Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Chuyên đề cải cách hành chính lý luân chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.31 KB, 27 trang )

Phần III.2
Bài 1:
Câu 1- Tổ 1: Nêu 4 điều kiện cơ bản đảm bảo hoạt động của chính quyền cơ sở? Theo đ/c trong 4
đk trên, đk nào quan trọng nhất? Tại sao? (Gợi ý: Nhân tố con người quan trọng nhất)
Bài 2:
Câu 1- Tổ 1: Đ/c hãy cho biết nguyên tắc chung về quản lý CB, CC?
* Các nguyên tắc chung về quản lí cán bộ công chức
- Quản lí cán bộ công chức phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nước và điều
lệ của các tổ chức chính trị - xã hội
Sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện thông qua hệ thống các quan điểm và phương thức quản lý
cán bộ công chức của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Về quan điểm của Đảng
- Một là, cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công
tác xây dựng Đảng. Phải thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đổi mới công tác cán bộ gắn
với phương thức lãnh đạo của Đảng;
Đây là quan điểm rất mới được bổ sung so với Chiến lược cán bộ trước đây. Quan điểm thứ nhất
này xác định rõ vai trò, vị trí của đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ trong sự nghiệp cách mạng và công
tác xây dựng Đảng
Hai là, phải xuất phát từ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, từ yêu cầu,
nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước
đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Ba là, quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc,
truyền thống yêu nước, đại đoàn kết và gắn bó mật thiết với nhân dân; tập hợp rộng rãi các loại cán bộ,
trọng dụng nhân tài, không phân biệt Đảng viên hay người ngoài Đảng, dân tộc, tôn giáo, người ở trong
nước hay người Việt Nam định cư ở nước ngoài;
- Bốn là, gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng tổ chức và đổi mới cơ chế chính sách.
Thực hiện tốt công tác qui hoạch, đào tạo, bố trí và sử dụng cán bộ. Trong điều kiện hiện nay còn phải
gắn công tác cán bộ với việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; tích cực đẩy mạnh
phòng chống tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, tư tưởng.
- Năm là, thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân, nâng cao trình độ


dân trí, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ.
Phải dựa vào nhân dân để phát hiện, kiểm tra và giám sát cán bộ;
- Sáu là, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ
thống chính trị.
+ Về phương thức lãnh đạo của Đảng
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lí cán bộ công chức là các cách thức, biện
pháp Đảng tác động lên các khâu của công tác cán bộ nhằm đạt mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức,
đủ tài, có cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, duy trì sự ổn định
trong bố trí, sử dụng cán bộ, công chức và sự đảm bảo sự chuyển tiếp vững vàng liên tục giữa các thế hệ
cán bộ công chức, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cho từng thời kỳ cách mạng.
Các phương thức lãnh đạo chủ yếu của Đảng đối với công tác quản lí CBCC bao gồm:
 Đảng đề ra các chính sách, chủ trương, đường lối, chiến lược về cán bộ công chức.
 Đảng bồi dưỡng, huấn luyện đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất, năng lực và giới thiệu
những cán bộ, đảng viên ưu tú vào làm việc trong hệ thống chính trị.
 Đảng lãnh đạo bằng phương pháp đặc trưng riêng đó là phương pháp tuyên truyền, vận động,
giáo dục, thuyết phục, bằng chính hành động gương mẫu của các đảng viên ĐCS.

-1-


 Đảng lãnh đạo thông qua các tổ chức đảng (ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy) và đảng
viên trong các cơ quan nhà nước; kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác cán bộ của các ngành, các cấp
bằng các biện pháp và phương tiện khác nhau.
Nhà nước là chủ thể thực hiện hoạt động quản lí cán bộ công chức một cách cụ thể, rõ nét nhất
thông qua việc thể chế hóa các quan điểm, chính sách của Đảng về công tác quản lí cán bộ công chức
thành hệ thống luật pháp. Đồng thời tổ chức, phân công cho các các cơ quan có chức năng, thẩm quyền
như Chính Phủ, Bộ Nội vụ, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân các cấp…chịu trách nhiệm
xây dựng các nội dung, chương trình cụ thể thực hiện quản lí cán bộ công chức.
Bên cạnh việc tuân thủ pháp luật chung của nhà nước, cán bộ, công chức làm việc còn chịu sự

quản lí theo những quy định, điều lệ của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội mà mình tham gia.
- Kết hợp giữa tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế
Xác định vị trí việc làm và cơ cấu công chức được pháp luật xác định là nhiệm vụ bắt buộc đối với
các bộ, ngành, địa phương để thực hiện đổi mới cơ chế quản lý cán bộ, công chức. Vị trí việc làm là công
việc gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu và ngạch công chức để xác định biên chế và bố trí công chức
trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Ý nghĩa của việc xác định vị trí việc làm là nhằm sắp xếp lại đội ngũ cán
bộ, công chức; phát hiện những chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của các vị trí việc làm, các cơ quan,
tổ chức; phục vụ hiệu quả cho hoạt động tuyển dụng, bố trí sử dụng, đào tạo bồi dưỡng công chức, đánh
giá quy hoạch cán bộ và cải cách tiền lương hiệu quả.
Biên chế là số người làm việc trong cơ quan, tổ chức của nhà nước để thực hiện chức năng, nhiệm
vụ được giao và được hưởng lương từ ngân sách nhà nước, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (hiện nay
là Bộ Nội vụ và các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ, UBND các tỉnh, tphố trực thuộc trung
ương) phê duyệt và giao, làm căn cứ cấp kinh phí hoạt động thường xuyên hàng năm.
Việc xác định biên chế công chức phải căn cứ vào các yếu tố khác như tính chất, đặc điểm, mức độ
phức tạp và quy mô, phạm vi, đối tượng quản lý của ngành, lĩnh vực; Mức độ hiện đại hoá công sở, trang
thiết bị, phương tiện làm việc và ứng dụng công nghệ thông tin; Thực tế tình hình quản lý biên chế công
chức được giao của cơ quan, tổ chức, đơn vị…. Đối với cơ quan, tổ chức ở địa phương, việc xác định biên
chế công chức còn phải căn cứ vào: Quy mô dân số, diện tích tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương; Số lượng đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã; Đặc điểm an ninh chính trị, trật tự, an
toàn xã hội.
Việc quản lý cán bộ, công chức dựa trên cơ sở kết hợp giữa tiêu chuẩn chức danh với vị trí việc
làm tạo cơ sở khoa học, thể hiện tính thực tiễn cao, giúp xác định chỉ tiêu, số lượng người làm việc một
cách chính xác, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của từng cơ quan, đơn vị
được cấp có thẩm quyền quy định. Thực hiện nguyên tắc này giúp xóa bỏ cơ chế "xin - cho" trong quản lý
biên chế cũng như bảo đảm thực hiện có hiệu quả, đúng mục đích công tác tổ chức thi tuyển, thi nâng
ngạch, đánh giá, sử dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
-Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ trách nhiệm cá nhân và phân công, phân
cấp rõ ràng.
- Trong điều kiện Đảng cầm quyền ở nước ta, biểu hiện cụ thể của nguyên tắc đó chính là nguyên
tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Nguyên tắc này đòi hỏi toàn bộ những vấn đề cơ bản, hệ trọng,

những chủ trương, phương hướng, chiến lược liên quan đến công tác cán bộ, công chức phải được dân chủ
thảo luận trong tập thể các cơ quan lãnh đạo từ cao tới thấp theo phạm vi, quyền hạn đã được xác định. Cấp
trên có quyền và trách nhiệm tham gia vào việc quyết định theo đa số những vấn đề về chính sách, lựa
chọn, phê chuẩn, bổ nhiệm, quy hoạch, bố trí, luân chuyển, đề bạt, đánh giá, khen thưởng, xử lý kỷ luật
CBCC… trong phạm vi thẩm quyền của mình theo quy định của pháp luật.
- Tính dân chủ thể hiện ở việc mọi vấn đề hệ trọng liên quan đến cán bộ công chức đều được bàn
bạc, thảo luận cho mọi người cùng biết, cùng tham gia đóng góp.Tính công khai, tính tập thể được thực
hiện một cách rộng rãi và mạnh mẽ như: tổ chức lấy ý kiến nhận xét, đánh giá của nhiều người, nhiều bộ
phận đối với các cán bộ, công chức hay ở việc tiến hành bầu cử người lãnh đạo, quản lý… Nội dung các
khâu trong công tác cán bộ được chuẩn bị kỹ, tiếp thu và lắng nghe ý kiến của cán bộ, đảng viên và quần
chúng, không áp đặt ý kiến cá nhân, định kiến hoặc phân biệt với các ý kiến thuộc về thiểu số. Những ý
-2-


kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu, đệ trình lên cơ quan cấp trên có thẩm quyền xem xét, quyết
định.
- Mặc dù tập thể lãnh đạo nhưng khi tổ chức thực hiện thì phải có sự phân công nhiệm vụ rõ ràng,
có người phụ trách. Cá nhân phụ trách là khâu tiếp nối của quá trình lãnh đạo tập thể. Người được phân
công phụ trách phải đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân, tích cực chủ động triển khai thực hiện nhiệm vụ
được giao và phải chịu trách nhiệm trước tập thể, chịu sự kiểm tra, giám sát của tập thể. Việc gì cá nhân
không thực hiện được thì phải giao cho tập thể làm và phải có người đứng đầu tập thể đó chịu trách nhiệm.
- Chế độ trách nhiệm cá nhân của cán bộ, công chức là những quy định về chức trách, nhiệm vụ,
quyền hạn cụ thể của người cán bộ, công chức phải thực hiện trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ,
nếu không làm tốt hoặc vi phạm thì bị xử lý theo quy định của pháp luật. Chế độ trách nhiệm đó được thể
hiện qua việc chấp hành các quy định trong chuyên môn nghiệp vụ cũng như về đạo đức nghề nghiệp mà
qua đó thể hiện năng lực, phẩm chất của người cán bộ, công chức vừa thể hiện bản chất nhà nước phục vụ
nhân dân. Do vậy, để có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình
đòi hỏi người CBCC không chỉ là người giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức tốt mà còn
phải là người chấp hành nghiêm các quy định của kỷ luật nhà nước
- Phân công, phân cấp trong quản lí cán bộ, công chức tức là phải có sự phân định rõ ràng, cụ thể

cả nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và các điều kiện về tài chính, phương tiện thực hiện cho chính
quyền cấp dưới trong việc tuyển dụng, bố trí, sắp xếp và quản lý cán bộ, công chức.
Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ trách nhiệm cá nhân và phân công, phân cấp rõ
ràng sẽ góp phần đẩy lùi bệnh hình thức, quan liêu cũng như nguy cơ chuyên quyền, độc đoán trong công
tác cán bộ công chức; xác định rõ trách nhiệm của từng cá nhân và từng cấp khi được phân công thực hiện
nhiệm vụ, tạo điều kiện lựa chọn được cán bộ đúng tiêu chuẩn, có phẩm chất và năng lực, hoàn thành tốt
công tác được giao.
- Việc sử dụng, đánh giá, phân loại cán bộ, công chức phải dựa trên phẩm chất chính trị, đạo
đức và năng lực thi hành công vụ gắn liền với phát triển đội ngũ cán bộ, công chức
- Sử dụng, đánh giá và phân loại cán bộ công chức có mối quan hệ tác động qua lại, chặt chẽ với
nhau. Muốn phân loại và sử dụng tốt cán bộ công chức, trước hết phải đánh giá chính xác, trung thực từng
cán bộ, công chức. Phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực thi hành công vụ là những tiêu chí cơ bản,
quan trọng để đánh giá, nhận xét cán bộ. Đánh giá là hoạt động cần thiết nhằm làm rõ về về lập trường tư
tưởng, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức , trình độ chuyên môn và năng lực thực thi công vụ khi cán bộ,
công chức được phân công thực hiện nhiệm vụ. Có thể liệt kê một số năng lực như năng lực lãnh đạo, điều
hành; năng lực soạn thảo văn bản; năng lực xây dựng chính sách; năng lực phối hợp trong công vụ; năng
lực giao tiếp, ứng xử trong hành chính…Kết quả đánh giá là căn cứ để thực hiện các hoạt động đối với cán
bộ công chức như: Phân loại, bố trí, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật…Thực hiện tốt các
chính sách về nhân sự một mặt góp phần tạo động lực cho cán bộ công chức phấn khởi, tiếp tục cống hiến,
mặt khác giúp cho cán bộ công chức tu dưỡng, hoàn thiện bản thân. Do đó, công tác đánh giá phải được
thực hiện một cách công minh, khách quan, trung thực, chính xác, dân chủ, tránh đánh giá hình thức, mang
tính chủ quan, thiên vị.
- Quản lí cán bộ, công chức là nhằm phát triển đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà
nước và quản lí xã hội. Vì vậy, quản lý phải luôn gắn liền với đào tạo, bồi dưỡng, làm cho đội ngũ cán bộ
công chức vững vàng về lập trưởng tư tưởng, phẩm chất đạo đức trong sạch, am hiểu, tinh thông về
chuyên môn, thái độ phục vụ công vụ ngày càng chuyên nghiệp. Đồng thời quản lí cần phải tạo ra các cơ
hội để cán bộ công chức được thể hiện, đóng góp, cống hiến sức mình cho nền công vụ. Trên cơ sở ghi
nhận các thành tích của cán bộ, công chức, tạo cho CBCC được thăng tiến theo chức nghiệp, công trạng
nhằm khích lệ, động viên và phát huy tinh thần làm việc của cán bộ, công chức.
-Thực hiện bình đẳng giới

Bình đẳng giới là việc phụ nữ và nam giới được coi trọng như nhau, cùng được công nhận và có
được vị thế bình đẳng. Họ đều có các điều kiện phù hợp để phát huy đầy đủ tiềm năng, có các cơ hội như
nhau để tham gia đóng góp và thụ hưởng bình đẳng trong quá trình phát triển. Có các quyền tự do và chất
lượng cuộc sống bình đẳng.
-3-


Luật Bình đẳng giới gồm 6 chương, 44 điều được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam khóa XI, kì họp thứ 10 thông qua vào ngày 29 tháng 11 năm 2006, có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng
7 năm 2007 là đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất quy định rõ các nội dung về bình đẳng giới trong tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong hoạt động công vụ, đối với quản lí CBCC cần thực hiện một số nguyên tắc sau đây:
- Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi tuyển dụng, được đối xử bình đẳng tại nơi làm việc về
việc làm, tiền công, tiền thưởng, BHXH, điều kiện lao động và các điều kiện làm việc khác.
- Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm giữ các chức danh trong các
ngành, nghề có tiêu chuẩn chức danh.
- Bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc Hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phù hợp với mục tiêu
quốc gia về bình đẳng giới;
- Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước phù hợp với
các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.
Ví dụ: Các cán bộ, công chức là nữ giữ các vị trí, chức danh chủ chốt trong hệ thống chính trị Việt
Nam hiện nay?
Câu hỏi: Liên hệ các nguyên tắc trên trong thực tiễn quản lí cán bộ công chức hiện nay ở nước ta
và ở cơ quan anh chị đang công tác?)
Bài 3:
Câu 1- Tổ 1: Đ/c hãy cho biết bản chất ngân sách nhà nước?
Bản chất của Ngân sách Nhà nước:
Ngân sách Nhà nước ra đời cùng với sự xuất hiện của Nhà nước. Nhà nước bằng quyền lực chính trị và xuất
phát từ nhu cầu về tài chính để đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình đã đặt ra những khoản thu,
chi của Ngân sách Nhà nước. Điều này cho thấy chính sự tồn tại của Nhà nước, vai trò của Nhà nước đối

với đời sống kinh tế xã hội là những yếu tố cơ bản quyết định sự tồn tại và tính chất hoạt động của Ngân
sách Nhà nước.
Trong thực tế nhìn bề ngoài hoạt động của Ngân sách Nhà nước biểu hiện đa dạng dưới hình thức
các khoản thu và các khoản chi tài chính của Nhà nước ở các lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội. Các khoản
thu chi này được tổng hợp trong một bảng dự toán thu chi tài chính được thực hiện trong một khoảng thời
gian nhất định. Các khoản thu mang tính chất bắt buộc của Ngân sách Nhà nước là một bộ phận các nguồn
tài chính chủ yếu được tạo ra thông qua việc phân phối thu nhập quốc dân được sáng tạo ra trong khu vực
sản xuất kinh doanh và các khoản chi chủ yếu của Ngân sách mang tính chất cấp phát phục vụ cho đầu tư
phát triển và tiêu dùng của xã hội .
Như vậy, về hình thức có thể hiểu: Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước
có trong dự toán, đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và được thực hiện trong một năm để
đảm bảo việc thực hiện chức năng,nhiệm vụ của nhà nước.
Tuy nhiên, hoạt động của Ngân sách Nhà nước (NSNN) là hoạt động phân phối các nguồn tài chính
của xã hội gắn liền với việc hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung là Ngân sách nhà nước. Trong quá
trình phân phối đó đã làm nảy sinh các quan hệ tài chính giữa một bên là nhà nuớc và một bên là các chủ thể
trong xã hội.
Những quan hệ tài chính này bao gồm:
*Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các doanh nghiệp: Các quan hệ kinh tế này phát sinh trong quá trình
hình thành nguồn thu của Ngân sách dưới hình thức các loại thuế mà doanh nghiệp phải nộp. Đồng thời,
Ngân sách chi hổ trợ cho sự phát triển của doanh nghiệp dưới hình thức xây dựng cơ sở hạ tầng, hổ trợ
vốn…
*Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các đơn vị hành chính sự nghiệp: Quan hệ này phát sinh trong qúa trình
phân phối lại các khoản thu nhập bằng việc Ngân sách nhà nước cấp kinh phí cho các đơn vị quản lý nhà
nước. Đồng thời, trong cơ chế kinh tế thị trường các đơn vị có hoạt động sự nghiệp có các khoản thu phí và
lệ phí, nguồn thu này một phần các đơn vị làm nghĩa vụ tài chính đối với ngân sách, một phần trang trải các
khoản chi tiêu của mình để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách.

-4-



*Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các tầng lớp dân cư: Quan hệ này được thể hiện qua việc một bộ phận
dân cư thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước bằng việc nộp các khoản thuế, phí, lệ phí. Một bộ phận
dân cư khác nhận từ ngân sách nhà nước các khoản trợ cấp theo chính sách qui định.
*Quan hệ kinh tế giữa NSNN với thị trường tài chính: Quan hệ này phát sinh khi nhà nước tham gia trên
thị trường tài chính bằng việc phát hành các loại chứng khoán của kho bạc nhà nước nhằm huy động vốn
của các chủ thể trong xã hội để đáp ứng yêu cầu cân đối vốn của ngân sách nhà nước.
Như vậy, đằng sau hình thức biểu hiện bên ngoài của Ngân sách nhà nước là một quỹ tiền tệ với các
khoản thu và các khoản chi của nó thì Ngân sách nhà nước lại phản ảnh các quan hệ kinh tế trong quá trình
phân phối. Từ sự phân tích trên cho thấy: Ngân sách nhà nước là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh
trong quá trình phân phối các nguồn tài chính của xã hội để tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà
nước nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước .
Câu 2 – Tổ 2: Đ/c hãy cho biết đơn vị và bản thân đồng chí cần phải làm gì trong chấp hành ngân
sách để quản lý và sử dụng ngân sách tiết kiệm và hiệu quả?
Trả lời:
Để quản lý và sử dụng ngân sách tiết kiệm và hiệu quả Các đơn vị, cá nhân phải thực hiện các nội dung
sau:
- Các đơn vị phải có quy chế hoạt động của đơn vị để xác định được chức năng nhiệm vụ của từng cá
nhân trong đơn vị
- Mỗi cá nhân phải hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao
- Xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, mỗi cá nhân phải có ý thức xây dựng và thực hiện quy chế
- Thực hiện tốt công tác phê bình và tự phê bình trong thực hiện chấp hành ngân sách
- Thực hiện tốt kế hoạch học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Bài 5:
Câu 1- Tổ 2: Phân biệt quản lý nhà nước về kinh tế và quản lý sản xuất kinh doanh của các đơn vị
kinh tế ? Mối quan hệ giữa hai hoạt động quản lý này?
Trả lời:
* Phân biệt:
Nội dung phân biệt Quản lý nhà nước về kinh tế
Quản lý sx kinh doanh của các đơn
vị kinh tế

Chủ thể
- Cơ quan nhà nước có thẩm quyền
- Chủ sở hữu, đại diện chủ sở hữu
Đối tượng quản lý
- Nền KT quốc dân
- Bộ phận cấu thành đơn vị kinh tế
- Là quản lý vĩ mô
(máy móc, thiết bị, nhà xưởng,
nguyên nhiên vật liệu,…)
- Là quản lý vi mô
Mục tiêu
- Là lợi ích toàn dân, lợi ích cộng đồng
- Theo đuổi lợi ích của mình
( phát triển nền kinh tế quốc dân, ổn định
sự phát triển kinh tế - chính tri – xã hội,
tăng thu nhập quốc dân, tăng mức tăng
trưởng của nền kinh tế, giải quyết việc
làm,…)
- Dân giàu, nước mạnh , xã hội dân chủ,
- Lợi nhuận là cơ bản (thu được lợi
công bằng, văn minh
nhuận cao, ổn định và phát triển
- Tạo lập và hoàn thiện môi trường kinh
doanh nghiệp, tăng thị phần, tạo uy tín
doanh chung
cho sản phẩm của doạnh nghiệp,…)
Công cụ

Luật pháp, kế hoạch hóa kinh tế nhà nước
, đường lối phát triển, kế hoạch phát triển

kinh tế, chính sách kinh tế, lực lượng vật
chất và tài chính của nhà nước,…
-5-

- Tạo lập môi trường riêng cho mình
- Điều lệ, nội quy, quy chế, đơn giá
tiền lương, hợp đồng lao động, hợp
đồng kinh tế…
- Chiến lược kinh doanh, kế hoạch sản
xuất – kỹ thuật – tài chính, dự án đầu


Luật điều chỉnh chủ
yếu
Ngân sách

tư để phát triển kinh doanh,…
- Luật dân sự

- Luật hành chính
Ngân sách nhà nước

Ngân sách của đơn vị kinh tế (vốn tự
có, vốn vay ngân hàng,…)

* Mối quan hệ:
- Quản lý nhà nước về kinh tế và quản lý sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế có sự tác động hữu cơ ,
vừa mâu thuẫn, vừa hỗ trợ nhau :
+ Quản lý nhà nước về kinh tế tạo vừa điều kiện, môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh
phát triển, vừa kìm hãm sự phát triển trong một số lĩnh vực (ví dụ: Cấm sản xuất kinh doanh pháo , cấm

sản xuất một số mặt hàng,… để định hướng sản xuất kinh doanh phát triển theo đúng định hướng)
+ Hoạt động quản lý sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế giúp hoạt động quản lý của nhà nước
hoàn thiện hơn thông qua việc tham gia đóng góp hoàn thiện cơ chế chính sách của nhà nước
- Quản lý nhà nước về kinh tế và quản lý sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế có sự mâu thuẫn tuy
nhiên thông qua sự phát triển của các doanh nghiệp giúp cho hoạt động quản lý của nhà nước về kinh tế đạt
được mục tiêu
Câu 2 – Tổ 2: Đồng chí hãy cho biết trên địa bàn xã, huyện của đồng chí có những tiềm năng
thuận lợi gì để phát triển kinh tế.
Trả lời
- Trên địa bàn huyện Sốp Cộp với diện tích đất tự nhiên 148.088 ha, trong đó đất chưa sử dụng
còn trên 81.700ha do vậy có thể phát triển mạnh nông nghiệp ( như trồng lúa nước, trống sắn, ngô…) lâm
nghiệp ( Trồng các loại cây lấy gỗ có chất lượng cao như thông, bạch đàn, lát…) và cây công nghiệp
( Như cà phê, bông..) cộng với lực lượng lao động của huyên dồi dào, thời gian nông nhàn còn nhiều nên
việc phát triển nông nghiệp và lâm nghiệp tạo điều kiện thuận lợi để giải quyết việc làm và phát triển kinh
tế.
- Với diện tích đất chưa sử dụng còn nhiều và mật độ dân cư thấp, phân bố chưa đồng đều nên
thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi đại gia súc như: Trâu, bò, ngựa, dê, lợn…đặc biệt là phát triển đàn
dê, lợn.
- Huyện có đường biên giới với nước bạn CHDCND Lào dài 120km, trong tương lai thuận lợi
cho việc đầu tư xây dựng các khu trung tâm kinh tế cửa khẩu giao lưu buôn bán, liên doanh liên kếthợp
tác phát triển với nước bạn.
- Huyện mới thành lập, các ngành kinh tế còn ít, chưa phát triển... nên thuận lợi cho việc thu hút
các nguồn lực từ bên ngoài.
- Hiện nay trên địa bàn huyện diện tích trồng tre lớn nên thuận lợi cho việc phát triển, khai thác
các sản phẩm từ tre.
- Lượng nước chảy hàng năm qua địa bàn rất lớn nên thuận lợi cho việc khai thác thủy điện.
- Bên cạnh đó tại khu vực hành chính của huyện, lượng dân cư tập trung đông nên thuận lợi cho
việc tập trung phát triển các ngành dịch vụ cả về loại hình và quy mô, tổ chức tốt hệ thống lưu thông,
phân phối đối với các loại hàng hóa, dịch vụ.
- Với đặc thù là huyện chỉ có một tuyến đường để lưu thông đến thành phố Sơn La và các huyện

khác nên lượng dân cư tham gia giao thông rất lớn do vậy thuận lợi cho việc phát triển giao thông vận tải.
Bài 6:
Câu 1 – Tổ 3: Phân tích, trình bày quan điểm của Đảng về vấn đề văn hóa? Liên hệ
Trả lời:
Những quan điểm cơ bản của Đảng về văn hóa - văn nghệ được hình thành và phát triển trong quá
trình thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nền văn hóa cách mạng của dân tộc ta từ 1930 đến nay. Các quan
điểm đó được thể hiện trong các văn bản chỉ thị, nghị quyết của Đảng và trong các bài viết, bài nói của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước qua các thời kỳ cách mạng. Cùng với thực
tiễn văn hóa, thực tiễn cách mạng và kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo, Đảng ta đã đúc kết và hoàn chỉnh các
quan điểm chỉ đạo cơ bản của mình đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa cách mạng.
-6-


Quan điểm nhất quán, xuyên suốt toàn bộ tiến trình lãnh đạo văn hóa của Đảng ta từ 1930 đến nay là
luôn luôn khẳng định văn hóa, văn nghệ là bộ phận khăng khít của toàn bộ sự nghiệp cách mạng, phục vụ
các nhiệm vụ của cách mạng trong từng thời kỳ và gắn bó sâu sắc với đời sống nhân dân. Luận điểm cô đúc
và sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Văn hóa, nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ
trên mặt trận ấy” đã làm nên một bước ngoặt cho toàn bộ tiến trình văn hoá Việt Nam, làm cho nền văn hóa
mới và những người sáng tạo, hoạt đồng trên lĩnh vực văn hóa đó trở thành một sức mạnh to lớn, một bộ
phận hữu cơ, gắn bó máu thịt với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Phát huy và nối tiếp kinh
nghiệm và chân lý đó, trong sự nghiệp đổi mới từ 1986 đến nay, Đảng ta nhấn mạnh văn hóa, văn nghệ là
một bộ phận khăng khít của sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo và tiếp tục khẳng định:
"Chú trọng xây dựng nhân cách con người Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối sống, thể chất, lòng tự
tôn dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp luật”7, một đòi hỏi cao và mới đối với văn hóa trong
giai đoạn mới của cách mạng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
1. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế xã hội.
Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội, thiếu nó hoặc không giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, giữa phát triển kinh tế với
mục tiêu cuối cùng là văn hóa (công bằng, dân chủ, văn minh, con người phát triển toàn diện…) thì không

thể có sự phát triển bền vững của xã hội
Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của đời sống xã hội thì văn hóa là nền tảng tinh thần của đời sống ấy
và vì thế hai lĩnh vực kinh tế và văn hóa luôn luôn giữ vị trí quan trọng và quyết định đối với thực trạng, sự
vận động và phát triển của xã hội đó.Cần nhận thức sâu sắc hơn nữa và quán triệt quan điểm này trong chỉ
đạo và tổ chức thực tiễn, nhất là trong công tác lãnh đạo, quản lý mọi mặt đời sống xã hội, đặc biệt khi xử lý
mối quan hệ giữa kinh tế với văn hóa, đảm bảo vị trí, vai trò tương xứng của văn hóa là nền tảng tinh thần
của xã hội, khắc phục bằng được tình trạng coi nhẹ văn hóa đối xử với văn hóa như một lĩnh vực phụ, ăn
theo, “phi sản xuất”, hoặc coi trọng trong văn bản, nghị quyết, lời nói, nhưng coi nhẹ trong thực tiễn và việc
làm cụ thể.Một dân tộc sáng tạo ra văn hóa của mình, và đến lượt nó, chứa đựng trong nền văn hóa đó là sức
sống, tiềm năng, bản lĩnh, sức sáng tạo và bản sắc của chính dân tộc đó. Bằng văn hóa và thông qua văn
hóa, dân lộc đó, qua các thế hệ, xây dựng cho mình những chuẩn mực sống, lao động, đấu tranh, sáng tạo và
các quan hệ cộng đồng. Những chuẩn mực này được truyền bá, lưu giữ, trở thành một hệ thống các giá trị
đặc trưng cho một dân tộc, tạo nên nền tảng tinh thần của dân tộc đó. Vì thế, “chăm lo văn hóa là chăm lo
củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải
quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không có sự phát triển kinh
tế - xã hội bền vững.
Với vai trò là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa có khả năng to lớn khơi dậy,
nhân lên mọi tiềm năng, sức sáng tạo của con người, tạo ra nguồn lực nội sinh quyết định sự phát triển của
đời sống xã hội. Đặc biệt, trong thời đại ngày nay, nguồn gốc của sự giàu có và phát triển toàn diện của một
đất nước không chỉ là tài nguyên thiên nhiên, vốn kỹ thuật, mà yếu tố ngày càng trở nên quyết định chính là
nguồn lực con người, là tiềm năng và năng lực sáng tạo của con người. Kinh tế tri thức thời kỳ mới của sự
phát triển xã hội hiện nay bắt nguồn từ chính đặc điểm này. Tiềm năng, năng lực của con người không nằm
ở đâu khác, mà nằm ngay trong văn hóa và do chính văn hóa trực tiếp tạo nên trong trí tuệ đạo đức tâm hồn,
nhân cách, bản lĩnh, sự thành thạo, tài năng của mỗi cá nhân và cả cộng đồng.
Chính vì khẳng định văn hóa là động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nên
trong những năm đổi mới vượt qua những hạn chế, thiếu sót đã từng xảy ra trước đây (chỉ nhấn mạnh một
trong hai yếu tố đó hoặc không biết kết hợp chúng với nhau), Đảng ta thường xuyên nhấn mạnh vai trò của
cả hai động lực: kinh tế và tinh thần và chỉ ra yêu cầu phải biết "kết hợp động lực kinh tế với động lực tinh
thần” vì cả sự tăng trưởng kinh tế và sự phát triển văn hóa – xã hội.
Là động lực của sự phát triển, văn hóa còn thể hiện ở khả năng điều tiết, điều chỉnh các khuynh

hướng, chiều hướng phát triển của xã hội và con người, hướng sự vận động tới cái tích cực, tiến bộ, nhân
văn và hạn chế những biểu hiện tiêu cực thoái hóa, biến chất, đen tối… dẫn tới kìm hãm và thậm chí, sự tàn
phá, xuống cấp của một xã hội, đặc biệt trong những điều kiện mới của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường. Vai trò điều tiết, điều chỉnh này thông qua các chuẩn mực mà văn hóa đã xác định, bằng việc định
-7-


hướng giá trị đối với con người và cộng đồng.Trong sự liên hệ chặt chẽ và chi phối lẫn nhau giữa các hoạt
động rất đa dạng của đời sống, cần phải hiểu rằng, văn hóa vừa là một thành tố gắn bó khăng khít vừa là
thước đo trình độ phát triển của các lĩnh vực khác và của toàn xã hội. Do đó, với tư cách là mục tiêu của sự
phát triển, văn hóa thể hiện trình độ phát triển ngày càng cao của con người và của xã hội.
Trong các lý thuyết về phát triển, một quan niệm được khẳng định hiện nay, là coi mục tiêu phát triển phải
thể hiện ở sự nâng cao chất lượng sống của con người với đảm bảo sự hài hòa đời sống vật chất và đời sống
tinh thần, giữa mức sống cao với lối sống và nếp sống đẹp, không chỉ cho thiểu số mà phải cho đại đa số
quần chúng và người lao động. Để đạt được mục tiêu đó, nhất thiết phải có sự phát triển cao về kinh tế, về
cơ sở vật chất, kỹ thuật, song chỉ như thế thì chưa đủ và sẽ là sai lầm nghiêm trọng nếu chỉ lo tăng trưởng
kinh tế, coi tăng trưởng là sự phát triển xã hội và làm tất cả với bất kỳ giá nào vì sự tăng trưởng đó, dù phải
hy sinh về mặt văn hóa, xã hội, hy sinh và phá hoại sự phát triển phẩm giá con người. Trong những trường
hợp như thế, có tăng trưởng nhưng không có phát triển, trái lại là sự “phản phát triển”.Từ vị trí của văn hóa
là mục tiêu của sự phát triển cần phải nắm chắc mối quan hệ giữa kinh tế với văn hóa, văn hóa với kinh tế,
trong đó đặc biệt chú ý luận điểm quan trọng trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5: "Xây dựng và phát
triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện”.
Khi nói, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế xã hội thì cần hiểu rằng, các vai trò đó bao giờ và chủ yếu thông qua nhiệm vụ xây dựng con người của văn
hóa.Con người là chủ thể sáng tạo văn hóa và đến lượt mình, văn hóa có chức năng trực tiếp nuôi dưỡng,
xây đắp và góp phần phát triển con người, đặc biệt và trước hết là những phẩm chất tinh thần - tâm hồn của
con người. Trong quan niệm của mình về văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh thiên
chức riêng biệt của văn hóa, văn nghệ là bám sát đời sống con người, miêu tả và khám phá con người, bảo
vệ và khẳng định, góp phần trực tiếp xây dựng con người mới đang hình thành trong cuộc chiến đấu đầy hy
sinh, gian khổ và vĩ đại vì sự ra đời và chiến thắng của xã hội mới: "Quần chúng đang chờ đợi những tác
phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại vẻ vang của chúng ta, những tác phẩm ca tụng chân thật những

người mới, việc mới chẳng những để làm gương mẫu cho chúng ta ngày nay, mà còn để giáo dục con cháu
ta đời sau”. Chính do vị trí, vai trò đặc biệt của văn hóa trong đời sống xã hội, đồng thời văn hóa luôn luôn
có mặt trong mọi lĩnh vực và mọi hoạt động của xã hội và con người, nên cần biết phát huy tối đa sức mạnh
của văn hóa, làm cho các nhân tố văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào mọi lĩnh vực, mọi phương diện
của đời sống xã hội.
2.
Nền
văn
hóa
Việt
Nam
tiên
tiến,
đậm
đà
bản
sắc
dân
tộc
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) được thông qua tại Đại hội lần thứ XI (tháng 1/2011), Đảng ta đã bổ sung Cương lĩnh 1991, trình bày
quan niệm về xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng, trong đó gồm tám đặc trưng có quan hệ hữu cơ
với nhau, tạo nên phẩm chất và giá trị của chủ nghĩa xã hội. Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là
một trong tám đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, vì thế về nội dung, nó góp phần quan trọng tạo nên phẩm
chất và giá trị của xã hội đó. Điều đó cũng có nghĩa là, sẽ không có chủ nghĩa xã hội nếu như không xây
dựng được trong xã hội đó một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.So với những hiểu biết, quan
điểm trước đây về văn hóa, luận điểm "nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” của Đảng ta đã có
một bước phát triển về chất.Trong Đề cương Văn hóa việt Nam năm 1943, Đảng ta xác định nền văn hóa
mới có ba tính chất: dân tộc, khoa học, đại chúng, đồng thời chỉ rõ nền văn hóa có tính chất dân tộc về hình
thức


tân
dân
chủ
về
nội
dung.
Đến Đại hội III (1960), Đảng đã phát triển thành luận điểm, xây dựng nền văn hóa với nội dung xã hội chủ
nghĩa và hình thức dân tộc. Sau 16 năm, Đại hội IV (1976) đã bổ sung, đó là nền văn hóa với nội dung xã
hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc. Hơn 10 năm sau, trong Nghị quyết 05 của Bộ Chính từ (11 - 1987) khóa
VI, nêu nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc.
Từ Đại hội VII (1991) đến nay, từ thực tiễn cực kỳ phong phú với những nỗ lực tổng kết thực tiễn và
xây dựng một quan niệm hoàn chỉnh về văn hóa để chỉ đạo giai đoạn mới, Đảng ta đề xướng luận điểm "xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc".
Về phẩm chất tiên tiến của nền văn hóa Việt NamNghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đã khái quát
những phẩm chất, nội dung cơ bản của tiên tiến là "yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghiã xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì
-8-


con người; vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài
hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả
trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung”. Một nền văn hóa tiên tiến trong tất cả
sự phong phú của nó, bao giờ cũng dựa trên và gắn liền với tính chất tiên tiến, tiến bộ của một hệ tư tưởng
triết học và của một lý tưởng xã hội - đạo đức mà dân tộc và nhân dân đã lựa chọn. Từ quan điểm đó, đặc
trưng yêu nước và tiến bộ được khẳng định là phẩm chất quan trọng của tiên tiến.Yêu nước là nấc thang giá
trị cao nhất của dân tộc và của văn hóa Việt Nam. Đây là một trong những yêu cầu cao nhất, sâu sắc nhất
đối với nền văn hóa của chúng ta, nó vừa là sự kế tục một phẩm chất bền vững của văn hóa dân tộc trong
quá khứ đồng thời lại phải phát triển mạnh mẽ phẩm chất đó với những đòi hỏi và đặc trưng mới. Ở đây
chính là yêu cầu gắn bó chặt chẽ, hài hòa giữa lý tưởng độc lập dân tộc với lý tưởng xã hội chủ nghĩa trở

thành nội dung cốt lõi của nền văn hóa đó trong thời kỳ mới. Như vậy, chứa đựng trong nền văn hóa của
chúng ta là những giá trị bền vững, những tinh hoa của nền văn hóa dân tộc, của truyền thống dân tộc cùng
với những giá trị mới được xây đắp và phát triển trong giai đoạn hiện đại của dân tộc ta.Tiến bộ là một
phẩm chất đặc trưng của nền văn hóa tiên tiến phải được hiểu trước hết là sự gắn bó của nền văn hóa đó với
hệ tư tưởng khoa học và cách mạng, đối với văn hóa Việt Nam hiện đại, hệ tư tưởng đó chính là chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.Trước tác động hết sức phức tạp của các hệ tư tưởng thù địch chống
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, quan điểm trên đây của Đảng ta là một đòi hỏi cao đối với văn hóa và
những người sáng tạo, hoạt động văn hóa. Vì vậy, quan điểm đó phải được quán triệt trong toàn bộ hoạt
động văn hóa, trong việc định hướng đúng đắn và nâng cao chất lượng, hiệu quả cũng như khả năng sử
dụng, phát huy văn hóa phục vụ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.Nền văn hóa
tiên tiến là một nền văn hóa thấm sâu phẩm chất nhân văn và dân chủ mà trước hết là sự tôn trọng con
người, tất cả vì con người, có khả năng tạo ra được con người phát triển tự do, toàn diện, đời sống tinh thần
phong phú, cao đẹp, trong quan hệ hài hòa giữa cá nhân với: cộng đồng, giữa con người với xã hội và tự
nhiên. Đây là một trong những phẩm chất cao quý của văn hóa, đồng thời qua đó, văn hóa thể hiện sứ mệnh
và sức mạnh của mình “khẳng định và biểu dương những giá trị chân chính, bồi dưỡng cái chân, cái thiện,
cái mỹ theo quan điểm tiến bộ, phê phán những cái lỗi thời, thấp kém”.Với lý tưởng xã hội và thẩm mỹ trên,
nền văn hóa tiên tiến được phát triển phong phú, mở rộng đề tài và chủ đề phản ánh, đa dạng hoá các
phương thức biểu hiện, phát triển tự do, hài hòa tất cả các lĩnh vực của nó nhằm mục tiêu "vì lợi ích chân
chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao”. Như vậy,
để xây dựng phẩm chất tiên tiến với đặc trưng yêu nước và tiến bộ, dân chủ và tự do thì nền văn hóa đó luôn
luôn gắn chặt với lý tưởng lương tâm và trách nhiệm người nghệ sĩ.Nói đến phẩm chất tiên tiến cũng chính
là nói đến phẩm chất hiện đại của nền văn hóa đó. Nó phải dựa trên cơ sở và gắn bó chặt chẽ với trình độ
phát triển của nền kinh tế, của khoa học, công nghệ và của trình độ dân trí ngày một nâng cao, từ đó đủ sức
giải quyết và thỏa mãn các nhu cầu tốt đẹp, đa dạng của cuộc sống hiện tại, có điều kiện phát triển phong
phú và mới mẻ các khả năng chuyển tải và biểu hiện của mình, do đó, nền văn hóa này sẽ dần có diện mạo
mới “tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện
chuyển tải nội dung”.
Về bản sắc dân tộc của nền văn hóaTiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nhân tố và phẩm chất hòa
quyện hữu cơ trong nền văn hóa, tạo nên tổng thể giá trị của nền văn hóa đó, vì vậy, không thể tách rời
chúng trong thực tiễn.Như vậy, có nghĩa là nền văn hóa tiên tiến phải mang cái riêng, cái độc đáo của truyền

thống, đặc tính, cốt cách và tâm hồn dân tộc. Nó không thể bị hòa lẫn với nền văn hóa khác và nó hoàn toàn
xa lạ với sự lai căng, bắt chước, học đòi để đanh mất đi bản sắc, tính độc đáo của dân tộc mình. Điều đó
cũng có nghĩa là, bản sắc dân tộc không dừng lại ở những biểu hiện bề ngoài, hình thức, mà thực chất là
biểu hiện sức sống, sức sáng tạo, phát triển và tính đặc thù độc đáo của dân tộc.Trước hết, bản sắc dân tộc
của nền văn hóa được tạo nên bởi những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Nhận thức, phản ánh và
khám phá những giá trị và những tinh hoa đó là nhiệm vụ lớn lao của văn hóa. Những thành tố cơ bản tạo
nên giá trị bền vững và tinh hoa của dân tộc ta, từ đó làm nên bản sắc độc đáo của dân tộc là "lòng yêu nước
nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xãTổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trong nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự
tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống”.
-9-


Bản sắc dân tộc của nền văn hóa Việt Nam còn biểu hiện rất rõ ở tính thống nhất mà đa dạng của văn
hóa các dân tộc Việt Nam. Thống nhất là phẩm chất nhất quán của nền văn hóa Việt Nam từ ngàn đời nay,
song thống nhất trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng sự đa dạng và phát triển bản sắc riêng của văn hóa các dân
tộc. Củng cố và phát triển sự thống nhất, tạo ra sức mạnh tinh thần chung của toàn dân tộc đồng thời khai
thức và phát triển một sắc thái và giá trị của văn hóa các dân tộc đáp ứng nhu cầu văn hóa của từng dân tộc,
đó là con đường sáng tạo nên nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của chúng ta.
Bản sắc dân tộc của nền văn hóa còn gắn chặt chẽ với khả năng khai thức, sử dụng, phát huy, tiếp nhận có
chọn lọc và phát triển những phương thức, phương tiện, loại hình, loại thể, hình thức biểu hiện hết sức đa
dạng và phong phú trong truyền thống văn hóa dân tộc.Bảo vệ, giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hóa không
đồng nghĩa với việc đóng cửa, thu mình trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, hoặc phục hồi những gì đã lỗi thời
lạc hậu trong đời sống văn hóa của dân lộc. Phải đủ bản lĩnh để mở rộng giao lưu với thế giới, tiếp thu có
chọn lọc những cái hay, cái tốt đẹp, tiến bộ của văn hóa các dân tộc. Trong mở rộng giao lưu quốc tế, yêu
cầu hàng đầu là phải trên tinh thần độc lập tự chủ, với lòng tự hào sâu sắc về những giá trị của con người và
văn hóa Việt Nam, nâng cao và phát huy bản sắc dân tộc của nền văn hóa đó, đồng thời tích cực học hỏi,
tiếp thu, chọn lọc những giá trị nhân bản, khoa học, tiến bộ của văn hóa thế giới. Mặt khác, cần tỉnh táo,
kiên quyết chống lại sự xâm nhập của mọi thứ văn hóa độc hại, những quan điểm cực đoan về tự do cá
nhân, chủ nghĩa thực dụng, lối sống hưởng thụ ích kỷ... Đó là con đường để làm giàu thêm cho văn hóa dân

tộc và từ đó góp một tiếng nói riêng vào đời sống văn hóa của cộng đồng các dân tộc trên thế giới. Cũng chỉ
có như vậy mới tránh được nguy cơ nóng bỏng hiện nay trên thế giới về "sự đồng hóa các hệ thống giá trị và
chuẩn mực, tức là nguy cơ tha hóa về văn hóa và chống lại âm mưu "xâm lăng về văn hoá của các nước và
các thế lực thù địch.
3.Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt
Nam
Xuất phát từ đặc điểm lịch sử, truyền thống lâu đời của chúng ta, Đảng ta đã có những kiến giải
riêng về vấn đề dân tộc ở nước ta. Khác với một số quan niệm cho rằng, nói đến dân tộc là nói đến sự hình
thành dân tộc tư sản, là sản phẩm của thời đại tư bản chủ nghĩa đang lên, Đảng ta đã khẳng định: Ở Việt
Nam, dân tộc Việt Nam hình thành từ khi lập nước, chứ không phải khi chủ nghĩa tư bản nước ngoài xâm
nhập vào Việt Nam, bởi vậy, dân tộc Việt Nam ta có lịch sử mấy ngàn năm, có ngôn ngữ riêng, phong tục,
tập quán riêng, cốt cách làm ăn riêng, phong thái sinh hoạt riêng và có nền văn hóa lâu đời của mình. Tất cả
những cái đó tạo nên truyền thống, tình cảm riêng của dân tộc ta. Hơn 50 dân tộc sinh sống trên đất nước ta
đã đoàn kết một lòng chúng sức xây đắp nên cái đặc trưng độc đáo và cái truyền thống lâu đời đó của chúng
ta. Mặt khác, hơn 50 dân tộc đó lại có những giá trị và sắc thái văn hóa riêng của mình. Các giá trị và sắc
thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc.Xuất phát
từ nhận thức sâu sắc truyền thống và thực tiễn văn hóa trên, Đảng ta trong suốt hơn 70 năm qua, đã khẳng
định nhất quán quan điểm của mình vê xây dựng một nền văn hóa Việt Nam hiện đại, tiên tiến trong sự
thống nhất mà đa dạng, đa dạng mà thống nhất của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Các nguyên tắc lớn về
vấn đề dân tộc, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng triệt để
và sáng tạo trong chỉ đạo xây dựng văn hóa, đó là bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau phát
triển các giá trị và sắc thái riêng của văn hóa từng dân lộc nhằm tạo nên sự phong phú và thống nhất chung
của văn hóa Việt Nam. Như vậy, tính thống nhất trong sự đa dạng đó xuất phát từ phẩm chất yêu nước và
tiến bộ của nền văn hóa, từ truyền thống lâu đời, từ khát vọng chung là độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, từ
sự cố kết, gắn bó sâu sắc với nhau trong tiến trình lịch sử và từ sự đồng cảm trong tinh thần, tâm hồn, tâm
lý.
4. Xây dựng vì phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí
thức đóng vai trò quan trọng.
Quan điểm rất giản dị này có nguồn gốc sắc từ nhận thức của Đảng ta về vai trò, sứ mệnh của nhân
dân không chỉ đối với lịch sử. Với tài sản vật chất của loài người, mà còn đối với toàn bộ những giá trị tinh

thần được tạo nên bởi chính nhân dân. Ở quan điểm này, cần phải thấu hiểu đồng thời các nội dung không
thể tách rời nhau: Nhân dân là lực lượng làm nên văn hóa trong cả ba nhân chủ yếu của tiến trình văn hóa:
sáng tạo (sản xuất), truyền bá (lưu giữ), và tiếp nhận (hưởng thụ); Đảng ta là lực lượng tiên phong về lư
tưởng có sứ mệnh lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng để nhân dân xây dựng văn hóa và vai trò rất quan trọng,
- 10 -


trực tiếp sáng tạo văn hóa là đội ngũ tri thức.Quan điểm này còn thể hiện đầy đủ, sáng rõ sự đánh giá cao
của Đảng ta về vị trí vai trò của văn hóa cơ sở trong xây dựng nền văn hóa chung của dân tộc. Văn hóa cơ
sở là nền tảng vững chắc cho toàn bộ sự phát triển của văn hóa, chính nó là làm nên diện mạo, đặc trưng cơ
bản của văn hóa dân tộc và không có nó không thể tạo nên những giá trị văn hóa đỉnh cao của văn hóa dân
tộc qua từng thời kỳ lịch sử. Chính trong sự phát triển mạnh mẽ của văn hóa cơ sở mà tạo ra các tài năng
hoạt động văn hóa, đúc kết nên những tinh hoa văn hóa. Trong các Nghị quyết của Đảng về văn hóa, những
tư tưởng trên đây được khẳng định nhiều lân, dứt khoát và kiên định. Tư tưởng đó còn xuyên thấm trong
toàn bộ các nhiệm vụ của văn hóa, từ xây dựng các giá trị, phẩm chất của con người bằng văn hóa, thông
qua văn hóa đến xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tốt đẹp cho con người, từ định hướng đẩy mạnh
phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, gia đình văn hóa, làng văn hóa, cơ sở văn hóa đến
xác định vai trò to lớn cửa nhân dân của cơ sở đối với cuộc đấu tranh kiên trì, rộng lớn chống những biểu
hiện tiêu cực đen tối, hư hỏng, thiếu văn hóa, tầm thường, xấu xa, và đối với các nhiệm vụ văn hóa cụ thể:
thư viện, bảo tồn, bảo tàng, hoạt động nghệ thuật.Tư tưởng trên đây cũng chính là cơ sở lý luận để Đảng ta
khẳng định một phương châm rất quan trọng trong phát triển văn hóa thời kỳ mới, đó là xã hội hóa các hoạt
động văn hóa. Vì nhân dân là người làm nên văn hóa nên xã hội hóa hoạt động văn hóa là một quy luật, một
đòi hỏi khách quan nhằm vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào phát
triển văn hóa, tạo động lực mạnh cho sự phát triển vững chắc của nó, đồng thời cũng tạo điều kiện cho văn
hóa thấm sâu vào mọi mặt của đời sống xã hội, từ đó nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân, một
mục tiêu cao nhất, đẹp nhất của sự nghiệp văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
5.Văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi
hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng
Quan điểm này nhấn mạnh một số đặc trưng nổi bật cần phải nắm vững và quán triệt trong quá trình
Đảng chỉ đạo và tổ chức cho nhân dân xây dựng văn hóa. Trước hết, vận dụng sâu sắc tư tưởng Hồ Chí

Minh về văn hóa, luận điểm khẳng định, văn hóa là một mặt trận, nghĩa là khẳng định cuộc đấu tranh để bảo
vệ và xây dựng cái tiên tiến, cái tiến bộ và những giá trị tốt đẹp của con người và để phê phán, chiến thắng
cái xấu xa, đen tối, cái ác, cái phản văn hóa là một sự nghiệp đầy khó khăn phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian
và đòi hỏi không ngừng nâng cao tính chiến đấu của những người hoạt động trên mặt trận này. Đồng thời
cũng khẳng định trong cuộc đấu hình đó, "xây” phải đi đôi với "chống”, lấy "xây” làm chính. Tổ chức sự
phối hợp nhuần nhuyễn giữa hai yêu cầu trên trong các hoạt động văn hóa là một đòi hỏi cao đối với người
chỉ đạo, hướng dẫn, triển khai các hoạt động văn hóa từ Trung ương đến cơ sở.
Ý nghĩa thời sự của quan điểm này thể hiện ở chỗ: hơn lúc nào hết, do tác động hết sức phức tạp của cuộc
đấu tranh chính trị, tư tưởng hiện nay, Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ tăng cường đấu tranh phê phán những
quan điểm sai trái, lệch lạc trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, kiên cường chiến đấu và tỉnh táo trước âm mưu,
thủ đoạn "diễn biến hòa bình “, "xâm lăng văn hoá” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực rất nhạy cảm này,
đồng thời kiên trì bài trừ các hủ tục, các thói hư, tật xấu, sự thoái hóa, biến chất của một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Tất nhiên, đồng thời với việc nhấn mạnh đặc trưng bản chất "văn hóa là một mặt trận" Đảng ta luôn
luôn lưu ý dấu hiệu đặc thù của mặt trận này, từ đó đòi hỏi phải có ý chí cách mạng cao gắn với lòng kiên trì
và thái độ thận trọng, linh hoạt, khoa học. Sự thống nhất trên là cơ sở đem lại hiệu quả của sự lãnh đạo, chỉ
đạo và quản lý lĩnh vực văn hóa, văn nghệ.
Liên hệ
Câu 2 – Tổ 3: Đ/c hãy nêu quan điểm của Đảng về đổi mới giáo dục hiện nay?
Trả lời:
Giáo dục và đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống chính trị của mỗi nước là biểu
hiện trình độ phát triển của mỗi nước. Vì vậy ngay từ khi giành được chính quyền Hồ Chí Minh đã chỉ rõ
"một dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Do đó xác định Giáo dục và đào tạo là một nhiệm vụ quan trọng
của cách mạng Việt Nam.
Hiện nay Đảng và Nhà nước ta lại càng phải quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp Giáo dục và đào tạo
nhằm nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ và nhân dân lao động để họ tham gia hội nhập mà vẫn giữ
vững truyền thống văn hoá dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại làm chủ khoa học tiên
tiến. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển ngày càng nhanh. Kinh tế tri thức có vai trò ngày
- 11 -



càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Trong bối cảnh đó giáo dục đã trở thành nhân
tố quyết định đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Các nước trên thế giới kể cả những nước đang phát triển
đều coi giáo dục là nhân tố hàng đầu quyết định sự phát triển nhanh và bền vững của mỗi quốc gia.
Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu
tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ
quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm
thực hiện đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở
giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học đổi mới ở tất cả
các bậc học, ngành học. Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những
nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức,
việc làm lệch lạc. Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng
và cấp học các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp.
Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển
mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất
người học. Học đi đôi với hành lý luận gắn với thực tiễn giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia
đình và giáo dục xã hội.
Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc với
tiến bộ khoa học và công nghệ phù hợp quy luật khách quan. Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ
yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng.
Hội nghị lần thứ tám ban Chấp hành Trung ương khóa XI cũng xác định rõ các mục tiêu giáo dục
như sau:
Về mục tiêu tổng quát :
Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo đáp ứng ngày càng tốt
hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam
phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân yêu gia đình, yêu
Tổ quốc, yêu đồng bào sống tốt và làm việc hiệu quả.
Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt có cơ cấu và phương

thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng chuẩn
hóa, hiện đại hoá, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ
tiên tiến trong khu vực.
Các mục tiêu cụ thể bao gồm:
- Đối với giáo dục mầm non, giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm, hiểu biết, thẩm mỹ, hình thành
các yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị tốt cho trẻ bước vào lớp 1. Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm
non cho trẻ 5 tuổi vào năm 2015, nâng cao chất lượng phổ cập trong những năm tiếp theo và miễn học phí
trước năm 2020. Từng bước chuẩn hóa hệ thống các trường mầm non. Phát triển giáo dục mầm non dưới
5 tuổi có chất lượng phù hợp với điều kiện của từng địa phương và cơ sở giáo dục.
- Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực
công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng
lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến
khích học tập suốt đời. Hoàn thành việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn sau năm
2015. Bảo đảm cho học sinh có trình độ trung học cơ sở (hết lớp 9) có tri thức phổ thông nền tảng, đáp
ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau trung học cơ sở trung học phổ thông phải tiếp cận nghề nghiệp và
chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng. Nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, thực hiện
giáo dục bắt buộc 9 năm từ sau năm 2020.
Phấn đấu đến năm 2020, có 80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ giáo dục trung học phổ thông
và tương đương.
- 12 -


- Đối với giáo dục nghề nghiệp , tập trung đào tạo nhân lực có kiến thức, kỹ năng và trách nhiệm
nghề nghiệp. Hình thành hệ thống giáo dục nghề nghiệp với nhiều phương thức và trình độ đào tạo kỹ
năng nghề nghiệp theo hướng ứng dụng, thực hành, bảo đảm đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ thuật công
nghệ của thị trường lao động trong nước và quốc tế.
- Đối với giáo dục đại học, tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển
phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học. Hoàn thiện mạng lưới các cơ

sở giáo dục đại học, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực
quốc gia trong đó, có một số trường và ngành đào tạo ngang tầm khu vực và quốc tế. Đa dạng hóa các cơ
sở đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển công nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề yêu cầu xây dựng, bảo
vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.
- Đối với giáo dục thường xuyên , bảo đảm cơ hội cho mọi người, nhất là ở vùng nông thôn, vùng
khó khăn, các đối tượng chính sách được học tập nâng cao kiến thức, trình độ, kỹ năng chuyên môn
nghiệp vụ và chất lượng cuộc sống tạo điều kiện thuận lợi để người lao động chuyển đổi nghề bảo đảm
xóa mù chữ bền vững. Hoàn thiện mạng lưới cơ sở giáo dục thường xuyên và các hình thức học tập, thực
hành
phong
phú,
linh
hoạt,
coi
trọng
tự
học

giáo
dục
từ
xa.
- Đối với việc dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho người Việt Nam ở nước ngoài, có
chương trình hỗ trợ tích cực việc giảng dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài, góp phần phát huy sức mạnh của văn hóa Việt Nam, gắn bó với quê hương, đồng
thời xây dựng tình đoàn kết, hữu nghị với nhân dân các nước.
Quan điểm của Đảng về giáo dục đào tạo tạo Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII
Xác định "Hiền tài là nguyên khí quốc gia", "Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển", làm thế nào
để phát triển giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nước nhà luôn là nhiệm vụ chính trị được
Đảng ta đặc biệt quan tâm, là một trong những nội dung quan trọng trong văn kiện của các kỳ Đại hội

Đảng. Tìm hiểu hệ thống những văn kiện này sẽ giúp chúng ta đánh giá sự phát triển trong quan điểm của
Đảng về giáo dục - đào tạo qua các thời kỳ, đồng thời cũng thấy được những điểm mới cơ bản trong quan
điểm phát triển giáo dục - đào tạo của Đảng ta thể hiện qua các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.
Giai đoạn trước đổi mới, Đảng ta chưa ban hành nghị quyết Trung ương có tính chuyên đề về giáo
dục và đào tạo. Đường lối và các chính sách của Đảng về lĩnh vực này được thể hiện trong các văn kiện của
các đại hội Đảng và các nội dung được đưa vào các nghị quyết về các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày 28-1-2016 tại
thủ đô Hà Nội. Đại hội đã thông qua các văn kiện quan trọng không chỉ có ý nghĩa trước mắt mà còn có ý
nghĩa chiến lược lâu dài đối với sự phát triển của nước ta, như: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XI; Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 20112015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016 - 2020; Báo cáo của Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI về tổng kết thi hành Điều lệ Đảng khóa XI; Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay".
Một trong những nội dung quan trọng được đề cập trong các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XII là vấn đề đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực. Quan điểm của Đại
hội Đảng lần thứ XII thể hiện sự kế thừa và phát triển trên cơ sở tinh thần tư tưởng Đại hội lần thứ XI.
Kế thừa và phát triển tư tưởng Đại hội XI, Văn kiện Đại hội XII xác định:
Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục,
đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Chuyển mạnh quá trình giáo
dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học: yêu gia đình,
yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả. Từng bước hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc
dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Quy hoạch lại mạng
lưới cơ sở giáo dục, đào tạo gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu phát triển nguồn nhân
lực và thị trường lao động. Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống
nhất, chất lượng; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Phát triển đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động và sử dụng hiệu
quả mọi nguồn lực đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt
Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
- 13 -



Như vậy, về quan điểm chung, mục tiêu và các nhóm giải pháp cơ bản phát triển giáo dục và đào tạo
cơ bản thể hiện sự kế thừa tư tưởng của Đại hội XI và Nghị quyết trung ương 8 khóa XI.
Điểm mới trong quan điểm của Đại hội Đảng XII về giáo dục đào tạo chủ yếu thể hiện ở các giải
pháp cụ thể phát triển giáo dục, đào tạo được nêu trong Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016 2020, trong đó có một số điểm mới cần lưu ý.
Một là, Nhằm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, Báo cáo chỉ rõ, cần: "Đổi mới khung chương
trình, quan tâm hơn đến yêu cầu tăng cường kỹ năng sống, giảm tải nội dung trong các bậc học phổ thông;
nâng cao kiến thức chuyên sâu và tác phong công nghiệp trong đào tạo nghề; phát huy tư duy sáng tạo,
năng lực tự nghiên cứu ở bậc đại học".
Đây là một giải pháp thể hiện nhiều nội dung mới. Đổi mới khung chương trình là một yêu cầu cấp
thiết khi tiến hành đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục. Văn kiện Đại hội XI và Nghị quyết trung ương 8
khóa XI đã đề cập đến việc "đổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài
hòa đức, trí, thể, mỹ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề". Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên văn kiện đại hội sử
dụng khái niệm "khung chương trinh", nhấn mạnh đến việc đổi mới tổng thể kết cấu nội dung, phân bổ thời
lượng của chương trình giáo dục.
Về định hướng đổi mới khung chương trình, bên cạnh những nội dung đã được đề cập như: quan tâm
đến yêu cầu tăng cường kỹ năng sống, nâng cao kiến thức chuyên sâu, tác phong công nghiệp, năng lực
sáng tạo,... có một yêu cầu mới được bổ sung, đó là "giảm tải nội dung trong các bậc học phổ thông". Nghị
quyết trung ương 8 xác định, đối với bậc học phổ thông, cần "Xây dựng và chuẩn hóa nội dung giáo dục
phổ thông theo hướng hiện đại, tinh gọn, bảo đảm chất lượng, tích hợp cao ở các lớp học dưới và phân hóa
dần ở các lớp học trên", chứ chưa đề cập đến việc giảm tải nội dung học. Đây là chủ trương mới, phù hợp
với tình hình hiện nay, khi mà từ tiểu học đến phổ thông, học sinh bị quá tải bởi lượng kiến thức cần phải
học. Việc giảm tải nội dung học gắn liền với phân hóa dần chương trình đào tạo theo hướng phát triển của
học viên sẽ mang lại hiệu quả cao hơn cho giáo dục, giảm bớt sứ ép về kiến thức đối với học sinh và giáo
viên.
Hai là, đối với giáo dục đại học, cần: "Phát triển giáo dục đại học theo hướng hình thành cơ sở giáo
dục đại học định hướng nghiên cứu, cơ sở giáo dục đại học định hướng ứng dụng và cơ sở đại học định
hướng thực hành". Đây cũng là một giải pháp có tính thời sự được đề cập trong hệ thống các văn kiện của
Đảng về phát triển giáo dục. Quan điểm trên cho thấy rõ yêu cầu phải có sự phân hóa về mức độ chuyên
sâu và hình thức đào tạo của hệ thống các trường đại học. Theo đó, cần phân ra ba loại hình đào tạo đại

học: theo hướng nghiên cứu mang tính chất hàn lâm, chuyên sâu, nhằm đào tạo ra các nhà khoa học; theo
hướng ứng dụng - nhằm đưa các kết quả nghiên cứu khoa học vào thực tiễn; theo hướng thực hành - mang
tính chất nghề nghiệp. Tránh tình trạng hiện nay, giáo dục đại học ở nước ta dàn trải, thiếu quy hoạch, chất
lượng đào tạo không cao. Đặc biệt quan tâm đầu tư đối với các trường đại học theo định hướng nghiên cứu,
cần "gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và thu hút các nhà khoa học tham gia
giảng dạy".
Ba là, đối với chính sách về giáo dục, Báo cáo khẳng định "Phát triển hợp lý và bảo đảm bình đẳng
giữa giáo dục công lập và giáo dục ngoài công lập. Ngân sách nhà nước bảo đảm cho giáo dục phổ cập;
tiếp tục kiên cố hóa trường, lớp học công lập. Khuyến khích xã hội hóa đầu tư phát triển các trường chất
lượng cao ở tất cả các cấp học và trình độ đào tạo. Thí điểm chuyển mô hình trường công lập sang cơ sở
giáo dục do cộng đồng, doanh nghiệp quản lý và đầu tư phát triển. Đẩy mạnh dạy nghề và gắn kết đào tạo
với doanh nghiệp".
Quan điểm trên cho thấy tầm quan trọng của việc phân phối nguồn đầu tư cho giáo dục, giữa công lập
và ngoài công lập. Đối với những hình thức giáo dục thiết yếu, mang tính phổ cập, nhà nước chịu trách
nhiệm đầu tư. Nhưng đối với những hình thức đào tạo đặc thù khác, nhà nước khuyến khích xã hội hóa, thí
điểm chuyển mô hình trường công lập sang cơ sở giáo dục do cộng đồng, doanh nghiệp quản lý và đầu tư
phát triển. Trên cơ sở hướng tới đảm bảo cơ cấu hợp lý và sự bình đẳng giữa giáo dục công lập và giáo dục
ngoài công lập.
Đây là hướng đi mới, hoàn toàn phù hợp với tình hình và nhu cầu đào tạo ở nước ta hiện nay. Nó
giảm tải áp lực về ngân sách cho nhà nước, khi chi ngân sách cho giáo dục chiếm 20% tổng chi ngân sách
- 14 -


nhà nước, nhưng chi cho con người đã chiếm 50% tổng chi của giáo dục. Trong điều kiện nguồn đầu tư của
nhà nước còn hạn chế thì việc xã hội hóa, khuyến khích các doanh nghiệp, cộng đồng đầu tư cho giáo dục
là hướng đi hợp lý. Việc đẩy mạnh dạy nghề và gắn kết đào tạo với doanh nghiệp cũng là yêu cầu cần thiết
nhằm giải bài toán "thừa thầy thiếu thợ" và vấn nạn "thất nghiệp" của sinh viên ra trường hiện nay.
Bài 9:
Câu 1 : Nêu mục đích vai trò của kiểm tra hành chính? Liên hệ?
Trả lời:

1. Khái niệm kiểm tra hành chính:
Theo Từ điển tiếng Việt: Kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét.
Dưới góc độ quản lý hành chính nhà nước, kiểm tra hành chính được xác định là: Kiểm tra hành
chính là một chức năng của hoạt động quản lý trong các cơ quan hành chính nhà nước và người có thẩm
quyền nhằm đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch của đối tượng kiểm tra, phát hiện những hành vi vi
phạm pháp luật , những thiếu sót trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân, nhằm nâng cao hiệu lực và
hiệu quả của quản lý nhà nước.
Mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau về kiểm tra nhưng suy cho cùng mục đích của kiểm tra là phát
hiện hoặc phòng ngừa những hành vi vi phạm, góp phần thúc đẩy và hoàn thành nhiệm vụ trong hoạt động
quản lý nhà nước. Từ đó, tạo điều kiện cho hoạt động thực hiện đúng hướng.
2. Mục đích kiểm tra hành chính:
Mục đích của kiểm tra hành chính được xác định:
- Phát hiện những ưu điểm và nhân tố tích cực để điều chỉnh tiếp theo nhằm phát huy, nhân
rộng mặt mạnh, mặt tích cực.
- Chỉ ra sai lệch, hạn chế, yếu kém, bất cập trong quản lý, tìm ra nguyên nhân và đưa ra giải pháp
khắc phục.
- Phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật có biện pháp xử lý kịp thời và xây dựng biện
pháp phòng ngừa chung.
3. Vai trò của kiểm tra hành chính trong quản lý hành chính nhà nước
3.1. Kiểm tra hành chính - một trong những chức năng của quản lý hành chính nhà nước
- Khi nhà nước ra đời thì phần lớn các công việc quản lý XH đều do nhà nước quản lý. Để quản lý
XH, nhà nước nào cũng ban hành pháp luật và tiến hành quản lý XH bằng pháp luật. Nội dung quản lý
XH bằng pháp luật được thể hiện trên ba phương diện: Ban hành pháp luật; tổ chức thực hiện pháp luật;
kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật.
- Để thực hiện chức năng quản lý, nhà nước trước hết phải ban hành pháp luật. Pháp luật không thể
đi vào đời sống XH và phát huy hiệu quả mà thiếu những hoạt động có tính tổ chức của nhà nước. Bằng
bộ máy và các nguồn lực của mình, nhà nước tổ chức, điều hành để biến các quy định pháp luật thành
hành động thực tế của mỗi cơ quan, tổ chức, cá nhân và phải kiểm tra để đánh giá chất lượng, hiệu quả
của pháp luật. Như vậy, kiểm tra hành chính là một chức năng, giai đoạn của hoạt động quản lý nhà nước
nói chung và hoạt động hành chính nói riêng.

3.2. Kiểm tra hành chính - một trong những biện pháp chủ yếu góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu
quả của quản lý hành chính nhà nước
- Quản lý hành chính nhà nước là toàn bộ hoạt động của các cơ quan hành pháp nhằm thực hiện
chức năng quản lý hành chính nhà nước.
- Hiệu lực, hiệu quả của quản lý hành chính nhà nước phụ thuộc rất lớn vào hoạt động giám sát,
kiểm tra, thanh tra. Bởi thông qua hoạt động này, nhà nước sẽ phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm
pháp luật, góp phần đảm bảo và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
3.3. Kiểm tra hành chính - một trong những phương thức bảo đảm quản lý XH bằng hiến pháp và
pháp luật, kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước
- Quản lý XH bằng hiến pháp và pháp luật, kỷ luật là một trong những yêu cầu cơ bản trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước nói riêng. Quản lý
XH bằng hiến pháp và pháp luật đòi hỏi các quy định của Hiến pháp và pháp luật phải được thực thi
nghiêm chỉnh, triệt để trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc “chỉ được làm
những gì luật quy định”. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước thực thi đúng chức trách,
- 15 -


nhiệm vụ đã được pháp luật quy định; mọi hành vi vượt quá giới hạn chức năng, thẩm quyền đều bị coi là
vi phạm pháp luật.
- Quản lý XH bằng hiến pháp và pháp luật đòi hỏi mỗi công dân, tổ chức thuộc đối tượng quản lý
phải thực hiện đúng Hiến pháp và pháp luật. Thông qua hoạt động kiểm tra hành chính để phát hiện tượng
vi phạm pháp luật, từ đó có những biện pháp xử lý kịp thời.
3.4. Kiểm tra hành chính góp phần phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện, xử lý những hành vi vi
phạm pháp luật.
- Mục đích của kiểm tra hành chính không chỉ nhằm phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật mà quan
trong hơn kiểm tra hành chính còn hướng tới mục đích phòng ngừa vi phạm pháp luật, được thể hiện:
+ Kiểm tra hành chính dù được thực hiện bằng phương thức gì, do cơ quan nào tiến hành luôn là sự
hiện thân của kỷ cương phép nước. Bản thân sự hiện diện của các cơ quan kiểm tra hành chính đã là sự nhắc
nhở thường xuyên đối với các đối tượng chịu sự kiểm tra hành chính rằng trong bất luận trường hợp nào
pháp luật cũng phải được tuân thủ tuyệt đối.

+ Kiểm tra hành chính là cách thức phân tích, mổ xẻ một cách sâu sắc, đầy đủ nhất các nguyên nhân,
động cơ, mục đích, tính chất, mức độ của hành vi vi phạm pháp luật. Các giải pháp do cơ quan kiểm tra
hành chính đưa ra không chỉ hướng vào việc xử lý hành vi vi phạm mà còn nhằm khắc phục những kẽ hở,
những bất cập trong chính sách, pháp luật.
+ Kiểm tra hành chính còn có tính định hướng, xây dựng. Thông qua hoạt động giám sát, kiểm tra,
thanh tra có thể dự báo được tình hình vi phạm pháp luật sẽ xảy ra, từ đó có biện pháp phòng ngừa hữu hiệu.
Ưu điểm: Kiểm tra hành chính đạt được nhiều thành tựu tích cực, đã hoàn thành nhiều nhiệm vụ
được giao, phát hiện, xử lý và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật.
Nhược điểm: Công tác kiểm tra còn chưa toàn diện, kiểm tra phát hiện cả những ưu diểm và khuyết
điểm, mà kiểm tra hiện nay chỉ tập trung vào khuyết điểm mà chưa trú trọng vào ưu điểm để động viên,
khuyết khích.
- Chậm đổi mới các hình thức, phương pháp kiểm tra, cần tăng cường kiểm tra đột xuất, tăng cường
nghiện cứu tình hình thực tiễn để đảm bảo khách quan.
- Còn nhiều hiện tượng bao che, bao biện.
- Giải quyết được đa số các trường hợp là kịp thời, nhưng đối với nhiều trường hợp vẫn còn chậm, bế
tắc.
*, Giải pháp:
- Nâng cao nhận thức về kiểm tra.
- Tập huấn, bồi dưỡng về công tác kiểm tra
- Nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị địa phương.
- Giải quyết dứt điểm các vấn đề khi phát hiện sai phạm, công khai kết quả.
- Huy động nhân dân tham gia kiểm tra, giám sát.
*, Liên hệ: (Mọi người tự liên hệ với cơ quan, đơn vị mình công tác nhé).
Bài 11
Câu 1: Đ/c hiểu như thế nào về CCHCNN ở Việt Nam? Nêu những nội dung chủ yếu của
chương trình tổng thể CCHC giai đoạn 2001 – 2010? Hãy so sánh chương trình tổng thể CCHC giai
đoạn 2001 – 2010 với gia đoạn 2011 – 2020?
Trả lời:
I. CCHCN ở Việt Nam hiện nay:
Nền HCNN là tổng thể các tổ chức và quy chế hoạt động của bộ máy HC, có trách nhiệm quản lý

công việc hằng ngày của NN, do các cơ quan có tư cách pháp nhân công quyền tiến hành bằng để giữ gìn
trật tự công, bảo vệ quyền lợi công và phục vụ nhu cầu hằng ngày của nhân dân
K/n: Cải cách hành chính là sự tác động nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính
bằng cách cải biến chế độ và phương pháp hành chính cũ, xây dựng chế độ và phương pháp hành chính
mới trên một số hoặc tất cả các phương diện cầu thành nên nền hành chính.
Ở Việt Nam, song song với công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cải cách hành chính Nhà
nước là một trong những nội dung mang tầm chiến lược trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam (…mang
tính tất yếu…)
- 16 -


Tính tất yếu, khách quan
CCHC là yêu cầu khách quan của mọi nền HC và của bất cứ quốc gia nào. Đối với nước ta CCHC
là yêu cầu cấp bách, và là một trong những nhiệm vụ mang tầm chiến lược trong công cuộc đổi mới được
Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan tâm, nhằm xây dựng nền HC dân chủ, minh bạch, chuyên nghiệp,
vững mạnh, từng bước hiện đại . CCHC nhằm bảo đảm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, nhất là đổi
mới kinh tế, xây dựng nền KTTT định hướng XHCN; xây dựng và hoàn thiện NN pháp quyền XHCN,
phát huy dân chủ, đảm bảo quyền con người, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, những
tồn tại yếu kém của nền HC, đang làm biến dạng bản chất của nhà nước kiểu mới; cản trở phát triển KTXH, làm giảm sút niềm tin của nhân dân.
Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định đẩy mạnh CCHC, nâng cao hiệu lực QLNN về kinh tế,
xã hội. Đẩy mạnh công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trên cả 4 mặt: chức năng, nhiệm vụ;
tổ chức bộ máy; cán bộ và phương thức hoạt động. Định rõ những việc Nhà nước phải làm và đảm bảo đủ
các điều kiện để làm tốt; khắc phục tình trạng buông lỏng hoặc làm thay, chồng chéo về chức năng, nhiệm
vụ giữa các cơ quan đảng và cơ quan nhà nước; hiện đại hóa nền hành chính nhà nước. Điều chỉnh chức
năng của Chính phủ đúng với vai trò là cơ quan HCNN cao nhất.
Thực trạng nền hành chính trong những năm qua:
Đã thúc đẩy quá trình đổi mới kinh tế; dân chủ hoá đời sống xã hội; hội nhập quốc tế; củng cố và
duy trì ổn định chính trị; phòng chống tiêu cực, tiết kiệm, chống lãng phí. Thể chế của nền hành chính
được cải cách và hoàn thiện một bước cơ bản phù hợp với yêu cầu phát huy dân chủ với thiết lập chế độ
công khai, minh bạch và cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thủ tục hành chính, nhất

là thủ tục trong giải quyết công việc giữa cơ quan hành chính nhà nước với người dân và doanh nghiệp có
bước chuyển biến rõ rệt, theo hướng công khai, minh bạch tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.
Một loạt các biện pháp, như: thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông, cải cách thủ tục hành chính
thuế, hải quan, cấp hộ chiếu, chứng minh nhân dân, công chứng, chứng thực… đã tạo đà cho những
chuyển động sâu sắc trong cả hệ thống công vụ. Bộ máy hành chính hoạt động hiệu quả hơn, bớt trùng
lắp, chồng chéo về chức năng nhiệm vụ; đầu mối các cơ quan thuộc Chính phủ, thuộc Bộ Ngành và
UBND các cấp được thu gọn hơn; cơ cấu bên trong có sự phân định rõ hơn giữa cơ quan quản lý nhà
nước và đơn vị sự nghiệp. Hiệu lực và hiệu quả quản lý hành chính nhà nước của hệ thống hành chính
được nâng cao, tính thống nhất, công khai, minh bạch của nền hành chính đã được cải thiện và bước đầu
phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước
có bước điều chỉnh cho phù hợp, bảo đảm quản lý nhà nước và phục vụ xã hội. Phân công, phân cấp giữa
cơ quan Trung ương với địa phương và giữa các cấp ở địa phương với nhau đã có tiến bộ rõ rệt, nhất là
phân cấp về quản lý tài chính, ngân sách, quản lý cán bộ... Công tác xây dựng, quản lý đội ngũ cán bộ,
công chức có bước tiến mới. Đã từng bước rà soát, điều chỉnh và ban hành đồng bộ hệ thống tiêu chuẩn,
chức danh công chức; tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức, viên chức. Đổi mới chế độ tuyển dụng,
thi nâng ngạch cán bộ, công chức để góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ. Cải cách tài chính công đã
đạt được kết quả bước đầu; công tác quản lý tài chính, ngân sách có chuyển biến rõ nét. Việc giám sát chi
tiêu bằng quy chế chi tiêu nội bộ đã có chuyển biến tích cực. Trụ sở làm việc từng bước được đầu tư
khang trang hơn, nhất là Bộ phận một cửa cấp huyện. Việc áp dụng tiêu chuẩn ISO, ứng dụng công nghệ
thông tin và các giải pháp quản lý khoa học trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ngày càng
được mở rộng và có kết quả rõ.
Bên cạnh đó, tốc độ cải cách hành chính còn chậm, chưa nhất quán, hiệu quả còn thấp, chưa bền
vững. Hệ thống thể chế còn thiếu đồng bộ, thống nhất, còn chồng chéo, nhiều về số lượng nhưng chất
lượng còn hạn chế. Có sự giảm đầu mối trực thuộc Chính phủ, Bộ ngành, UBND cấp tỉnh nhưng bộ máy
bên trong các bộ còn chưa giảm. Công tác kiểm tra sau phân cấp còn buông lỏng. Chưa xây dựng cơ cấu
cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính và chưa thực hiện tốt việc đào tạo trước khi bổ nhiệm; cơ
chế quy định trách nhiệm của người đứng đầu chưa rõ ràng và chưa đánh giá được chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức sau đào tạo; công tác cải cách tiền lương triển khai còn chậm, tiền lương chưa thực sự là
động lực thúc đẩy cán bộ, công chức thực thi công vụ. Cải cách tài chính công thực hiện mới chỉ là bước
đầu, kết quả đạt được còn hạn chế. Các thể chế về cải cách tài chính công chưa được sửa đổi, bổ sung kịp

thời cho phù hợp với thực tế. Áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001-2000 vào
- 17 -


hoạt động của các cơ quan hành chính nhà kết quả đạt được còn hạn chế. Việc hiện đại hoá công sở chưa
đồng bộ, dẫn tới manh mún, phân tán. Kết quả đầu tư xây dựng trụ sở UBND cấp xã vẫn chưa thực hiện
được đạt yêu cầu đề ra; ứng dụng công nghệ thông tin không đạt mục tiêu. Sự tham gia, đóng góp ý kiến
của người dân, tổ chức, doanh nghiệp và công chúng vào quá trình cải cách hành chính còn ít, hạn chế.
Nguyên nhân: Cải cách hành chính là công việc khó khăn, phức tạp, nhiều lực cản. Tuy được xác
định là nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên nhưng khâu tổ chức triển khai thực hiện từ Trung ương đến địa
phương chưa ngang tầm nhiệm vụ. Tình trạng phó thác công việc cho cơ quan chức năng còn khá phổ
biến ở nhiều bộ, ngành, địa phương. Công tác truyền thông về CCHC làm chưa tốt, nên chưa tạo ra sự
thống nhất cao về nhận thức trong toàn bộ hệ thống chính trị và sự đồng thuận trong nhân dân. Nhiều nội
dung hoạt động cải cách hành chính do các bộ chủ trì (ISO, một cửa, Đề án 30, ứng dụng CNTT...) chưa
có sự thống nhất về cách tổ chức chỉ đạo, điều hành, khác nhau về định mức chi, các cơ chế đãi
ngộ...thiếu điều phối chung.
Nguồn lực và những điều kiện bảo đảm cần thiết cho cải cách hành chính chưa ngang tầm, kể cả
nguồn lực con người và tài chính. Tính chuyên nghiệp và chuyên sâu, kỹ năng hành chính của cán bộ,
công chức còn thấp chưa đáp ứng yêu cầu của một nền hành chính hiện đại. Các kết quả bước đầu trong
việc áp dụng công nghệ thông tin vào hành chính, trang thiết bị công sở chưa khắc phục được thực trạng
nền hành chính còn lạc hậu so với mặt bằng trong khu vực và thế giới. Tệ cửa quyền, quan liêu, tham
nhũng vẫn còn, tính công khai, minh bạch của nền hành chính còn nhiều thách thức, một bộ phận cán bộ,
công chức suy giảm lý tưởng, lối sống và vi phạm đạo đức công vụ, gây bất bình trong nhân dân.
Mục tiêu tổng quát của CCHC giai đoạn tới:xây dựng được một nền hành chính phục vụ trong
sạch, minh bạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả đáp ứng yêu cầu
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phục vụ người dân, doanh nghiệp và xã hội. . Bảo
đảm thực hiện trên thực tế quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người
với quyền và lợi ích của dân tộc, của đất nước. Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức,
trong đó có yếu tố hết sức quan trọng là cải cách chế độ, chính sách tiền lương nhằm tạo động lực thực sự
để cán bộ, công chức làm việc; nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ sự nghiệp

công.
Quan điểm cải cách hành chính:
- Cải cách hành chính phải được tiến hành đồng bộ trong tổng thể đổi mới hệ thống chính trị, đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng, cải cách lập pháp và cải cách tư pháp.
- Cải cách hành chính phải đáp ứng yêu cầu hoàn thiện nhanh và đồng bộ thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển, đổi mới và hội nhập quốc tế, bảo đảm
tạo thuận lợi nhất cho cá nhân, tổ chức và góp phần tích cực chống quan liêu, phòng và chống tham
nhũng.
- Nền hành chính phải được tổ chức thành một hệ thống thống nhất, thông suốt, bảo đảm tính công
khai minh bạch, chế độ trách nhiệm rành mạch, cơ quan hành chính và cán bộ, công chức chịu sự giám sát
chặt chẽ của nhân dân.
- Thông qua cải cách, tiếp tục làm rõ và đúng chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của từng cơ quan
hành chính, thực hiện phân công, phân cấp rõ ràng và phù hợp, phân định rõ trách nhiệm giữa các cấp
chính quyền, giữa chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn, giữa tập thể và người đứng đầu cơ quan
hành chính. Xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu
cầu hiện đại hoá nền hành chính và phát triển của đất nước.
- Cải cách phải hướng tới xây dựng một nền hành chính hiện đại, ứng dụng có hiệu quả thành tựu
phát triển của khoa học-công nghệ, nhất là công nghệ thông tin.
II. Nội dung CCHC giai đoạn 2001 - 2010:
1. Cải cách thể chế:
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ
quan hành chính nhà nước. Sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Chính phủ; sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân; rà soát, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về chức năng, nhiệm
vụ, thẩm quyền của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn thuộc
- 18 -


UBND cấp tỉnh, cấp huyện cho phù hợp với yêu cầu; xây dựng và ban hành các thể chế về công chức,
công vụ, về tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công.
2. Cải cách thủ tục hành chính:

Rà soát, cắt giảm và đơn giản hóa thủ tục hành chính trên tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước,
nhất là thủ tục hành chính liên quan tới người dân, doanh nghiệp. Kiểm soát chặt việc ban hành mới các
thủ tục hành chính theo quy định pháp luật. Công khai minh bạch tất cả thủ tục hành chính bằng mọi hình
thức thiết thực và thích hợp. Thực hiện thống nhất cách tính chi phí mà cá nhân, tổ chức phải bỏ ra khi
giải quyết các thủ tục hành chính tại cơ quan hành chính nhà nước.
3. Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước:
Minh bạch hoá, xác định rõ và phù hợp chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp. Rà soát chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước và xoá bỏ chồng chéo, trùng lắp về chức
năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan hành chính nhà nước; chuyển giao mạnh những công việc không nhất
thiết do các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện cho xã hội, các tổ chức phi Chính phủ, tổ chức xã hội
đảm nhận. Tiếp tục phân cấp hợp lý giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa
phương, bảo đảm các điều kiện cần thiết để chính quyền địa phương thực hiện có hiệu quả thẩm quyền
được phân cấp và bảo đảm sự kiểm tra của Trung ương đối với địa phương trong triển khai phân cấp để
khi cần thiết có những điều chỉnh, can thiệp phù hợp. Tiếp tục đổi mới cơ chế hoạt động của cơ quan hành
chính nhà nước, nâng cao chất lượng trong thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương. Thực hiện việc đánh giá mức độ hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với sự
phục vụ của cơ quan hành chính các cấp. Tiếp tục đổi mới cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về biên chế
và kinh phí hoạt động của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công. Thực hiện đánh giá mức độ hài lòng của
người dân đối với các dịch vụ công về y tế, giáo dục.
3. Cải cách thủ tục hành chính:
Rà soát, cắt giảm và đơn giản hóa thủ tục hành chính trên tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước,
nhất là thủ tục hành chính liên quan tới người dân, doanh nghiệp. Kiểm soát chặt việc ban hành mới các
thủ tục hành chính theo quy định pháp luật. Công khai minh bạch tất cả thủ tục hành chính bằng mọi hình
thức thiết thực và thích hợp. Thực hiện thống nhất cách tính chi phí mà cá nhân, tổ chức phải bỏ ra khi
giải quyết các thủ tục hành chính tại cơ quan hành chính nhà nước.1
4. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, CC- Vc:
Xây dựng, bổ sung và hoàn thiện hệ thống vị trí chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ cán bộ, công
chức, viên chức, kể cả cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý. Xây dựng hợp lý cơ cấu cán bộ, công chức,
viên chức gắn với vị trí việc làm trên cơ sở xác định rõ về chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị.

Hoàn thiện chế độ tuyển dụng, bố trí, phân công nhiệm vụ phù hợp với trình độ, năng lực, sở trường của
công chức, viên chức trúng tuyển; thực hiện chế độ thi nâng ngạch theo nguyên tắc cạnh tranh; từng bước
thực hiện việc thi tuyển cạnh tranh để bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý từ cấp vụ và tương đương
(ở Trung ương), phó giám đốc sở và tương đương (ở địa phương) trở xuống. Hoàn thiện chế độ đánh giá
cán bộ, công chức, viên chức trên cơ sở kết quả công việc. Đổi mới nội dung và chương trình đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. Cải cách chế độ công vụ, công chức, viên chức, Cải cách cơ bản chế
độ tiền lương đối với cán bộ, công chức viên chức. Nâng cao trách nhiệm kỷ luật, kỷ cương hành chính và
đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức.
5. Cải cách tài chính công
sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội; tiếp tục hoàn thiện chính sách về thu
nhập, tiền lương, tiền công; thực hiện cân đối ngân sách tích cực, dành nguồn lực cho con người, nhất là
cải cách chính sách tiền lương và an sinh xã hội; phấn đấu giảm dần bội chi ngân sách; Đổi mới căn bản
cơ chế sử dụng kinh phí nhà nước ; Đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho cơ quan hành chính nhà nước,
tiến tới xóa bỏ chế độ cấp kinh phí theo số lượng biên chế, thay thế bằng cơ chế cấp ngân sách dựa trên
kết quả và chất lượng hoạt động, hướng vào kiểm soát đầu ra, chất lượng chi tiêu theo mục tiêu, nhiệm vụ
của các cơ quan hành chính nhà nước;

- 19 -


Đổi mới cơ chế hoạt động, nhất là cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công; từng
bước thực hiện chính sách điều chỉnh giá dịch vụ sự nghiệp công phù hợp; chú trọng đổi mới cơ chế tài
chính của các cơ sở giáo dục, đào tạo, y tế công lập theo hướng tự chủ, công khai, minh bạch.
6. Hiện đại hóa hành chính:
Xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của các
cơ quan hành chính nhà nước như: trong xử lý quy trình công việc ở nội bộ, trong giao dịch với các cơ
quan hành chính khác và trong giao dịch với tổ chức, cá nhân, đặc biệt là trong hoạt động phục vụ hành
chính công, dịch vụ công của đơn vị sự nghiệp công. Công bố danh mục các phục vụ hành chính công
trên môi trường mạng thông tin điện tử do các cơ quan hành chính nhà nước từ cấp huyện trở lên cung
cấp. Xây dựng và sử dụng thống nhất biểu mẫu điện tử trong giao dịch giữa cơ quan hành chính, tổ chức

và cá nhân đáp ứng yêu cầu đơn giản hoá thủ tục hành chính. Bảo đảm các điều kiện và xây dựng lộ trình
thích hợp để thực hiện các phục vụ hành chính công trực tuyến trên môi trường mạng.
* Giải pháp thực hiện:
1. Tăng cường công tác chỉ đạo việc thực hiện cải cách hành chính từ Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ đến các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp.
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ và Chủ tịch Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chịu trách nhiệm chỉ đạo thống nhất việc thực hiện
Chương trình trong phạm vi quản lý của mình; xác định cải cách hành chính là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên
suốt của cả nhiệm kỳ công tác; xây dựng kế hoạch cụ thể; phân công rõ trách nhiệm của từng cơ quan, tổ
chức và cán bộ, công chức, viên chức; tăng cường kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện Chương trình.
2. Tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức bằng các hình thức phù hợp,
có hiệu quả. Quy định rõ và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu. Tiếp tục ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật quy định về chức danh, tiêu chuẩn của từng vị trí việc làm của từng cán bộ, công chức,
viên chức. Tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm của hoạt động công vụ. Có chính sách đãi
ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ,
bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân.
3. Nâng cao năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác cải cách hành chính. Đồng
thời, có chế độ, chính sách hợp lý đối với đội ngũ cán bộ, công chức chuyên trách làm công tác cải cách
hành chính các cấp.
4. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá việc thực hiện cải cách hành chính để có những giải pháp
thích hợp nhằm đẩy mạnh cải cách hành chính.
Xây dựng bộ chỉ số theo dõi, đánh giá cải cách hành chính ở các đơn vị, các cấp.
5. Phát triển đồng bộ và song hành, tương hỗ ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông với cải
cách hành chính nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự
nghiệp dịch vụ công, của cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ, của tổ chức, cá nhân tham
gia vào công tác cải cách hành chính và giám sát chất lượng thực thi công vụ của cán bộ, công chức, viên
chức.
6. Đảm bảo kinh phí cho việc thực hiện Chương trình.
7. Cải cách chính sách tiền lương nhằm tạo động lực thực sự để cán bộ, công chức, viên chức thực
hiện công vụ có chất lượng và hiệu quả cao.

Liên hệ QT:
Chương trình tổng thể Cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn I (2001-2010) của Chính phủ, sau
10 năm thực hiện ở Quảng Trị đã được triển khai toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: cải cách thể chế, cải
cách tổ chức bộ máy, xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bô, công chức và cải cách tài chính
công, bước đầu đã đạt được một số kết quả nhất định, góp phần thực hiện có hiệu quả các chỉ tiêu, nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.
1. Về cải cách thể chế:
Về rà soát văn bản quy phạm pháp luật, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Tư pháp phối hợp rà soát, hệ
thống lại các văn bản văn bản quy phạm pháp luật ban hành từ năm 1989 đến 2010. Kết quả đã rà soát
1371 văn bản, trong đó văn bản còn hiệu lực 667 văn bản; hết hiệu lực thi hành 610 văn bản; đề nghị sửa
đổi, bổ sung 85 văn bản, đề nghị huỷ bỏ 9 văn bản. Khắc phục tình trạng chồng chéo, đảm bảo việc ban
- 20 -


hành văn bản quy phạm pháp luật theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật,
ban hành Quyết định số 17/2007/QĐ-UBND ngày 11/9/2007 về Quy chế phối hợp xây dựng, soạn thảo,
thẩm định và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh.
2. Về cải cách tổ chức bộ máy hành chính:
- Tổ chức bộ máy các cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh, UBND huyện, thị xã đã được điều
chỉnh, sắp xếp lại theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Bộ, ngành TW. Thực hiện Nghị quyết
TW7 khoá VIII và Quyết định số 207/1999/QĐ-TTg, bộ máy cấp tỉnh đã sắp xếp lại 26 đơn vị, giảm 2
đầu mối. Bộ máy cấp huyện trước đây từ 12-14 phong bàn sắp lại 9-10 phòng ban, giảm được 21 tổ chức
thuộc UBND cấp huyện.
- Thực hiện Nghị định số 171/2004/NĐ-CP, Nghị định số 172/2004/NĐ-CP, bộ máy cấp tỉnh có 27
cơ quan (tăng Sở Bưu chính - Viễn thông và Ban Thi đua - Khen thưởng tỉnh, giảm 01, chuyển Chi cục
Kiểm lâm trực thuộc UBND tỉnh về trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn); cấp huyện có
12-14 phòng ban.
3. Về đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức:
Kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2001-2007 đã thực hiện đúng theo kế hoạch; chất
lượng đội ngũ CB, CC,VC được nâng lên, từng bước đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ và tiêu chuẩn hoá

cán bộ. Đã đào tạo, bồi dưỡng 42.837 lượt người (trong đóchính trị 4.670; quản lý nhà nước 3.911;
chuyên môn 32.825; ngoại ngữ 276; tin học 1.155, cán bộ người dân tộc thiểu số 1.278, cán bộ nữ 9424)
và đào tạo 722/923 công chức cấp xã có trình độ trung cấp trở lên. Đào tạo tiếng Thái cho 22 cán bộ, công
chức; đào tạo đại học cho 198 sinh viên; đào tạo chính trị, quân sự cho 120 cán bộ Lào; bồi dưỡng kiến
thức hội nhập kinh tế Quốc tế cho 287 cán bộ, công chức.
4. Về cải cách tài chính công:
Thực hiện Nghị định số 130/2005/NĐ-CP có 28 đơn vị, gồm 27 cơ quan thuộc UBND tỉnh và Văn
phòng HĐND tỉnh và 04 đơn vị trực thuộc Sở (Chi cục Kiểm lâm, Chi cục Quản lý thị trường, Chi cục Di
dân Phát triển kinh tế mới, Phòng Công chứng) đã được giao thực hiện chế độ tự chủ về sử dụng biên chế
và kinh phí quản lý hành chính. Về thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, UBND tỉnh đã quyết định
giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính cho
117 đơn vị sự nghiệp công lập, trong đó có 03 đơn vị đảm bảo toàn bộ kinh phí, 72 đơn vị tự đảm bảo một
phần kinh phí, 42 đơn vị do ngân sách nhà nước đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác CCHC ở tỉnh vẫn còn nhiền hạn chế. Một số thủ tục
hành chính chậm được cải tiến. Hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của UBND các cấp nhất là cơ sở và
thủ trưởng một số cơ quan, đơn vị chưa đáp ứng yêu cầu, trách nhiệm chưa đươc được phát huy đầy đủ,
năng lực dự báo một số lĩnh vưc còn yếu. Việc sắp xếp bộ máy, biên chế, thực hiện phân cấp quản lý cán
bộ một số lĩnh vực còn chồng chéo. Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa tự giác bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, đổi mới phong cách, lề lối công tác, trách nhiệm
chưa cao, lãng phí thời gian. Công tác phòng, chống tham nhũng lãng phí chưa đạt yêu cầu đề ra; những
biểu hiện tinh vi, phức tạp để tham nhũng chưa được phát hiện và ngăn chặn.
Đê khắc phục những hạn chế trên, trong thời gian tới cần thực hiện tốt những giải pháp sau:
Đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư, cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, để thu hút
các nguồn lực cho sự phát triển. Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực hoạt động của HĐND các cấp, thực
sự là cơ quan đại diên cho nguyện vọng, ý chí và quyền làm chủ của nhân dân. Nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động của UBND các cấp. Đẩy mạnh đồng bộ cải cách hành chính, rà soát, bổ sung, sửa đổi
những thủ tục hành chính và những quy định không phù hợp. Đẩy mạnh việc phân cấp quản lý để nâng
cao tính chủ động, sáng tạo và tự chịu trách nhiệm của từng ngành, từng cấp. Thực hiện tốt trách nhiệm cá
nhân, đặc biệt là trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan, đơn vị. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đảm
bảo chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu công việc. Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí,

chú trọng đổi mới thể chế thực hiện công khai, dân chủ. Áp dụng cơ chế, biện pháp ngăn chặn và xử lý
các trường hợp cán bộ, công chức lợi dụng chức vụ để tham nhũng, gây nhũng nhiễu.
Tóm lại: Cải cách hành chính nhà nước là một bộ phận quan trọng trong đường lối, chính sách đổi
mới và là một trong những giải pháp quan trọng bảo đảm thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Có thể nói, cải cách hành chính vừa là tiền đề, vừa là động lực thúc đẩy
- 21 -


phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; qua đó, xây dựng nhà nước ta thực sự là nhà nước xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân./.
*So sánh chương trình tổng thể CCHC giai đoạn 2001 - 2010 với giai đoạn 2011 - 2020:
Về thực hiện cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ,
các bộ, ngành và chính quyền địa phương đã được điều chỉnh, làm rõ và phù hợp với yêu cầu trong giai
đoạn mới, khắc phục được cơ bản sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan hành chính;
sau 10 năm, số lượng các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ từ 48 giảm xuống còn 30, các
cơ quan chuyên môn cấp tỉnh từ 19-27 đầu mối xuống còn 17-20 và cơ quan chuyên môn cấp huyện từ
12-15 đầu mối xuống chỉ còn 12-13.
Về thực hiện hiện đại hóa nền hành chính, cho đến nay, đã có 1.453 cơ quan hành chính ở Trung
ương và địa phương triển khai, được cấp giấy chứng nhận ISO. Qua đó, đã xây dựng được các quy trình
giải quyết công việc khoa học hơn, từng bước cải tiến phương pháp làm việc, tạo điều kiện thuận lợi cho
từng cán bộ, công chức, phòng, ban giải quyết công việc thông suốt, kịp thời, hiệu quả; đơn giản hóa quy
trình và rút ngắn thời gian giải quyết công việc của doanh nghiệp, địa phương, cơ sở.
Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ người dân và doanh nghiệp đã phát huy
được hiệu quả, bước đầu tạo lòng tin, thói quen của nhân dân trong việc tiếp xúc với các dịch vụ của cơ
quan nhà nước.
Kết quả CCHC nhà nước trên tất cả các nội dung cải cách thể chế; cải cách tổ chức bộ máy; xây
dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công; hiện đại hóa nền hành
chính đã góp phần tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, ổn định chính trị và trật tự xã hội ở nước ta
trong thời gian qua.
Tuy nhiên, công tác CCHC 10 năm qua cũng tồn tại một số hạn chế, yếu kém như: tốc độ CCHC
còn chậm, kết quả còn chưa đạt được so với mục tiêu chung đặt ra là đến năm 2010 xây dựng được một

nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại; hệ thống thể chế còn thiếu đồng
bộ, thống nhất, vẫn còn chồng chéo, nhiều về số lượng nhưng hạn chế về chất lượng…
Trên cơ sở kết quả đã đạt được trong công cuộc cải cách hành chính 10 năm qua, Chương trình
CCHC nhà nước giai đoạn 2011 – 2020 đã xác định mục tiêu tổng quát là đến năm 2020, xây dựng được
một nền hành chính trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, đáp
ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phục vụ người dân, doanh nghiệp, xã
hội. Trọng tâm CCHC trong cả giai đoạn 10 năm tới là: Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức, trong đó có yếu tố hết sức quan trọng là cải cách chế độ, chính sách tiền lương nhằm tạo động
lực thực sự để cán bộ, công chức làm việc; nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ
sự nghiệp công.
Câu 2: Đ/c hãy cho biết mối liên hệ giữa nhiệm vụ cải cách tổ chức bộ máy nhà nước với nhiệm
vụ xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ CB, CC,VC?
Mối liên hệ giữa nhiệm vụ cải cách cách tổ chức bộ máy nhà nước với nhiệm vụ xây dựng và
nâng cao chất lượng đội ngũ CB, CC, VC:
Một trong 5 mục tiêu quan trọng của Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn
2011-2020 là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ, đáp
ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước”. Đề án đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ,
công chức cũng xác định mục tiêu: xây dựng một nền công vụ “chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động,
minh bạch, hiệu quả”. Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước chuẩn bị kết thúc giai đoạn 1
trong bối cảnh đất nước đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới, đòi hỏi phải có các giải pháp
quyết liệt và đồng bộ hơn nữa để thực hiện thành công mục tiêu của Chương trình, đặc biệt là những giải
pháp về đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đây là chìa khóa để giải quyết các vấn đề do thực tiễn cuộc
sống đặt ra.
1. Nâng cao chất lượng cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước
1.1 Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải nâng cao chất lượng hoạch định thể
chế, chính sách của đội ngũ cán bộ, công chức
Sau 7 năm gia nhập WTO, thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam đã được định hình và vận hành
trong một khuôn khổ nhất định. Sự vận hành của nền kinh tế thị trường đã kéo theo sự thay đổi và nhìn nhận
- 22 -



lại vai trò của nhà nước trong quản lý kinh tế. Nhà nước chuyển sang vai trò là “bà đỡ” cho sự phát triển của
nền kinh tế - xã hội; kinh tế nhà nước chứ không phải doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước
trở thành chủ thể hoạch định thể chế, chính sách cho các chủ thể thị trường tham gia sản xuất, kinh doanh
theo đúng như thông điệp đầu năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ: “Nhà nước phải làm tốt chức năng kiến
tạo phát triển”. Điều đó kéo theo sự phân công lại giữa các công việc của nhà nước và của thị trường. Muốn
thực hiện tốt chức năng và vai trò của nhà nước thì phải cải cách mạnh mẽ hơn nữa trong xây dựng và hoàn
thiện thể chế, đặc biệt là thể chế kinh tế thị trường. Không ai khác, đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC) nhất
là đội ngũ CBCC cấp cao làm việc ở các bộ, ngành trung ương sẽ phải thay đổi nhận thức, tư duy, nâng cao
năng lực trong việc tham mưu cho Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, chính sách.
1.2 Yêu cầu về tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của cán bộ, công chức khi thi
hành công vụ
Hiến pháp năm 2013 khẳng định rõ vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của
Mặt trận trong việc giám sát và phản biện xã hội. Ý thức và trách nhiệm cá nhân của mỗi công dân được
nâng cao trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình buộc các cơ quan nhà nước, CBCC phải có
trách nhiệm giải trình, công khai và minh bạch về quy trình thủ tục khi giải quyết các nhu cầu và lợi ích hợp
pháp của công dân. Những đòi hỏi chính đáng và hợp pháp này làm thay đổi cách thức ứng xử của nhà nước
đối với công dân và xã hội theo hướng gần dân, sát dân, hiểu dân hơn. Các cơ quan nhà nước, CBCC nhà
nước hướng đến xây dựng một nền hành chính phục vụ để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người dân và xã
hội.
Sự phát triển của mạng xã hội, các kênh thông tin, truyền thông làm cho “thế giới phẳng hơn”, thông
tin cập nhật, công khai và minh bạch hơn. Khái niệm “chính phủ mở” xuất hiện làm thay đổi chức năng và
mối quan hệ giữa chính phủ với khu vực thị trường và xã hội. Theo đó, để quốc gia phát triển đòi hỏi phải
có một chính phủ thực sự là chính phủ phục vụ, gần dân, sát dân và hiểu dân. Sự tham gia của người dân,
doanh nghiệp và các tổ chức xã hội ngày càng nhiều vào công việc quản lý của nhà nước đòi hỏi dòng thông
tin phải đa dạng, chính xác và nhanh nhạy, không thuần túy là thông tin một chiều từ chính phủ đến người
dân mà phải có sự phản hồi giữa chính phủ với người dân và doanh nghiệp. Thông tin quản lý từ các cơ
quan nhà nước, đội ngũ CBCC phải nhanh hơn, đúng lúc, đúng chỗ, đúng liều lượng. Làm tốt việc truyền
thông mới có thể truyền tải được thông điệp của chính phủ tới người dân và làm cho người dân hiểu đúng,
hiểu trúng vấn đề, tạo sự đồng thuận trong thực thi các quyết sách chính trị. Do đó, yêu cầu CBCC phải có

năng lực truyền thông, năng lực giải trình mới có thể đáp ứng quyền được tiếp cận thông tin của người dân
và xã hội ngày càng mở rộng và bảo đảm.
1.3 Sự phát triển của khoa học công nghệ đòi hỏi cán bộ, công chức không ngừng rèn luyện
nâng cao năng lực và trình độ
Khoa học - công nghệ phát triển nhanh, đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công
việc đã làm thay đổi nhận thức của mỗi cá nhân. Muốn tồn tại được các cá nhân phải thích ứng với sự biến
đổi nhanh và không ngừng của khoa học công nghệ, nếu không sẽ làm chậm quá trình phát triển của cá nhân
và xã hội. Đối với khu vực nhà nước, việc ứng dụng công nghệ thông tin và khoa học kỹ thuật làm xuất hiện
mô hình “chính phủ điện tử”. Muốn “chính phủ điện tử” vận hành được thì trước hết phải có “cán bộ, công
chức điện tử” và “công dân điện tử”. Nghĩa là, người dân nói chung và CBCC nói riêng phải biết làm chủ
công nghệ và tham gia vào quá trình tương tác mới có thể vận hành và ứng dụng được thành tựu của khoa
học công nghệ phục vụ cho công việc của mình. Việc xuất hiện loại hình “thương mại điện tử” là minh
chứng rõ nét cho thấy tác động của công nghệ thông tin tới nhận thức và cách ứng xử của nhà nước đối với
quá trình phát triển của xã hội. Do đó, đòi hỏi CBCC phải tự đào tạo và nâng cao năng lực để có thể theo kịp
với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội.
1.4 Quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới và môi trường “công dân toàn cầu” yêu cầu cán
bộ, công chức phải nhạy bén và thích ứng với diễn biến tình hình kinh tế - xã hội của khu vực và thế
giới
Trong môi trường toàn cầu hóa, các quốc gia trở thành những mắt xích trong chuỗi giá trị toàn cầu,
vừa phải lệ thuộc vào nhau, vừa cạnh tranh với nhau để phát triển. Mặt khác, những vấn đề toàn cầu như
biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, khủng bố, dịch bệnh xuyên quốc gia... làm cho các quốc gia phải liên
kết lại trong bối cảnh vừa hợp tác vừa đấu tranh để cùng tồn tại trong ngôi nhà chung là trái đất. Với môi
- 23 -


trường quốc tế hiện nay thật khó để một quốc gia biệt lập có thể phát triển được. Do đó, xu hướng chung là
hình thành các tổ chức liên kết xuyên quốc gia, khu vực, như Cộng đồng chung châu Âu, Cộng đồng chung
ASEAN,... Điều này đòi hỏi đội ngũ CBCC phải có “tầm nhìn toàn cầu” trong năng lực xây dựng chính
sách. Chính sách của mỗi quốc gia phải đặt trong bối cảnh bức tranh kinh tế của khu vực và quốc tế.
1.5 Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay còn bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu của sự

phát triển kinh tế - xã hội
Theo báo cáo kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật trong công tác tuyển dụng, đào
tạo, bổ nhiệm đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức” của Ủy ban thường vụ Quốc hội, tính đến ngày
31/12/2012, số lượng CBCC trong cả nước là 535.528 người. Trong đó, số lượng tiến sĩ là 2.209 người
(chiếm 0,4%), thạc sĩ là 19.666 người (chiếm 3,7%), cử nhân (đại học) là 278.198 người (chiếm 51,9%); số
công chức đã được đào tạo về lý luận chính trị là 251.110 người (46,9%). Chất lượng CBCC cấp xã có sự
chuyển biến rõ rệt với 53.974 người có trình độ đại học trở lên (chiếm 24,8%); được đào tạo về quản lý nhà
nước là 103.902 người (47,8%). Tuy nhiên, vẫn còn 63.557 CBCC chưa qua đào tạo về chuyên môn, nghiệp
vụ (chiếm 11,9%); CBCC có trình độ cao chủ yếu tập trung ở các thành phố trực thuộc trung ương và các đô
thị lớn. Hiện nay, có 282.561 CBCC chưa qua đào tạo về lý luận chính trị, chiếm 52,8%. Đối với CBCC cấp
xã có trình độ dưới đại học là 163.293 người (chiếm 75,2%); chưa qua đào tạo về quản lý nhà nước là
113.365 người (chiếm 52,2%).
Các số liệu trên cho thấy những hạn chế nhất định của đội CBCC ở Việt Nam hiện nay. Điều đó đặt
ra yêu cầu phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm chuẩn hóa đội ngũ CBCC theo quy định.
Bên cạnh đó, xét trên tiêu chí hiệu quả làm việc thực tế, có thể thấy đội ngũ CBCC vẫn chưa hoàn
toàn đáp ứng được yêu cầu của người dân và doanh nghiệp. Người dân và doanh nghiệp còn nhiều phàn nàn
về sự sách nhiễu, hách dịch, cửa quyền, tham ô, tham nhũng, lãng phí của đội ngũ CBCC. Những vụ án
tham ô, tham nhũng, hối lộ trong thời gian qua đã ảnh hưởng tới niềm tin của người dân vào bộ máy công
quyền. Một bộ phận không nhỏ CBCC biến chất đã làm xấu đi tính ưu việt của bộ máy công quyền xã hội
chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.
Thực trạng trên đòi hỏi phải nâng cao ý thức trách nhiệm công vụ, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ CBCC
để củng cố niềm tin và chứng minh cho tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, khẳng định bản chất nhà
nước của dân, do dân và vì dân.
2. Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu cải cách hành
chính ở Việt Nam hiện nay
Để thực hiện có hiệu quả cải cách nền hành chính nhà nước cần giải quyết thành công một trong
những nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng đội ngũ CBCC đủ "tâm", đủ "tầm", trước những yêu cầu, đòi hỏi từ
thực tiễn. Giải pháp để giải quyết vấn đề con người bao gồm:
2.1 Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức
Đây là giải pháp mang tính quyết định để thực hiện thành công cải cách nền hành chính. Không có

đội ngũ CBCC đủ năng lực hoạch định chính sách, dấn thân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm thì
khó có được những thể chế, chính sách theo kịp và định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế - xã hội.
Muốn có đội ngũ CBCC có năng lực phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, từ tuyển dụng đến bố trí, sử dụng
CBCC, trong đó tập trung vào những việc sau:
- Thực hiện tuyển dụng theo nguyên tắc đúng người, đúng việc; lấy công việc và hiệu quả công việc
làm tiêu chí lựa chọn nhân sự. Thi tuyển phải thực sự khách quan, công tâm và công bằng. Trong việc xây
dựng cơ chế thi tuyển công chức, Chính phủ nên giao cho một tổ chức độc lập thực hiện và đánh giá.
- Thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong tuyển dụng, sử dụng, quản lý biên chế cho
người đứng đầu tổ chức sử dụng CBCC. Quy định trách nhiệm liên đới của người đứng đầu đối với CBCC
dưới quyền. Cho phép người thủ trưởng được trực tiếp tuyển dụng nhưng phải chịu trách nhiệm trực tiếp
nếu nhân viên cấp dưới làm sai.
- Thực hiện bố trí, sử dụng nhân sự theo cơ chế giao việc, khoán việc và quy trách nhiệm đến cùng.
Áp dụng chế độ vị trí việc làm để xác định tiền lương, tiền công và các chế độ, chính sách đối với đội ngũ
CBCC.
- Có thái độ kiên quyết, dứt khoát đối với những CBCC không đáp ứng được công việc. Kiên quyết
đưa ra khỏi nền công vụ những người không làm được việc, đồng thời giải quyết thỏa đáng chế độ tài chính
- 24 -


cho những đối tượng này, để bảo đảm trong cơ quan nhà nước thực sự chỉ có người làm được việc và cống
hiến cho cơ quan, đơn vị.
- Thực hiện đánh giá công chức dựa trên hiệu quả công việc. Bảo đảm tính công bằng trong đánh
giá, không đánh đồng và đồng nhất kết quả đánh giá giữa các đối tượng công chức khác nhau và giữa các
công chức chuyên môn với công chức giữ vị trí lãnh đạo, quản lý. Thực hiện việc xây dựng tiêu chí và xét
các danh hiệu thi đua theo từng nhóm đối tượng có vị trí, chức năng, nhiệm vụ tương đương nhau, không
xét các danh hiệu thi đua theo cơ quan, đơn vị. Có như vậy mới có thể bảo đảm tính công bằng và tạo động
lực thực sự các phong trào thi đua.
2.2 Cải cách chế độ, chính sách để tạo động lực cho cán bộ, công chức
Động lực làm việc của người lao động gắn liền với lợi ích vật chất và tinh thần; CBCC cũng không
nằm ngoài quy luật đó. Do vậy, muốn CBCC làm việc tốt phải giải quyết hài hòa bài toán lợi ích vật chất và

tinh thần của họ.
Về lợi ích vật chất: chính sách tiền lương đối với công chức phải tương xứng với giá trị sức lao động
bỏ ra và phải bảo đảm được ba phương diện: duy trì cuộc sống của bản thân, một phần tích lũy cho gia đình
và một phần để đề phòng rủi ro có thể xảy ra (ốm đau, về hưu…). Mặt khác, việc trả lương phải theo kết quả
công việc chứ không phải theo vị trí và chức danh của công việc nhằm bảo đảm công bằng, tạo động lực
phấn đấu và gây dựng lòng đam mê với công việc chuyên môn mà công chức đang đảm nhiệm. Thực tế cho
thấy với cách trả lương theo ngạch, bậc và chức vụ như hiện nay thì những công chức mới, những công
chức không giữ vị trí lãnh đạo sẽ không thiết tha với mức lương khởi điểm của mình.
Về lợi ích tinh thần: cần đổi mới công tác thi đua - khen thưởng, kỷ luật, đào tạo, bồi dưỡng, môi
trường và điều kiện làm việc,… Mỗi CBCC cần có sự công bằng trong đánh giá, khen thưởng và kỷ luật.
Công chức mong muốn có được cơ hội công bằng ở mọi vị trí phấn đấu trong cơ quan, đơn vị. Vì vậy, cách
thức đánh giá và trả lương phải lấy hiệu quả công việc làm thước đo. Bên cạnh đó, một môi trường làm việc
năng động, sáng tạo sẽ khuyến khích mọi công chức dù ở vị trí nhân viên hay lãnh đạo đều bình đẳng và
cạnh tranh công bằng.
Trong cơ quan nhà nước phải tạo dựng và duy trì được nét văn hóa lấy giá trị công việc, hiệu quả
công việc, sự hài lòng của công dân và doanh nghiệp làm thước đo đánh giá năng lực của CBCC. Cần tách
bạch nội hàm khái niệm: “đánh giá hiệu quả làm việc của công chức” với “đánh giá công chức”. Có như vậy
mới bảo đảm tạo ra được sự công bằng, khách quan, chính xác và môi trường làm việc năng động cho công
chức yên tâm làm việc.
2.3 Nâng cao ý thức trách nhiệm và đạo đức công vụ của cán bộ, công chức
Khi đội ngũ CBCC có đủ năng lực đáp ứng yêu cầu công việc và giải quyết hài hòa bài toán lợi ích
giữa CBCC với lợi ích của nhà nước và cộng đồng thì cần phải có những giải pháp khác để nâng cao ý thức
trách nhiệm và đạo đức công vụ. Những biện pháp cần chú trọng là:
- Giáo dục tính liêm chính, đạo đức công vụ đối CBCC coi đây là công việc thực sự quan trọng. Bởi
lẽ, bất kỳ công việc nào cũng đòi hỏi phải có những chuẩn mực nghề nghiệp và đạo đức nghề nghiệp, nhất
là đối với hoạt động công vụ luôn gắn liền với quyền lực công, nguồn lực công, trách nhiệm công,… Không
có chuẩn mực nghề nghiệp, đạo đức nghề nghiệp sẽ là môi trường cho CBCC, tham ô, tham nhũng, hách
dịch, cửa quyền,… Việc giáo dục liêm chính, đạo đức, đạo đức công vụ phải được đưa vào chương trình
giáo dục ở các cấp, để hình thành thói quen và ngấm sâu vào nhận thức của mỗi cá nhân trước khi người
tham gia nền công vụ.

- Xây dựng và thực thi chế tài nghiêm khắc, nghiêm trị những hành vi vi phạm pháp luật để CBCC
“không dám” thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức công vụ trái với lương tâm và
đạo đức xã hội.
- Thiết lập thể chế chặt chẽ, minh bạch, công khai nhằm ngăn ngừa những hành vi vi phạm pháp
luật của CBCC. Thực hiện chế độ công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình về tài sản của CBCC
trước, trong và sau khi rời khỏi nhiệm sở./.
Câu 3: Cho biết nội dung cơ bản nhiệm vụ xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ CB,
VC? Liên hệ?
Trả lời:
- 25 -


×