NỘI DUNG THẢO LUẬN VỀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Câu 1. Đồng chí hãy làm rõ Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh?
Trong những nguồn gốc đó nguồn gốc nào là nguồn gốc quyết định việc hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh theo lập trường giai cấp vô sản? Vì sao?
Trả lời:
Khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh: Theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011).
Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng nêu ra như sau: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và
quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta giành thắng lợi”
1. Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh có cội nguồn từ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc. Khi tôn vinh Người là danh nhân văn hóa kiệt xuất và Anh hùng giải phóng dân tộc,
tổ chức UNESCO đã ghi nhận: Nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh là kết tinh của
truyền thống văn hóa ngàn năm của dân tộc Việt Nam và những tư tưởng của Người là
hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc của mình
và tiêu biểu cho việc thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau…
Dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã tạo
lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những giá trị truyền
thống tốt đẹp và cao quý.
Trước hết đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và
giữ nước. Đây là một trong những tài sản có giá trị nhất trong hành trang của Hồ Chí
Minh lúc ra đi tìm đường cứu nước năm 1911. Nó là cơ sở xuất phát, là động lực, là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam đã có quá trình lịch sử hàng ngàn năm với nội dung phong phú và sâu sắc như: yêu
nước gắn liền với yêu quê hương, yêu con người Việt Nam, yêu truyền thống văn hóa
quý giá. Thời kỳ phong kiến, yêu nước có nội dung trung quân ái quốc, lợi ích giai cấp
thống trị phù hợp với lợi ích của nhân dân lao động trong sự nghiệp chống xâm lược,
bảo vệ Tổ quốc.
Hồ Chí Minh đã làm phong phú nội dung của chủ nghĩa yêu nước. Yêu nước đối
với Người là gắn liền với yêu nhân dân. Người nói, lòng thương yêu nhân dân và nhân
loại của Người không bao giờ thay đổi…Người có một ham muốn tột bậc là làm sao
nước ta được độc lập, dân ta có cơm ăn, áo mặc và được học hành. Người đã nêu ra
chuẩn mực “trung với nước, hiếu với dân” và phát triển những nội dung mới của chủ
nghĩa yêu nước. Đó là yêu nước dựa trên quan điểm giai cấp công nhân, yêu nước mở
rộng ra thành tình yêu vô cùng rộng lớn đối với nhân dân lao động, những người cùng
khổ, đối với giai cấp công nhân các nước trên thế giới. Trên cơ sở tư tưởng của giai cấp
công nhân, Người đã nêu ra nội dung mới: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân gắn liền với yêu
chủ nghĩa xã hội, vì chỉ có chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mới ngày một ấm no
thêm, Tổ quốc ngày một giàu mạnh thêm.
Trong các giá trị truyền thống Việt Nam, tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn
kết, tương thân, tương ái là những nét hết sức đặc sắc. Truyền thống này hình thành một
lúc với sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên
nhiên và giặc ngoại xâm. Người Việt Nam gắn bó với nhau trong tình làng, nghĩa xóm.
Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát huy sức mạnh bốn chữ “đồng” (đồng tình, đồng sức,
đồng lòng, đồng minh). Người thường nhấn mạnh, nhân dân ta đã từ lâu sống với nhau
có tình có nghĩa. Tình nghĩa ấy được Người nâng lên cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa
đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà. Ngay cả khi tiếp thu lý luận
Mác-Lênin-đỉnh cao của trí tuệ nhân loại-cũng phải trên nền tảng của giá trị truyền
thống.
Người nhấn mạnh: Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình, có
nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu kinh sách mà sống không có tình nghĩa thì sao gọi là hiểu
chủ nghĩa Mác-Lênin được…Tư tưởng đại nhân, đại nghĩa ở Hồ Chí Minh là phấn đấu
vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của con người, là cứu nước, độc
lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, tạo mọi điều kiện cho con người phát triển. Trong văn
hóa đạo đức Việt Nam, chữ “Nghĩa” có ý nghĩa là lẽ phải, ngay thẳng. Nguyễn Trãi đã
từng nói: Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên “công to phải lấy nhân
nghĩa làm đầu”, Hồ Chí Minh lấy chữ nghĩa để phân rõ bạn thù. Ai làm điều gì có lợi
cho nhân dân, cho Tổ quốc đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ
quốc đều là kẻ thù.
Trong những giá trị truyền thống cao đẹp của dân tộc, Hồ Chí Minh đã kế thừa tinh
thần cộng đồng, một lối sống thành thực, thân ái, những thuần phong mỹ tục, trở thành
những yếu tố đậm nét trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngay từ năm 1947, trong khi cuộc chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra quyết
liệt, người đã nói đến đời sống mới của một người, một nhà, một làng và khắp cả nước.
Xoay quanh hạt nhân của đời sống mới là cần, kiệm, liêm, chính. Hồ Chí Minh đã nói
đến thuần phong mỹ tục, không có cờ bạc, hút xách, bợm bài, trộm cắp. Người nhắc đến
tục ngữ “lá lành đùm lá rách”, “đói cho sạch rách cho thơm”. Và, nếu một mình no ấm
mà nỡ để đồng bào xung quanh đói rét…, thì dù giàu cũng không hưởng được. Người
nói: Cách cư xử đối với đồng bào thì nên thành thực, thân ái, sẵn lòng giúp đỡ…Nhiều
lần, Người nhấn mạnh đến việc xây dựng và phát triển thuần phong mỹ tục, tức là phát
triển một trong những giá trị truyền thống. Mặt khác, khi trân trọng giữ gìn thuần phong
mỹ tục, Hồ Chí Minh luôn gắn với việc phê phán, bài trừ đồi phong, bại tục. Người đã
nói đến việc “khôi phục vốn cũ” với một tinh thần trân trọng các giá trị của người xưa
để lại như: tương thân tương ái, tận trung với nước, tận hiếu với dân…Song, Người yêu
cầu xóa bỏ cái xấu (tính lười biếng, tham lam…), sửa đổi các phiền phức (cúng bái,
cưới hỏi quá xa xỉ…).
2. Tinh hoa văn hóa phương Đông, phương Tây
Xuất thân trong một gia đình khoa bảng, với tư chất thông minh tuyệt vời, từ nhỏ,
Hồ Chí Minh đã được giáo dục Hán học và đã tiếp thu nền văn hóa phương Tây tại
trường Quốc học Huế. Khi bôn ba khắp năm châu, bốn bể, Người vừa hoạt động cách
mạng, vừa học hỏi không ngừng. Người đã thông thạo các ngôn ngữ tiêu biểu cho nền
văn minh của nhân loại, am tường các nền văn hóa Đông, Tây, kim, cổ. Khi tiếp thu các
nền văn hóa, Người bao giờ cũng phân tích các yếu tố giá trị toàn nhân loại và vĩnh cửu.
Người đã làm giàu trí tuệ của mình bằng tinh thần văn hóa nhân loại. Người là tượng
trưng cho sự kết hợp hài hòa giữa các nền văn hóa và tỏa ra một nền văn hóa của tương
lai.
Tinh hoa văn hoá phương Đông
Nho giáo: Người tiếp thu những mặt tích cực của Nho giáo như tư tưởng “Nhân
nghĩa - Đạo tu thân – Sự ham học hỏi - Đức tính khiêm tốn”. . .trước hết là Nho giáo,
Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng đắn vai trò của Nho giáo và người sáng lập ra nó là
Khổng Tử và đã đặc biệt khai thác những mặt tích cực của tư tưởng Nho giáo. Hơn ai
hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ những mặt bất cập, hạn chế của Nho giáo. Đó là trong Nho
giáo có những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động như tư tưởng đẳng cấp, khinh lao
động chân tay, khinh phụ nữ, khinh thường thực nghiệm, doanh lợi…Tuy nhiên, Hồ Chí
Minh cũng thấy được những mặt tích cực của nó và khuyên chúng ta “nên học”. Theo
Người, mặt tích cực của Nho giáo là nó đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu
học với châm ngôn “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”. Về điểm này, Nho giáo
hơn hẳn các học thuyết cổ đại, bởi vì nhiều học thuyết cổ đại chủ trương ngu dân để dễ
cai trị. Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo, lựa chọn những yếu tố tich cực, phù hợp để
phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng.
Phật giáo: Người tiếp thu những mặt tích cực như tư tưởng “ Vị tha – Từ bi – Bác
ái – Cứu khổ – Cứu nạn ”, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân biệt đẳng
cấp. Hồ Chí Minh là hiện thân của lòng nhân ái, độ lượng, khoan dung - những nét đặc
trưng của giáo lý đạo Phật.
Thứ nhất là, tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể
thương thân - một tình yêu bao la không chỉ dành cho con người mà dành cho cả chim
muông, cây cỏ.
Thứ hai là, nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện.
Thứ ba là, tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân biệt
đẳng cấp.
Thứ tư là, Phật giáo Thiền tông đề ra luật “chấp tác”: “nhất nhật bất tác, nhất nhật
bất thực” (một ngày không làm, một ngày không ăn), đề cao lao động, chống lười
biếng. Cuối cùng, Phật giáo vào Việt Nam, gặp chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đấu tranh
bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc ta, đã hình thành nên Thiền phái Trúc lâm Việt
Nam, chủ trương sống không xa rời, lẩn tránh mà gắn bó với đời sống của nhân dân, với
đất nước, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân, chống kẻ thù dân
tộc. Có thể nói, những mặt tích cực của Phật Việt Nam đã đi vào đời sống tinh thần dân
tộc và nhân dân lao động. Gia đình Bác Hồ là gia đình nhà nho nghèo, gần gũi với nông
dân, cũng thấm nhuần tinh thần đó và để lại dấu ấn trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, còn có thể tìm thấy nhiều trích dẫn khác nữa về các nhà tư tưởng phương
Đông như Lão Tử, Mặc Tử, Quản Tử…trong các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh.
Cũng như sau này, khi đã trở thành người mác-xít, Nguyễn Ái Quốc vẫn tìm hiểu
thêm về Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và tìm thấy trong đó “những điều
thích hợp với điều kiện nước ta”. Các tiêu chí của chủ nghĩa Tam dân là dân tộc - độc
lập; dân quyền - tự do; dân sinh - hạnh phúc đã được Hồ Chí Minh rút gọn trong quốc
hiệu của Việt Nam “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Là người mác-xít tỉnh táo và sáng
suốt, Hồ Chí Minh đã biết khai thác những yếu tố tích cực của tư tưởng và văn hóa
phương Đông để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng nước ta.
Tinh hoa văn hoá phương Tây
Tiếp thu Tư tưởng: “ Tự do – Bình đẳng - Bác ái”, những tri thức văn hóa phương
Tây đầu tiên Hồ Chí Minh tiếp thu trở thành một động lực trực tiếp để Người hướng
sang phương Tây tìm con đường cứu nước.
Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng sâu rộng của nền văn hoá dân chủ và cách mạng
phương Tây như: tư tưởng tự do, bình đẳng trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền
của Đại cách mạng Pháp 1791, tư tưởng dân chủ, về quyền sống, quyền tự do, quyền
mưu cầu hạnh phúc trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ 1776. Trước khi ra nước ngoài,
Bác đã nghe thấy ba từ Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái. Lần đầu sang Pháp Hồ Chí Minh
đã thể hiện bản lĩnh, nhân cách phẩm chất cao thượng, tư duy độc lập tự chủ. Người đã
nhìn thấy mặt trái của “lý tưởng” tự do, bình đẳng, bác ái. Người cũng tiếp thu tư tưởng
của những nhà Khai sáng Pháp như Vônte, Rút xô, Môngtexkia...
Thiên chúa giáo là tôn giáo lớn của phương Tây, Hồ Chí Minh quan niệm Tôn
giáo là văn hoá. Điểm tích cực nhất của Thiên chúa giáo là lòng nhân ái. Hồ Chí Minh
tiếp thu có chọn lọc tư tưởng văn hoá Đông - Tây để phục vụ cho cách mạng Việt Nam.
Người dẫn lời của Lênin: “Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được
những hiểu biết quý báu của các đời trước để lại.”
Hồ Chí Minh còn tiếp thu “tư tưởng dân chủ” và hình thành được phong cách
dân chủ của mình từ trong cuộc sống thực tiễn. Hồ Chí Minh đưa ra một luận đề rất
ngắn gọn, cô đọng, lột tả được thực chất, bản chất của dân chủ. Theo Hồ Chí Minh, dân
chủ có nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ. Người khẳng định đồng thời vị thế và năng
lực của dân trong tư cách chủ thể, là người chủ xã hội, chủ nhà nước. Chỉ với luận điểm
này, Hồ Chí Minh đã thực hiện một cuộc cách mạng trong nhận thức về dân chủ, so với
tư tưởng dân chủ thời phong kiến và cả dân chủ tư sản. Các nhà tư tưởng với ý thức hệ
phong kiến quan niệm dân chủ là chủ của dân. Dưới chế độ phong kiến, quyền lực và
quyền uy đều tập trung trong tay nhà vua. Dân chỉ là thần dân, thảo dân, là bề tôi tự
nhiên chịu ơn huệ và bị trói buộc bởi luật lệ và những quy định của triều đình. Dân chủ
tư sản chỉ đem lại lợi ích và quyền lực cho một thiểu số người giàu có.
Định nghĩa dân chủ của Hồ Chí Minh phủ định tất cả những quan niệm ấy, để
khẳng định vai trò chủ động, tích cực của dân. Người nhấn mạnh, trong bầu trời không
có gì quý bằng nhân dân. Trên thế giới không gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của
nhân dân. Người còn nhấn mạnh, dân chủ là của quý báu nhất trên đời của dân. Như
vậy, Người coi dân chủ là một giá trị, một tài sản (thành quả do đấu tranh giải phóng mà
có) nên dân phải được làm chủ, là chủ thể sở hữu tài sản ấy. Nó quy định tính tất yếu
nhà nước phải là của dân. Dân là chủ sở hữu nhà nước của mình. Nhà nước chỉ là chủ
thể đại diện cho chủ thể ủy quyền là dân.
Trong tác phẩm nổi tiếng “Dân vận” (năm 1949), Người đã cô đúc lý luận dân
chủ ngay ở phần mở đầu tác phẩm, trong đó Người nói rõ: Nước ta là nước dân chủ.
Bao nhiêu lợi ích thuộc về dân. Bao nhiêu quyền đều là của dân. Quyền hành và lực
lượng là ở nơi dân.
Cũng do đó, tôn trọng dân chủ thì tất yếu phải đề cao dân, phải trọng dân (tôn
trọng, kính trọng, lễ phép) và trọng pháp (pháp luật để bảo vệ dân).
Dân chủ với sự nổi bật địa vị, vai trò, sức mạnh của dân như vậy nên bản chất của
dân chủ là một bản chất nhân văn (đề cao giá trị con người) và một bản chất pháp lý
(nhà nước pháp quyền với luật pháp là tối thượng để bảo vệ dân). Nhân văn và pháp lý
là hai thuộc tính nổi bật của dân chủ.
3. Chủ nghĩa Mác – Lênin: Cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của Tư
tưởng Hồ Chí Minh.
- Tháng 7/1920, HCM đọc bản “sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và thuộc địa” của Lênin. Tìm thấy ở Chủ nghĩa Mác – Lênin “Cái cần thiết –
Con đường giải phóng – Ngọn hải đăng soi đường cho toàn thể nhân loại bị áp bức đi
tới giải phóng”. Là bước nhảy vọt về chất trong quá trình hình thành Tư tưởng Hồ Chí
Minh theo con đường cách mạng vô sản.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất tư tưởng
Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh khẳng định: “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những
người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ,
không những là cái kim chỉ nam mà còn là mặt trời soi sáng đường chúng ta đi tới thắng
lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”
Đối với chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã nắm vững cái cốt lõi, linh hồn
sống của nó, là phương pháp biện chứng duy vật, học tập, lập trường quan điểm,
phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin để giải quyết các vấn đề thực tiễn
của cách mạng Việt Nam. Các tác phẩm, bài viết của Hồ Chí Minh phản ánh bản chất tư
tưởng cách mạng của Người theo thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Máclênin. Là yếu tố quan trọng nhất, quyết định việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Việc tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin ở Hồ Chí Minh thực chất là chặng đường
chiến thắng biết bao khó khăn với sự lựa chọn vững chắc, tránh được những sai lầm dẫn
đến ngõ cụt. Thế giới quan và phương pháp luận Mác – Lênin đã giúp Hồ Chí Minh
tổng kết kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn để tìm ra con đường cứu nước: “trong cuộc
đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác – Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi
hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới”, “Bây giờ học thuyết nhiều,
chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là
chủ nghĩa Lênin”.
4. Trí tuệ và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh.
Phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn. Biểu hiện trước hết là ở tư duy
độc lập, tự chủ, sáng tạo, cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt. Là Người có
bản lĩnh kiên định, luôn tin vào nhân dân, khiêm tốn bình di; nhạy bén với cái mới, có
đầu óc thực tiễn. Người luôn khổ công học tập để chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức nhân
loại , một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng.
Người đã có một quá trình khổ công học tập, rèn luyện để tiếp thu có chọn lọc
những tinh hoa tri thức của nhân loại, sớm vươn tới đỉnh cao tri thức nhân loại và kinh
nghiệm riêng của mình
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tổng hòa của những điều kiện khách
quan và chủ quan, của truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Từ
thực tiễn dân tộc và thời đại được Hồ Chí Minh tổng kết, chuyển hóa sắc sảo, tinh tế với
một phương pháp khoa học, biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành kim chỉ
nam trong mọi hành động, là tư tưởng Việt Nam hiện đại. Hồ Chí Minh – ngôi sao sáng
của dân tộc Việt Nam ta, được UNESCO công nhận là “anh hùng giải phóng dân tộc,
danh nhân văn hóa thế giới”. Suốt cuộc đời người gắn liền với sự nghiệp cách mạng của
dân tộc, là một người yêu nước chân chính, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách
mạng, mang trong mình một trái tim yêu nước thương dân, sẵn sang hi sinh vì độc lập
tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của đồng bào. Và có thể khẳng định rằng: Chủ tịch Hồ
Chí Minh – Người hội tụ đầy đủ tinh hoa văn hóa toàn dân tộc.
* Khẳng định: Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận - tư tưởng, là cơ
sở chủ yếu nhất hình thành Tư Tưởng Hồ Chí Minh.
Nói đến văn hóa nhân loại có tầm cỡ vĩ đại nhất và ảnh hưởng lớn nhất đối với Hồ
Chí Minh là phải nói đến chủ nghĩa Mác-Lênin. Có thể nói, Hồ Chí Minh đã tiếp thu
phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và ứng dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất
nước, đưa cách mạng Việt Nam giành nhiều thắng lợi vĩ đại và cống hiến nhiều vào kho
tàng lý luận mác-xít cũng như phương pháp hoạt động sáng tạo của cuộc cách mạng vô
sản.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã cung cấp cho Hồ Chí Minh thế giới quan và phương
pháp luận Duy vật biện chứng, để tổng kết lịch sử và kinh nghiệm thực tiễn, tích lũy
kiến thức đề ra con đường cách mạng đúng đắn.
Chính nhờ Thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí Minh
dựa vào đó để xem xét thế giới, đứng trên lập trường chính trị của giai cấp vô sản để
vạch ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Chủ nghĩa Mác Lê Nin với bản chất Cách mạng và khoa học của nó giúp Người
chuyển biến từ Chủ nghĩa yêu nước không có khuynh hướng rõ rệt thành người cộng
sản, chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, thấy vai trò của quần chúng nhân dân, sứ mệnh lịch sử của giai cấp
CN, liên minh công nông trí thức và vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản trong cách
mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người,
bảo
đảm
thắng
lợi
cho
chủ
nghĩa
xã
hội,
chủ
nghĩa
cộng
sản.
Việc Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy ở chủ nghĩa MácLênin ''cái cần thiết” và ''con đường” giải phóng dân tộc Việt Nam, “ngọn hải đăng soi
đường cho toàn thể nhân loại bị áp bức đi tới giải phóng'', là bước quyết định trong quá
trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
yêu nước ở Nguyễn Ái Quốc có bước nhảy vọt về chất - tư tưởng yêu nước ở Nguyễn
Ái Quốc trở thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh rằng yêu nước, anh dũng chiến đấu, hy sinh
vì độc lập dân tộc không phải chất riêng có những người cộng sản mà là vốn có ở hàng
triệu người trong Đảng cũng như ngoài Đảng. Song chỉ có Đảng của giai cấp công
nhân, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác-Lênin mới có đường lối đúng đắn để giải
phóng dân tộc, biến chủ nghĩa yêu nước truyền thống thành chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam hiện đại trên cơ sở kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tê vô sản. Được hệ tư tưởng khoa học của giai cấp
công nhân quốc tế soi sáng, phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam đã tìm ra đường lối
cứu nước đúng đắn.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở chủ yếu nhất hình thành tưởng Hồ Chí Minh. Còn
tư tưởng Hồ Chí Minh là đỉnh cao chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt Nam. Chính lý luận
Mác-Lênin đã cung cấp cho Hồ Chí Minh thế giới quan và phương pháp luận khoa học
biện chứng để tổng kết kiến thức, tổng kết lịch sử và kinh nghiệm thực tiễn, tìm ra con
đường cứu nước mới, đưa Người vuợt hẳn lên phía trước so với những người yêu nước
đương thời, khắc phục căn bản cuộc khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc.
Theo V.I.Lênin, ''một người'' chỉ xứng đáng với danh hiệu nhà tư tưởng'' khi nào họ
đi trước phong trào tự phát chỉ đường cho nó, khi nào họ biết giải quyết trước những
người khác, tất cả các vấn đề lý luận, chính trị, sách lược và các vấn đề về tổ chức mà
''những yếu tố vật chất” của phong trào húc phải một cách tự phát''. Hồ Chí Minh là một
nhân vật kiệt xuất trong những con người như thế.
Hồ Chí Minh khẳng định dứt khoát: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng Chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là Chủ nghĩa Mác –
Lênin”. Chủ nghĩa Mác – Lênin là nguồn gốc lý luận, là cơ sở chủ yếu nhất hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tóm lại, chủ tịch Hồ Chí Minh xưa nay và trước sau vẫn vậy, là vị cha già soi sáng
con đường của cả dân tộc. Bởi trong Người hội tụ đầy đủ và hoàn thiện nhất tinh hoa
văn hóa của toàn nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh quả là tấm gương sáng để nhân dân
đời đời học tập và soi chiếu vào bản thân, là động lực to lớn cho sự tiến bộ của đất nước
– để Tổ quốc ta giàu đẹp, vững mạnh, nhân dân ấm no, hạnh phúc, đúng như những câu
thơ của nhà thơ Hải Như:
“Bác đã cho ta. Bác đã cho đời
Lẽ sống của ngày mai trên trái đất
Lẽ sống đẹp, không coi mình cao nhất
Mong kiếp người, ai cũng cất đầu cao”.
( Một con người chủ nghĩa Mác sinh ra - Hải Như )