Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Thực trạng giải quyết Khiếu nại, Tố cáo về đất đai của ban Thanh tra nhà nước thuộc UBND Quận Tây Hồ, Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.59 KB, 42 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Để có thể hoàn thành được Đề tài “ Thực trạng giải quyết Khiếu nại, Tố
cáo về đất đai của ban Thanh tra nhà nước thuộc UBND Quận Tây Hồ, Hà Nội”
môn Phương pháp nghiên cứu khoa học tôi đã nhận được sự quan tâm và giúp
đỡ của rất nhiều người. Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến.
Trường Đại học Nội vụ, Khoa hành chính học đã tổ chức khóa học để
chúng tôi có thể nâng cao, bồi dưỡng và hoàn thiện tri thức của mình.
Xin bày tỏ sâu sắc và kính trọng đến TS. Bùi Thị Ánh Vân đã hướng dẫn
cách thực hiện một đề tài cho chúng tôi xin cảm ơn và tỏ lòng tri ân về sự tận
tâm, nhiệt tình hướng dẫn của cô để tôi có thể thực hiện đề tài trong suốt quá
trình giảng dạy.
Ngoài ra tôi còn phải cảm ơn đến Anh Nguyễn Thanh Huấn Chánh thanh
tra đã giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập tài liệu, số liệu và hiểu hơn về Thực
trạng giải quyết Khiếu nại, Tố cáo tại UBND Quận Tây hồ.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong quá trình thực hiện đề tài nhưng với
những kiến thức và hiểu biết về thực tế còn nhiều hạn chế nên chắc chắn sẽ có
nhiều thiếu sót, rất mong nhận được lời góp ý của quý thầy cô, quý cơ quan để bài
tiểu luận của tôi được hoàn thiện và có thêm những kinh nghiệm quý báu nhất.
Xin kính chúc ban lãnh đạo, tập thể cán bộ, công chức UBND Quận Tây
hồ, quý thầy cô giáo trường Đại học Nội vụ Hà Nội lời chúc sức khỏe, thành
công và thịnh vượng trong cuộc sống cũng như trong công tác.


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “ Thực trạng giải quyết Khiếu nại, Tố cáo về đất
đai của ban Thanh tra nhà nước thuộc UBND Quận Tây hồ, Hà nội” là đề tài do
tôi thực hiện và không sao chép các công trình nghiên cứu của người khác làm
sản phẩm của riêng mình. Mọi thông tin, kết quả nghiên cứu nêu trong đề tài là
hoàn toàn trung thực, có nguồn gốc và được trích dẫn rõ ràng, Tôi xin chiụ trách
nhiệm hoàn toàn về tính chính xác và có sự khiếu nại, tố cáo về quyền tác giả.
Hà Nội, ngày 15 tháng 8 năm 2016




MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
LỜI CAM ĐOAN
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề..........................................................................1
3. Mục đích của đề tài :..................................................................................2
4. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................2
5. Phạm vi nghiên cứu....................................................................................2
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................2
7. Bố cục của đề tài.........................................................................................2
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT
KHIẾU NAI, TỐ CÁO VÀ TỔNG QUAN SƠ LƯỢC VỀ UBND QUẬN
TÂY HỒ, HÀ NỘI...............................................................................................4
1.1.

Một số khái niệm..................................................................................4

1.1.1.

Khái niệm Khiếu nại.........................................................................4

1.1.2.

Khái niệm Tố cáo..............................................................................5

1.1.3.


Khái niệm về thanh tra......................................................................5

1.2. Giới thiệu chung về UBND Quận Tây hồ...............................................7
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI,
TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI CỦA BAN THANH TRA NHÀ NƯỚC.....................9
2.1. Thực trạng chung về vấn đề giải quyết Khiếu nại, Tố cáo......................9
2.2. Khiếu nại và giải quyết Khiếu nại về đất đai.........................................10
2.2.1 Khiếu nại về đất đai.............................................................................10
2.2.2. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại.......................................................10
2.2.3 Thủ tục giải quyết khiếu nại................................................................12
2.3. Tố cáo và giải quyết tố cáo về đất đai...................................................14
2.3.1 Tố cáo về đất đai..................................................................................14
2.3.2 Thẩm quyền giải quyết tố cáo..............................................................14


2.3.3 Thủ tục giải quyết tố cáo.....................................................................15
2.4 Vai trò của các cơ quan thanh tra trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo:. .16
2.5. Tình hình giải quyết khiếu nại, Tố cáo trong thời gian qua...................19
2.5.1. Công tác tiếp dân................................................................................19
2.5.2 Công tác giải quyết khiếu nại..............................................................19
2.5.3 Công tác giải quyết tố cáo...................................................................19
2.6. Kết quả giải quyết từ năm 2012 đến Quý III Năm 2014.......................20
2.7. Nguyên nhân phát sinh khiếu nại, tố cáo về đất đai..............................25
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI
QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN TÂY HỒ............33
3.1. Một số đánh giá về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai.....33
3.1.1. Những mặt được.................................................................................33
3.1.2. Những tồn tại trong giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai................33
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại,
tố cáo về đất đai............................................................................................34

KẾT LUẬN........................................................................................................37
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................38


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Ở nước ta, từ khi Cách mạng tháng Tám thành công, nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà ra đời cho đến nay, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến
công tác giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân và coi đây là nhiệm vụ thường
xuyên của các cấp, các ngành trong hoạt động quản lý Nhà nước. Tuy nhiên, từ
khi Nhà nước ta bước vào thực hiện công cuộc đổi mới, nhiều cơ chế, chính sách
pháp luật và điều kiện kinh tế - xã hội được đổi mới, tình hình khiếu nại, tố cáo
cũng đang có chiều hướng gia tăng cả về số lượng, quy mô và mức độ đặt ra
những vấn đề hết sức bức xúc, phức tạp. Thậm chí, đôi lúc còn xuất hiện nhiều
“điểm nóng” gây ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, trật tự và ổn định xã hội ở
một số địa phương trong cả nước. Đây là những vấn đề nhạy cảm đòi hỏi phải
giải quyết một cách thận trọng, chặt chẽ và toàn diện. Mặc dù đã có luật khiếu
nại, tố cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành song cho đến nay, luật khiếu nại,
tố cáo mới thực hiện được một thời gian chưa dài đã bộc lộ những bất cập giữa
lý luận và thực tiễn. Luật chưa phản ánh được sự đa dạng của khiếu nại, tố cáo,
chế tài trách nhiệm chưa rõ ràng, chưa cụ thể và chưa có tính khả thi; công tác
quản lý và giải qyết khiếu nại, tố cáo còn nhiều lúng túng, thủ tục rườm rà, gây
phiền hà cho dân.
Sống trong môi trường luật pháp, tiếp cận với những vụ việc thực tiễn tôi
thấy bản thân mình nên tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này, vì vậy tôi chọn đề tài
này cho bài tiểu luận của mình, dù biết là khó khăn và phức tạp nhưng được sự
hướng dẫn nhiệt tình của mọi người tôi đã cố gắng hoàn thành tốt nhất có thể.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Khiếu nại, Tố cáo là một vấn đề nhạy cảm trong công tác quản lý nhà
nước, đã có nhiều bộ luật được đưa ra để giải quyết vấn đề nhưng vẫn còn nhiều

bất cập vì vậy tôi quyết định tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này để hiểu rõ về công
tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực Khiếu nại, Tố cáo.

1


3. Mục đích của đề tài :
Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn để xác định vai trò của các cơ
quan thanh tra nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai
Nêu lên được thực trạng giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai trên địa
bàn quận của thanh tra Nhà nước quận Tây Hồ.
Đề xuất được những biện pháp khắc phục và phân tích nguyên nhân dẫn
đến tình trạng đó.
4. Đối tượng nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu về công tác giải quyết Khiếu nại, Tố cáo về đất đai
của ban Thanh tra nhà nước thuộc UBND Quận Tây hồ, Hà nội
Làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở pháp luật xác định vai trò của các cơ quan
thanh tra nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đánh giá thực trạng thực hiện vai trò của cơ quan thanh tra trong giải
quyết khiếu nại, tố cáo đất đai
5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ nêu lên vai trò của cơ quan thanh tra Nhà nước quận Tây hồ,
thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai giải pháp và kiến nghị.
6. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên phương pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê Nin đồng thời trên quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về nhà nước và pháp luật và yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân.
Vận dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội học,
tổng kết thực tiễn, phương pháp lịch sử cụ thể.

7. Bố cục của đề tài.
Ngoài phần Lời cảm ơn, lời cam đoan, lời nói đầu và phần kết luận, tài
liệu tham khảo và phần phục lục thì bài tiểu luận gồm 3 chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về công tác giải quyết Khiếu nại, Tố cáo
và tổng quan sơ lược về UBND Quận Tây hồ.
2


Chương 2: Thực trạng công tác giải quyết Khiếu nại, Tố cáo về đất đai
của ban Thanh tra nhà nước Quận Tây hồ.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết Khiếu
nại, Tố cáo trên địa bàn quận Tây hồ.

3


CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT
KHIẾU NAI, TỐ CÁO VÀ TỔNG QUAN SƠ LƯỢC VỀ UBND QUẬN
TÂY HỒ, HÀ NỘI
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm Khiếu nại.
Khiếu nại là một trong những quyền cơ bản đã được ghi nhận tại điều 74
của Hiến pháp năm 1992. Đó là hiện tượng phát sinh trong đời sống xã hội như
là phản ứng của một con người trước một quyết định, một hành vi nào đó mà
người khiếu nại cho rằng quyết định hay hành vi đó là không phù hợp với các
quy tắc, chuẩn mực trong đời sống cộng đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Dưới góc độ pháp lý, khiếu nại được hiểu là: “việc công
dân, cơ quan, tổ chức, hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật khiếu nại,
quy định đề nghị với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết
định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức

khi có căn cứ cho rằng quyết định hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền
và lợi ích hợp pháp của mình” (khoản 1 Điều 2 Luật khiếu nại).
Từ khái niệm có thể thấy: khiếu nại là đề nghị của cá nhân, cơ quan, tổ
chức chịu tác động trực tiếp của quyết định hành chính hay hành vi hành chính
hoặc là đề nghị của cán bộ, công chức chịu tác động trực tiếp của quyết định kỷ
luật đối với cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
Như vậy, Khiếu nại là quyền, là hành vi của các chủ thể như cơ quan nhà
nước, tổ chức và cá nhân, còn hoạt động giải quyết khiếu nại là hoạt động mang
tính quyền lực nhà nước, chỉ được thực hiện bởi người có thẩm quyền trong cơ
quan hành chính nhà nước theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Quyền
khiếu nại của công dân xuất hiện trong mối liên hệ với quá trình thực hiện chức
năng quản lý nhà nước. Quá tình công dân thực hiện quyền khiếu nại chính là
quá trình cung cấp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền các tài liệu, chứng cứ
về sự vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân từ phía cơ quan và người
có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước
4


1.1.2. Khái niệm Tố cáo
Cùng với quyền khiếu nại, quyền tố cáo của công dân đã được ghi nhận
trong Hiến pháp, Luật Tố cáo và nhiều văn bản pháp luật khác. Khái niệm tố cáo
có thể được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ pháp lý, tố cáo
được hiểu: “là việc công dân theo thủ tục do Luật Tố cáo quy định báo cho cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất
cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại đến lợi
ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức”
(khoản 2, Điều 2 Luật Tố cáo). Như vậy, công dân dù bị ảnh hưởng trực tiếp hay
không bị ảnh hưởng bởi hành vi vi phạm pháp luật là đối tượng của việc tố cáo,
đều có quyền thực hiện việc tố cáo khi biết được có hành vi vi phạm pháp luật
xảy ra trong đời sống xã hội. Công dân có thể cung cấp các thông tin về hành vi

vi phạm pháp luật xảy ra trong đời sống xã hội. Công dân có thể cung cấp các
thông tin về hành vi vi phạm của các cơ quan nhà nước nhưng khác với Khiếu
nại ở chỗ là tố cáo luôn được gửi tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bất cứ cơ
quan nào mà người tố cáo muốn gửi đến để bày tỏ quan điểm của mình về hành
vi vi phạm của chủ thể, cơ quan, cá nhâ nào đó, và người tố cáo luôn là chủ thể
xác định, có những quyền, nghĩa vụ dược quy định trong Luật Tố cáo. Khi công
dân thực hiện quyền tố cáo thì giữa họ với cơ quan nhà nước sẽ phát sinh những
quan hệ pháp luật nhất định và họ phải chịu trách nhiệm trước những thông tin
mà mình cung cấp. Nội dung tố cáo của công dân rất đa dạng và phức tạp; có tố
cáo về những việc làm trái pháp luật của cán bộ, công chức trong bộ máy nhà
nước khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ; có những tố cáo về những sai phạm trong
công tác quản lý của các cơ quan, trong đó có cơ quan quản lý hành chính nhà
nước. Ngoài ra, công dân có thể tố cáo các hành vi vi phạm về đạo đức, lối sống
của cán bộ, công chức…
1.1.3. Khái niệm về thanh tra
Khái niệm về vai trò của các cơ quan nhà nước nói chung và vai trò của
thanh tra nhà nước quận Tây Hồ nói riêng trong thực hiện quyền lực nhà nước
5


và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai.
Vai trò của các cơ quan nhà nước là một khái niệm rộng xong cần được
làm rõ để làm cơ sở trong việc nghiên cứu về sự phân công trong việc thực hiện
quyền lực của các cơ quan nhà nước. Vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước
trong giải quyết khiếu nại, tố cáo đất đai phải được nghiên cứu trong tổng thể
trong các vai trò chung của các cơ quan nhà nước. Để làm rõ vai trò của cơ quan
thanh tra nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai trước hết
chúng ta cần tìm hiểu khái niệm, vai trò
Ở nước ta nhà nước không tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập
song có sự phân công và phối hợp nhiệm vụ thực hiện giữa các cơ quan lập

pháp, hành pháp và tư pháp. Các cơ quan nhà nước hoạt động theo nguyên tắc
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân tập trung dân chủ; quyền lực nhà
nước là thống nhất, nhưng có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan thực hiện
chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp có sự phân cấp rành mạch giữa trung
ương và các cấp chính quyền địa phương; có kế hoạch pháp chế xã hội chủ
nghĩa; công khai dân chủ, bình đẳng giữa các dân tộc; bảo đảm sự tăng cường
lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.
Như vậy, mỗi loại cơ quan đóng vai trò nhất định trong việc thực hiện
quyền lực nhà nước, đó là quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tính độc lập
tương đối về chức năng của các cơ quan đó do sự phân công quyền lực quyết
định. Nhưng có sự phối hợp nhịp nhàng tạo nên sự thống nhất, đồng bộ trong
hoạt động các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức chỉ được làm những gì mà
pháp luật quy định. Tất cả những việc có lợi cho nhân dân thì nên làm, cần phải
làm, việc gì có hại cho dân thì không được làm, thậm chí cả khi pháp luật không
quy định.
Thực tế ở nước ta đã cho thấy, hoạt động của các cơ quan hành chính nhà
nước, cán bộ, công chức cơ bản là đúng pháp luật, phù hợp với nguyện vọng và
yêu cầu của nhân dân, đó là sự biểu hiện bản chất của Nhà nước kiểu mới, Nhà
nước của dân, do dân, vì dân. Nhà nước ta đang tiến đến quản lý xã hội bằng
6


pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Song không
phải lúc nào, khi nào và ở đâu cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức cũng chấp
hành nghiêm chỉnh pháp luật và tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Vì quan liêu, mất dân chủ, tham nhũng tiêu cực, cục bộ, bản vị, bè phái đã dẫn
đến việc ban hành những quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính
xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đó là nguyên nhân nảy sinh
các khiếu nại, tố cáo của công dân. Vấn đề đặt ra cần phải được tiếp tục xem xét
ở đây là cơ quan nhà nước nào có khả năng giải quyết một cách khách quan,

đúng đắn với khiếu nại và tại sao giải quyết khiếu nại, tố cáo lại giao cho cơ
quan thanh tra nhà nước thực hiện
Việc phân công nhiệm vụ cho thanh tra, giúp cho cơ quan nhà nước có
điều kiện tập trung, chuyên sâu vào hoạt động quản lý đối với các hoạt động của
đời sống xã hội. Hơn thế nữa với vị trí của mình các cơ quan thanh tra nhà nước
sẽ độc lập để giải quyết một cách khách quan, đúng đắn và hiệu quả hơn các
khiếu nại, tố cáo cảu công dân.
Từ những phân tích nêu trên có thể thấy rằng, vai trò của các cơ quan
thanh tra nhà nước trong giải quyết khiếu nại là việc thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của một loại cơ quan hành chính “đặc biệt” trong việc tham mưu cho cơ quan
hành chính, quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và trực
tiếp giải quyết khiếu nại, tố cáo khi được cơ quan nhà nước cùng cấp uỷ quyền
Quyền khiếu nại và quyền tố cáo là những quyền chính trị cơ bản của công
dân, là phương tiện đảm bảo cho việc thực hiện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân, lợi ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội. Đồng thời đó
cũng là nguồn thông tin quan trọng về tình trạng pháp chế trong quản lý hành
chính nhà nước, nó góp phần củng cố mối liên hệ giữa nhà nước và công dân
1.2. Giới thiệu chung về UBND Quận Tây hồ.
Quận Tây Hồ được xác định là trung tâm dịch vụ - du lịch, trung tâm văn
hoá, là vùng bảo vệ cảnh quan thiên nhiên của Thủ đô Hà Nội. Quận nằm ở phía
Tây Bắc của Hà Nội. Diện tích 24,0km2, gồm 8 phường: Bưởi, Yên Phụ, Thuỵ
7


Khuê, Tứ Liên, Quảng An, Nhật Tân, Xuân La, Phú Thượng. Phía đông giáp
quận Long Biên; Phía tây giáp huyện Từ Liêm và quận Cầu Giấy; Phía nam giáp
quận Ba Đình; Phía bắc giáp huyện Đông Anh.
Theo định hướng phát triển của Thủ đô Hà Nội đến năm 2020, quận Tây
Hồ thuộc khu vực phát triển của Thành phố trung tâm. Như vậy, trong tương lai,
Tây Hồ sẽ là khu vực trung tâm của Thủ đô Hà Nội. Với vị trí đó, Tây Hồ có

điều kiện đặc biệt thuận lợi thu hút các nguồn lực (bao gồm cả nguồn vốn tài
chính, nguồn nhân lực và khoa học - công nghệ) để thúc đẩy nhanh sự phát triển
kinh tế - xã hội của Quận nói riêng và của Thủ đô Hà Nội nói chung.

8


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI,
TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI CỦA BAN THANH TRA NHÀ NƯỚC
2.1. Thực trạng chung về vấn đề giải quyết Khiếu nại, Tố cáo.
Từ lâu tình hình khiếu nại, tố cáo luôn là vấn đề bức bách được UBND
quận Tây Hồ và tất cả người dân trên địa bàn hết sức quan tâm. Ngoài việc thực
hiện các văn bản pháp luật liên quan đến khiếu nại, tố cáo về đất đai của Trung
ương và Thành phố Hà Nội, UBND Quận Tây Hồ đã ra quyết định số
06/2008/QĐ-UBND ngày 28/10/2008 của UBND quận Tây Hồ, ban hành quy
định về tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc quận Tây Hồ. Các
văn bản đó đã và đang được triển khai thực hiện, có tác động tích cực đến tình
hình khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Nhờ vậy, nhiều “điểm
nóng”, nhiều vụ việc phức tạp đã được giải quyết, góp phần ổn định tình hình an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của thành phố. Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân, tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân diễn ra không bình thường, số
lượng gia tăng, tính chất ngày càng phức tạp. Trong đó khiếu nại, tố cáo, tranh
chấp về đất đai chiếm số lượng lớn, khoảng 70 – 75% so với các tổng số vụ
khiếu nại, tố cáo chung.
Trong thời gian từ năm 2012 – Quý III 2014 có rất nhiều vụ việc khiếu nại
liên quan đến đất đai. Nhiều trường hợp khiếu nại có liên quan đến việc Nhà
nước thu hồi đất để thực hiện các dự án, khu công nghiệp,các công trình hạ tầng
như đòi được bồi thường đất ở, nâng giá bồi thường, tăng tiền hỗ trợ, bố trí tái
định cư, giải quyết việc làm; đòi lại đất cho mượn, cho thuê... Ngoài ra, có một
số khiếu nại liên quan đến việc thực hiện chính sách xã hội, kỷ luật của cán bộ,

công chức. Về nội dung tố cáo, chủ yếu là tố cáo cán bộ, công chức làm sai
chính sách, tiêu cực, tham nhũng trong quản lý đất đai, đầu tư, xây dựng cơ bản;
thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, bao che người bị tố cáo, không
xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật.

9


2.2. Khiếu nại và giải quyết Khiếu nại về đất đai.
2.2.1 Khiếu nại về đất đai
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Luật Khiếu nại, thì công dân, cơ quan,
tổ chức có quyền khiếu nại đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem
xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai khi có căn cứ cho
rằng các quyết định hành chính, hành vi hành chính xâm phạm trực tiếp đến
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Các quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại (Điều 162
Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về
thi hành Luật Đất đai):
- Quyết định hành chính trong quản lý đất đai bị khiếu nại bao gồm:
+ Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất;
+ Quyết định bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư;
+ Quyết định gia hạn thời hạn sử dụng đất;
- Hành vi hành chính trong quản lý đất đai bị khiếu nại là hành vi của cán
bộ, công chức nhà nước khi giải quyết công việc thuộc phạm vi quy định như
nói ở trên.
2.2.2. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại
Theo Điều 17, Mục 1, Chương 3 của Luật Khiếu nại năm sửa đổi bổ sung
2011 quy định thì thẩm quyền giải quyết khiếu nại được quy định như sau:
Chủ tịch UBND cấp xã, thủ trưởng cơ quan thuộc UBND cấp huyện, Chủ

tịch UBND cấp huyện, Thủ trưởng cơ quan thuộc sở và cấp tương đương, Giám
đốc Sở và cấp tương đương của UBND cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp tỉnh, thủ
trưởng cơ quan thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang Bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính
phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính
phủ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính hành vi
hành chính của mình, của người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp.
Ngoài ra, Chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết khiếu nại mà Chủ tịch
10


UBND cấp xã, thủ trưởng cơ quan chuyên môn cấp huyện đã giải quyết nhưng
còn khiếu nại, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết khiếu nại mà Chủ
tịch UBND cấp huyện đã giải quyết nhưng còn khiếu nại; giải quyết khiếu nại
mà Giám đốc Sở hoặc cấp tương đương thuộc UBND cấp tỉnh đã giải quyết
nhưng còn khiếu nại mà nội dung thuộc phạm vi quản lý nhà nước của UBND
cấp tỉnh.
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc
Chính phủ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại mà Thủ trưởng cơ quan thuộc Bộ,
thuộc cơ quan ngang Bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ đã giải quyết lần đầu
nhưng còn khiếu nại, giải quyết khiếu nại có nội dung thuộc quyền quản lý nhà
nước của Bộ, ngành mình mà Chủ tịch UBND cấp tỉnh, giám đốc Sở hoặc cấp
tương đương thuộc UBND cấp tỉnh đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại.
Tổng thanh tra có thẩm quyền giải quyết khiếu nại mà Thủ trưởng cơ
quan thuộc Chính phủ đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại; giúp Thủ
tướng Chính phủ theo dõi, kiểm tra, đôn đốc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ, UBND các cấp trong việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại,
thi hành quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.
Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền lãnh đạo công tác giải quyết khiếu
nại của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp; xử
lý các kiến nghị của Tổng thanh tra theo quy định.

Tuy nhiên Luật Đất đai quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Chủ
tịch UBND cấp huyện và UBND cấp tỉnh. Cụ thể tại khoản 2 Điều 138 quy định
như sau:
- Trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về
quản lý đất đai do Chủ tịch UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải
quyết lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết thì có
quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân hoặc tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch UBND
cấp tỉnh. Trong trường hợp khiếu nại đến Chủ tịch UBND cấp tỉnh thì quyết
định của Chủ tịch UBND cấp tỉnh là quyết định giải quyết cuối cùng;
11


- Trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về
quản lý đất đai do Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải
quyết lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định đó thì có quyền
khởi kiện tại Toà án nhân dân.
Bên cạnh đó, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định bổ
sung việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất thực hiện quyền
sử dụng đất, trình tự, thủ tục, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai cũng chỉ đề cập đến thẩm quyền giải
quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND cấp huyện và cấp tỉnh. Ngoài hai trường
hợp nêu trên, việc giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi
hành chính trong lĩnh vực đất đai được dẫn chiếu áp dụng theo quy định của
pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Như vậy, Luật Đất đai và Luật Tố tụng hành chính đều quy định việc giải
quyết khiếu nại về đất đai theo hướng: người khiếu nại chỉ có quyền khởi kiện ra
toà án trong trường hợp đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà không
đồng ý với quyết định đó và không tiếp tục khiếu nại lên cơ quan hành chính cấp
trên.
2.2.3 Thủ tục giải quyết khiếu nại

Theo quy định của Điều 27, 28, 29 Luật Khiếu nại, hiện hành thì người
khiếu nại lần đầu phải khiếu nại với người ra quyết định hành chính hoặc cơ
quan có cán bộ, công chức có hành vi hành chính mà người khiếu nại có căn cứ
cho rằng quyết định hành chính đó, hành vi hành chính đó là trái pháp luật, xâm
phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày
hết thời hạn giải quyết quy định tại Điều 28 Luật Khiếu nại, mà khiếu nại không
được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần
đầu mà người khiếu nại không đồng ý thì có quyền khiếu nại đến người có thẩm
quyền giải quyết tiếp theo hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo quy
định của pháp luật; đối với vùng sâu, vùng xa, đi lại khó khăn thì thời hạn nói
trên có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày. Trường hợp người khiếu nại
12


không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án
nhân dân cấp tỉnh, trừ trường hợp luật có quy định khác. Trong thời hạn 30 ngày,
kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại quy định tại Điều 33 Luật Khiếu nại,
mà khiếu nại không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải
quyết khiếu nại mà người khiếu nại không đồng ý thì có quyền khởi kiện vụ án
hành chính tại Toà án; đối với vùng sâu, vùng xa, đi lại khó khăn thì thời hạn nói
trên có thể kéo dài nhưng không quá 45 ngày.
Tuy nhiên, điểm a khoản 2 Điều 138 Luật Đất đai năm 2003 lại quy định:
Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai là quyết định giải quyết khiếu nại cuối
cùng và người khiếu nại có quyền khởi kiện ra toà. Đồng thời điểm b khoản 2
Luật Đất đai, khoản 3 Điều 6 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP cũng quy định:
trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất
đai do Chủ tịch UBND cấp tỉnh giải quyết lần đầu mà người khiếu nại không
đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại thì có quyền khởi kiệns tại Toà án
nhân dân.

Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 2 và khoản 17 Điều 11 Pháp lệnh giải quyết
các vụ án hành chính cũng quy định: cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi
kiện để toà án giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính
về quản lý đất đai trong trường hợp:
- Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển
mục đích sử dụng đất;
- Bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
- Gia hạn thời hạn sử dụng đất trong trường hợp người khiếu nại không
đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Chủ tịch UBND cấp
huyện và không tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch UBND cấp tỉnh hoặc người
khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Chủ tịch
UBND cấp tỉnh.
13


2.3. Tố cáo và giải quyết tố cáo về đất đai
2.3.1 Tố cáo về đất đai
Theo quy định tại khoản 1, điều 2 Luật Tố cáo thì tố cáo là việc công dân
theo thủ tục do pháp luật quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật đất đai của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá
nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của nhà nước, quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
2.3.2 Thẩm quyền giải quyết tố cáo
Theo Luật Tố cáo 2011 thì Thẩm quyền giải quyết Tố cáo được quy định
như sau:
Trong việc thực hiện thẩm quyền do nhiều “kết luận" gây nên. Điều 13,
14, 15, 16 ,17 Luật Tố cáo năm 2011 Thủ trưởng các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người do mình quản lý
trực tiếp. Theo Pháp lệnh cán bộ, công chức thì việc quản lý trực tiếp có nhiều

nội dung (cơ quan quản lý hồ sơ, quản lý ngạch công chức, cơ quan quản lý cán
bộ, cơ quan sử dụng cán bộ...). Với cấp huyện, Chủ tịch huyện là người ra quyết
định bổ nhiệm, điều động từ trưởng phòng, ban trở xuống (cả cán bộ không
chuyên trách và các chức danh công chức ở cấp xã) và theo quy định trên thì
người trực tiếp quản lý cán bộ công chức lại là thủ trưởng cơ quan chuyên môn
cấp huyện và Chủ tịch UBND cấp xã nhưng thủ trưởng cơ quan chuyên môn lại
không có thẩm quyền giải quyết tố cáo. Chính vì vậy mà trong thực tế mỗi địa
phương sẽ có hướng vận dụng theo cách hiểu của mình.
Điều 23, 24 Luật Tố cáo 2011 thì trách nhiệm của cơ quan Thanh tra là
xác minh nội dung tố cáo, ra kết luận, xem xét nội dung kết luận… đều sử dụng
cụm từ “kết luận" - Người được giao xác minh cũng phải có kết luận bằng văn
bản, người giải quyết tố cáo cũng phải có kết luận rõ ràng và gửi văn bản kết
luận vụ việc tố cáo cho các cơ quan có thẩm quyền (cơ quan Thanh tra, cơ quan
nhà nước cấp trên). Tuy nhiên, trên thực tế quy định như vậy, vô tình làm khó
cho các cơ quan chức năng trong quá trình giải quyết một vụ việc. Bởi các công
14


đoạn, quy trình xem xét giải quyết đều phải có "kết luận" song không có quy
định nào nêu rõ kết luận nào là cuối cùng, văn bản kết luận nào là văn bản gửi
các đối tượng có liên quan - văn bản của cơ quan được giao xác minh, hay người
có thẩm quyền giải quyết. Do đó, các quy định trên sẽ thiếu tính khả thi trên
thực tế, dễ dẫn đến sự chồng chéo
2.3.3 Thủ tục giải quyết tố cáo
Theo quy định tại Điều 18, Luật Tố cáo thì công dân có quyền tố cáo. Có
thể thấy, Luật Tố cáo đã cá thể hoá trách nhiệm của người tố cáo để họ tự chịu
trách nhiệm trước pháp luật về hành vi (tố cáo) và nếu tố cáo sai thì cũng dễ
dàng, thuận tiện cho việc xác định hành vi, khẳng định chủ thể của tố cáo chỉ có
thể là công dân - khác với chủ thể khiếu nại là công dân (hoặc cán bộ, công
chức), cơ quan, tổ chức.

Song, trong thực tế nhiều trường hợp tố cáo, cùng lúc (cùng trong 1 đơn)
có nhiều người cùng ký và tố cáo cũng chỉ một nội dung hoặc một vấn đề; nếu
thực hiện theo đúng quy định của pháp luật trước khi xem xét giải quyết cơ quan
có thẩm quyền phải yêu cầu mỗi cá nhân viết đơn tố cáo riêng (mặc dù cùng một
nội dung). Song quy định như trên thiếu tính khả thi trong thực tế bởi trong quá
trình xử lý hình sự nếu có tố cáo sai (có hành vi vu khống đến mức phải xử lý
hình sự), các cơ quan tố tụng có thể xem xét cả khía cạnh hành vi có tổ chức,
đồng phạm..., còn nếu tố cáo đúng thì chứng tỏ hành vi vi phạm pháp luật bị tố
cáo đã được nhiều người biết và mong muốn báo tin để các cơ quan có thẩm
quyền xem xét giải quyết, vấn đề còn lại là: đơn phải được gửi đến đúng cơ quan
(người) có thẩm quyền giải quyết.
Vì vậy, trong trường hợp này việc cá thể hoá trách nhiệm (quy định chủ
thể của tố cáo) chỉ là công dân sẽ thiếu tính thuyết phục và ở mức độ nào đó còn
có sự rườm rà về thủ tục hành chính không cần thiết.
Một trong các nội dung liên quan đến quá trình giải quyết tố cáo của các
cơ quan có thẩm quyền là việc thực hiện quy định về "giữ bí mật". Tại Điều 36 Luật Tố cáo quy định người tố cáo có quyền yêu cầu giữ bí mật họ tên, địa chỉ
15


bút tích của mình. Luật quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp nhận tố cáo, giải
quyết tố cáo phải giữ bí mật cho người tố cáo, không được tiết lộ họ, tên, địa chỉ,
bút tích của người tố cáo và các thông tin khác có hại cho người tố cáo. Nếu chỉ
đọc nội dung để bổ sung kiến thức thì không thấy có gì khúc mắc hiện hữu,
nhưng vấn đề cần phải bàn ở đây là tại sao và trong trường hợp nào phải giữ bí
mật.
Để bảo đảm cho các quy định của pháp luật về khiếu nại tố cáo có tính
khả thi, dễ hiểu và dễ vận dụng trong quá trình tổ chức thực hiện, sau mỗi giai
đoạn triển khai thực hiện Luật Khiếu nại, tố cáo, trong khi chưa thể sửa đổi bổ
sung Luật, Nghị định, cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, ban hành Thông
tư để hướng dẫn thực hiện những vấn đề còn vướng mắc, hoặc những quy định

mới mà nội dung cần phải có hướng dẫn chi tiết. Bên cạnh đó, cần sớm có
hướng dẫn cụ thể, chi tiết đối với các vấn đề đã được nêu trên.
Tóm lại: “việc phân biệt hai khái niệm khiếu nại và tố cáo sẽ góp phần
quan trọng trong việc xây dựng cơ chế, thiết chế thực hiện quyền công dân và
cũng là cơ sở để cá thể hóa trách nhiệm, từ đó xác định thẩm quyền và xây dựng
trình tự giải quyết khiếu nại và tố cáo ngày càng đơn giản, gọn nhẹ, nhanh
chóng, tiết kiệm và hợp lí hơn”. (Giáo trình Thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố
cáo – Trường Đại học Luật Hà Nội. Nhà xuất bản Công an nhân dân Hà Nội
2006).
2.4 Vai trò của các cơ quan thanh tra trong việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo:
Theo quy định của pháp lệnh thanh tra năm 1990, các cơ quan Thanh tra
nhà nước bao gồm: Thanh tra nhà nước, Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc chính phủ (gọi chung là thanh tra bộ); Thanh tra tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (gọi chung là thanh tra tỉnh); Thanh tra sở, Thanh tra huyện,
quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là thanh tra huyện). Các cơ quan
thanh tra nằm trong hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước. Các cơ quan thanh
tra nhà nước chịêu sự chỉ đạo trực tiếp của cơ quan quản lý nhà nước, đồng thời
16


chịêu sự chỉ đạo công tác, tổ chức nghiệp vụ của cơ quan thanh tra nhà nước cấp
trên.
Theo quy định của Luật khiếu nại, Luật Tố cáo năm 2011 thì các cơ quan
thanh tra nhà nước có vai trò quan trọng trong giải quyết khiếu nại, tố cáo nói
chung và giải quyết khiếu nai, tố cáo về đất đai nói riêng, cụ thể là:
- Tham mưu giúp thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp trong
giải quyết khiếu nại, tố cáo;
- Giải quyết khiếu nại theo uỷ quyền của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà
nước cùng cấp; Riêng Tổng Thanh tra nhà nước với tư cách là thành viên Chính

phủ, là người đứng đầu cơ quan thanh tra nhà nước, có các chức năng quản lý
nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại có thẩm quyền giải quyết một số
khiếu nại, tố cáo;
- Tiếp công dân, nhận các khiếu nại, tố cáo;
- Quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
Như vậy, trong việc gải quyết khiếu nại, tố cáo thì các cơ quan thanh tra
nhà nước chỉ có thẩm quyền, trách nhiệm giải quyết những khiếu nại, tố cáo
theo sự uỷ quyền của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước. Việc tham mưu cho
thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp trong giải quyết khiếu nại, tố cáo
là hoạt động quan trọng có tính chất hỗ trợ, giúp việc cho cơ quan quản lý. Tuy
không trực tiếp ra quyết định giải quyết nhưng thông qua việc thẩm tra, xác
minh, kết luận nội dung vụ việc, yêu cầu của người khiếu nại, tố cáo, đề xuất
hướng giải quyết khiếu nại, tố cáo có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giải
quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo của công dân. Tiếp công dân, nhận các khiếu
nại, tố cáo là hoạt động có tính chất hỗ trợ trực tiếp, gắn bó chặt chẽ với việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.Chính cì vậy,
khi nghiên cứu về vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước trong việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai chúng ta phải đề cập đến nhiệm vụ, quyền hạn
như đã nêu trên. Nếu chỉ tập trung phân tích, đánh giá về thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn trong việc trực tiếp giải quyết khiếu nại hoặc rong việc tham mưa
17


giúp thủ trưởng cùng cấp giải quyết khiếu nại… thì việc nghiên cứu không hoàn
thiện và đầy đủ. Do không đánh giá hết vai trò của các cơ quan thanh tra nhà
nước trong giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai.
Những căn cứ, cơ sở xác định vai trò “đặc biệt” của các cơ quan thanh
tra nhà nước trong giải quyết khiếu nại, hành chính:
- Các cơ quan thanh tra tuy là cơ quan hành chính song khác với cơ quan
chức năng, cơ quan tham mưu của cơ quan quản lý nhà nước vì nó không được

trực tiếp ban hành quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính tác động
trực tiếp đến đối tượng quản lý. Vì vậy các cơ quan thanh tra độc lập, khách
quan trong việc xem xét, giải quyết các khiếu nại, tố cáo.
- Các cơ quan thanh tra có chức năng thanh tra việc thực hiện chính sách,
pháp luật của những đối tượng thuộc quyền quản lý nhà nước của Thủ trưởng
cùng cấp; phong ngừa và đấu tranh tham nhũng, lạm quyền, làm sai sự thật. Vì
vậy nó được pháp luật trao cho những quyền hạn quan trọng để thực hiện nhiệm
vụ được giao. Do đó các cơ quan này có ưu thế nhất định trong việc xem xét,
giải quyết khiếu nại, tố cáo mà các cơ quan khác không có được.
- Là cơ quan có vị trí trong cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát nên ngay
từ khi mới được thành lập các cơ quan thanh tra đã được giao các nhiệm vụ,
quyền hạn quan trọng trong xem xét, đánh giá việc chấp hành pháp luật của các
cơ quan hành chính nàh nước, cán bộ công chức nàh nước. Chức năng nhiệm vụ
đó ngày càng được củng cố, hoàn thiện và quy định đầy đủ hơn trong các văn
bản pháp luật, đặc biệt là Luật thanh tra vừa được Quốc hội thông qua.
- Trong điều kiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, với việc mở
rộng quyền tự chủ cho các tổ chức kinh tế, thực hiện việc phân cấp mạnh cho cơ
quan cấp dưới và chính quyền cơ sở thì tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm
tra, kiểm soát của các cơ quan nhà nước cấp trên đối với các cơ quan đơn vị cấp
dưới là yêu cấu tất yếu. Do đó vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước trong
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai rất nhiều, để đảm bảo quyền
lợi cho công dân và ngăn ngừa tình trạng lạm dụng quyền lực để chiếm đoạt hay
18


hành sách dân, cơ quan thanh tra cần phải nỗ lực và cố gắng hơn nữa để ngăn
ngừa hiện tượng đó xảy ra vì thế mà cơ quan thanh tra trở nên quan trọng trong
bộ máy hành chính, trong thanh tra, đấu tranh chống tham nhũng ngày càng
được củng cố, tăng cường hơn.
2.5. Tình hình giải quyết khiếu nại, Tố cáo trong thời gian qua

2.5.1. Công tác tiếp dân
Từ năm 2012 - 2015, toàn quận đã tố chức tiếp 3050 lượt công dân đến
khiếu nại, tố cáo và kiến nghị phản ánh. Trong đó:
- Phòng tiếp dân UBND Quận tiếp: 1534 lượt người
- Lãnh đạo UBND quận tiếp: 250 lượt người
- UBND các phường tiếp: 1266 lượt người
Các địa điểm tiếp dân từ quận đến các phường đều hoạt động tốt, đúng
quy định, công dân đến các phòng tiếp dân chủ yếu là kiến nghị, giải quyết
nguyện vọng và trình bày các vụ việc về khiếu nại. Nội dung xoay quanh việc
tranh chấp đất đai, mức đền bù thiệt hại về đất… trong công tác GPMB thực
hiện các dự án đầu tư.
2.5.2 Công tác giải quyết khiếu nại.
Từ năm 2012 – 2015, phòng Thanh tra Quận tiếp nhận 454 đơn thư khiếu
nại về đất đai của công dân gửi đến, trung bình mỗi năm tiếp nhận hơn 100 đơn.
Chủ yếu tập trung vào lĩnh vực cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi
đất, giá bồi thường giải phóng mặt bằng.
Kết quả giải quyết được 398 đơn, đạt tỉ lệ 86,1%, trong đó khiếu nại sai
chiếm 18,5%. Số còn lại đang được tiếp tục xem xét, giải quyết. UBND thành
phố đã ban hành 283 quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có văn bản trả lời 63
đơn, báo cáo 34 đơn, ban hành 92 công văn và các văn bản khác đề nghị xem
xét, giải quyết.
2.5.3 Công tác giải quyết tố cáo.
Thanh tra thành Quận nhận được 38 đơn tố cáo, chủ yếu liên quan đến
việc cưỡng chế nhà ở; cán bộ, công chức làm sai chính sách, tiêu cực; bao che
19


người bị tố cáo. Kết quả giải quyết được 29 đơn, đạt tỷ lệ 83,8%, số còn lại đang
được tiến hành xác minh, giải quyết.
Trong đó: từ năm 2012 đến năm 2014 Thanh tra nhà nước Quận Tây hồ

đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình với những vụ việc cụ thể được giải quyết
triệt để đó là:
2.6. Kết quả giải quyết từ năm 2012 đến Quý III Năm 2014
Năm 2012
*. Giải quyết khiếu nại:
- Tổng số đơn khiếu nại 215 đơn (có 6 đơn kỳ trước chuyển sang)
+ Thuộc thẩm quyền UBND quận là: 176 đơn
+ thuộc thẩm quyền UBND phường là: 39
- Toàn quận giải quyết xong đơn 210/215- Đạt tỷ lệ giải quyết về khiếu
nại là 96,6%
- Trong 210 vụ đã giải quyết có 189 vụ cần phân tích:
+ KN sai: 180
+ KN có đúng có sai: 5 vụ
+ KN đúng: 4 vụ
+ Những vụ thuộc thẩm quyền còn tồn: 4 (chuyển kỳ sau giải quyết)
* Giải quyết tố cáo
- Tổng số vụ tố cáo: 20
+ Thuộc thẩm quyền của UBND quận: 17 vụ
+ Thuộc thẩm quyền của UBND phường: 3 vụ
- Toàn quận đã giải quyết xong 20/20 vụ - Đạt tỷ lệ về khiếu nại, tố cáo là
100%. Trong 20 vụ đã giải quyết có:
+ Tố cáo sai: 15 vụ
+ Tố cáo có đúng, có sai: 3 vụ
+ Tố cáo đúng: 2 vụ
- quyết định xử lý tố cáo: 20
- quyết định xử lý tố cáo đã được thi hành: 20
20


- quyết định xử lý tố cáo chưa được thi hành: 0

* Tổng hợp kết quả giải quyết chung về KNTC là 230/240 đạt tỷ lệ giải
quyết là 96,7%
* Riêng Thanh tra quận đã tham mưu giải quyết 230/235 vụ thuộc thẩm
quyền- Đạt tỷ lệ là 95,9%
Năm 2013
* Giải quyết khiếu nại:
- Tổng số đơn khiếu nại 200 đơn (có 6 đơn kỳ trước chuyển sang)
+ Thuộc thẩm quyền UBND quận là: 162 đơn
+ thuộc thẩm quyền UBND phường là: 38
- Toàn quận giải quyết xong đơn 192/200- Đạt tỷ lệ giải quyết về khiếu
nại là 96,6%
- Trong 192 vụ đã giải quyết có 189 vụ cần phân tích:
+ KN sai: 180
+ KN có đúng có sai: 5 vụ
+ KN đúng: 4 vụ
+ Những vụ thuộc thẩm quyền còn tồn: 4 (chuyển kỳ sau giải quyết)
* Giải quyết Tố cáo
- Tổng số vụ tố cáo: 15
+ Thuộc thẩm quyền của UBND quận: 12 vụ
+ Thuộc thẩm quyền của UBND phường: 3 vụ
- Toàn quận đã giải quyết xong 15/15 vụ - Đạt tỷ lệ về khiếu nại, tố cáo là
100%. Trong 15 vụ đã giải quyết có:
+ Tố cáo sai: 11 vụ
+ Tố cáo có đúng, có sai: 3 vụ
+ Tố cáo đúng: 2 vụ
- quyết định xử lý tố cáo: 15
- quyết định xử lý tố cáo đã được thi hành: 15
- quyết định xử lý tố cáo chưa được thi hành: 0
21



×