như trên, đầu tư gián tiếp nước
ngoài có những ảnh hưởng rất lớn đối với nền kinh tế trong nước. Khi dòng vốn
đầu tư gián tiếp nước ngoài vào ồ ạt với quy mô lớn, nó có thể gây mất cân bằng về
mặt vĩ mô. Còn khi nhà đầu tư gián tiếp rút vốn với quy mô lớn và đột ngột, nó có
thể gây ra sự sụp đổ của thị trường tài chính trong nước và gây ra khủng hoảng tài
chính nếu gặp những cú sốc bên trong hoặc bên ngoài của nền kinh tế.
Đối với Việt Nam, chính sách thu hút đầu tư gián tiếp nước ngoài tỏ ra rất
thận trọng. Cùng với đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp giúp thúc đẩy, hiện đại hóa
cơ sở hạ tầng tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành có cơ hội phát triển. trong
những năm qua nguồn vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam ngày càng được tăng cao
trong số những nhà đầu tư gián tiếp, Mỹ là đối tác tiềm năng nhất, chiếm tới 50%
tổng số vốn đầu tư gián tiếp tại Việt Nam. Các nhà đầu tư Mỹ gia tăng nguồn vốn

đầu tư gián tiếp thông qua các quỹ đầu tư nước ngoài. Kể từ khi ký kết Hiệp định
Thương mại Việt-Mỹ cho đến giữa năm 2006, đầu tư gián tiếp của Mỹ vào
Việt Namước khoảng 1 tỷ USD. Có tới 1/3 đến 1/2 các khoản tiền luân chuyển qua
các quỹ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là của người Mỹ. So với tiềm năng và
13


nhu cầu thực tế thì con số trên còn khá khiêm tốn. Số vốn đầu tư của các quỹ đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam mới chỉ chiếm khoảng 0,05% trong tổng nguồn vốn của
các quỹ hiện có. Sự tăng trưởng dưới mức tiềm năng của dòng vốn đầu tư gián tiếp
nước ngoài vào Việt Nam hiện nay là do những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam còn thiếu những cơ sở
pháp lý cần thiết
Thứ hai, những quy định về tỷ lệ sở hữu 30% vốn điều lệ của công ty đối với
người nước ngoài đã và đang cản trở luồng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào
Việt Nam. Quy định trên khiến các nhà đầu tư nước ngoài chỉ có thể là cổ đông
thiểu số trong công ty cổ phần vì bị khống chế tỷ lệ. Trong khi đó, đại bộ phận các
doanh nghiệp Việt Nam đều có quy mô nhỏ so với thế giới, vì vậy số vốn đầu tư
giành cho nhà đầu tư nước ngoài thực tế là rất thấp, không đạt yêu cầu về quản lý
danh mục đầu tư
Thứ ba, đầu tư gián tiếp vào Việt Nam đang có nguy cơ giảm sút bởi vì trong
điều kiện lạm phát vẫn cao trong nước và khủng hoảng tài chính toàn cầu khiến các
nhà đầu tư nước ngoài không mặn mà lắm với thị trường chứng khoán và liên tục
bán ra trái phiếu chính phủ. Khả năng rút vốn ra của các nhà đầu tư gián tiếp nước
ngoài là hoàn toàn hiện thực. Thị trường chứng khoán Việt Nam liên tục mất điểm
trong những tháng gần đây cho thấy Việt Nam đang bị đánh giá là địa điểm đầu tư
có độ rủi ro cao đối với đầu tư gián tiếp nước ngoài.
2.3 Ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay
Trở thành thành viên của các tổ chức quốc tế, hàng hoá của Việt Nam có cơ
hội có mặt trên thị trường thế giới và hấp dẫn các công ty nước ngoài đầu tư vào thị

trường Việt Nam. Xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế sẽ giúp doanh nghiệp
có điều kiện tiếp thu những thành tựu khoa học côg nghệ, phương thức quản lý tiên
tiến từ các nước phát triển. Đây là cơ hội để các doanh nghiệp trong nước học hỏi
cách thức quản lý mới, sử dụng công nghệ mới trong sản xuất và hoạt động kinh
14


doanh xuất nhập khẩu. Cải tiến và hoàn thiện các dây chuyền sản xuất theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ giúp các doanh nghiệp giảm được chi phí, tạo ra
những sản phẩm mới có chất lượng, đa dạng về mẫu mã, bao bì…tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp trong nước đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài.
Gia nhập các tổ chức quốc tế, thực thi theo đúng các nguyên tắc của các tổ chức
này thì hàng hoá của Việt Nam được đối xử bình đẳng như hàng hoá của các nước
thành viên khác, các doanh nghiệp của Việt Nam có vị thế ngang bằng với doanh
nghiệp của các nước thành viên khác, các doanh nghiệp Việt Nam cũng được đối
xử công bằng như các doanh nghiệp nước ngoài.Tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn để họ có khả năng “đổi mới công nghệ”. Cụ thể
là ta nên xây dựng các quỹ đầu tư mạo hiểm để giúp các doanh nghiệp trong lúc họ
cần vốn, làm cho các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng với nguồn vốn vay từ ngân
hàng. Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn có thể phát hành chứng khoán để huy động
vốn. Cần xây dựng hệ thống thông tin khoa học công nghệ để cung cấp thông tin
cập nhật, chính xác và chi tiết về các công nghệ hiện đại, qua đó doanh nghiệp có
thể an tâm lựa chọn công nghệ thích hợp nhất cho hoạt động sản xuất, kinh doanh
của mình. Đồng thời, giúp doanh nghiệp sử dụng hiệu quả và triệt để công nghệ đó
tránh gây lãng phí. Thực hiện cổ phần hoá các trung tâm nghiên cứu công nghệ để
có thể hoạt động tốt hơn, đồng thời triển khai hướng các trung tâm này vào việc
phục vụ cho các doanh nghiệp có hiệu quả hơn. Chú trọng đầu tư vào con người
giúp người lao động lẫn người quản lý có đầy đủ kiến thức, hiểu biết để khai thác
triệt để các công nghệ mới và hiện đại Để đẩy manh xuất khẩu trước hết các doanh
nghiệp cần phải xác định được chiến lước mặt hàng xuất khẩu và chiến lược thị

trường đúng đắn. Trên cơ sở lựa chọn thị trường và xác định được mặt hàng xuất
khẩu chủ lực thì các doanh nghiệp cần lựa chọn phương thức đổi mới công nghệ
sản xuất, công nghệ quản lý sao cho phù hợp. Mặt hàng xuất khẩu phải đảm bảo
các tiêu chuẩn theo đúng yêu cầu của nước nhập khẩu. Phát triển thị trường, tạo bản
15


sắc riêng cho doanh nghiệp để xây dừng thương hiệu vững chắc nhằm khẳng định
vị thể của doanh nghiệp trên trường quốc tế. Phải tăng cường liên kết hợp tác theo
chiều dọc và the chiều ngang đảm bảo nguồn cung nguyên liệu và phải luôn nhận
thức được tầm quan trọng giữa cạnh tranh và hợp tác. Các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, vốn ít cần phải tăng cường hợp tác, liên kết để giúp đỡ lẫn nhau. Phải hoàn
thiện cơ chế quản lý; đào tạo và phát huy năng lực lãnh đạo của nhà quản trị doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp xuất khẩu cần nhận thức được vai trò các tổ chức này
thật sự là cầu nối giữa doanh nghiệp và các doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước.
Tích cực tiến hành các hoạt động xức tiến thương mại, hội nhập kinh tế quốc tế.
Trở thành thành viên của tổ chức quốc tế doanh nghiệp Việt Nam sẽ có rất nhiều cơ
hội mới để phát triển sản xuất. tuy nhiên, bên cạnh đó các doanh nghiệp Việt Nam
cũng đối mặt với nhiều thách thức
Thứ nhất, muốn có thị trường toàn cầu thì Việt nam cũng phải mở của thị
trường nội địa cho các nước
Thứ hai, khi mở của hội nhập, vấn đề cạnh tranh nguồn lực con người sẽ diễn
ra khốc liệt. các doanh nghiệp nước ngoài vào hoạt động ở Việt Nam sẽ dùng
lương, các chính sách ưu đãi để thu hút lao động
Thứ ba, tiềm lực tài chính của đại đa số doanh nghiệp Việt Nam còn yếu
Thứ tư, năng lực cạnh tranh tổng hợp cả các doanh nghiệp Việt Nam còn
thấp khiến khả năng xuất khẩu tư bản chưa cao
Thứ năm, các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm xuất khẩu tư
bản


16


C. KẾT LUẬN
Xuất khẩu tư bản (đầu tư quốc tế) là xu thế tất yếu ngày nay đối với tất cả
các nước. Dù chiều hướng của xuất khẩu tư bản có biến đổi, dù xuất khẩu tư bản
vẫn là thủ đoạn và phương tiện mà các nước giàu dùng để bóc lột các nước nghèo,
vẫn là một chính sách của chủ nghĩa tư bản đế quốc, nhưng xuất khẩu tư bản cũng
đã thể hiện xu hướng và trở thành hình thức hợp tác đầu tư cùng có lợi trong mối
quan hệ quốc tế. Xuất khẩu tư bản mang đến nhiều cơ hội nhưng cũng không ít
thách thức cho các nước. Để phát huy được những tác động tích cực, hạn chế tác
động tiêu cực của đầu tư quốc tế, các nước trong đó có Việt Nam cần nhận diện
được những cơ hội và thách thức trong quá trình mở rộng đầu tư quốc tế. Bên cạnh
vai trò quản lý của nhà nước ở các nước nhập khẩu tư bản. cần phải biết vận dụng
mềm dẻo, linh hoạt, nguyên tắc cùng có lợi, lựa chọn phương án thiết thực, để khai
thác nguồn lực quốc tế có hiệu quả, lợi dụng mặt tích cực của xuất khẩu tư bản để
đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, đi tắt đón đầu, tiếp thu tiến bộ
khoa học công nghệ, quản lý của các nước phát triển trên thế giới đưa Việt Nam
sánh vai cùng các cường quốc trên thế giới.

17


D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. V.I.Lênin toàn tập, tập 27, Nxb, chính trị quốc gia, H. 2005
2. Chủ nghĩa tư bản hiện đại, Những điều chỉnh mới, Nxb, Viện thông tin khoa học
xã hội, H. 2006
3. Đặc điểm và những vấn đề nổi bật của chủ nghĩa tư bản hiện đại, Nxb,Thông tin
lý luận chính trị, H. 2009
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb,

Chính trị quốc gia, H.2016

18


PHỤ LỤC
TRANG
A. MỞ ĐẦU…………………………………………………………….….1
B. NỘI DUNG……………………………………………………………..2
Chương 1: Những lý luận chung của V.I.Lê nin về xuất khẩu
tư bản……………………………………………………………….………2
1.1. Khái niệm “xuất khẩu tư bản”…………..……….……………2
1.2 Bản chất của xuất khẩu tư bản………...…………………….....2
1.3. Hình thức của xuất khẩu tư bản……,,,………………….….….3
1.4 Những biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản...………………..…6
Chương 2: Ý nghĩa của lý luận xuất khẩu tư bản đối với Việt Nam
hiện nay…………………………………………………………..………….9
2.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài - nguồn đầu tư quan trọng đối
với nước ta hiện nay…………………………………………….…..…9
2.2. Đầu tư gián tiếp nguồn vốn thúc đẩy kinh tế - xã hội……….….13
2.3Ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay……………………….……..…14
C. KẾT LUẬN………………………………………………………….….17
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………….…….18

.
19


20




×