Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Khóa luận tốt nghiệp thực trạng và giải pháp hoàn thiện các quy định về giải quyết khiếu nại tố cáo về đất đai trong luật đất đai 2003

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.75 KB, 64 trang )

Khóa luận tốt nghiệp Đinh Quý Đôn - KT33A
LỜI MỞ ĐẦU 1
I. Tính cấp thiết của đề tài 1
II. Tình hình nghiên cứu 1
III. Phạm vi nghiên cứu đề tài 2
IV. Phương pháp nghiên cứu 2
V. Bố cục khoá luận 3
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ KHIẾU NẠI TỐ CÁO VÀ GIẢI QUYẾT
KHIẾU NẠI TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI 4
1.1. Một số khái niệm 4
1.1.1. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại 4
1.1.2. Tố cáo và giải quyết tố cáo 5
1.2. Đặc điểm của KN – TC về đất đai 5
1.2.1. Chủ thể của KN - TC 6
1.2.2. Đối tượng bị KN - TC 7
1.2.3. Mục đích của KN - TC 8
1.3. Các loại KN - TC về đất đai 8
1.3.1. Các loại khiếu nại về đất đai 8
1.3.2. Các loại tố cáo về đất đai 12
1.4. Các nguyên tắc cơ bản của giải quyết KN - TC về đất đai 13
1.4.1. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa 13
1.4.2 .Nguyên tắc dân chủ và công khai 13
1.4.3 .Tôn trọng sự thật khách quan, thận trọng, vô tư 14
1.4.4 .Kết hợp giải quyết KN - TC về đất đai với việc giáo dục thuyết phục
tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật về đất đai 14
1.4.5. Giải quyết nhanh chóng, kịp thời, ngăn chặn và loại trừ các hành vi vi
phạm pháp luật về đất đai 15
1.5. Sơ lược quá trình phát triển các quy định về giải quyết KN - TC về đất đai
15
Khóa luận tốt nghiệp Đinh Quý Đôn - KT33A
1.5.1. Giai đoạn trước năm 1993 15


1.5.2. Giai đoạn từ năm 1993 – 2003 16
1.5.3. Giai đoạn từ năm 2003 đến nay 17
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG KHIẾU NẠI TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI 18
2.1. Pháp luật hiện hành về giải quyết KN - TC về đất đai 18
2.1.1. Thẩm quyền giải quyết đơn KN - TC về đất đai theo luật đất đai 2003
18
2.1.2. Trình tự, thủ tục giải quyết KN - TC về đất đai theo luật đất đai 2003
29
2.2 Thực trạng giải quyết KN - TC về đất đai 35
2.2.1 Tình hình KN - TC của công dân về đất đai trong thời gian qua 35
2.2.2. Nguyên nhân làm phát sinh tình hình KN – TC liên quan đến đất đai
trong thời gian qua 40
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ GIẢI QUYẾT
KHIẾU NẠI TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI CỦA LUẬT ĐẤT ĐAI 2003 45
3.1 Những thành tựu đạt được và tồn tại cần khắc phục trong công tác giải
quyết KN – TC về đất đai 45
3.1.1 Những thành tựu đạt được trong giải quyết KN - TC 45
3.1.2 Những tồn tại cần khắc phục 46
3.2 Giải pháp hoàn thiện các quy định về giải quyết KN – TC về đất đai 49
3.2.1 Sớm thực hiện công tác tổng kết thực hiện nghị quyết TW 7 Khoá IX
49
3.2.2 Giải pháp về mặt chính sách pháp luật 50
KẾT LUẬN 57
58
TÀI LIỆU THAM KHẢO 59
LỜI CẢM ƠN
Khóa luận tốt nghiệp Đinh Quý Đôn - KT33A
Trước hết, em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Trường Đại
học Luật Hà Nội đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn em trong suốt thời gian học
tập, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận trong thời gian qua.

Đặc biệt, em xin gửi lời biết ơn sâu sắc tới Thầy – Ths. Đỗ Xuân Trọng,
người trực tiếp hướng dẫn, đã dành nhiều thời gian và tâm huyết giúp đỡ em
hoàn thành khóa luận. Em cũng gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và những
người đã quan tâm, động viên em trong quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng hoàn thiện khóa luận bằng năng lực của
mình, tuy nhiên khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong
nhận được những đóng góp quý báu của các thầy cô giáo và các bạn!
Hà Nội, ngày …, tháng …, năm …
Sinh viên
Đinh Quý Đôn
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Khóa luận tốt nghiệp Đinh Quý Đôn - KT33A
GCNQSDĐ: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
KN – TC : Khiếu nại, tố cáo
UBND : Uỷ ban nhân dân
Khóa luận tốt nghiệp Đinh Quý Đôn - KT33A
LỜI MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt
mà tự nhiên ban tặng cho con người. Không ai có thể phủ nhận vai trò quan trọng
của đất đai đối với cuộc sống của con người, có ý nghĩa hàng đầu trong môi
trường sống, đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh quốc phòng của mỗi
quốc gia. Đất nước ta đang ngày càng phát triển, đất đai đóng vai trò là động lực
phát triển kinh tế, phát triển đất nước. Nhà nước đóng vai trò là tác nhân thúc đẩy
nguồn lợi phát sinh từ đất đai thông qua các chính sách đất đai, các quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất nhằm đảm bảo tính hiệu quả trong việc sử dụng nguồn tài
nguyên đất đai. Đất đai ngày càng thể hiện tầm quan trọng trong sự phát triển của
nền kinh tế quốc dân khi mà dân số nước ta ngày càng tăng cao làm cho nhu cầu
sử dụng đất tăng theo trong khi quỹ đất có giới hạn.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các địa phương trong quá trình đô

thị hoá, đã chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang thành đất ở đô thị,
thực hiện xây dựng khu dân cư, điện, đường, trường, trạm… Do đó nhu cầu sử
dụng đất, giá trị quyền sử dụng đất ngày càng tăng làm cho giá đất ngày càng
tăng. Chính vì thế chỉ một mâu thuẫn nhỏ trong việc sử dụng đất của các hộ dân,
trong công tác quản lý đất đai của cơ quan nhà nước cũng có thể làm phát sinh
tranh chấp, khiếu nại - tố cáo (KN – TC) về đất đai. Trong thực tế, tình hình KN
– TC ngày càng phát sinh và diễn biến phức tạp làm ảnh hưởng tới trật tự xã hội
và công tác quản lý của Nhà nước về đất đai. Vấn đề giải quyết KN – TC về đất
đai nhằm đảm bảo lợi ích hợp pháp của người dân đối với đất đai đồng thời giúp
từng bước hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về đất đai.
II. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về thực trạng và giải pháp hoàn thiện các quy định giải quyết
KN – TC về đất đai của Luật đất đai 2003 là một đề tài lớn, được nhiều nhà khoa
học thuộc nhiều lĩnh vực quan tâm. Vấn đề này đã được đề cập ở nhiều công
1
Khóa luận tốt nghiệp Đinh Quý Đôn - KT33A
trình nghiên cứu, luận văn, luận án và các tạp chí pháp lý chuyên ngành như: Giải
quyết khiếu nại tố cáo: ThS. Hoàng văn Sao - cần làm rõ khái niệm khiếu nại,
khiếu kiện để giải quyết các quyền ấy của cá nhân cho đúng - Tạp chí luật học số
03/2005; Tủ sách pháp luật xã, phường, thị trấn / Bộ Tư pháp. Viện Nghiên cứu
khoa học pháp lý ; Nguyễn Đức Giao chủ biên; Giải quyết tranh chấp, khiếu nại,
tố cáo trong những quy định của luật đất đai – ThS Nguyễn thị Dung; tạp chí luật
học 2003; Tính thống nhất của văn bản pháp luật hiện hành về khiếu nại, giải
quyết khiếu kiện hành chính - Nguyễn Tuấn Anh, Lê Anh Đức – tạp chí thanh tra
2006; … Mặc dù đã có những nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác nhau, song vấn đề
“thực trạng và giải pháp hoàn thiện các quy định giải quyết khiếu nại, tố cáo về
đất đai của Luật đất đai 2003” đang là đề tài được quan tâm từ cả góc độ lý luận
và thực tiễn.
III. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong khuôn khổ khoá luận, tôi xin đi nghiên cứu đề tài trong phạm vi

những vấn đề:
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết KN – TC
trong lĩnh vực đất đai;
- Nghiên cứu thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về giải quyết
KN – TC về đất đai;
- Nghiên cứu quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta về
hoàn thiện pháp luật về giải quyết KN – TC về đất đai.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các yêu cầu của đề tài, trong quá trình nghiên cứu khoá luận
đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mac – Lênin
- Các phương pháp khác như:
2
Khóa luận tốt nghiệp Đinh Quý Đôn - KT33A
+ Phương pháp luận giải, phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử
được sử dụng trong chương I;
+ Phương pháp đánh giá, thống kê số liệu trong chương II;
+ Phương pháp bình luận, phương pháp tổng hợp trong chương III.
V. Bố cục khoá luận
Khoá luận được chia làm 3 chương:
Chương I. Khái quát về KN – TC và giải quyết KN – TC về đất đai;
Chương II. Thực trạng KN – TC về đất đai;
Chương III. Giải pháp hoàn thiện các quy định về giải quyết KN – TC về
đất đai.
3
Khóa luận tốt nghiệp Đinh Quý Đôn - KT33A
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ KHIẾU NẠI TỐ CÁO VÀ GIẢI QUYẾT
KHIẾU NẠI TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI
1.1. Một số khái niệm

Vấn đề KN – TC xuất hiện từ khi xã hội có sự phân chia giai cấp, có sự ra
đời của Nhà nước và có hiện tượng vi phạm pháp luật. Khoản 6 Điều 105 Luật
Đất đai năm 2003 quy định “Người sử dụng đất có quyền khiếu nại, tố cáo, khởi
kiện về những hành vi vi phạm quyền sử dụng đất hợp pháp của mình và những
hành vi khác vi pháp pháp luật về đất đai”. Như vậy, chúng ta cần hiểu thế nào là
khiếu nại, thế nào là tố cáo và thế nào là KN – TC về đất đai.
1.1.1. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Theo từ điển luật học thì “khiếu nại” là những đề nghị của công dân, cơ
quan tổ chức đối với cơ quan Nhà nước hoặc người có thẩm quyền về việc vi
phạm hoặc cho là vi phạm quyền và lợi ích chính đáng của mình.
Khoản 1 Điều 2 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật Khiếu nại tố cáo
năm 2005 quy định: “Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ,
công chức theo thủ tục do Luật này quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết
định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi
đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.”
Như vậy, qua việc giải thích khiếu nại trong Luật Khiếu nại tố cáo và theo
từ điển Luật học ta có thể hiểu khiếu nại về đất đai là việc công dân, cơ quan, tổ
chức đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành
chính, hành vi hành chính khi có căn cứ cho rằng các quyết định, hành vi đó là
trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình về quyền của
người sử dụng đất.
Giải quyết khiếu nại là việc cơ quan Nhà nước, cá nhân có thẩm quyền tiếp
nhận, xem xét đơn, thư khiếu nại của công dân về quyết định hành chính hay
hành vi hành chính của cơ quan đó. Sau đó tổ chức Thanh tra, kiểm tra, thu thập
4
Khóa luận tốt nghiệp Đinh Quý Đôn - KT33A
chứng cứ, đối thoại với các bên có liên quan và đi đến kết luận cuối cùng về tính
đúng, sai của quyết định hay hành vi hành chính đó và bảo vệ được quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên có liên quan, xác định rõ trách nhiệm thuộc về ai một

cách hợp tình, hợp lý, đảm bảo được yêu cầu của công tác quản lý.
1.1.2. Tố cáo và giải quyết tố cáo
“Tố cáo” theo từ điển Luật học là “việc công dân, theo thủ tục pháp luật
quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi
phạm pháp luật đất đai của cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe
doạ gây thiệt hại đến lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người sử
dụng đất”.
Khoản 2 Điều 2 Luật Khiếu nại tố cáo quy định: “tố cáo là việc công dân
theo thủ tục do luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân, có thẩm
quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân
nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.”
Như vậy, có thể hiểu một cách đơn giản, tố cáo về đất đai đai là việc công
dân theo thủ tục do pháp luật quy định báo cáo cho cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền những hành vi vi phạm pháp luật của một đối tượng nào đó trong việc
quản lý và sử dụng đất đai.
Giải quyết tố cáo về đất đai đai là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
tiếp nhận đơn thư tố cáo của công dân, xem xét và tổ chức thanh tra, kiểm tra, thu
thập chứng cứ từ đó đi đến kết luận giải quyết tố cáo một cách đúng đắn nhất,
hợp tình, hợp lý.
1.2. Đặc điểm của KN – TC về đất đai
KN – TC là quyền dân chủ cơ bản của công dân, các quyền này đã được
ghi nhận trong Hiến pháp 1992 cũng như các văn bản pháp luật chuyên ngành
khác. Nó cũng là một quyền dân chủ cơ bản của người sử dụng đất. Bởi Nhà
nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do
5
Khóa luận tốt nghiệp Đinh Quý Đôn - KT33A
Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu, thay mặt nhân dân thực hiện hoạt động quản
lý, phục vụ cho lợi ích của chủ sở hữu đích thực là toàn dân, cũng như phục vụ
cho quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi người sử dụng đất.

1.2.1. Chủ thể của KN - TC
* Chủ thể khiếu nại là cá nhân, cơ quan, tổ chức gọi chung là người sử
dụng đất. Theo quy định tại Điều 9 Luật đất đai 2003 thì người sử dụng đất là
người được Nhà nước cho phép được sử dụng đất bằng một trong các hình thức
như giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển nhượng, công nhận quyền sử dụng
đất ổn định, lâu dài. Người sử dụng đất theo quy định tại Điều 9 bao gồm:
“1. Các tổ chức trong nước bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội,
tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức kinh tế – xã hội, tổ chức sự
nghiệp công, đơn vị vũ trang nhân dân và các tổ chức khác theo quy định của
Chính phủ (sau đây gọi chung là tổ chức) được Nhà nước giao đất, cho thuê đất
hoặc công nhận quyền sử dụng đất; tổ chức kinh tế nhận chuyển quyền sử dụng
đất;
2. Hộ gia đình, cá nhân trong nước (sau đây gọi chung là hộ gia đình, cá
nhân) được Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất,
nhận chuyển quyền sử dụng đất;
3. Cộng đồng dân cư gồm cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên cùng
địa bàn thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc và các điểm dân cư tương tự có
cùng phong tục, tập quán hoặc có chung dòng họ được Nhà nước giao đất hoặc
công nhận quyền sử dụng đất;
4. Cơ sở tôn giáo gồm chùa, nhà thờ, thánh thất, thánh đường, tu viện,
trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và các cơ sở khác
của tôn giáo được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất hoặc giao đất;
5. Tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao gồm cơ quan đại diện
ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện khác của nước ngoài có chức
6
Khóa luận tốt nghiệp Đinh Quý Đôn - KT33A
năng ngoại giao được Chính phủ Việt Nam thừa nhận; cơ quan đại diện của tổ
chức thuộc Liên hợp quốc, cơ quan hoặc tổ chức liên chính phủ, cơ quan đại
diện của tổ chức liên chính phủ được Nhà nước Việt Nam cho thuê đất;

6. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư, hoạt động văn hoá,
hoạt động khoa học thường xuyên hoặc về sống ổn định tại Việt Nam được Nhà
nước Việt Nam giao đất, cho thuê đất, được mua nhà ở gắn liền với quyền sử
dụng đất ở;
7. Tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam theo pháp luật về
đầu tư được Nhà nước Việt Nam cho thuê đất.”
Các chủ thể trên khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi
hành chính của cơ quan Nhà nước đã xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của
mình thì có quyền KN.
* Chủ thể tố cáo về đất đai là cá nhân là người sử dụng đất hoặc không
phải người sử dụng đất.
1.2.2. Đối tượng bị KN - TC
Đối tượng bị khiếu nại là các quyết định hành chính, hành vi hành chính
trong quản lý đất đai của cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ trong cơ quan
hành chính nhà nước được thể hiện ở nhiều công việc như đăng ký quyền sử
dụng đất, lập, quản lý hồ sơ địa chính hay cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, đánh giá phân hạng đất, lập bản đồ địa chính…. Tuy nhiên, theo quy định
của Luật đất đai 2003 thì chỉ những quyết định hành chính, hành vi hành chính
của Chủ tịch UBND huyện, tỉnh trong quản lý đất đai tại Điều 162 nghị định
181/2004/NĐ-CP quy định các quyết định hành chính, hành vi hành chính bị
khiếu nại sẽ được giải quyết theo quy định của Luật đất đai về trình tự thủ tục
giải quyết, còn đa phần quyết định hành chính, hành vi hành chính khác về đất
đai sẽ được giải quyết theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo.
7
Khóa luận tốt nghiệp Đinh Quý Đôn - KT33A
Đối tượng của tố cáo về đất đai là các hành vi vi phạm pháp luật đất đai
của bất kỳ ai không kể là các nhân, cơ quan, tổ chức gây thiệt hại đến quyền và
lợi ích của mình hoặc của nhà nước, tập thể.
KN – TC về đất đai đều phát sinh khi có sự vi phạm pháp luật đất đai, đều
nhằm phản ánh những mâu thuẫn bất thường trong các mối quan hệ giữa cơ quan

nhà nước có thẩm quyền với người sử dụng đất, giữa cá nhân với tập thể, giữa
người sử dụng đất này với người sử dụng đất khác. KN - TC về đất đai đều là
hình thức đấu tranh đối với những việc làm trái chính sách pháp luật đất đai của
cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân, đều nhằm chấm dứt việc làm trái pháp luật để
khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất; bảo vệ lợi ích
nhà nước.
1.2.3. Mục đích của KN - TC
Khiếu nại về đất đai với mục đích là bảo vệ và khôi phục các quyền, lợi ích
hợp pháp của chính người khiếu nại. Còn mục đích của tố cáo về đất đai lại là
bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ
chức.
KN - TC khác với các hình thức yêu cầu, kiến nghị của nhân dân trong lĩnh
vực đất đai ở điểm KN - TC luôn chứa đựng các thông tin, chứng cứ nhất định về
sự vi phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của tập thể hay Nhà
nước. Tuy nhiên việc KN - TC cần phải có căn cứ, căn cứ này là quyền KN - TC
của công dân. Căn cứ đó có thể đúng hay sai tuỳ thuộc vào kết quả điều tra của
cơ quan nhà nước.
1.3. Các loại KN - TC về đất đai
1.3.1. Các loại khiếu nại về đất đai
Khiếu nại về đất đai là việc người dân, cơ quan tổ chức đề nghị cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành
chính trong quản lý về đất đai khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính,
8
Khóa luận tốt nghiệp Đinh Quý Đôn - KT33A
hành vi hành chính đó là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Thông thường trên thực tế có một số dạng khiếu nại về đất đai như:
a) Khiếu nại về quyết định bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng và tái
định cư
Thực tế có hàng loạt dự án đã và đang đưa vào thực hiện, cùng hàng loạt
dự án, quy hoạch khác đã và đang được phê duyệt. Do đó, công tác bồi thường và

tái định cư đóng vai trò quyết định đối với việc thực hiện dự án. Tuy nhiên,
không phải bao giờ việc thực hiện công tác này cũng thuận lợi, một dự án hay
quy hoạch từ khi được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt đến khi đưa vào thực
hiện phải trải qua một thời gian dài, trừ những quy hoạch “treo” thì có những dự
án đã thực hiện đến giai đoạn bồi thường, giải toả, các quyết định bồi thường,
giải phóng mặt bằng, tái định cư khi vừa ban hành thì có nhiều người dân không
đồng tình với mức giá hoặc chính sách nên làm đơn khiếu nại, cũng có trường
hợp do thực hiện việc quy hoạch quá dài, giá đất tăng cao theo thời gian nên mặc
dù đã có quyết định bồi thường tái định cư lâu rồi nhưng người dân vì thấy giá
tăng nên khiếu nại đòi tăng giá bồi thường. Một dự án quy hoạch khi được đưa
vào phê duyệt và thực hiện thì có nhiều người dân được hưởng lợi, họ đồng tình,
chấp nhận với các quyết định bồi thường tái định cư; tuy nhiên cũng có không ít
người dân bị thiệt hại về quyền và lợi ích chính đáng, hết sức bức xúc với các
quyết định đó nên đã gửi đơn khiếu nại. Và thực tế số vụ việc khiếu nại quyết
định về bồi thường, tái định cư diễn ra hết sức phức tạp với số lượng lớn gây khó
khăn cho cơ quan chức năng trong việc thực hiện các dự án, quy hoặc và các cơ
quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại về đất đai.
b) Khiếu nại về việc cấp hoặc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Dạng khiếu nại này phát sinh do những sai sót của cơ quan có thẩm quyền
cụ thể như sau:
Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) nhưng có sai sót
như sai tên chủ sử dụng đất, sai sơ đồ thửa đất, sai diện tích…loại khiếu nại này
chiếm số lượng lớn nhất trong tổng số các vụ việc khiếu nại về cấp GCNQSDĐ,
9
Khóa luận tốt nghiệp Đinh Quý Đôn - KT33A
nguyên nhân chủ yếu là do sự sai sót của cán bộ cấp giấy, lỗi trong quá trình in
ấn…
Không cấp GCNQSDĐ mà không có lý do chính đáng hoặc lý do không rõ
ràng, nguyên nhân chính dẫn đến các vụ khiếu nại này là do cơ quan có thẩm
quyền không chịu giải thích rõ cho dân hiểu lý do không cấp giấy, do quy hoạch

treo hoặc do người dân không chấp nhận dù lý do không cấp GCNQSDĐ chính
đáng…
Giải quyết hồ sơ chậm, gây phiền hà, sách nhiễu, đòi hỏi nhiều thủ tục trái
với quy định của pháp luật… đây là dạng khiếu kiện rất phổ biến hiện nay. Người
dân đã phải mất một thời gian dài khi làm GCNQSDĐ, một phần do thủ tục hành
chính phức tạp, rườm rà, một phần do cán bộ địa chính do có dấu hiệu tiêu cực cố
tình kéo dài thời gian hoặc gây khó khăn cho người sử dụng đất.
c) Khiếu nại quyết định xử phạt hành chính về vi phạm chế độ quản lý, sử
dụng đất đai
Một số bộ phận người dân không nắm rõ về Luật Đất đai và Luật khiếu
nại, tố cáo nên phát sinh tình trạng vi phạm pháp luật hoặc là các trường hợp lấn
chiếm, vi phạm quy tắc xây dựng nhưng vẫn không chấp nhận mình sai vì không
hiểu luật hoặc có nhiều người nắm luật rất rõ nhưng vẫn cố tình vi phạm, khi bị
phát hiện và xử phạt thì ngoan cố khiếu nại. Loại khiếu nại này phát sinh do
những sai sót sau:
+ Ra quyết định xử phạt sai đối tượng, bị nhầm lẫn, sai tên chủ sử dụng;
+ Việc thi hành quyết định xử phạt có sai sót hoặc sai pháp luật;
+ Việc ra quyết đinh không đúng căn cứ pháp luật;
+ Việc ra quyết định quá nhẹ hoặc quá nặng hoặc thiếu trách nhiệm, thiếu
khách quan.
d) Khiếu nại về thủ tục chuyển quyền sử dụng đất, đặc biệt đối với những
nơi tình hình chuyển nhượng đất đai sôi động.
10
Khóa luận tốt nghiệp Đinh Quý Đôn - KT33A
Việc phát sinh khiếu nại trong việc làm thủ tục chuyển nhượng là không
thể tránh khỏi bởi những sai sót sau:
+ Làm thủ tục phiền hà, sách nhiễu, đòi hỏi những thủ tục không đúng quy
định;
+ Thực hiện làm thủ tục chuyền nhượng quyền sử dụng đất nhưng sai sót
về giấy tờ như: họ tên, diện tích, vị trí, ranh giới, loại đất…

e) Khiếu nại quyết định thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai như nghĩa
vụ nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tiền chuyển mục đính sử dụng đất, thuế sử
dụng đất, lệ phí địa chính.
f) Khiếu nại việc cơ quan nhà nước quyết định không đúng quy định của
pháp luật trong quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, cải tạo công thương nhiệp tư
ban tử doanh; khiếu nại đòi lại đất mà chính quyền cũ đã lấy để làm căn cứ quân
sự, ấp chiến lược trước năm 1975, nay Nhà nước đã bố trí sử dụng vào mục đích
khác.
g) Khiếu kiện xin lại đất đai cũ đã được đưa vào hợp tác xã, tập đoàn sản
xuất mà hiện nay các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất này đã bị giải thể, chính
quyền địa phương đã giao cho người khác sử dụng đất đai. Đây là vấn đề nổi
cộm, phức tạp, đặc biệt là tập trung ở vùng nông thôn Nam bộ. Việc khiếu kiện
này đã có từ lâu nhưng trở lên phức tạp từ những năm 1991, đối tượng chủ yếu là
những người dân nguyên là chủ sở hữu của những phần đất đang bị tranh chấp,
khiếu kiện. Đặc biệt, tại một số địa phương Nam bộ như Bến Tre và một số tỉnh
khác, việc tranh chấp, khiếu kiện đã dẫn đến xô sát, hành hung, gây thương tích
và chết người, nhiều hộ dân mất trắng đất sản xuất, tình hình trên đã gây hậu quả
rất xấu về mặt an ninh trật tự xã hội, gây tâm lý hoang mang, lo sợ không yên
tâm sản xuất trong nội bộ nhân dân.
h) Khiếu kiện đòi lại đất đai trong quá trình thực hiện chủ trương
“nhường cơm, sẻ áo” thời kỳ 1975 – 1980 mà hiện nay người được nhường đất
11
Khóa luận tốt nghiệp Đinh Quý Đôn - KT33A
không sản xuất nông nghiệp mà bán đất kiếm lời trong khi người trước đây đã
nhường đất đời sống gặp rất nhiều khó khăn, thiếu đất sản xuất.
i) Khiếu kiện đòi lại đất trước đây vì những lý do khác nhau đã cho người
khác mượn, ở nhờ, …nay người mượn lại đem bán hoặc cho thuê nên những
người chủ đất cũ bức xúc đòi lại.
k) Khiếu kiện đòi lại đất hương hoả, đất nhờ người khác trông coi, người
được nhờ trông coi qua thời gian dài đã coi như của mình, nay chủ cũ có nhu

cầu sử dụng đòi lại.
l) Khiếu kiện tranh chấp lối đi trong ngõ, xóm, ranh giới đất ở, đất vườn,
đất sản xuất thuộc quyền sử dụng của các hộ gia đình cũng diễn ra khá phổ biến
ở nhiều địa phương trong cả nước.
m) Khiếu kiện tranh chấp giữa người dân về những vùng đất bãi bồi ven
sông, ven biển để nuôi trồng, khai thác thủy, hải sản cũng diễn biến khá phức tạp
ở một số địa phương.
1.3.2. Các loại tố cáo về đất đai
Nội dung tố cáo về đất đai tập trung ở một số nội dung chủ yếu sau:
a) Tố cáo cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn và lợi dụng các chương
trình, dự án của Nhà nước để bao chiếm ruộng đất, chia chác đất đai, nhất là đối
với chương trình trồng rừng, các dự án phát triển khu dân cư, các dự án tái định
cư;
b) Tố cáo cán bộ cửa quyền, nhũng nhiễu trong thực hiện các thủ tục hành
chính về đất đai như giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyền nhượng quyền sử
dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
c) Tố cáo UBND giao đất trái thẩm quyền, giao đất, cho thuê đất không
đúng đối tượng, không đúng quy hoạch, sử dụng tiền thu từ quỹ đất công ích
(5%) trái quy định của pháp luật;
12
Khóa luận tốt nghiệp Đinh Quý Đôn - KT33A
d) Tố cáo hành vi gian lận trong việc lập phương án bồi thường để tham ô
như lập hai phương án bồi thường (cho người bị thu hồi đất riêng, để thanh toán
với nhà nước riêng).
e) Tố cáo hành vi trục lợi về đất đai thông qua việc lập phương án hoặc
điều chỉnh phương án quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch điểm dân cư nông
thôn không phù hợp với thực tế gây xáo trộn không cần thiết đối với đời sống
nhân dân
1.4. Các nguyên tắc cơ bản của giải quyết KN - TC về đất đai
1.4.1. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa

Tuân theo Hiến pháp và pháp luật là nguyên tắc xuyên suốt trong tất cả các
hoạt động của cơ quan nhà nước cũng như trong hoạt động của bất kỳ cơ quan, tổ
chức, cá nhân nào. Đối với hoạt động giải quyết KN - TC, việc tuân theo các quy
định của pháp luật là nguyên tắc mang tính chất cơ bản nhất.
Tuân theo Hiến pháp, pháp luật trong giải quyết KN - TC nói chung cũng
như trong giải quyết KN - TC trong lĩnh vực đất đai nói riêng có nghĩa là phải
tuân theo pháp luật cả trong xác định thẩm quyền, trong tiếp nhận đơn thư, trong
xác minh, trong nghiên cứu vụ việc, trong ra quyết định giải quyết KN - TC và
trong việc tổ chức thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo đã có hiệu
lực. Có như thế mới có thể giải quyết KN - TC một cách đúng đắn, triệt để, đạt
hiệu quả cao.
1.4.2 .Nguyên tắc dân chủ và công khai
Đảng và Nhà nước ta không ngừng phấn đấu để xây dựng một nhà nước
dân chủ, thực sự của dân, do dân, vì dân. Để thực hiện tốt điều đó nguyên tắc dân
chủ công khai đang được đặt ra đối với mọi hoạt động quản lý nhà nước.
KN - TC được coi là phương thức trực tiếp để thực hiện quyền dân chủ của
công dân. Bởi vậy dân chủ công khai trong giải quyết KN - TC càng là một đòi
hỏi quan trọng. Nguyên tắc này đòi hỏi người giải quyết KN - TC phải lắng nghe
ý kiến của các bên, đảm bảo tự do dân chủ, bình đẳng trước pháp luật.
13
Khóa luận tốt nghiệp Đinh Quý Đôn - KT33A
Hoạt động giải quyết KN - TC từ lúc tiếp nhận đơn cho tới khi ra quyết
định giải quyết KN - TC cuối cùng phải công khai, minh bạch, mọi trình tự thủ
tục, mọi quyết định liên quan tới vụ việc mà người giải quyết đưa ra phải được
công bố công khai cho người KN - TC; người bị KN - TC và người có quyền và
lợi ích liên quan được biết. Hiện nay việc công khai minh bạch vẫn chưa được
đảm bảo. Vì thế yêu cầu phải đề cao nguyên tắc này ngày càng cần thiết.
1.4.3 .Tôn trọng sự thật khách quan, thận trọng, vô tư
Nguyên tắc này không chỉ là yêu cầu riêng đối với hoạt động giải quyết
KN - TC về đất đai mà nó còn là yêu cầu chung đối với cả hoạt động giải quyết

tranh chấp đất đai cũng như xử lý vi phạm pháp luật đất đai. Nguyên tắc này đòi
hỏi công dân, cơ quan, tổ chức khi thực hiện việc KN - TC phải phản ánh trung
thực, đúng sự thật mọi tình tiết, diễn biến của sự việc, không lợi dụng quyền KN
- TC để vu khống, vu cáo người khác. Bởi nếu cung cấp thông tin không chính
xác sẽ dẫn đến việc giải quyết KN - TC không chính xác của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền.
Đối với người giải quyết KN - TC , nguyên tắc này đòi hỏi phải nhìn nhận
sự việc một cách trung thực như nó vốn có, không phụ thuộc vào ý muốn của các
bên đương sự, cũng như không phụ thuộc vào ý nghĩ chủ quan của bản thân
người giải quyết khiếu nại tố cáo, bởi nếu không sẽ dẫn tới ngộ nhận, ra quyết
định giải quyết KN - TC không đúng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân.
1.4.4 .Kết hợp giải quyết KN - TC về đất đai với việc giáo dục thuyết phục
tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật về đất đai.
Nâng cao kiến thức của người dân không chỉ có ý nghĩa trong hoạt động
giải quyết KN - TC, nó là đòi hỏi chung trong công cuộc xây dựng nhà nước
pháp quyền ngày nay. Khi kiến thức pháp luật được nâng cao người dân sẽ dễ
dàng hiểu và chấp hành các quy định của pháp luật một cách nghiêm chỉnh. Còn
trong công tác giải quyết KN - TC sẽ tránh được tình trạng KN - TC tràn lan,
14
Khóa luận tốt nghiệp Đinh Quý Đôn - KT33A
không nghiêm chỉnh chấp hành các quyết định giải quyết KN - TC, từ đó góp
phần nâng cao hiệu quả công tác giải quyết KN - TC .
1.4.5. Giải quyết nhanh chóng, kịp thời, ngăn chặn và loại trừ các hành vi vi
phạm pháp luật về đất đai.
Yêu cầu này không chỉ là yêu cầu đối với giải quyết KN - TC mà còn đối
với giải quyết tranh chấp đất đai và xử lý vi phạm pháp luật đất đai. Việc giải
quyết nhanh chóng kịp thời sẽ tránh được những bức xúc, thiếu tin tưởng trong
nhân dân, đồng thời tiết kiệm được nhiều tiền của của nhân dân cũng như của
Nhà nước do KN - TC dây dưa kéo dài. Trong giai đoạn hiện nay, giải quyết KN

- TC kịp thời và nhanh chóng đang là một nguyên tắc cần được đề cao.
1.5. Sơ lược quá trình phát triển các quy định về giải quyết KN - TC về đất
đai
1.5.1. Giai đoạn trước năm 1993
Sự kiện quan trọng và nổi bật trong giai đoạn này là việc lần đầu tiên ban
hành Luật Đất đai vào năm 1987. Luật Đất đai năm 1987 đã đánh dấu một thời
kỳ mới của nhà nước trong việc quản lý toàn diện đất đai bằng pháp luật, là cơ sở
pháp lý quan trọng, là nền tảng để nhà nước thống nhất quản lý đất đai.
Tuy nhiên, luật Đất đai 1987 ra đời trong bối cảnh đất nước ta đang chuyển
tiếp từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường, các cơ chế cũ vẫn chưa
được xoá bỏ, có cơ chế mới nhưng chỉ mang tính định hướng nên còn nhiều hạn
chế. Bởi vậy, pháp luật đất đai trong giai đoạn này vẫn chịu ảnh hưởng của cơ
chế bao cấp; thể hiện ở việc Nhà nước chưa từng thừa nhận khung giá đất. Người
sử dụng đất được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất. Quan hệ đất đai
bị đóng khung trong mối quan hệ chiều dọc: Nhà nước giao đất cho người sử
dụng đất sử dụng, khi họ không có nhu cầu sử dụng đất thì Nhà nước thu hồi
đất Do vậy trong luật Đất đai 1987 dường như còn ít quy định về khiếu nại, tố
cáo. Năm 1990 chính phủ ban hành nghị định về đền bù khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp, đất lâm nghiệp có rừng sử dụng vào mục đích quốc phòng an ninh,
lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; trong đó có đề cập đến quyền khiếu nại về
15
Khóa luận tốt nghiệp Đinh Quý Đôn - KT33A
vấn đề này. Tuy nhiên, quy định về quyền khiếu nại, tố cáo mới chỉ dừng lại ở
mức độ khái quát, chưa được cụ thể ở các thông tư hướng dẫn. Điều này được lý
giải bởi nguyên nhân cơ bản là trong giai đoạn này đất đai chưa được thừa nhận
là loại tài sản đặc biệt và giá trị chưa cao, nên các khiếu nại tố cáo về đất đai trên
thực tế còn xảy ra ít.
Như vậy, Luật Đất đai năm 1987 đã không hoàn thành được sứ mệnh lịch
sử của mình nói chung và trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại tố cáo về đất đai nói
riêng. Thực tiễn đã đòi hỏi phải có sự thay đổi trong chính sách quản lý, giải

quyết các khiếu nại, tố cáo của người dân về đất đai một cách cụ thể.
1.5.2. Giai đoạn từ năm 1993 – 2003
Trước xu thế phát triển của thời đại và sự phát triển nhanh chóng của tình
hình kinh tế - xã hội ở nước ta, các quy định của Luật Đất đai năm 1987 đã
không còn phù hợp nữa. Và như một sự tất yếu thì pháp luật về KN - TC về đất
đai trong giai đoạn này đã phát triển mạnh mẽ với việc ra đời của Hiến pháp
1992, Luật Đất đai 1993 và Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998, Luật sửa đổi bổ
sung luật đất đai 1998 và 2001 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Hiến pháp
năm 1992 ghi nhận: “Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước,
tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân
nào”. Thể chế hoá quyền khiếu nại, tố cáo của công dân trong Hiến pháp năm
1992 về đất đai, khoản 8 điều 73 luật Đất đai năm 1993 quy định cụ thể người sử
dụng đất có quyền : “được khiếu nại, tố cáo về hành vi xâm phạm quyền sử dụng
đất hợp pháp của mình và các hành vi khác vi phạm pháp luật đất đai”. Như
vậy, Luật Đất đai năm 1993 ra đời cùng với việc ban hành các văn bản pháp luật
nêu trên đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc và tạo điều kiện thuận lợi cho công dân
thực hiện việc KN - TC; làm cơ sở cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong việc giải quyết khiếu tố.
Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện, do những biến động của nền kinh
tế thị trường và bản thân quan hệ đất đai vốn đã phức tạp nên đã nảy sinh những
16
Khóa luận tốt nghiệp Đinh Quý Đôn - KT33A
vấn đề mới về giải quyết KN - TC mà Luật Đất đai 1993 chưa quy định. Do đó,
Quốc hội đã 2 lần sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai vào các năm
1998 và năm 2001. Qua đó, các vấn đề về giải quyết KN - TC đã ngày càng được
đơn giản hoá, cơ chế bao cấp từng bước được xoá bỏ. Việc pháp luật đất đai liên
tục được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình xã hội của đất nước đã góp
phần không nhỏ đối với sự tăng trưởng, ổn định nền kinh tế - xã hội của quốc gia.
1.5.3. Giai đoạn từ năm 2003 đến nay

Trong một giai đoạn ngắn ngủi từ năm 1993 đến năm 2001, Quốc hội nước
ta đã hai lần sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai 1993 cùng với hàng trăm văn bản
được ban hành để hướng dẫn thực thi. Với một hệ thống văn bản pháp luật đồ sộ,
luôn thay đổi nên hệ thống văn bản pháp luật nước ta thiếu tính đồng bộ, mang
tính chắp vá, tình trạng vừa thừa luật, vừa thiếu luật diễn ra khá phổ biến đã gây
khó khăn trong quá trình áp dụng.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Quốc hội
khoá XI, kỳ họp thứ 4 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông
qua Luật Đất đai năm 2003. Kế thừa và phát huy những thành tựu pháp luật về
khiếu nại, tố cáo trong đất đai của các giai đoạn trước, các quy định về vấn đề
này đã được sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng đòi hỏi của quá trình tiếp tục đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các văn bản pháp luật về khiếu
nại, tố cáo trong thời kỳ này được ban hành nhiều, dần hoàn thiện và phù hợp
hơn với thực tế hơn. Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 đã được sửa đổi vào các
năm 2004, 2005 và sắp tới Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo sẽ có hiệu lực vào
1/7/2012… Việc ra đời các văn bản pháp luật này đã góp phần vào việc hình
thành hệ thống pháp luật về việc giải quyết KN - TC nói chung và KN - TC về
đất đai nói riêng. Điều này tạo điều kiện để người dân thực hiện quyền KN - TC
trong lĩnh vực đất đai; đồng thời đưa công tác giải quyết KN - TC về đất đai từng
bước đi vào nề nếp và tuân thủ pháp luật.
17
Khóa luận tốt nghiệp Đinh Quý Đôn - KT33A
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG KHIẾU NẠI TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI
2.1. Pháp luật hiện hành về giải quyết KN - TC về đất đai
2.1.1. Thẩm quyền giải quyết đơn KN - TC về đất đai theo luật đất đai 2003
Thứ nhất, thẩm quyền giải quyết đơn khiếu nại về quyết định giải quyết
tranh chấp đất đai: Quá trình sử dụng đất của các tổ chức, cá nhân được Nhà
nước giao quyền quản lý và sử dụng không tránh khỏi những tranh chấp. Vì vậy,
Nhà nước đã có những cơ chế để giải quyết khi tranh chấp phát sinh mà các tổ
chức, cá nhân không tự giải quyết được. Theo quy định của Điều 136 Luật Đất

đai năm 2003 và Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ
hướng dẫn thi hành Luật Đất đai, thì việc giải quyết tranh chấp về đất đai được
thực hiện theo hai cách: giải quyết tại Tòa án và giải quyết tại các cơ quan hành
chính nhà nước:
Tại Toà án, theo quy định tại Khoản 1 Điều 136 Luật đất đai 2003 Toà án
có thẩm quyền giải quyết đối với tranh chấp về quyền sử dụng đất mà các đương
sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các giấy tờ sau:
những giấy tờ về quyền sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 (tức là
trước khi Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực thi hành) do cơ quan có thẩm quyền
cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa, Chính phủ lâm thời cộng hòa miền nam Việt Nam và nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm
thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký
ruộng đất, sổ địa chính; giấy tờ hợp pháp thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất
hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất; giấy
tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua, bán nhà ở gắn liền với đất trước
ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác
nhận là đã sử dụng đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993; giấy tờ thanh lý, hóa
giá nhà ở gắn liền với đất theo quy định của pháp luật; giấy tờ do cơ quan có
thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất (Khoản 1 Điều 50 Luật
18
Khóa luận tốt nghiệp Đinh Quý Đôn - KT33A
đất đai 2003). Hộ gia đình và cá nhân đang sử dụng đất có một trong các giấy tờ
nói trên mà trên giấy tờ có ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển
quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày
Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền
sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Ủy ban nhân dân xã, phường,
thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp (Khoản 2 Điều 50 Luật đất đai
2003). Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của
Tòa án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định

giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi
hành (Khoản 5 Điều 50 Luật Đất đai).
Tại Cơ quan hành chính Nhà nước, trước đây theo Khoản 2 Điều 136
Luật đất đai 2003; Điều 160 Nghị định 181/2004/NĐ-CP về thi hành luật đất đai,
đối với tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự không có giấy tờ chứng
nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các giấy tờ quy định như nói ở
trên thì được giải quyết như sau:
- Chủ tịch UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết đối
với tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau;
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải
quyết các khiếu nại về quyết định giải quyết tranh chấp do Chủ tịch Ủy ban nhân
dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết lần đầu, quyết định này
là quyết định giải quyết cuối cùng; Đối với tranh chấp giữa tổ chức, cơ sở tôn
giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước
ngoài với nhau hoặc giữa tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư sẽ do Chủ tịch UBND
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết lần đầu;
- Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại về quyết định giải quyết tranh chấp đất đai đối với quyết định do Chủ tịch Uỷ
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết lần đầu. Quyết định của
chủ tịch UBND tỉnh giải quyết lần hai và quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài
19
Khóa luận tốt nghiệp Đinh Quý Đôn - KT33A
nguyên và Môi trường giải quyết lần hai là quyết định cuối cùng. Người sử dụng
đất có trách nhiệm thi hành quyết định đó.
Nay theo Khoản 1 Điều 264 Luật Tố tụng hành chính 2010 đã sửa đổi
Khoản 2 Điều 136 của Luật đất đai như sau: “2. Tranh chấp về quyền sử dụng
đất mà đương sự không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có
một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này
được giải quyết như sau:

a) Trường hợp Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh giải quyết mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết
định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương giải quyết hoặc khởi kiện theo quy định của Luật tố
tụng hành chính;
b) Trường hợp Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương giải quyết mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định
giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường
hoặc khởi kiện theo quy định của Luật tố tụng hành chính.”
Như vậy, theo quy định tại Khoản 1 Điều 264 Luật tố tụng hành chính
2010, đối với quyết định giải quyết tranh chấp về đất đai được Chủ tịch UBND
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết lần đầu; Chủ tịch Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết lần đầu mà một trong
các bên không đồng ý thì có quyền lựa chọn hoặc là tiếp tục khiếu nại lên cơ
quan hành chính cấp trên trực tiếp quản lý về đất đai để được giải quyết tranh
chấp lần hai, hoặc là lựa chọn khởi kiện ra Toà án nhân dân để Toà án thụ lý giải
quyết tranh chấp về đất đai. Đối với quyết định giải quyết tranh chấp lần hai của
Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, quyết định giải quyết
tranh chấp lần hai của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, khi một trong
hai bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết lần hai này thì có
quyền khởi kiện ra Toà án giải quyết. Quy định mới này đã mở rộng quyền khiếu
20
Khóa luận tốt nghiệp Đinh Quý Đôn - KT33A
kiện cho người sử dụng đất, được quyền chọn Toà án hay cơ quan hành chính để
giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, Thẩm quyền giải quyết đơn khiếu nại các quyết định hành
chính, hành vi hành chính về đất đai: trước đây theo Khoản 2 Điều 138 Luật
đất đai 2003 quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND
huyện , Chủ tịch UBND tỉnh và Toà án nhân dân, cụ thể:
Chủ tịch UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền

giải quyết khiếu nại lần đầu đối với các quyết định hành chính, hành vi hành
chính về quản lý đất đai.
Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại lần đầu đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính về
quản lý đất đai; giải quyết khiếu nại lần hai đối với các đơn tái khiếu đã được
Chủ tịch UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết lần đầu
nhưng người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết đó.
Toà án nhân dân có thẩm quyền giải quyết các khiếu nại quyết định hành
chính, hành vi hành chính đã được Chủ tịch UBND huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh; Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết
lần đầu nhưng người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại
và khởi kiện ra Toà án nhân dân.
Quy định trên của điều 138 Luật đất đai còn tồn tại nhiều điểm bất cập ở
chỗ:
Một là, đối với trường hợp Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương giải quyết khiếu nại lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý với
quyết định giải quyết khiếu nại thì không thể tiếp tục khiếu nại lên cơ quan hành
chính cấp trên mà chỉ có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án nhân dân.
Hai là, trong trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại
của quyết định của Chủ tịch UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh,
người sử dụng đất không khởi kiện ra Toà án mà tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch
21

×